Thực ra những thiệt hại tinh thần vô cùng lớn lao, không biết đến bao giờ chấm dứt, nhất là những nước còn sống dưới chế độ cộng sản như Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn và Cu Ba. Chúng ta hãy sơ lược về di hại cả vật chất, lẫn tinh thần của chế độ cộng sản, và cùng suy nghĩ làm thế nào để chấm dứt những di hại này.
I) Sơ lược di hại về vật chất
Di hại vật chất, đó là đi theo lời huấn dạy vừa sai lầm vừa không tưởng của Marx, nghĩ rằng người ta có thể bãi bõ quyền tư hữu, nhưng thực tế quyền tư hữu chỉ có thể chuyển nhượng, đảng cộng sản, sau khi dùng bạo lực cướp chính quyền, đã phát động phong trào “Đánh tư bản mại sản”, tước hết quyền tư hữu của dân, rồi trao vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ.
Những cuộc đánh tư bản mại sản này làm cho đại đa số dân trở nên nghèo khổ, rồi chuyển nhượng tài sản của dân vào tay cán bộ, làm cho họ trở nên những ông tư bản đỏ giàu nứt đố đổ vách, như chúng ta chứng kiến ngày hôm nay.
Không những thế, nó còn làm cho cả trăm triệu người chết oan uổng, vì chính sách: “Trí phú hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, giết chết giai tầng sĩ phu trí thức, xương sống của một xã hội, làm cho xã hội trở nên què quặt. Trong khi đó thì ruộng vườn nhà cửa bị sung công, tạo nên cảnh: “Cha chung không ai khóc, nhà chung không người chăm sóc, ruộng chung không ai cày”.
Theo một nhóm sử gia Pháp, các ông Stéphane Courtois, Nicolac Werth, Jean louis Panné, André Paczkowski, Karel Bartosek, Jean louis Margolin, trong quyển “Le Livre noir du Communisme” (Hắc Thư về chủ nghĩa cộng sản – nhà xuất bản Laffont – 1997), thì nạn nhân của chế độ cộng sản được chia ra như sau:
- Liên Xô: 20 triệu người.
- Trung Cộng, 65 triệu.
- Việt Nam, 1 triệu.
- Bắc Hàn, 2 triệu.
- Căm Bốt, 2 triệu.
- Đông Âu, 1 triệu.
- Châu Mỹ La Tinh, 150 000.
- Phi Châu, 1,7 triệu.
- A Phú hãn, 1,5 triệu.
- Phong trào cộng sản quốc tế và những đảng cộng sản không nắm chính quyền, mấy chục ngàn người.
Thực ra con số này là con số quá ít, chúng ta cứ lấy trường hợp Việt Nam, ngoài những người chết vì bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, trong cuộc tấn công Tết Mậu thân 1968, còn biết bao nhiêu thế hệ bị chết oan uổng bởi chiến tranh đánh vào miền Nam, do cộng sản chủ mưu, núp dưới danh hiệu “Giải phóng”, nhưng thực tế là muốn nhuộm đỏ miền Nam, theo kế hoạch của cộng sản Nga Tàu.
Con số 20 triệu ở Nga, nhiều nhà sử gia cũng cho là ít, họ ước đoán là khoảng 35 tới 40 triệu.
Đối với Tàu cũng vậy, theo 2 nhà sử gia Jung Chang và Jon Halliday, trong quyển Mao: The Unknown Story (Mao – Câu Chuyện Chưa Được Biết – nhà xuất bản Gaillimard – Paris – 2 006), thì con số phải lên ít nhất là 70 triệu.
Một trong những người ý thức rõ sự tai hại của chế độ cộng sản, ta phải nói đến ông Boris Eltsine, Ủy Viên Bộ Chính trị, Tổng thống nước Nga sau này. Trong bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ đầu, vào năm 1992, ông có nói:
“Vào đầu thế kỷ 20, nước Nga đang ở chung một con tàu cùng với thế giới, nước Nga không phải là đầu tàu, nhưng cũng ở trong những toa tàu hạng nhất. Thế rồi nước Nga nghĩ rằng mình có thể có một đường lối phát triển riêng biệt, đã tách khỏi đoàn tàu. Không dè nước Nga bị dậm chân tại chỗ. Ngày hôm nay về phát triển nước Nga bị tụt hậu hàng nửa thế kỷ, nếu không muốn nói là hàng thế kỷ.”
Ở đây vì lý do chính trị, ông không nói rõ, nhưng ai cũng hiểu ông ám chỉ thủ phạm là Lénine, Đảng cộng sản Liên sô và Đệ Tam quốc tế Cộng sản.
Thực vậy Lénine không hiểu sai lầm của lý thuyết Marx, nghĩ rằng đây là thần dược, không những thực hiện ở nước mình, mà còn tìm cách xuất cảng ra nước ngoài.
Lúc đầu là qua các nước Tây âu, nhưng thất bại như vụ nổi dậy ở Đức qua phong trào Spartakus, một phần do phe cực tả của Đảng Dân chủ Xã hội Đức, tách ra khỏi đảng, nổi lên ở Berlin, vào tháng 1/1919; trước đó ở Hung gia lợi, đảng Xã hội, liên hiệp với đảng Cộng sản, dưới sự lãnh đạo bởi Béla Kun, nổi lên vào tháng 3/1918; nhưng cũng thất bại.
Xuất cảng sang phía tây không thành, Lénine tìm cách xuất cảng sang đông.
Vào năm 1923, tại Đại Hội Đệ Tam quốc tế Cộng sản, với sự có mặt cuối cùng của Lénine, ông đã tuyên bố:
“Chế độ cộng sản đi qua cửa ngõ New Delhi, Bắc Kinh, Moscou, rồi mới tới Paris, Luân Đôn.”
Chính vì vậy mà có Hiệp ước thân thiện Lénine – Tôn Dật Tiên vào cùng năm, rồi ông mở ra trường Đông phương sau này, lúc đầu mang tên trường Tôn Dật Tiên.
Con vi trùng độc hại cộng sản bắt đầu tràn sang Á châu. Giới trí thức tả phương đông, đặc biệt là của 2 nước Tàu và Việt Nam, cũng cho rằng lý thuyết Marx là thần dược, không ngần ngại chấp nhận, chạy theo và áp dụng, trong đó chúng ta phải kể Trần Độc Tú, Lý đại Siêu, 2 người được coi là sáng lập viên của Đảng Cộng sản Tàu, tiếp theo là Lưu Thiếu Kỳ, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình. Ở Việt Nam phải kể Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Duẩn.
Trong những người trí thức và lãnh đạo chính trị sáng suốt ở Việt Nam, người ta thấy có cụ Phan Bội Châu, và ở bên tàu, có tướng Tưởng Giới Thạch.
Cụ Phan Bội Châu, vào những năm đầu của thập niên 20, cụ đã được những người của Đệ Tam Quốc tế Cộng sản tiếp xúc, chiêu dụ cụ vào tổ chức, nhưng cụ từ chối. Cụ có nói: “Tôi chẳng duy tâm, cũng không duy vật, tôi chỉ duy dân.”
Tướng Tưởng Giới Thạch cũng vậy. Sau Hiệp ước thân thiện Tôn Dật Tiên – Lénine, ông đã được họ Tôn, vì lúc đó ông là tay em, gửi sang Liên Sô học. Nhưng ông không ở lâu để học, mà ông về nước ngay.
Người ta hỏi: “Tại sao Tướng quân không ở đấy để học?” Ông trả lời: “Ở đấy không có gì để tôi học.” Sau đó ông nói thêm:
“Một con người không có xương sống thì suốt đời chỉ nằm hay bò. Xương sống của một xã hội là giai tầng trung lưu và sĩ phú trí thức. Nay cộng sản chủ trương tiêu diệt 2 giai tầng này, chỉ làm cho xã hội đó trở nên què quặt. Không tiến nổi.”
Về sau này, vào những năm 30 và 40, trong trận chiến với Nhật và tiêu diệt cộng sản, ông đã tuyên bố: “Cộng sản như bệnh trong xương tủy. Nhật bản như bệnh ngoài da. Vì vậy phải chủ trương diệt cộng sản trước. Trước sau Nhật bản sẽ thua vì Đại Chiến.”
Tuy nhiên, câu nói này quả thật là đúng, quả thật là nhìn xa, trông rộng, như chúng ta ý thức ngày hôm nay. Tuy nhiên vào lúc đó có nhiều người hiểu lầm ông. Đây cũng là một trong những nguyên do chính, khiến ông bị thua bởi Mao trạch Đông.
II) Sơ lược di hại về tinh thần
Di hại về tinh thần, đó là cũng theo lời huấn dạy của Marx, để tạo dựng một nền văn hóa, văn minh mới, thì phải phá hủy tất cả những gì thuộc về văn hóa, văn minh cũ, đi đến chỗ phá đền đài, phá chùa, phá nhà thờ. Những giá trị nhân bản cổ truyền, dạy dỗ con người trở nên thực sự là người, bị chà đạp, đổ xuống sông, xuống biển một sớm, một chiều, con người không phải là con người, mà trở về đời sống cầm thú, súc vật, mạnh được, yếu thua. Cộng thêm với quan niệm duy vật hiểu theo nghĩa thấp hèn của nó và quan niệm bạo động lịch sử, con người ngay cả bố con, vợ chồng, bạn bè không còn như xưa nữa, mà sẵn sàng giết nhau, hại nhau vì một vài trăm $, như chúng ta thấy hiện nay ở Việt Nam và Trung Cộng.
Ngày xưa, Tản Đà có câu: “Văn minh Đông Á trời thâu sạch. Này lúc cương thường đảo ngược ru.” Thực ra, với chế độ cộng sản, không những văn minh đông phương, mà cả văn minh tây phương, nước nào bị cai trị bởi cộng sản, đều lâm vào cảnh “Cương thường đảo ngược”, từ vật chất đến tinh thần.
Thực vậy, chế độ cộng sản được dựng lên trên nền tảng lý thuyết không tưởng của Marx và Engels, cho rằng phải phá hủy tất để xây dựng thiên đàng cộng sản.
Từ đó, người cộng sản, khi cướp được chính quyền, có võ lực trong tay, không từ một hành động nào, từ chém giết, dối trá, lừa bịp, khủng bố, dọa nạt, mị dân đến chỗ mị chính bản thân mình, để thực hiện lời dạy của Marx.
Chế độ cộng sản là một chế độ độc tài toàn diện, cực quyền, nắm giữ, kiểm soát tất cả mọi sinh hoạt của đời sống con người, từ triết lý đến chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, công an, quân đội.
Vì vậy, họ đã dùng tất cả những thứ này, cộng thêm với những thủ đoạn ác ôn, côn đồ, hèn hạ, để thay đổi xã hội mà họ cai trị.
Vì vậy,
1- Chế độ cộng sản là một chế độ cai trị dân bằng cái loa, cái còng và cái súng, nên đã làm cho người dân, hoặc trở nên u mê, hoặc trở nên sợ hãi.
2- Từ đó chế độ cộng sản làm cho người dân trở nên hèn nhát, nhu nhược.
3- Và cũng từ đó chế độ cộng sản làm cho đạo đức băng hoại, kỷ cương suy đồi, nhất là với tư tưởng của Marx chủ trương phá hủy mọi nền văn hóa, văn minh cũ, để xây dựng lên một nền văn hóa, văn minh mới, qua quan niệm “Tam Vô” (Vô tôn giáo, vô gia đình, vô tổ quốc), qua hành động “Trí phú hào, đào tận gốc, trốc tận rễ.”
Thánh Gandhi có nói câu:
“Năm tội ác của một xã hội: 1) Làm chính trị không cần nguyên tắc. 2) Thịnh vượng không cần làm việc. 3) An nhàn không cần đạo lý. 4) Khoa học không cần nhân đạo. 5) Tín ngưỡng không cần hi sinh.”
Năm tội ác này áp dụng cho chế độ cộng sản quả thật không sai.
Nguyên do tại đâu?
Có thể nói nó bắt nguồn xa xưa từ Marx cho đến Lénine rồi tiếp theo giới lãnh đạo con cháu.
Marx chủ trương “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, “Một xã hội an nhàn không cần đạo lý.”
Lénine chủ trương làm chính trị không cần nguyên tắc, miễn sao có lợi cho mình và cho đảng.
Rồi ngày hôm nay ở Việt Nam, phá thai bừa bãi, nhà thương thay vì cứu người lại à nơi tham ô, hối lộ; chùa, nhà thờ mọc lên như nấm với những “ông sư quốc doanh, linh mục quốc doanh”, đó chính là khoa học không cần nhân đạo và tín ngưỡng mà không cần hi sinh, hơn thế nữa lợi dụng tín ngưỡng để kiếm tiền.
Xã hội cộng sản quả thật là một xã hội loài người nhưng mất hết nhân tính, xã hội do loài quỉ đỏ cai trị.
Chính vì vậy mà ông Lê Xuân Tá, Phó Trưởng Ban Khoa học và Kỹ thuật của Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam trước đây có viết, vào thời điểm những chế độ cộng sản Liên sô và Đông Âu sụp đổ:
“Sự ngu dốt và sự thấp hèn tự nó không đáng trách. Nhưng sự ngu dốt và thấp hèn mà được trao quyền lực và cấy vào vi trùng ghen tị, thì nó trở thành quỉ nhập tràng.
“Và con quỉ này, nó ý thức rất rõ rằng cái đe dọa quyền và lợi của nó chính là sự hiểu biết, văn hóa và văn minh; nên nó đã đánh những thứ này một cách tàn bạo, không thương tiếc.
“Nhưng chính vì nó là thấp hèn và ngu dốt, nên những thứ này đã trở thành những sạn thận, sỏi mật, trong lục phủ ngũ tạng của chế độ, làm cho chế độ không ai đánh mà tự chết.”
Tôi không đồng ý với câu kết luận này, vì chúng ta không thể ngồi chờ sung rụng.
Và từ đó, một câu hỏi đến với chúng ta:
Làm thế nào để tiêu trừ những di hại của chế độ cộng sản. Câu hỏi này có thể được đặt ra dưới dạng một câu hỏi khác, đó là:
Tại sao cuộc cách mạng tự do, dân chủ, nhân quyền đã đến với Liên Sô, Đông Âu, rồi tràn sang Tunisie, Ai Cập, Lybie, hiện đang ở Syrie và Miến Điện, thế mà vẫn chưa đến Việt Nam. Làm thế nào để nó xảy ra tại Việt Nam?
Để trả lời câu hỏi này, có rất nhiều nguyên do, vì cách mạng là một biến cố chính trị và lịch sử rất to lớn. Ở đây tôi chỉ xin nêu ra một vài nguyên do chính đứng theo bình diện của người chủ trương cách mạng.
Chế độ cộng sản Việt Nam là một chế độ ác ôn, côn đồ, gian manh quỉ quyệt và đạo đức giả nhất trong những chế độ cộng sản thế giới. Ác ôn côn đồ vì chúng không chừa bất cứ thủ đoạn nào để hăm dọa, trấn áp những người tranh đấu vì tự do dân chủ, vì nhân quyền công lý. Chúng sử dụng những công an không còn tính người, chỉ biết “còn đảng còn mình”; dùng những bọn giá áo túi cơm, mệnh danh “quần chúng tự phát” đả thương, quấy nhiễu những thành phần tranh đấu bất bạo động cho sự vẹn toàn lãnh thổ trước sự ngang ngược, bạo tàn của Bắc phương, tranh đấu cho một xã hội không còn cảnh người đàn áp người, người hành hạ người hơn loài lang sói.
Gian manh quỉ quyệt vì chúng là một chế độ bán nước hại dân, nhưng chúng đã núp dưới chiêu bài quốc gia, dân tộc, “Đuổi Pháp, đánh Mỹ” để lừa bịp dân tộc và cả toàn dư luận quốc tế. Ngay từ đầu khi thành lập đảng cộng sản Hồ chí Minh và bè lũ đã tự nguyện trung thành với Đệ tam Quốc tế Cộng sản, tự đưa dân tộc và đất nước trở thành con chốt hy sinh cho tham vọng bành trướng của Nga Tàu. Lê Duẩn, cựu bí thư của đảng cộng sản Việt Nam đã không ngượng miệng khi tuyên bố “Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên sô”. Quỉ quyệt vì chúng đã biết rằng “Đánh rắn là phải đánh dập đầu”, vì vậy từ đầu chúng đã tìm mọi cách ám hại, thủ tiêu những người yêu nước không cùng chính kiến, không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản như các cụ Phan Bội Châu, Lý Đông A, Trương Tử Anh. Ngày nay chúng bắt bớ giam cầm hay quản thúc tại gia, cho công an canh giữ, cô lập những lãnh tụ đối lập, từ tôn giáo đến chính trị, như Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Linh mục Nguyễn văn Lý, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và nhiều người khác.
Thêm vào đó chúng biết rằng làm việc gì cũng phải có niềm tin và tổ chức, nên chúng đã tìm cách chia rẽ, xâm nhập vào hàng ngũ chống cộng để xuyên tạc, tung tin thất thiệt, làm lay động niềm tin. Đồng thời chúng tìm cách kiểm soát, cô lập tối đa người này với người kia, vì không có liên lạc thì khó có thể tạo được niềm tin và tổ chức.
Chế độ cộng sản đã được thử nghiệm gần 1 thế kỷ nay, đã hoàn toàn thất bại, mang rất nhiều di hại về cả vật chất lẫn tinh thần cho bất cứ xã hội nào bị cai trị bởi nó. Điều này toàn thế giới đã thấy và dân Việt Nam ý thức rõ hơn ai hết, chỉ có một thiểu số đảng đoàn cán bộ, vì đặt quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi của quốc gia dân tộc nên mới cố bám víu vào quyền hành, cai trị dân bằng cái loa để mị dân, cái còng và cái súng để dọa nạt dân, làm cho dân sợ. Thêm vào đó chúng còn áp dụng chính sách giáo dục nhồi sọ, xuyên tạc sự thật, tôn thờ lãnh tụ, nhằm mục đích ngu dân, ngõ hầu kéo dài ngày sụp đổ của chế độ do chúng dựng lên.
Chính vì lẽ đó mà để làm cuộc cách mạng chống cộng sản ở Liên sô, những nhà trí thức Nga đã lấy câu châm ngôn làm kim chỉ nam: “Sự thật nặng hơn quả địa cầu”, Đức Giáo hoàng Jean Paul II, vừa mới lên ngôi, về thăm Ba Lan, đã khuyên dân Ba lan: “Đừng sợ hãi và hãy hy vọng”. Ngày hôm nay, bạo quyền ở bất cứ nơi nào cũng không thể cấm đoán dân, nhất là giới trẻ tiếp cận với Internet, nên Ghonim, người chính trong cuộc cách mạng ở Ai Cập, đã nói: “Để làm cách mạng ngày hôm nay, chuyện chính là làm cho dân và nhất là giới trẻ tiếp xúc với Internet.”
Nói lên sự thật, dựng lại niềm tin, đó là công việc làm của mỗi người Việt ở quốc nội, cũng như ở hải ngoại, nên ý thức rõ để thực hiện. Nhưng đây là một công việc đòi hỏi sự kiên trì, đi chính từ bản thân, đến những người chung quanh, bắt đầu từ những người trong gia đình, có thể tin tưởng được, tạo cho họ niềm tin, rồi theo vết dầu loang, một truyền 2, rồi 2 truyền 4, cứ như thế kiên trì mà thực hiện.
Tất nhiên sau đó phải có kế hoạch và tổ chức. Bất cứ một tổ chức cách mạng chống bạo quyền, độc tài nào, thường cũng có 2 phần, hoàn toàn biệt lập nhau: phần nổi và phần chìm.
Phần nổi để thức tỉnh dân, để báo động với quốc tế rằng “Chúng tôi vẫn còn đây, vẫn kiên trì đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền”, nhiều khi cũng bị mất mát, hy sinh. Nhưng nhiều khi phải chịu. Phần chìm mới quan trọng, đây là cơ quan sửa soạn hạ tầng, để làm nên những đợi sóng ngầm, đợi đúng thời cơ, thì những đợt sóng này sẽ nổi lên cuốn đi những rác rưởi đã làm ngăn cản giòng lịch sử dân tộc, cuốn đi những tham quan, ô lại, bạo chúa, bạo quyền.
Khi chúng ta đã có tổ chức, có một đường lối tranh đấu, trong hợp với lòng dân, ngoài hợp với trào lưu tiến bộ của nhân loại, đó là tranh đấu nhằm tạo dựng một nước Việt Nam Tự Do Dân Chủ, tôn trọng Nhân Quyền và Tiến Bộ thì chắc chắn chúng ta sẽ có sự hậu thuẫn của dân và sự ủng hộ của nhân dân và các nước yêu chuộng Tự Do và Công Lý trên thế giới.
Tạo dựng niềm tin, lòng cản đảm, tìm hiểu sự thật! Đầu tiên cho chính mình, sau đó cho người thứ nhì, rồi người thứ ba, rồi mỗi người cứ tiếp tục làm như thế!
Đừng nghĩ rằng không đi đến đâu cả, chỉ là công dã tràng. Nên nhớ: Một lâu đài to lớn kia cũng chỉ bắt đầu được xây dựng với những viên đá, viên gạch nhỏ bé lúc ban đầu. Một cuộc hành trình vạn dặm cũng bắt đầu bởi bước khởi hành đầu tiên.
Paris ngày 22/07/2012
Chu Chi Nam
Gửi ý kiến của bạn