Tôi còn nhớ ngày ấy dân chúng và chính quyền trên đảo đã hoảng hồn khi đưa "cào cào*" ra để đón chúng tôi vào bờ vì số người cứ liên tục từ các hầm tàu chui lên mãi khiến họ vô cùng vất vả để vận chuyển. Do người quá đông nên Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc thường được gọi tắt là UNHCR (The United Nations High Commissioner for Refugees) đã phải phối hợp với chính quyền địa phương cho chúng tôi ở tạm trong một ngôi trường tiểu học và họ rất khó khăn để đếm chính xác con số thuyền nhân của tàu vì người ta cứ đi lung tung không thể nào kiểm soát được. Đầu tiên họ tổng kết có hai trăm năm mươi tám người cả thảy, dần dà con số này thụt xuống từ từ cho đến cuối cùng là còn lại hai trăm bốn mươi bảy người. Lúc đó ai cũng tưởng thế là xong và yên chí là tàu mình chở từng ấy người nhưng khi về tới trại tị nạn PFAC (The Philippine First Asylum Camp) sau cả tháng trời làm giấy tờ, làm ID...thì mọi người mới té ngửa ra là chỉ có hai trăm bốn mươi sáu mà thôi! Bởi chỉ tới khi Cao Ủy cho nhân viên Ban An Ninh đi lùng sục tìm một người bị mất tích thì mới phát giác ra anh Nguyễn Văn Giàu còn có thêm một tên khác nữa là Trần Văn Sang. Anh bảo anh khai thế để được lãnh hai phần lương thực cho chắc ăn!
El Nido là một đảo lớn, đẹp nằm cách thủ phủ Puerto Princesa của tỉnh Palawan hai trăm ba mươi tám cây số tức khoảng một trăm bốn mươi tám dặm về hướng Đông Bắc với hai mùa mưa nắng. Người dân ở đây hiền hoà, hiếu khách, có một đời sống thanh bình đa số theo nông nghiệp, ngư nghiệp và du lịch. Họ đã giúp đỡ, tiếp đón người tị nạn chúng tôi hết sức niềm nở và chân tình cho đến ngày chúng tôi rời đi.
Ngày đầu tiên đến trại chúng tôi được đưa vào barrack. Đây là những ngày chật vật, khốn khổ về vấn đề vệ sinh và ăn ngủ do số người quá đông. Mỗi lần cần phải xài nhà cầu là cả một cực hình với tôi vì phân và nước tiểu đã tràn đầy ra tới bên ngoài không thể bước vào trong được.
Sáng sớm một hôm tôi thấy một người đàn ông tây phưong dẫn theo một toán An Ninh Việt Nam vô barrack đi thẳng tới nhà cầu. Ông ta mở toang cánh cửa mặc cho mùi hôi thúi xông lên và ruồi muỗi bay loạn xạ ra ngoài, đưa tay chỉ vào đó ông la hét dữ dội. Rồi tôi thấy mấy người an ninh đi ra giếng múc nước vào cùng ông ta rửa dọn nhà cầu! Thờì đó tiếng Anh tôi chỉ biết bập bẹ nên chẳng hiểu ông ta nói gì nhưng nhìn dáng vẻ giận dữ của ông ta tôi vô cùng xấu hổ cho sự ăn ở kém văn minh và thiếu ý thức của người Việt mình. Tuy nhiên suy cho cùng thì barrack nhỏ so với số người quá đông như vậy và lại giữ người ta quá lâu nên vấn đề mất vệ sinh là chuyện không tránh khỏi mà thôi. Lúc đó do tin đóng cửa đảo trong vùng Đông Nam Á khiến ai cũng cố gằng tìm cách vượt thoát lần cuối cùng hơn nữa chính phủ Việt Nam biết rằng rồi ra họ sẽ bị trả về dù có tới được các đảo nên chẳng thèm chận bắt chi nữa. Đó là hai nguyên nhân chính làm cho dân số vượt biên nơi các trại tị nạn Đông Nam Á đột ngột tăng vọt. Chỉ tính riêng trại PFAC không thôi, thời điểm ấy dân tị nạn trong trại đã hơn mười ngàn người. Đó là một con số kỷ lục chưa bao giờ có ở đây từ ngày thành lập trại tị nạn đến giờ. Sự quá tải này đưa đến nhiều vấn nạn khó khăn đau đầu cho Cao Uỷ, chính quyền sở tại lẫn người tị nạn. Nhưng dẫu sao tôi vẫn cảm kích hành động lo lắng cho dân tị nạn ấy của ông nên lân la tìm hiểu thì mới biết đó là Cao Uỷ Trưởng của trại, Ông Jan Top Christensen, người Đan Mạch (Denmark.)
Đối với tôi chờ đợi là một cực hình nên những ngày sống tại đây thật là dài và khủng khiếp! Lần này vì chỉ đi có một mình nên dù mừng là đã thoát khỏi chế độ cộng sản nhưng tôi vẫn không tránh khỏi cảm giác buồn bã do nỗi cô đơn tràn ngập. Nhiều hôm tôi đứng lặng hằng giờ ngoài sân barrack trong một góc dưới bóng râm mát nào đó và đưa mắt nhìn mọi người, mọi vật một cách bỡ ngỡ, đầy lạ lẫm. Cũng như quê tôi, nhà ở Phi cũng được lợp bằng lá dừa. Trên gác thì cửa sổ được trổ qua nóc nhà và dùng một cây (que) nhỏ để chống lên khi mở. Trời mưa thì chỉ cần lấy cây chống ra, hạ cửa xuống thì chỉ còn thấy một mái lá bằng phẳng, thật đơn giản!
Group của tôi có một cặp trai gái lúc nào cũng quấn quít bên nhau không rời nửa bước. Họ luôn nắm tay hoặc ôm nhau một cách tình tứ, thỉnh thoảng họ đưa nhau vào chỗ vắng và hôn nhau nồng nàn say đắm. Người thanh niên trạc tuổi tôi, người con gái nhỏ hơn độ vài tuổi. Cả hai đều đẹp tựa Phan An, Tống Ngọc. Thật là xứng đôi vừa lứa! Sau này tôi được biết người con trai tên Trung còn cô gái là Hương. Cả hai đều có cha là trung tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang học tập cải tạo ngoài Bắc. Họ quen nhau qua các chuyến đi thăm nuôi rồi yêu nhau. Hai gia đình sau đấy đã đính ước chuyện vợ chồng cho cả hai và quyết định cho họ đi vượt biên để mong đổi phận "con Ngụy." Thảo nào mà cả hai chẳng thương nhau là thế!
Trong lúc đó thì tại cửa và ở trong ngoài hàng rào của barrack lúc nào cũng có người đứng, ngồi, trò chuyện rôm rả. Mỗi khi có tàu tấp đảo và được đưa về đây thì bà con ở các khu thường kéo nhau tới để tìm thân nhân hay bạn bè rồi bảo lãnh về ở chung nhà với mình. Từ đây mới có câu chuyện khôi hài thường được truyền miệng trong trại về việc "bốc nhân đạo!"
Do có một số người, phần lớn là thanh niên cũng hay la cà ở barrack mỗi khi có người tới rồi lựa những cô gái trẻ đẹp, dễ thương...để giúp đỡ bằng cách bằng lòng nhận họ về nhà mình. Người nào có nhà nhận về thi được Ban Kế Hoạch chấp thuận ngay còn không nếu để họ phân chia thì nhằm khi vào nhà quá đông hoặc quá phức tạp thì rất phiền, rất là khó sống. Sự giúp đỡ ban đầu lại có hậu ý lợi dụng về sau ấy khiến cho cụm từ "lên barrack bốc nhân đạo" bị hiểu theo một ý nghỉ không tốt từ đó.
Suốt cả tuần trong barrack, cuối cùng chúng tôi được chia ra ngoài khu. Tôi với thằng Phong và cha con anh Quá được chia vào Nhà 5 Khu 8. Trước khi đi mọi người nhận được một ít đồ trợ cấp xã hội do CADP (The Center Assistance for Displaced Persons) cấp phát mà lúc đó mọi người cứ tưởng là của cơ quan này nhưng kỳ thực là của Cao Ủy ký thác công việc này cho văn phòng CADP giúp đỡ mà thôi!
Vì danh sách sắp theo họ nên tôi còn nhớ rõ hôm đó tôi cùng cô Trần Thị Đủ nhận được một số đồ cho hai người như một cái xô đỏ, hai tấm đắp chiều ngang khoảng năm tấc dài chừng chin tấc, hai cái chén nhựa, hai bàn chải đánh răng và một dây kem đánh răng Colgate màu đỏ có khoảng chừng năm bảy tép gì đó, một đôi đủa tre và một cái khăn lông tắm loại lớn và hai đôi dép Nhật (chỉ mang độ một tuần là sẽ xẹp và mỏng như tờ giấy.) Hai anh em tôi dẫn nhau ra cây cổ thụ to lâu đời ở gần đó của Khu 7 để chia. Vật dụng nào có hai thứ đểu chia được dễ dàng duy có đôi đũa, khăn lông tắm và cái xô thì không biết chia thế nào? Ngày đó mới tấp đảo, mọi thứ đều cần nên thật là khó xử. Đủ khá xinh, nước da trắng trẻo, người cũng như tên gọi lại nghe đâu có họ hàng với chủ tàu nên trong khi tôi còn lúng túng thì Đủ nhỏ nhẹ lên tiếng:
- Em tính vầy anh xem được không nha. Thôi anh lấy cái khăn, đôi đũa cho em xin cái xô. Em sẽ đưa anh thêm 15 pesos nữa được không?
Thật ra thì Đủ đã tính toán trước rồi. Thời ấy trong hoàn cảnh đó ai cũng cần cái xô nhất là phụ nữ vì cái xô rất hữu dụng dùng được cho mọi thứ. Nghe Đủ nói tôi nghỉ thầm trong bụng "dẫu gì người ta cũng là đàn bà con gái cần cái xô đó hơn, mình so đo và nhận tiền làm gì dù lúc này tôi đang rất cần tiền." Tuy nhiên tôi chưa kịp mở lời thì lúc ấy chú Trần Như Bân chung group với chúng tôi đi ngang nghe thế liền ngừng lại bày vẽ:
- Trời ơi dễ ợt, có gì mà tụi mày chia hoài hổng được vậy. Để tao tính cho, này nhé cái xô dùng để múc nước cho hai đứa tắm. Tắm thì con Đủ tắm trước mày tắm sau. Khăn thì nó lau trước mày lau sau. Đôi đũa hai đứa ăn chung. That s it! Có gì mà lo quá.
Phán xong một câu "xanh dờn" ông cười ha hả ra vẻ khoái chí bỏ đi mất. Để lại Đủ mặt đỏ như đu đủ chín cây trông thật dễ thương, còn tôi sượng cứng người nhất thời ú ớ chả biết làm sao. Nhưng rồi tôi cũng nhường Đủ cái xô mà không nhận thêm tiền, từ đó cho đến các ngày về sau đi đâu nếu chúng tôi đụng mặt nhau Đủ đều chào vui vẻ nhưng có phần thẹn thùng, bẻn lẻn, không tự nhiên hay đôi lúc đi nhận luơng thực gặp Đủ thì nàng thường nhường cho tôi phần cá hay thịt của mình với lý do hết sức đơn giản là "em không biết ăn cái này" chứ kỳ thực ra thì Đủ thuộc thành phần có tiền trong trại còn tôi thì "con mồ côi" làm gì có tiền mà mua thực phẩm ngoài?
Tháng ngày lang thang trong trai đợi chờ Thanh Lọc xác định tư cách tị nạn, thỉnh thoảng tôi gặp Trung và Hương, chúng tôi hay ghé lại ngồi dưới cây me trước văn phòng Cao Uỷ tán gẫu và nghe ngóng tình hình, tin tức thời sự nóng bỏng về Chương Trình Thanh Lọc vì nơi này lúc nào cũng tập trung đông đảo dân tị nạn. Ôi thì thôi đủ thứ tin gà, tin vịt hay tin đồn thổi được tung ra như cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa sẽ được thanh lọc trước, con cựu quân nhân cũng được ưu tiên giúp đỡ, ai có giấy tờ bị đuổi đi Vùng Kinh Tế Mới hay bị đánh Tư Sản chắc chắn sẽ đậu..v.v.và v.v..nghe riết rồi bị khủng hoảng tinh thần và "phát mệt!"
Trước tình trạng quá nguy ngập của tiến trình thanh lọc lúc ấy, Ban Đại Diện Nhiệm Kỳ thứ 29 của trại đã phối hợp với một số ban nghành đoàn thể lựa chọn một số người trí thức hoặc có khả năng để giúp đỡ các người không có kiến thức hay không hiểu thế nào là nhân quyền căn bản mà Liên Hiệp Quốc đã công nhận...thành lập Ban Hướng Dẫn Thanh Lọc để giúp đỡ đồng bào khai báo hồ sơ "tiền thanh lọc."
Haloween năm 1989, lần đầu tiên được biết, được sống và được tham dự Lễ Hội Hoá Trang của thế giới tự do thật là vui. Tất cả các thiện nguyện viên từ ngoại quốc tới Việt Nam của mọi ban nghành đoàn thể đều giả quỷ ma, mặc những áo quần vằn vện với khuôn mặt biến hóa dị dạng tham gia diễn hành hay tham dự buổi văn nghệ do Cao Uỷ tổ chức tại Sân Khấu Trung Tâm vô cùng nhộn nhịp! Ba Thiện Nguyện Viên của cơ quan IOM (The International Organization for Migrants) là bác sĩ Sabine, người Bi (Belgium) và bác sĩ Cory, người Phi, cùng cô Racheal, người Mỹ, thì hoá trang thành các thiên thần với trang phục thật lộng lẫy khiến cho lễ hội thêm phần hấp dẫn. Riêng nhà tôi, mấy anh em PA (tức là mấy người tới trước khi đảo đóng cửa, đương nhiên được quyền tị nạn, chỉ chờ các nước phương tây phỏng vấn và đưa đi định cư) dù nghèo áo quần đã rách rưới cũng ráng xé thêm cho tơi tả để mặc vào rồi lôi tôi đi nghêu ngao khắp trại. Thỉnh thoảng chúng tôi lại thấy mấy em trai "unaccompanied minors (trẻ em đơn hành)" kéo theo một đống xoong nồi mà chúng khéo cột dính thành một chùm còn tay thì cầm nắp đập vào nhau kêu loãng xoảng vừa đi vừa hét "trick or treat!" với khuôn mặt trét đầy lọ nghẹ nom thật buồn cười. Trong cảnh rộn ràng tấp nập của ngày lễ tôi thấy Trung và Hương cũng có mặt khi tới Sân Khấu Trung Tâm. Nhìn cả hai âu yếm đứng ôm lấy nhau tựa lưng vào cột bóng rổ để xem văn nghệ tôi thấy họ thật hạnh phúc làm sao! Và đây cũng là lần đầu tiên tôi nghe Teacher Andrew của trường HTC (The Holy Trinity College) ca bài "Hello" vô cùng xuất sắc. Phải công nhận rằng trong vùng Châu Á thì có lẽ người Phi ca nhạc Mỹ là hay nhất bởi họ được học tiếng Anh từ hồi ở tiểu học nên hơn 95% người Phi đều biết tiếng Anh và xử dụng tiếng Anh để giao thiệp với ngoại quốc! Bây giờ dù ở bất cứ đâu, sống trong hoàn cảnh nào tôi vẫn không quên được ngày tháng đó và quả thật đó là khoảng thời gian vui, đẹp nhất của quãng đời tị nạn!
Thu tàn lá vàng lặng lẽ rơi, đông tới trời se sắt lạnh, mới đó mà đã hết năm. Để bớt buồn và đỡ phải suy nghĩ, âu lo, ngoài giờ học Anh Văn chính thức ra tôi còn học dự thính các lớp khác kể cả phải đứng ngoài vỉa hè. Tôi cũng vào cả những lớp của HTC tuy nhiên không được nhận vì lúc ấy HTC chỉ dành cho minor mà thôi! Nhưng tôi không có khiếu sinh ngữ hay sao ấy vì học nhiều mà vẫn dở. Tôi nhớ có mấy em nhỏ group tôi ngày tấp đảo không biết một chữ tiếng Anh nhưng chỉ sau ba năm học đã có đứa làm thông dịch cho văn phòng Cao Ủy! Rõ ràng là cây được trồng trên đất tốt sẽ tăng trưởng nhanh, người sống ở môi trường thuận lợi sẽ dễ phát triển tài năng hơn!
Lúc này tôi không có tiền nên ngoài cuốn tập được CADP phát cho vào đầu khoá học tôi thường lượm các tờ giấy trắng còn dùng được của anh em trong nhà đóng lại từng xấp để viết. Quần dài thì chỉ có hai cái của người ta đi định cư bỏ lại, tôi lấy mặc đại để đi học. Áo thì nhiều hơn bởi mặc chung với anh em trong nhà. Chỉ có một cái khổ là dép thì không có dư và cũng chẳng mượn được ai vì ai cũng cần mang, đường sá bên trại thì lởm chởm đá do xứ đảo mà dép của tôi lại mòn và mỏng nên mỗi khi đi rất là đau chân.
Ngày lại ngày qua chỉ có một lon cá hộp nhỏ cho hai người với đu đủ, rau muống với một ít thịt heo mà mỡ nhiều hơn thịt, hôm nào lãnh phải thịt heo nọc thì kể như đành ăn cơm với nước mắm vậy bởi thịt heo nọc rất hôi khi nấu lên, hay có bửa cầm cái cánh gà bé bằng hai ngón tay mà ngán ngẫm nhưng vẫn chờ đợi và hy vọng!
Rồi điều không mong đợi đến cũng đã đến và đó là bất hạnh đầu tiên không chỉ của riêng tôi mà của đa số đồng bào trong trại vì tôi đã "bị đá!" Sau khi được phỏng vấn thanh lọc để xác định tư cách tị nạn chừng sáu tháng sau người lánh cư bắt đầu nhận kết quả. Việc bác đơn tị nạn hàng loạt mà mọi người gọi nôm na là "bị đá" khiến cho chuyện nhận kết quả trở thành nỗi ám ảnh hãi hùng của trại. Sự ban phát quyền tị nạn tùy tiện, hiểu biết sai lệch hoặc hạn chế về chế độ cộng sản ở Việt Nam của phỏng vấn viên nước sở tại khiến cho chuyện thanh lọc người tị nạn trở nên bi hài. Không có tiêu chuẩn hay thước đo nào nói lên được chuẩn mực của vấn đề thanh lọc. Kẻ đậu người rớt khó ai nói được mình tài giỏi hơn ai, tuy thế mặc cảm "bị đá" làm cho lắm người tủi hổ, cảm thấy thua thiệt hay ngu dốt là điều không tránh khỏi!
Nhiều người quá sợ hãi sẽ bị trả về Việt Nam đã trở nên khùng điên, trại bắt đầu xuất hiện vô số kẻ bị tâm thần ngày tối cứ lang thang như người điên hết dạo công viên đến bãi biển. Ngày phát kết quả thanh lọc được gọi là ngày xổ số, ai đậu được ví như trúng số vì cho đó là sự hên xui. Nói thế để thấy cái "The Comprehensive Plan of Action" tức CPA (Chương Trình Thanh Lọc Toàn Diện) này nó thiếu sót và bất công đến cỡ nào!
Đấy là chưa nói tới cá tính của các phỏng vấn viên hay cảm xúc buồn vui từng ngày của họ nữa. Hoặc trường hợp của một số cựu quân nhân bị đá "te tua" bởi bà phỏng vấn viên Teano chẳng hạn. Những ngày đầu tới trại chuẩn bị cho việc phỏng vấn, bà có tiếp xúc với một số thiện nguyện viên người Việt của văn phòng Cao Ủy. Đa số các thiện nguyện viên này là cựu quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hòa và bà tỏ ra rất có cảm tình với họ vì theo lời bà nói thì chồng bà cũng là cựu quân nhân, thế là họ sắp xếp hồ sơ để các ông cựu quân nhân được bà Teano phỏng vấn với hy vọng bà dễ dàng thông cảm cho hoàn cảnh người lính thì vấn đề thanh lọc có nhiều cơ may hơn nhưng khi kết quả xồ ra thì hầu hết đều bị bác quyền tị nạn. Mọi người khi ấy mới "tá hỏa tam tinh" và tìm hiểu thì được biết rằng bà vừa bị chồng li dị, từ đó bà thù hận mấy ông cựu quân nhân. Chuyện chồng bà là cựu quân nhân chỉ là một cái bẫy bà giăng ra để rửa mối căm hận dù là mấy người cựu quân nhân Việt Nam này chẳng dính dáng gì đến chồng bà cả! Từ đó danh từ "sát thủ Teano với cú đá liên hoàn" ra đời ở PFAC. Thật là oan uổng!
Và chuyện tống tình, tống tiền của nhân viên di trú nước sở tại với người lánh cư rồi chuyện giữa Naoko Obi, cô gái người Nhật tốt nghiệp luật khoa ở Đại Học Cambridge thay thế Jan Top Christensen, làm Cao Ủy Trưởng thời thanh lọc đã xung đột dữ dội với các nhân viên di trú sở tại trong việc cấp phát quyền tị nạn cho người lánh cư nữa. Vì Cao Uỷ có đưa ra một chỉ tiêu ban đầu là cấp chừng 10% quyên tị nạn trên tồng số người nhưng khi thấy các nhân viên di trú Phi ban phát nhiều quá, cô Naoko phản đối, tìm cách chận lại. Có trường hợp bị nghi ngờ, cô gọi lên văn phòng và đích thân tìm hiểu, phỏng vấn lại. Việc này đã chạm tự ái, danh dự quốc gia của Philippines vì theo CPA thì thanh lọc và cấp quyền tị nạn đã được uỷ thác cho nước chủ nhà. Cao Uỷ chỉ giữ vai trò giám sát và có 1% Mandate cho những trường hợp nào xét thấy oan ức, sai xót mà thôi. Do đó hành động của cô Naoko khiến cho người Phi không chấp nhận được nên để phản đối việc cô Naoko phỏng vấn lại và huỷ bỏ sự công nhận quyền tị nạn của họ đối với người lánh cư họ đã hè nhau cho tị nạn cả một tàu họ vừa phỏng vấn đâu cũng cở gần bốn chục người mà lâu quá tôi không còn nhớ là group nào. Thành thử có thể nói thanh lọc là một xui xẻo của người này nhưng lại hên với người khác không chừng. Tuy nhiên từ dó Naoko được dân chúng gọi với một cái tên không mấy thiện cảm lắm dù cô ta rất đẹp và luôn luôn tỏ ra lịch sự với mọi người, bà "No OK!"
Một cảnh trưa trọng trại.
Một bất ngờ đã xảy ra cho group tôi là trong số những người bị đá thì có cả Hương nhưng Trung thì lại đậu. Đúng là ông Trời đã khéo trêu người khiến cho đôi uyên ương bây giờ giống như Ngưu Lang Chức Nữ!
Vì nghe theo lời của Ban Hướng Dẫn Thanh Lọc nên Trung và Hương đã không khai vơ chồng do đó mỗi người có một hồ sơ riêng với tự tin vững vàng vì cả hai đều có "back ground" mạnh. Nhưng chẳng hiểu Hương khai thế nào mà lại bị người nhân viên di trú "denied" với lời lẽ như sau "tôi hoàn toàn tin những gì cô âý nói là sự thật vì có giấy tờ chứng minh đầy đủ, tuy nhiên cô ấy vẫn sống được suốt mưòi mấy năm sau 1975 mà không bị nguy hiểm đến tính mạng nên tôi tin là cô ấy có thể tiếp tục sống được ở quê hưong của cô ấy. Do đó cô không hội đủ một trong các tiêu chuẩn của tị nạn để được hưởng quy chế tị nạn!"
Đọc lời phê trên hẳn các bạn cũng thấy có nhiều vấn đề cần phải nói đến, thế là tranh cãi, bàn tán nổ ra khắp nơi trong trại. Những câu hỏi được đưa ra như tiêu chuẩn tị nạn là gỉ? Thế thì bị ngược đãi, bị chỉ định nơi cư trú, không được tự do thờ phượng...đâu phải là các bằng chứng để xin tị nạn? Sao lại có mâu thuẫn giữa Liên Hiệp Quốc và nước sở tại trong tiêu chuẩn chọn lựa tị nạn thế? Con trung tá Quân Lực Viêt Nam Cộng Hòa đi cải tạo (tù) cả chục năm mà còn bị đá thì con những người dân bình thường khai sao đây? Làm sao chứng minh được là mình bị nguy hiểm đến tính mạng sau 1975 đến phải bỏ trốn khi lúc ấy mình chỉ là một đứa nhỏ? Đau đầu, đau óc, nhiều kẻ chưa thanh lọc đã bị khủng hoảng tinh thần và khùng rồi.
Thời kỳ này là thời kỳ "cơn sốt" thanh lọc lên đến cao độ, vì ở tất cả các trại tị nạn số người bị đá, bị ăn "cánh gà" rất nhiều. Các cuộc biểu tình chống thanh lọc bất công, chống cưỡng bức hồi hương bắt đầu nổ ra. Ở Mỹ, Canada và những xứ tự do khác nhiều cộng đồng Việt Nam đã lên tiếng, trao thỉnh nguyện thư tới Cao Uỷ Tị Nạn tới chính phủ sở tại yêu cầu tái xem xét lại tiêu chuẩn thanh lọc tị nạn...Các anh chị em sinh viên học sinh khắp nơi, các văn nghệ sĩ, ca nhạc sĩ cũng tích cực đem sức mình ra hỗ trợ đồng bào ruột thịt đang bị kẹt bên các đảo bằng những hình thức như walk-a-thon, đêm không ngủ, đêm văn nghệ ca hát gây quỹ. Mạnh mẽ hơn họ còn lập ra các cơ quan pháp lý với nhiều luật sư Việt Nam cũng như ngoại quốc đầy nhiệt huyết, tham gia làm thiện nguyện và cử họ sang tận trại tị nạn giúp lo kháng cáo cho đồng bào như BP SOS (The Boat People SOS) do anh Nguyễn Đình Thắng làm giám đốc hay JRS (Jesus for Refugee Services) ở Palawan chẳng hạn. Tuy nhiên phải công nhận rằng Cao Uỷ và thế giới tự do đã thành công trong chuyện ngăn chặn làn sóng vượt biên bởi từ đó con số người ra đi giảm hẳn và chấm dứt luôn vì ở Việt Nam mọi người đã biết khó khăn của chương trình thanh lọc nên chẳng còn ai dám đi nữa!
Trong khi đó ở trại tị nạn PFAC, trước tình cảnh nguy nan ấy nhiều người đành phải lật ngửa con bài tẩy, "quyết đấu trận cuối cùng" của mình như trường hợp chi Phấn chẳng hạn. Chị chỉ có một tay! Khi còn ở El Nido chị nói với tôi là ở Việt Nam chị bán nước mía và bất cẩn bị máy nước mía cán lấy bàn tay đến nỗi phải cưa mất gần cả cánh tay. Về PFAC, sau gần hai năm chờ đọi chi "đậu" thanh lọc rồi chuyển trại lên Bataan đi định cư trước sự ngạc nhiên và thán phục của mọi người.
Một thời gian sau người thông dịch cho chị mới tiết lộ rằng ngày ấy chị khai với người phỏng vấn rằng chị là liên lạc viên của một tổ chức phục quốc nào đó. Việc bại lộ, chị bị bắt, bị đánh đập tra tấn dã man mà không được cứu chữa đến phải bị cưa mất một cánh tay! Tuy nhiên cái tài ở đây là chẳng hiểu chị nói thế nào, thuyết phục làm sao mà nhân viên phỏng vấn tin và ban cho chị quy chế tị nạn và cái giấy ra trại của chị là do một người trong trại làm với thủ thuật đơn sơ nhưng rất hiệu quả. Giấy thì kêu thân nhân ở bên nhà gửi qua rồi dùng nước trà phun nhẹ và phơi nắng cho tờ giấy cũ đi, tìm hiểu để đánh máy các chi tiết như ở trại nào, ai là trưởng trại thời gian đó, ai ký giấy ra trại... và cuối cùng là mộc (con dấu) thì được làm bằng củ khoai lang! Đang khi đó một anh chàng khác khai vì ba anh ta là thiếu tá Thuỷ Quân Lục Chiển, tử trận tháng Ba năm1975, gia đình bị đuổi đi Kinh Tế Mới nhưng đã không đi nên bị cộng sản gây khó khăn cho cuộc sống, anh ta bị bắt đi Thanh Niên Xung Phong, anh phải trốn, sống chui rúc như chuột, không hộ khầu...lại bị đá vì không có giấy tờ chứng minh. Anh ta lập luận rằng có chính quyền nào đàn áp dân chúng mà để lại giấy tờ chứng minh không? Nhưng người phỏng vấn viên lắc đầu từ chối và nói rằng nếu nói như anh thì ai chả nói được? Vô cùng phức tạp và rắc rối chuyện thanh lọc vậy!
Khai mà không có giấy tờ chứng minh thì bị đá nhưng có giấy tờ mà giấy tờ thật đàng hoàng cũng bị đá tuy nhiên giấy tờ dõm thì lại đậu thì quả thật chẳng biết đâu mà rờ. Từ đó người ta kháo nhau rằng thanh lọc tị nạn chỉ là một cuộc thi "nói dóc." Ai nói dóc giỏi thì đậu và trớ trêu thay một số thành viên của Ban Hướng Dẫn Thanh Lọc cũng bị đá rồi người chuyên làm giấy tờ giả cho mọi người cũng bị đá luôn! Oan nghiệt, oan nghiệt!
Thời gian này tôi đã chuyển xuống Khu Một, và quá buồn nhiều khi không nén nỗi sự chán chường. Lắm hôm tôi bỏ học ngồi hằng giờ đâu đó trước cửa nhà hay lang thang ra biển hoặc vườn dừa mà chẳng thiết làm gì nữa cả. Một chiều tôi ngồi trên chiếc ghế đóng thật cao dùng để coi phim ngoài Sân Khấu Trung Tâm thì một số lớp Anh Văn của CADP hết giờ học. Tan trường, kẻ về người lại đến lớp tấp nập lên xuống Bất ngờ Đủ xuật hiện từ hướng dưới lò Bánh Mì của CADP và đi về phía tôi. Tôi hơi lúng túng và mặc cảm thua cuộc vì tôi nghe tin Đủ đậu thanh lọc mấy tuần qua rồi.
Ngừng lại trước mặt tôi, Đủ ấp úng:
- Anh...khỏe...không?
Nghe Đủ hỏi thế tôi hiểu nàng biết rõ kết quả thanh lọc của tôi, tôi hít lấy một hơi dài nhảy xuống đất, dựa tay vào thành ghế cười gượng gạo:
- Cũng Ok, cám ơn em. Em thì sao? Mới học ra hả?
Đủ nhìn tôi chăm chú như dò xét:
- Em bình thường. Nghe nói...anh...anh...
- Kệ nó em, số phận mà biết làm sao hơn? Chúc mùng em nha! Tôi ngắt lời nàng.
- Dạ, bây giờ anh tính thế nào?
Tôi nhún vai:
- Biết tính gì bây giờ nữa em. Thì cũng lo làm kháng cáo vậy thôi chứ chắc không mấy hy vọng.
Đủ bỗng đổi giọng xăng xái hẳn lên:
- Hay là... anh ghép hộ đi. Em nghe nói ai bị đá mà ghép hộ vợ chồng với người đậu sẽ rất có nhiều hy vọng trong đợt kháng cáo đó anh.
- Anh cũng nghe thế, nhưng hình như là phải mất bốn năm bảy ngàn đô lận, anh đâu có tiền.
- Thì... thì... tìm ai quen đó anh, đâu nhất thiết phải là có tiền mới được đâu.
- Em nói chơi hoài, nhiều người có tiền còn tìm chưa ra người đồng ý ghép hộ chứ nói gì người như anh. Có "cái cọng" không thì làm sao? Hổng phải dễ đâu em!
Giọng Đủ chợt trầm xuống:
- Anh hỏi thăm thử xem, em nghĩ anh kiếm được đó.
Nói xong, Đủ vội vã chào tôi ra về nhưng không bỏ đi ngay. Nàng nhìn tôi thật lâu như muốn nói thêm gì đó rồi tần ngần cúi chào thêm lần nữa. Sau này tôi kể lại cho anh em trong nhà chuyện đó, ai cũng mừng và đều khuyên tôi nên gặp Đủ vì nàng đã mớm ý, mở cho tôi một sinh lộ. Tuy nhiên vì danh dự tự ái, những cục xương khó nuốt của một thằng đàn ông, tôi đã im lặng và trả giá gần mười một năm ở lại vì cái cục xương này!
*
"Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về. Gọi hồn liễu rủ lê thê, gọi bờ cát trắng đêm khuya... Ngày mai em đi, đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ....Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về....Ngày mai em đi, cồn đá rêu phong rủ buồn..!" Từ tờ mờ sáng tiếng Saxophone nức nở trong nhạc phẩm Biển Nhớ của Trịnh Công Sơn văng vẳng phát ra khắp trại từ các loa của Ban Truyền Thông đã làm lòng dạ mọi người chợt chùng xuống. Hôm nay là ngày chuyển trại. Trong nhà tôi tất cả đã thức dậy. Người đi thì ồn ào, cười nói huyên thuyên, náo nức chuẩn bị khiêng đồ đạc được đóng trong các thùng thuốc Winston hay những chiếc vali cũ mèm ra trước hiên nhà, kẻ ở thì ngồi bó gối lơ đãng theo làn khói thuốc gặm nhấm nỗi buồn thân phận. Khi trời sáng tỏ người người ở các khu lũ lượt kéo nhau ra Cổng Mười Hai, nơi chia tay buồn nhiều hơn vui. Những cái xiết tay thật chặt, những ôm hôn nồng ấm, những ánh mắt lưu luyến, những lời chúc phúc, những an ủi, những...tiếng khóc nức nở vang lên khắp mọi nơi đến não nùng trong cái nóng gắt của nắng càng lúc càng lên cao.
Lẫn trong dòng người áo quần sặc sỡ, tôi đứng lặng yên, tâm trạng đầy chán chường. Lẽ ra tôi không đến đây bữa nay nhưng vì thằng em quá thân, đi chung group lên đường đi định cư nên tôi phải tới tiễn nó. Khi thằng nhỏ ra khỏi cổng là tôi vội vã về ngay. Tôi không muốn nấn ná lại đây lâu hơn, nhưng từ trong đám đông đang đứng chụp hình kỷ niệm, Đủ chợt tách ra chặn lấy tôi:
- Anh! Nàng gọi nhỏ.
- Ơ, em chuyển trại hôm nay hả? Tôi hỏi khi thấy thẻ chuyển trại RS (Refugee Status) của cơ quan IOM lủng lẳng trên ngực áo nàng.
- Dạ. Nhà anh... số mấy?
- 14 Khu Một!
Đủ hít lấy một hơi thật dài nhìn thẳng vào mắt tôi nói một mạch:
- Em sẽ viết thư cho anh. Em lên Bataan cũng phải ở lại đó mấy tháng. Chuyện hôm nọ em bàn với anh thì bất cứ lúc nào anh cần cứ cho em hay. Em sẽ giúp anh nếu anh muốn nhưng càng sớm càng tốt. Anh suy nghĩ cho kỹ đi. Thôi anh ở lại gìn giữ sức khoẻ nha. Chúc anh may mắn!
- Cám...ơn... em. Bảo trọng!
Tôi lúng búng trả lời trong miệng, cúi đầu bước đi vội vàng khi nhận thấy giọng Đủ chợt ngẹn ngào. Và cách đó không bao xa, mặt Hương đẫm lệ, dàn dụa nước mắt giữa đám đông. Trung thì ôm lấy Hương cười như mếu trước các câu nói khôi hài của bạn bè.
Vừa đi vừa nghĩ ngợi, băn khoăn tràn ngập tâm tư, tôi tự hỏi lấy mình "rồi mai tôi cũng sẽ ra đi, chẳng thể ở mãi chốn này được dù là không biết sẽ đi đâu? Tuy nhiên tới khi ấy ai sẽ là người tiễn đưa tôi?" Chỉ mới nghĩ tới chừng đó thôi thì cả một cảm giác ê chề. Lúc đi gần tới vòi nước Khu 3, tiếng nhạc xập xình từ trong quán René vang to ra tận bên ngoài "Hey, if we can't solve any problems and why do we lose so my tears... Every time you go away... everytime you go away...!" qua giọng ca mạnh và truyền cảm của Paul Young trong bản nhạc "Every time you go away" khiến tôi tê tái. Quang cảnh trại tị nạn trước mắt bỗng nhạt nhòa. Những kẻ đưa tiễn cũng đang lần lượt trở về. Lê thê, thất thểu!
*
Hai cha con tôi lẽo đẽo theo sau, vợ tôi cứ đi tới đi lui lựa chọn tiệm ăn khiến tôi sốt cả ruột vì không còn bao nhiêu thời gian để trở về Mỹ nữa. Thằng con thì đói, mặt bí xị như "bánh bao chiều" dưới thời tiết nóng, gắt, của phố Tàu ở Canada. Cuối cùng chúng tôi vào đại quán Anh Đào!
Dù đã quá trưa nhưng quán vẫn còn một số thực khách. Chúng tôi chọn lấy một bàn phía trong gần counter. Bồi bàn là một em trai nhanh nhẫu mang thực đơn chạy ra. Tính sẵn trong bụng khi còn bên ngoài nên tôi chỉ liếc sơ qua các món ăn và chọn ngay phần của mình đoạn đảo mắt khắp tiệm một vòng. Cạnh bên một người trung niên cỡ tôi với hai đứa nhỏ mà tôi đoán chừng đứa con gái lớn năm nay cũng ngoài mười tuổi, thằng con trai thì chắc nhỏ hơn con tôi một tí và cô gái kia nếu là vợ ông ta thì quả có hơi chênh lệch vì cô ấy chỉ trạc độ ngoài ba mươi thôi.
Khi người đàn ông ngẫng đầu nhìn lên, tôi thấy ngờ ngợ quen mà nhất thời không nhớ ở đâu. Chợt người đàn ông cất tiếng hối thúc cô gái:
- Lẹ lẹ đi em, ticket đậu xe sắp hết giờ rồi đó.
- Nghe ba nói không con? Hai đứa ăn mau đi đặng về. Người thiếu phụ lên tiếng nói với hai đứa nhỏ.
Người đàn ông nhìn đồng hồ rồi ngó ra ngoài làu bàu:
- Giờ này chạy về tới DC (Whashington DC) chắc cũng mất bảy, tám tiếng!
Tôi nhíu mày, bóp trán nghĩ ngợi mông lung. Gương mặt người đàn ông đã quen, giọng nói lại càng quen hơn mà chẳng biết đã gặp ở nơi nào? Tôi lục lạo ký ức, mớ hình ảnh ngày cũ lộn xộn trong đầu chẳng biết đâu mà mò. Lúc người ta bưng thức ăn đến, mùi phở thơm lừng lôi tôi ra khỏi vùng dĩ vãng tối tăm thì gia đình bên cạnh đã rời khỏi quán tự lúc nào rồi.
Sau hơn hai giờ kẹt xe trong phố chúng tôi mới tới được biên giới Mỹ và Canada. Theo GPS thì chúng tôi phải qua Detroit của Michigan rồi về Toledo và phải theo hướng I-75 S để tới Dayton-Ohio. Dự trù sẽ đến nhà lúc 12 giờ đêm nay, vậy là còn tới sáu tiếng lái xe nữa. Không mệt nhưng hơi buồn ngủ vì mấy ngày nay đi nhiều về khuya tôi ngồi thư giãn, buông thỏng người, thả xe trôi theo dòng xe đang đợi qua trạm trước mặt. Có cả thảy tới gần cả chục trạm kiểm soát mà vẫn kẹt cứng vì số lượng người đổ qua Mỹ quá nhiều. Và đường vô Mỹ thì khi nào cũng bị xem xét gắt gao hơn. Tuy nhiên các xe trước hàng tôi chờ đợi được kiểm soát tương đối dễ dàng nên có phần nhanh hẳn lên. Thấy họ chỉ trình giấy tờ rồi vài phút sau được cho đi tôi thầm tiếc mình đã quá cẩn thận và nghe theo lời khuyên của mọi người mà không dám mua gì cả. Hình ảnh màu vàng tươi của xoài mà chỉ có mười đô một thùng hay mãng cầu (trái Na) nở gai thơm tho, ngọt ngào, mười đồng ba trái dọc theo phố Tàu lúc xế chiều làm tôi tiếc nuối. Nhưng tôi đã lầm! Bởi tôi cứ tưởng xuất trình passport cho người lính biên phòng là xong nào ngờ ông ta hỏi lung tung như qua Canda làm gì? đến đâu? ở đâu? đi bao nhiêu ngày? bây giờ về đâu? có mang trái cây, thịt hay rau cải gì không...? khiến hai vơ chồng tôi ú ớ trả lời không giống nhau nên ông ta bước ra khỏi chỗ ngồi, yêu cầu tôi tắt máy xe, ở yên trong đó, đoạn ông đi ra mở cửa sau xe lên kiểm soát. Đến chừng ấy tôi mới thấy quyết định không mua gì cả hồi chiều của vợ tôi là đúng. Hú hồn!
Hai tay mân mê tay lái (Steering), đầu óc lan man, tôi thả hồn thơ thẩn theo đám mây ngũ sắc đang trôi lơ lững, mặt trời to tròn đỏ ửng như cái thúng nhuộm tím một góc trời. Hoàng hôn đang xuống dần, trời chiều thật đẹp. Tôi tà tà trên xa lộ thênh thang sau khi ra khỏi trạm được một lúc rồi bỗng nhiên trong đầu chợt lóe lên hình ảnh một người. Tôi buột miệng thảng thốt:
- Ô, thằng Trung!
- Ai? Trung nào? Vợ tôi ngó tôi, ngạc nhiên hỏi.
Hình ảnh người đàn ông trong quán hồi trưa và Trung với Hương ngày nào luôn âu yếm, tay trong tay dzung dzăng dzung dzẻ ôm nhau đi tới đi lui bên trại tị nạn hiện ra trong tâm trí tôi. Cả một trời tị nạn với những hình ảnh ngày xưa lần lượt kéo về. Tôi chép miệng nhủ thầm "không biết bây giờ cô ấy ra sao?" Tội nghiệp! Đời thật nghiệt ngã! Thương nhau là thế! Yêu nhau là thế mà cuối cùng lại chẳng lấy được nhau mới thật là kỳ! Hai mươi năm hơn đã trôi qua! Nghĩ tới đó tự nhiên tôi cảm thấy đau. Một nỗi đau vô hình xoáy mạnh vào tim.
Thôi, niềm đau ơi! Xin hãy ngủ yên!
"Every time you go, you take a piece of me with you! Every time you go, you take a piece of me with you!" lại văng vẳng đâu đây!
Triều Phong (TPN)
Nguồn Việt Báo
Ghi chú:
- Ghe "cào cào": Tên tiếng Phi là Bangka. Cào cào là một loại ghe nhỏ, mỗi bên có gắn thêm một thanh tre dài song song với ghe và được nối vào ghe bằng các thanh ngang, nhỏ, ngắn cũng bằng tre, trông như cánh con cào cào, cho khỏi lật hoặc chìm mà người Phi dùng để chạy ven biển.
Gửi ý kiến của bạn