BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 77088)
(Xem: 63199)
(Xem: 40597)
(Xem: 32236)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Hồ Chí Minh, ông là ai ? (Phần 1)

06 Tháng Mười Hai 201112:00 SA(Xem: 3600)
Hồ Chí Minh, ông là ai ? (Phần 1)
52Vote
40Vote
30Vote
21Vote
11Vote
3.34
Bốn năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam ráo riết tổ chức cho toàn đảng, toàn quân, toàn dân, nhất là lớp trẻ “học tập đạo đức Hồ Chí Minh”. Nhiều tác giả đã có bài dự tuyển xuất sắc được vinh dự đi báo cáo điển hình trên toàn quốc. Ngoài chế độ ăn ở “hưởng theo nhu cầu” họ còn được nhận thưởng lớn bằng vật chất và tinh thần. Là một người Việt Nam tôi tự thấy mình cũng nên tham gia, để may ra còn có người đồng tình góp thêm tư liệu bổ sung làm sáng tỏ “phẩm chất đạo đức” Hồ Chí Minh cho mọi người Việt Nam cùng biết. Nhất là các đồng chí Công an Nhân dân. Bởi các đồng chí Công an biết là dân được nhờ.

Dân ta thường nói “Cái kim bỏ trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Đảng Cộng sản Việt Nam sợ cái kim Hồ Chí Minh lòi ra nên tất tưởi bỏ công, bỏ của vận động học tập đạo đức của một người thất đức nhất trong lịch sử dân tộc. Học tập hấp tấp, tràn lan gợi nên tình thế của những người canh đê hốt hoảng chèn ổ mối, bịt hang chồn, gia cố rò rỉ trước nạn hồng thủy. Tôi nghĩ, chân đê ngậm nước lâu ngày rệu rả rồi. Khó bồi trúc chống đỡ lắm. Vở là cái chắc.

H CHÍ MINH, ông là ai ?


PHẦN MỘT :


Trong thời gian qua , một số đọc giả đã biết về bài 1 ‘"H Chí Minh - Nguyn Ái Quc - Nguyn Sinh Cung, ba không th là mt". Bài này dã xuất phát từ sự gửi gắm của những người đương thời từng sống trong cuộc , biết rõ hành tung , lai lịch , phẩm chất Nguyễn Sinh Cung ( Nguyễn Tất Thành, Lý Thụy, Vương, Chín Thậu, Line, Tống Vân Sơ, Hồ Quang, Già Thu, Trần Lực, T. Lan. Trần Dân Tiên...) nhưng do điều kiện và tình hình bất lợi trong chế độ nên họ không thể nói ra. Tôi là người may mắn tiếp cận trong nhiều năm các nguồn tư liệu dặc biệt và gặp gỡ một vài nhân vật đồng đại. Bài 1 : "Ba không th là mt" là kết quả thu gọn của một số sự kiện lịch sử.



Để làm sáng tỏ thêm, cung cấp một cái nhìn mạch lạc hơn, tôi xin tiếp tục với bài 2 ‘’ H chí Minh , ông là ai ? ‘’ để trình bài cụ thể hóa : năm tháng, trình độ, sự kiện, hành vi của nhân vật tự nhận mình là Nguyễn Sinh Cung. Bởi có nhận rõ hoàn cảnh, nhân cách, những bước đi và việc làm của Nguyễn Sinh Cung một cách minh bạch, cụ thể thì mới nhận ra bộ mặt thật của Hồ Chí Minh - người của Tàu giành được vị trí độc tôn dắt mũi người Việt làm mọi việc để chuẩn bị cho Tàu thôn tính nước ta.

Vì lẽ đó mong mọi người quan sát thấu đáo những bước đi của Nguyễn Sinh Cung để nhận ra hành tung của ông ta. Từ đó nhận ra chân tướng Hồ Chí Minh một cách dễ dàng. Bởi, Hồ Chí Minh chắc chắn không phải là Tất Thành - Nguyễn Sinh Cung qua năm tháng cụ thể sau đây:

....

Thi thơ u & tui tr ca Nguyn Sinh Cung (Nguyn Tt Thành )

Trong bài 1 "H Chí Minh - Nguyn Ái Quc - Nguyn Sinh Cung, ba không th là mt" tôi dã có dịp trình bài chi tiết về gia thế , cuộc dời của Nguyễn Sinh Sắc , cha của Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Nhuận. Nên xin tóm lại, sau ngày Nguyễn Sinh Sắc đậu Phó bảng (khoa thi năm 1901), tại Huế thì Nguyễn Sinh Khiêm mang tên mới là Nguyễn Tất Đạt. Nguyễn Sinh Cung mang tên mới là Nguyễn Tất Thành. Nguyễn Sinh Nhuận mang tên mới là Nguyễn Tất Danh.

Đoạn đầu đời này của Nguyễn Sinh Cung có thể tóm lại như sau :

- 1890 (thực ra là 1892) – 1895 còn bé chưa học hành gì.

- 1896-1901 từ 6 tuổi đến 11 tuổi (4 tuổi đến 9 tuổi), giữ em, giúp mẹ quay xa kéo sợi dệt vải thuê, học hành chưa bao nhiêu.

- 1901-1905 về quê ở với dì không có điều kiện học.

- 1905-1908 vào Huế học trường Tiểu học Đông Ba. Trường Tiểu học Đông Ba nằm tại vị trí vườn hoa phố Phan Bội Châu ngoài cửa Đông Ba (sau năm 1975 phố Phan Bội Châu nhường cho Phan Đăng Lưu). Học tại Đông Ba mà phải ở nhờ tận dưới chợ Nọ thì biết gia cảnh Nguyễn Sinh Huy sung túc đến cở nào rồi.

- 1908 vừa bước vào trường Quốc học thì đúng dịp phong trào chống thuế Trung Kỳ được các vị sĩ phu hô hào xuống đường biểu tình. Nguyễn Sinh Cung bỏ học đi coi nên bị đuổi ra khỏi trường.

Mong mi người ghi nhn cho sc hc ca Nguyn Sinh Cung trong thi gian này v ch Hán, chưa chc đã xong “Tam thiên t” có nghĩa là chưa thuc “nhân chi sơ, tính bn thin”, v ch quc ng trình đ tiu hc Đông Ba, v ch Pháp tháng đu trường Quc hc Huế.

Có một thời người ta dựa vào sách “Nhng mu chuyn v đi hot đng cách mng ca H Ch tch” do Trn Dân Tiên sưu tầm và biên soạn công phu, đã thổi phồng nghĩa cử Nguyễn Tất Thành vì vận động học sinh Quốc học tham gia phong trào chống thuế và chính anh ta trực tiếp viết đơn giúp những người biểu tình nên mới bị đuổi học. Đáng tiếc là Trn Dân Tiên (chính là H Chí Minh ngụy tạo) không kịp suy ra một điều sơ đẳng rằng phong trào chống thuế Trung Kỳ do các sĩ phu, nhân sĩ trí thức đề xướng. Rằng chữ nghĩa của họ chắc chắn trên tầm của một học sinh tiểu học Đông Ba, cần chi phải đợi đến đầu cầu Tràng Tiền mới nhờ người viết đơn. Do đó đón đường người biểu tình để viết hộ đơn là một sáng tạo theo kiểu “ngọn đuốc sống”của Trần Huy Liệu, Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam thời chuyên chính vô sản dưới tay Hồ mà thôi. Nhiều tài liệu sưu tầm trong dân gian người ta còn biết rằng thời ở làng Dương Nổ (Huế), Nguyễn Tất Thành là một thiếu niên ngổ ngáo, lếu láo hay trèo lên án thờ giữa đình làng, gạt đồ tự khí sang một bên để nằm ngủ. Tính cách đó có tương xứng với nghĩa cử “viết đơn giùm” những người biểu tình chống thuế không?

*

Nguyễn Tất Thành bị đuổi học tìm đường vào Bình Khê nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định với cha, thì cũng là năm Nguyễn Sinh Sắc, ngồi ghế tri huyện Bình Khê, bê tha say rượu đánh chết người, bị thải hồi. Vậy là “ốc không mang nổi mình ốc” làm sao “mang cọc cho rêu”. Nhớ lại một người bạn vừa đồng hương vừa đồng môn là Lê Trọng Trung, Nguyễn Sinh Sắc xin cho Nguyễn Tất Thành vào làm ở Công ty Nước Mắm Liên Thành và được tá túc tại trường Dục Thanh, Phan Thiết một thời gian ngắn. Trong sách ca Trn Dân Tiên viết là tham gia dy hc ti trường Dc Thanh, không biết dy môn gì khi kiến thc đang bc tiu hc. Bởi tư cách và năng lực, Nguyễn Tất Thành không được Công ty Nước Mắm Liên Thành tuyển dụng nên lại chạy vào Sài Gòn tìm cha. Tại sao cha bị đuổi việc, con bị đuổi học không dắt díu nhau về quê mà lưu lạc vào nam? Lúc này ông Nguyễn Sinh Sắc thất nghiệp xin ngồi trước cửa một tiệm bán thuốc Bắc kê toa cho con bệnh để chủ tiệm tính huê hồng mà độ nhật. Vì vậy mức thu nhập ngày có ngày không, cuộc sống thực sự bấp bênh không nuôi nổi bản thân nên khó cưu mang Nguyễn Tất Thành. Trong bước đường cùng tứ cố vô thân đó, Nguyễn Sinh Sắc nghĩ đến một người bạn đồng khoa là Phó bảng Phan Chu Trinh hiện đang ở Pháp mới viết thư tay rồi xui Nguyễn Tất Thành tìm đường sang Pháp nhờ Phan Tây Hồ may ra có kế sinh nhai.

- 1908 – 1911 lêu lổng, lang thang.

Nguyn Sinh Cung sang Pháp

Theo ý cha, năm 1911 Nguyễn Tất Thành đổi tên là Ba xin làm phụ bếp dưới tàu chở hàng La Tusơ Tơ rê vin của hãng vận tải Pháp. Xin được ghi nhận rằng trình độ học vấn của anh Ba lúc này vẫn nguyên vẹn là tiểu học Đông Ba. Bảy năm lênh đênh trên biển và một thời gian ngắn rửa chén bát cho nhà hàng ăn trên nước Anh, trình độ học vấn xem ra chưa có gì bổ sung ngoài một số tiếng bồi giao dịch trong lao động thấp hèn.

- 1911 – 1918 phụ bếp dưới tàu chở hàng Pháp lênh đênh trên biển, chắc chắn là dưới hầm tàu không có lớp học. Tàu cập cảng này, cảng nọ, thân phận phụ bếp không phải là chân giao dịch bạn hàng. Sự học thêm thực sự bị hạn chế là cái chắc.

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) kết thúc. Anh Ba trở về Pháp và được làm công ở tiệm ảnh của Phan Chu Trinh. Những ngày này Nguyễn Sinh Cung mới bắt đầu được chứng kiến các cuộc tiếp xúc giữa những người có học. Đó là Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh...Đây cũng là thời gian Nguyễn Sinh Cung thể hiện đầy đủ tính láu cá sở trường được hun đúc bởi bẩm sinh và bởi thực tế 7 năm lăn lóc sóng gió với những người đi biển.

Xin nhắc lại một lần nữa rằng sau 7 năm bếp núc Nguyễn Sinh Cung giàu thêm về ngôn ngữ giao tiếp lao động, nhưng về học vấn vẫn nguyên vẹn là tiểu học Đông Ba. Mong mọi người xác nhận cho điều đó. Cái hớ của Trần Dân Tiên là không viết thêm trong bảy năm bôn ba ấy Hồ Chủ tịch của ông ta đã gắn bó mật thiết với bao nhiêu thư viện của các nước Anh Pháp Mỹ. Bởi có xác nhận rõ điều này thì mới minh định được tầm tri thức, vốn ngôn ngữ về thể loại văn chương bác học hàm súc của luật lệ như “Thỉnh nguyện thư” gửi đến Hòa hội Véc xây năm 1919 và nhận chân Nguyễn Ái Quốc là ai.

Trong Hồ Chí Minh toàn tập sau này cũng như “Những mẫu chuyện về đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ Tịch” do Trần Dân Tiên cho phát hành trước đây, thì cho là tác giả của “Thnh nguyn thư” và là người trc tiếp đưa “Thnh nguyn thư” đến Hòa hi Vécxây là Nguyn Ái Quc – H Chí Minh…???!!!

Lấy một cái đúng về hành vi “chạy thư” để che giấu hai cái sai về nhân cách, về bản chất là thuộc tính láu cả của Hồ Chí Minh. Những hành vi cướp công về sau sẽ bổ sung cho kết luận này.

Chuyện chỉ có thế nhưng Trần Dân Tiên (Hồ Chí Minh ngụy tạo) cố tình bơm lên thành hành động cao cả “đi tìm đường cu nước”. Thiết nghĩ, nếu là đi tìm đường cứu nước thì đến với Phan Chu Trinh là một cơ hội. Nhưng xin dược làm phụ bếp an phận lại có thù lao gửi về cho cha, nên anh Ba gắn bó với hầm tàu sut 7 năm. Con “đường cứu nước” đó thật là thênh thang. Cái “tài ca Trn Dân Tiên – H Chí Minh là pha ra người khác nói v mình.

Ngay lời nói đầu nhà báo Trần Dân Tiên đã vẽ nên chân dung một vĩ nhân hết sức khiêm tốn. Ông ta đã kiên nhẫn chờ đợi ngày này qua ngày khác mà không thể gặp được chủ tịch đành đi khắp nơi tìm hỏi hết người này đến người khác mới phác họa chân dung chủ tịch nhưng không hoàn hảo mà chỉ như con rồng trong mây lúc ẩn lúc hiện. Phịa ra người khác đóng vai khách quan để nói về chính mình, thì trên đời này không ai gian trá hơn, không ai tài giỏi hơn. Nói như người quê tôi, không ai xạo hơn.Có lẽ những người cộng sản Việt Nam nhờ học được đức tính bm sinh này nên ai cũng như ai đu có tài di trá.

Thỉnh nguyện thư Véc Xây

Chuyện sự thật như thế này: Chiến tranh thế giới thứ nhất có dấu hiệu kết thúc. Các nước thắng trận sắp nhóm họp tại cung điện Véc xây (Pháp). Phan Văn Trường (Luật sư), Phan Chu Trinh (Phó Bảng), Nguyn Thế Truyn (Luật sư), Nguyn An Ninh (Kỷ sư) cùng một vài người giàu nhiệt huyết tụ tập tại nhà Phan Chu Trinh ở số 6 Gô-bơ-lanh bàn về hiện tình đất nước. Phan Chu Trinh là người nặng lòng với lý tưởng đấu tranh bất bạo động theo phương châm “Khai dân khí, chấn dân trí, hậu dân sinh” đã đề xuất gửi Thỉnh Nguyện thư lên Hòa hội Véc xây. Tất cả “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” và Luật sư Phan Văn Trường là người vừa có vốn ngôn ngữ vừa có tri thức về luật pháp được mời khởi thảo văn bản. Sau một vài lần thêm bớt, cuối cùng mới chọn một tên chung đại diện cho nhân dân Việt Nam. Quốc hiệu Việt Nam do Nguyễn Phúc Ánh khai sinh. Triều đình Nguyễn đang tồn tại trên Kinh đô Huế. Họ Nguyễn chiếm tỷ lệ cao trong cộng đồng dân cư Việt. Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Anh Ninh là những người đã làm nên danh vọng. Vậy thì chọn một tên chung là Patriote Nguyen ( người ái quốc họ Nguyễn ), đại diện cho nhân dân Việt Nam vừa hợp lý vừa hợp tình mà không tạo cớ cho nhà cầm quyền Pháp gây gỗ với bất cứ ai là người Việt đang mưu sinh trên đất Pháp, trước hết là nhóm Phan Chu Trinh.

Sau khi thống nhất về nội dung và danh tính bản “Thỉnh Nguyện thư” của nhóm Phan Chu Trinh hoàn tất. Lúc này Nguyễn Sinh Cung là người giúp việc và được Phan Chu Trinh dạy nghề tráng phim, in ảnh nên ngoan ngoản vâng lời với hy vọng mai sau sẽ được tiếp nhận tiệm ảnh, đã hăng hái nhận đưa thư đến Hòa hội Véc xây. Đây là công vic ca mt bưu tá. Xong chuyện đưa thư cho nhân viên giao tiếp trước cửa cung điện đó, Nguyễn Sinh Cung lại trở về tiệm ảnh với công việc thường ngày của mình. Anh ta chưa một lần nhìn thấy nội dung chữ nghĩa của bản “Thỉnh nguyện thư” bên trong bao thư mà anh ta đưa đến cửa cung điện Véc xây bữa đó.

Nhn mình là Patriote Nguyen, là tác gi “Thnh nguyn thư” d như viết đơn giúp người biu tình trong v chng thuế Trung Kỳ, 1908. Kết lun xin nhường quý v đc gi là nhng người Vit Nam luôn luôn đi tìm l sng “đói cho sch, rách cho thơm”. 

Tôi muốn nhắc lại rằng trình độ tiểu học Đông Ba chưa một lần nâng cấp mà đã thảo được “Thỉnh nguyện thư” bằng tiếng Pháp với tầm tri thức luật bác học vậy mà nghe được sao! K láu cá thì láu cá quá th mà người nước ta thì ngây thơ và c tin quá th. Ngót mt thế k b la c vnh tai nghe.

So sánh : một người hay hai người khác nhau ?

   

Nguyễn Sinh Cung sang Trung Quc

Như mọi người đều biết, bảy năm lủi thủi dưới hầm tàu, chỉ có một thời gian ngắn lên bộ làm nghề rửa chén bát soong nồi cho một tiệm ăn ở Anh (thì chỉ loanh quanh trong xó bếp, thời gian đâu mà bôn ba gặp gỡ chính khách hay sách vở thư viện). Nói như vậy để mọi người nhớ cho rằng, ngoài mt vài tiếng bi giao tiếp mang tính ngh nghip bếp núc, trình đ tiu hc Đông ba ca Nguyn Sinh Cung chưa có gì thêm. Để tranh thủ cảm tình của chín mươi phần trăm dân chúng Việt Nam là người lao động nghèo khổ, coi Hồ Chủ tịch là người của giai cấp mình, Trần Dân Tiên còn khai thêm nghề quét tuyết tại một trường Tiểu học ở Luân Đôn. Xin thưa rằng quét tuyết chưa bao giờ là một nghề, chẳng qua (nếu có) thì tranh thủ làm thêm vài ba giờ sau khi rửa xong chén bát nồi soong hoặc vài buổi của ngày nghỉ quét dọn sân trường kiếm ít tiền gửi về cứu cha đang đói ở Cao Lãnh.

By năm dưới tàu, Nguyn Sinh Cung dường như b cô lp vi thế gii năng đng sôi ni bên ngoài. Nghĩa là cho đến đu năm 1918, sc hc ca Nguyn Sinh Cung vn nguyên xi trình đ tiu hc Đông Ba, chưa có điu kin b túc.Trở về Pháp được Phan Chu Trinh, cho làm công ở tiệm ảnh mới có cơ hội tiếp xúc với nhóm trí thức bậc thầy và nghe lóm được một số từ ngữ chính trị về hội đoàn, về cứu nước, về đấu tranh giải phóng, về Hội người Việt Nam trên đất Pháp, về Phan Bội Châu với nhóm thanh niên xứ Nghệ đang có mặt ở Hoa Nam. Và cũng nhờ đứng ở vị trí giao dịch của một tiệm ảnh đang là túi của mọi thứ chuyện trên trời dưới đất, Nguyễn Sinh Cung làm quen một số người Pháp, người Việt, người châu Phi ... Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh, Nguyn An Ninh, Nguyn Thế Truyn ngày càng nhận ra chân tướng láu cá của anh con trai vị Phó bảng thất sủng bê tha nên đã từ từ lãng tránh. Rút cục, Phan Chu Trinh không giao tiệm ảnh cho Nguyễn Sinh Cung như anh ta nuôi mộng mà sang cho người khác để chuẩn bị hồi hương. Nguyễn Sinh Cung biết các bậc cha chú không còn tin mình nên đã dựa vào số bạn mới người Pháp thường la cà tiệm ảnh. Một vài người trong số đó sau trở thành đảng viên cộng sản Pháp đi dự Hội nghị Nông dân Quốc tế ở Mạc Tư Khoa, Nguyễn Sinh Cung bám theo để tìm đường về Trung Quốc liên lạc với nhóm đồng hương của Phan Bội Châu.

Đây là thời gian sau cách mạng Tân Hợi với chủ trương Tam Dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của Tôn Dật Tiên vừa giành được thắng lợi. Quốc tế Cộng sản muốn nhân cơ hội này gây ảnh hưởng rộng về phương đông mới cử đoàn cố vấn do Bô rô đin làm trưởng đoàn bên cạnh chính phủ Tôn Trung Sơn. Đoàn cần một người châu Á để giúp việc vặt. Nguyễn Sinh Cung có mặt vào dịp đó như là một cơ duyên. Xin nói rõ là cho đến lúc này Nguyn Sinh Cung chưa h có vai vế t chc Quc Tế Cng sn mà thi đó thường gi là Đ Tam Quc tế. Cái gọi là Ủy viên Đông Phương bộ là của Lê Hồng Phong sau Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản (xin nói rõ ở phần sau)

Hai năm giúp việc cho Bô-rô-đin (1925-1926), Nguyễn Sinh Cung tranh thủ ngày nghỉ tìm tung tích của nhóm người Nghệ từng tham gia phong trào Đông Du bị trục xuất khỏi nước Nhật, hiện đang hoạt động tại Quảng Châu, Hương Cảng. Nhưng kể từ ngày 19-6-1924 sau khi Phạm Hồng Thái thực hiện mưu kế ám sát Méclanh, Toàn quyền Đông Dương tại khách sạn Victoria ở Sa Điện thuộc tô giới của Pháp trên đất Quảng Châu không thành, thì mọi người Việt Nam ở Quảng Châu đều bị giám sát săn đuổi nghiệt ngả. Các thành viên của Tâm Tâm xã phải phân tán lẩn tránh nên ít có điều kiện tiếp xúc. Nguyn Sinh Cung vi tên Tàu là Lý Thy đu năm 1925 mi lng vng đây trong tình thế trng tay v tài chính cũng như bn bè. Nghĩa là chưa có cơ s gì v mt t chc cách mng.

Nên nhớ rằng quảng thời gian sau tiếng bom Sa Điện của Phạm Hồng Thái (19-6-1924) đến ngày Phan Bội Châu bị Pháp bắt cóc tại Thượng Hải (1925), những người Việt Nam trên đất Trung Quốc hoạt động hết sức khó khăn. Nhất là sau tháng 3 năm 1825 khi Tôn Dật Tiên qua đời Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc chuyển sang tay phái hữu mà đại diện là Tưởng Giới Thạch, thì những nhà cách mạng có thiên hướng thân cọng đều bị thanh trừng. Lý Thụy – Nguyễn Sinh Cung không dễ dầu gì mà múa may như đã viết trong Trần Dân Tien. Bởi vậy, Nguyễn Sinh Cung với tên mới là Lý Thụy dựa vào Bô rô đin, ngày nghỉ việc giỏi lắm là tìm gặp được vài ba o con gái xứ Nghệ đang lưu lạc trên đất khách gom lại thành một nhóm như là những kẻ tha hương đến với nhau. Với nhóm Tâm Tâm xã thì một là đang bị Pháp săn đuổi hai là vẫn gắn bó với Phan Bội Châu (vì họ ra đi trước hết là hưởng ứng lời kêu gọi Đông Du của Phan). Vả lại hoạt động chống Pháp, khi Pháp đã thiết lập bộ máy thống trị trên toàn lãnh thổ nước ta, không đơn giản như là một phườn buôn bò. Ai đến cũng được. Ai đi cũng xong. Để đảm bảo an toàn tuyệt đối, những người rời đất nước ra đi tìm Phan Bội Châu rồi tụ lại Quảng Châu với Tâm Tâm xã được chọn lọc và dắt dẫn bởi đường dây riêng cũng có thể coi là tuyến riêng. Lý Thụy từng là người làm thuê cho Pháp không thể biết đường dây này.

 

Bi chn người t gc. Lê Duy Điếm, Vương Thúc Oánh, Trn Sĩ Dc, Lê Văn Huân, Đinh Chương Dương, Phan Trng Bình, Đng Châu Tu, Nguyn Ngc Ba là đu mi chn người và bo lãnh là “người mình” cho phong trào Đông Du ca Hà Tĩnh, Ngh An, Thanh Hóa, Nam Đnh, Thái Bình. Người ngoài lung đương nhiên không được lt vào. Nếu khâu nào đó sơ h đ người “l” lt vào là biết ngay. Mt điu xin được lưu ý vi quý bn đc là vào hai năm 1903, 1904, Phan Bi Châu có mt nhiu ln Kinh đô Huế đ vn đng thành lp Hi Duy Tân và mi Hoàng thân Cường Đ làm Hi ch, Phan đu tránh gp người đng hương gn gi là Nguyn Sinh Sc. Tránh né có nghĩa là đ phòng. Người Ngh như Đng T Kính, Đng Thái Thân, Trn Đình Phác. Quan li như Nguyn Hu Bài, Nguyn Thng, Đào Tiến. Bng hu như Nguyn Hàm, Đ Đăng Tuyn đu nht c nht đng không đ h cho Nguyn Sinh Sc biết. Năm 1904 người Pháp chưa dán mt vào mi hang cùng ngõ hm còn thế thì năm 1925 sau tiếng bom Sa Đin ca Phm Hng Thái, nhng người đang vì đi nghĩa d gì không đ phòng “tai vách mch rng”.

Lý Thụy biết không dễ gì lôi kéo được số thanh niên yêu nước ra đi từ phong trào Đông Du chừng nào Phan Bội Châu còn đó. Kẻ hiếu danh bất tài nhưng hiếu thắng. Bọn láu cá thường thích hớt tay trên. Phan Bội Châu bị bắt cóc ở nhà ga Thượng Hải, không thuộc nhượng địa của Pháp. Đó là điều đáng cho hậu thế suy ngẫm. Lâm Đức Thụ bị quy là người đã bán Phan Bội Châu và đã bị xử chết. Một câu hỏi được đặt ra là, nếu Lâm Đức Thụ (tên thật Nguyễn Công Viễn) thực sự phản bội bị xử là chính đáng, sao lại có sự ưu đãi Nguyễn Công Thu (em ruột Nguyễn Công Viễn) phụ trách văn phòng nội chính Trung ương đảng cộng sản, một cơ quan không có bảng tên ở đường Nguyễn Đình Chiểu (Hà Nội) nhưng rất có vai vế. Nguyễn Công Thu tự hào về anh mình và vị trí đó của mình?

Ai đã cu Lý Thy

Lý Thụy mưu lôi kéo lớp thanh niên làm nên Tâm Tâm xã nhưng không mấy kết quả. Vả lại, phận sự chính của Lý Thụy là giúp việc cho Bô rô đin. Nếu vì vậy mà coi Nguyễn Sinh Cung là người của Đệ tam Quốc tế thì một câu hỏi nên được đặt ra là tại sao khi bị Tưởng Giới Thạch tẩy chay, Bô rô đin rút về Mạc Tư Khoa, Lý Thụy không về theo mà lẩn quất ở Quảng Châu cho đến trước một đêm vào tháng 5 năm 1927, người của Tưởng Giới Thạch biết được chổ ở của Lý Thụy, thì Trương Văn Lĩnh vội vàng báo cho đồng hương mới quen biết của mình kịp tẩu thoát. Không có Trương Văn Lĩnh Lý Thụy khó thoát khỏi tay Tưởng Giới Thạch. Bởi dưới con mắt Tưởng Giới Thạch, tay chân của Bô rô đin là cộng sản. Cộng sản là diệt. Sai lầm đầu tiên của Trương Văn Lĩnh là chỗ đó. Đây là lần thứ nhất Trương Văn Lĩnh cứu Lý Thụy - Nguyễn Sinh Cung.

*

Từ Quảng Châu, Lý Thụy chạy sang Phì Chịt, thuộc Đông Bắc Thái Lan với tư cách là người lánh nạn. Trại cày Phì Chịt do Đặng Thúc Hứa lập nên nhằm để giúp đỡ Thanh niên xứ Nghệ tham gia phong trào Đông Du của Phan Bội Châu có nơi tá túc trong chặng đầu dừng chân. Vương Thúc Oánh con rể Phan Bội Châu giám sát tuyến đường này. Lý Thụy sang Phì Chịt đổi tên thành Chín Thầu hay Thầu Chin chưa làm nên trò trống gì ở đây lại tự nhận mình là người sáng lập hội Thân Ái và báo Thân Ái. Vị Tiến sĩ cuối cùng của Vương triều Nguyễn là Lê Mạnh Trinh thường gọi là cụ Tiến già và Nguyễn Tư Hồng tức Đông Tùng đã xác minh điều này. Không nói thì ai cũng biết, hai năm lánh nạn thấy không mùi gì lại ra đi lấy chi để xây dựng cơ sở Việt kiều yêu nước.

Lược qua vài điều như trên để xem lại hai năm 1925 và 1926 Nguyễn Sinh Cung ( Lý Thụy – Trần Dân Tiên - Hồ Chí Minh ) múa may được những gì. Một điều cần khẳng định dứt khoát rõ ràng, minh bạch rằng phong trào Đông du là theo tiếng gọi của Phan Bội Châu. Những thanh niên có mặt tại Quảng Châu (Trung Quốc) trước năm 1925 đều ra đi theo tiếng gọi đó. Họ là những người sáng lập Tâm Tâm xã và sau vụ Sa Điện của Phạm Hồng Thái (19-6-1924), một phần bị Pháp săn lùng, một phần do không khí đấu tranh chống Pháp sôi nổi từ trong nước sau ngày Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long... trình làng (1923), nhóm Phục Việt của Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai,... xuất hiện (1925), nhóm Thanh niên của Trần Huy Liệu, Bùi Công Trừng, Lê Văn Chất … công khai hoạt động tại Sài Gòn (1926). Tân Việt Cách mạng đảng Đào Duy Anh, Trần Phú...ra đời. Tâm Tâm xã phải tự thân chuyển hình thái hoạt động. Hoàn toàn không nhận bất cứ tác động nào của Lý Thụy. Có chăng anh ta chỉ chập chờn lai vãng gặp gỡ một vài thành viên ngoài lề mà thôi.

Vit Nam Thanh niên cách mng dng chí hi

Sách vở báo chí của các nhà báo, nhà giáo, nhà sử thuộc loại cơ hội không mảy may có tâm khí Tư Mã Thiên đã nhao nhao rằng “năm 1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Trung Quốc, và năm 1925, Người thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, tổ chức cách mạng có quy củ, có hệ thống đầu tiên của Việt Nam. Từ đó, nhiều đoàn thanh niên trong nước trốn sang theo...”

Phủ nhận công lao Phan Bội Châu để tô son cho Lý Thụy là một việc làm thiếu nhân cách của người cầm bút.

Một điều cần nói rõ là nhóm Thanh niên ra đi theo tiếng gọi của Phan Bội Châu đã lập nên Tâm Tâm xã và tự họ (Lê Văn Phan, Hồ Bá Cự, Lê Duy Điếm, Nguyễn Công Viễn...) đã chuyển thành Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội chứ không phải Nguyễn Ái Quốc nào cả. Đã đến lúc cần xem lại cái gọi là Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội của Nguyễn Ái Quốc. Bởi cho đến lúc này Nguyễn Sinh Cung chưa dám nhận mình là Nguyễn Ái Quốc.

Từ đó suy ra người sáng lập “Hội Liên hiệp các Dân tộc bị áp bức ở Á Đông” do Liêu Trọng Khải (Trung Quốc) làm Hội trưởng ra đời vào tháng 7 năm 1925 cũng không phải do Lý Thụy – Trần Dân Tiên – Hồ Chí Minh sáng lập. 10 khóa huấn luyện với 200 học viên có không, tại đâu và do ai tổ chức, chu cấp tài chính? Trong tình thế lưu vong trên đất khách cho dù Quảng Châu sau cách mạng Tân Hợi có được cải thiện đôi chút nhưng từ tháng 3 năm 1925, nghĩa là sau ngày Tôn Trung Sơn tạ thế, Tưởng Giới Thạch không mấy nương tay với cộng sản. Riêng 88 s báo Thanh Niên mà đng Cng sn Trung Quc tng Đng Cng sn Vit Nam cho đến nay vn là điu khó hiu. Nơi n náu ca Lý Thy thì quân ca Tưởng Gii Thch đã khám xét và kim soát nghiêm ngt. Cơ s ca Vit Nam Thanh niên Cách mng thì b xóa s t tháng 3 năm 1925, khi Tưởng Gii Thach thay Tôn Trung Sơn.

Năm 1949 Những người Cộng sản Trung Hoa giành thắng lợi thì Quảng Châu cũng đã nằm trong tay Tưởng Giới Thạch 22 năm. Tôi nghĩ đến thủ đoan ai đó đã “vẽ chân cho rắn làm rồng” để cũng cố uy tín vị thế Hồ Chí Minh hoặc giả trong những năm ở Pắc Bó nhân làm báo Việt Lập, “Già Thu” tiện thể làm luôn như kiểu phịa ra Trần Dân Tiên vậy. Bởi 2 năm 1925-1926 Lý Thụy giúp việc cho Bô rô đin không có nhiều thời gian và chưa hề có đồng chí cộng sự để làm được việc trọng đại đó. Nói trọng đại là điều kiện kinh phí, thời gian, tính hợp pháp, nguồn vật tư và hệ thống thực hiện...

Bởi thời gian, bổn phận, kể cả thân phận, uy tín tự thân và niềm tin của bè bạn đối với một kẻ từ đầu không cùng hội cùng thuyền trong phong trào Đông Du, lại có nhiều dấu hiệu khả nghi nên rất ít người muốn gắn bó với Lý Thụy. Thú thực đôi khi tôi nghĩ đến 10 khóa huấn luyện tại Quảng Châu từ năm 1925 đến năm 1927 với ngót 200 học viên do Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Duy Điếm “trực tiếp giảng dạy” thì Nguyễn Ái Quốc là ai khác Lý Thụy – Trần Dân Tiên – Hồ Chí Minh. Liêu Trọng Khải chẳng hạn. Và, 88 số báo Thanh Niên in ở đâu, cất giấu ở đâu, ai cùng Lý Thụy làm...Tại sao Tưởng Giới Thạch khi phát hiện ra nơi ở của Lý Thụy lại không thấy? Tại sao Pháp tróc nã nhóm thanh niên Việt Nam ở Quảng Châu ráo riết thế mà cũng không tìm ra. Để mãi đến cuối những năm 60 của thế kỷ XX Đảng Cộng sản Trung Quốc mới gửi tặng Việt Nam như là món quà hữu nghị đặc biệt Trung – Việt. Thực tình tôi coi đây là một sáng tạo bổ sung như “Những mẫu chuyện về đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ Tịch” mà “nhà báo Trần Dân Tiên” đã tốn công tốn sức biên soạn. Vì chính nhóm Thanh niên x Ngh có mt Qung Châu lúc đó không nhng không ưa Lý Thy mà còn hoài nghi ông ta. Bi dù sao vi h, Phan Bi Châu là thn tượng ca mt chí sĩ ái quc, là linh hn ca cuc vn đng cu nước. Đ lôi kéo h, Lý Thy đã có khi làm tn thương uy tín Phan Bi Châu và chính điu đó đã t mình không nhng làm h mt tin mà còn hoài nghi.

Trong số 5 người về sau thành lập chi bộ cộng sản Việt Nam đầu tiên tại trường Đại học Phương Đông Mạc Tư Khoa thì 3 người đã từng có mặt tại Quảng Châu những năm 1924 – 1927 là Ngô Đc Trì, Bùi Lâm, Nguyn Thế Rc. Trn Phú từ Tân Việt và Bùi Công Trng từ đảng Thanh niên Sài Gòn qua Quảng Châu nhập vào nhóm này cùng sang Mạc Tư Khoa và cùng tham gia thành lập chi bộ cọng sản Việt Nam đầu tiên tại trường này.

Năm 1929, Lý Thụy từ Thái Lan sang Mạc Tư Khoa ngỏ ý muốn đến thăm nhóm thanh niên Việt Nam tại trường Đại học Phương Đông Mạc Tư Khoa thì hai trong số ba người vốn là thành viên Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Quang Châu dứt khoát không cho. Ngô Đức Trì và may có Bùi Công Trừng đã năn nỉ thuyết phục bạn mình với lý do đồng hương nên cuối cùng cả nhóm đồng ý tiếp Lý Thụy, nhưng chỉ tiếp ở ngoài trạm gác thường trực trước cổng trường mà không đưa ông ta vào ký túc xá. Ti sao nhóm Qung Châu ca Bùi Lâm, Nguyn Thế Rc ghét Lý Thy đến vy? Nếu h là hc trò ca Lý Thy như Trn Dân Tiên và các nhà S hc Mác xít - Lê nin nít đã viết thì tình thy trò “nht t vi sư, bán t vi sư” không cư x cn tàu ráo máng vi nhau như vy. Đã có lúc người ta còn viết “Người đã sáng lp chi b cng sn đu tiên trường Đi hc Phương Đông”. V sau khi biết còn hai người trong chi b đó đang sng s s ti Hà Ni thì vic đó như lơ dn. Sao li thế.

Thử rà lại hai năm ở Quảng Châu với phận sự chủ yếu là phục vụ phái bộ Bô rô đin, Lý Thụy có bao nhiêu thời gian, bạn bè, để làm được nhiều việc mà chỉ có những người cho dù nằm vùng từ trước, có cơ sở vững vàng tin cậy từ trước cũng khó mà làm được. Thực hư còn phải xét nhưng với mối quan hệ mới mẻ đầy hoài nghi ban đầu, với trách vụ giúp việc cho một tổ chức nước ngoài, với trình độ học vấn và ngôn ngữ hạn chế mà làm toàn việc vĩ đại chắc chắn là quá sức và không thể hoàn thành trong bối cảnh cam go sau vụ Sa Điện với thời gian nghiệt ngả đó. Hai năm ở Thái Lan nên được nghiêm chỉnh mà nhận là 2 năm lánh nạn. Những năm tiếp theo của Lý Thụy, Tống Văn Sơ lại càng đáng lưu ý hơn. Trong nhiều tài liệu thành văn và lời kể mà bạn bè nhận được từ nhiều nhân vật đương thời còn sống cho đến những năm 70, 80 của thế kỷ XX chúng ta có thể phác họa chân dung lắt léo của Hồ Chí Minh.

Tại sao một tổ chức cách mạng nổi tiếng như “Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội” mà nay viết thế này, mai viết thế khác. Phải chăng nó chỉ là cái bóng của Tâm Tâm xã, mà người khác muốn giành nhưng không giành được đã phịa ra những cái tên hay ho đó cho mình.

Phan Bội Châu bị Pháp bắt. Tâm Tâm xã phân hóa coi như tan rã. Và từ đó (1927) đến năm 1929 Lý Thụy – Nguyễn Sinh Cung đóng vai Chín Thậu tá túc tại cơ sở Việt Kiều ở đông bắc Thái Lan. Phải nói rõ rằng đây là những ngày Nguyễn Sinh Cung lánh nạn, chứ không phải sứ mệnh đi xây dựng cơ sở cách mạng trong cộng đồng Việt Kiều hải ngoại như Trần Dân tiên đã khoe. Lê Mạnh Trinh là vị tiến sĩ cuối cùng của Vương triều Nguyễn (khoa 1919) vì tham gia Việt Nam Quang phục hội đã bị truy nả chạy sang Thái Lan lánh nạn có mặt tại Phì Chịt trước và sau Nguyễn Sinh Cung. Lê Mạnh Trinh về sau người ta thường gọi là cụ Tiến Già và Đông Tùng tên khai sinh là Nguyễn Tư Hồng, Đặng Thị Quỳnh Anh là vợ của nhà ái quốc Võ Tòng (Quảng Ngãi) và là mẹ của Đặng Quốc Thân (người sáng lập đảng Cộng sản Thái Lan) và Đặng Quốc Tài (sau năm 1975 thường trú tại đường Tự Đức, Sài Gòn) là những nhân chứng xác nhận cơ sở Việt Kiều Thái Lan ban đầu là trại cày do Đặng Thúc Hứa sáng lập làm điểm hẹn dừng chân cho phong trào Đông Du của Phan Bội Châu. Vương Thúc Oánh, con rể Phan Bội Châu là giao liên Vinh – Phì Chịt – Đông Kinh thường xuyên có mặt ở Trại cày này.

Vi tôi, 2 năm rưỡi (1925 – 1926 – na đu 1927) Lý Thy chưa h là đng minh ca anh em Đông Du t trong nước được la chn sang, cũng không phi là cơ s ti ch. Vy thì da vào ai, ai tin mà khai ra nhiu vic vy. Hot đng cu nước ca nhng người lưu vong trên đt khách dưới tay Tưởng Gii Thch chng cng, bên cnh tô gii Anh, Pháp không d như Trn Dân Tiên viết. Tôi mun nhc li ln na rng t chc hot đng chng Pháp khi Pháp đã xây dng b máy thng tr cht ch t trên xung dưới li có mt giàn quan li các cp trong h thng quân ch chuyên chế không phi là cái ch buôn bò.

Nguyễn Sinh Cung sang Pháp từ năm 1911 đến năm 1925 là 14 năm làm cho Pháp hoặc sống trên đất Pháp đủ để người ta đề phòng khi hệ thống mật thám Pháp đã có tầm hoạt động quốc tế. Hơn nữa, tuy Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh bất đồng về phương pháp cứu nước nhưng chưa hề bất hòa về lòng yêu nước. Họ thường xuyên trao đổi với nhau. Đương nhiên tính cách của những người cần biết họ không hề giấu nhau. Đừng tưởng.

Thời đoan thứ 2 từ năm 1930 đến năm 1939 những bước đi của Tống Vân Sơ lại càng có nhiều điều đáng ngờ hơn. Như mọi người đều biết, sau ngày Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ra đời ở Nam Bộ, Nguyễn An Ninh, Phan Chu Trinh về nước, nhất là sau ngày Phan Bội Châu bị Pháp bắt và đám tang Phan Chu Trinh, phong trào chống Pháp khắp ba kỳ như thổi những luồng gió mới vào mọi tấm lòng yêu nước Việt Nam. Tăm tiếng của Cách mạng Tháng Mười Nga cũng đủ thời gian loang sang nhiều nước thuộc địa Viễn Đông. Các tổ chức cách mạng của người Việt Nam trong và ngoài nước đều có những bước chuyển mình. Sự phân hóa của Vit Nam Thanh niên Cách mng Đng chí hi nm trong bi cnh đó. Nhóm Trnh Đình Cu, Trn Văn Cung, Ngô Gia T...thành lâp chi b cng sn 5D Hàm Long và sau đó Đi hi Thanh niên ti Hương Cng phân lit (5-1929). 

 

Nhóm Hàm Long làm nòng cốt thành lập Đông Dương Cộng sản đảng tại 312 Khâm Thiên (17-6-1929) thì Việt Nam Thanh niên Cách mạng Hội coi như cáo chung. Những việc này Nguyễn Sinh Cung – Lý Thụy – Tống Vân Sơ không hay biết. Sau ngày Đông Dương Cộng sản đảng ra đời không lâu thì An Nam Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn lần lượt xuất hiện. Trước tình hình đó nhóm Trần Phú tại trường Đại học Phương Đông Mạc Tư Khoa báo cáo đầy đủ với Quốc tế Cộng sản và nhận được chủ trương hợp nhất các tổ chức cọng sản ở Việt Nam. Cuộc họp tại Hương Cảng vào tết Âm lịch đầu năm 1930 chỉ có 4 người từ trong nước ra là Trịnh Đình Cửu tức Lê Đình, Trần Văn Cung tức Quốc Anh, đại diện Đông Dương Cộng sản đảng và Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm đại diện An Nam Cộng sản đảng. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn bị lộ tại Đò Trai (Đức Bình, Đức Thọ, Hà Tĩnh) không thể cử đại biểu tham dự. Tống Vân Sơ – Hồ Chí Minh không có tư cách gì cả nhưng đã có mặt nên chỉ được coi là quan sát viên mà thôi. Sau Đại hội III của Đảng Lao Động Việt Nam, người ta có tổ chức mấy cuộc họp những người có mặt tại Hội nghị hợp nhất Đảng 3-2 để vẽ lại quang cảnh cuộc họp như là một tác phầm nghệ thuật tạo hình minh họa sự kiện lịch sử trọng đại đó. Ba người còn sống có mặt là Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Nguyễn Thiệu không tìm được tiếng nói chung về vị trí các nhân vật có mặt. Lúng túng nhất là vị trí Hồ Chí Minh tại cuộc họp đó. Không bằng lòng thì sợ. Bằng lòng thì sai. Và cuối cùng tùy họa sĩ của trường Mỹ Thuật cho ai ngồi đâu thì ngồi. Hồ Chí Minh đương nhiên được ngồi chính diện!

Sau hội nghị hợp nhất này, Trần Phú, Bùi Công Trừng, Ngô Đức Trì, Bùi Lâm, Nguyễn Thế Rục về nước. Đường dây quan hệ quốc tế giữa những người cộng sản Việt Nam với Quốc tế cộng sản do Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong đảm nhận. Tng Văn Sơ b mt thám Anh bt đnh giao cho Pháp. Trương Văn Lĩnh li phi chy đến nhà lut sư Lô giơ bai (Logebey) nh v. Lý Thy thoát chết ln th hai cũng li do Trương Văn Lĩnh cu. Duyên n chi đây? Xin xem hi sau đ xét.

Trần Phú về Hà Nội. Trịnh Đình Cửu giấu Trần Phú dưới hầm nhà một người Pháp ở số 9 Hàng Bông Ruộm. Sau nhiều lần bàn thảo hai người nhất trí với nhau là cần có một văn bản lý luận để trước bạ sự ra đời của một chính đảng, nên họ đã đưa nhau xuống nhà máy dệt Nam Định, tìm hiểu tình hình công nhân, sang Tiền Hải Thái Bình tìm hiểu tình hình nông dân, tiện đường ra nhà máy xi măng Hải Phòng rồi trở về 9 Hàng Bông Ruộm Hà Nội. Với lý luận học được tại trường Đại học Phương Đông Mạc Tư Khoa và thực tiễn đời sống công nhân, nông dân qua khảo sát, Trần Phú chấp bút dự thảo Luận cương Chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương với sự góp ý bổ sung trực tiếp của Trịnh Đình Cửu (Lê Đình) và thỉnh thoảng có thêm Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Cừ... Hoàn thành Luận cương và Điều lệ đảng Trịnh Đình Cửu bàn với ban chấp hành trung ương lâm thời triệu tập Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng tháng Mười năm 1930. Với tư cách là Tổng Bí thư lâm thời được bầu trong Hội nghị hợp nhất ngày 3 tháng 2 năm 1930, Trịnh Đình Cửu chủ trì hội nghị lần thứ nhất thông qua hai văn bản mang tính văn kiện lịch sử chính thức và đề xuất cử Trần Phú làm Tổng Bí thư. Trịnh Đình Cửu nhận phụ trách huấn luyện và tổ chức. Bởi trong những ngày đầu thành lập đảng công tác huấn luyện, tổ chức được coi là trọng tâm. Như vy là trong thc tế Trnh Đình Cu là tng Bí thư đu tiên ca đng Cng sn Đông Dương. Trn Phú là tng bí thư th hai...

 

Tng Văn Sơ không có vai trò gì ti Hi ngh này nhưng li mưu giành danh hiu sáng lp mà hi ngh hp nht Trnh Đình Cu đã không chp nhn ông ta là người ca Quc tế cng sn vì không có bt c mt chng t gì cho dù mt mu hóa đơn gi là có du vết quc tế cng sn, cũng không coi ông ta là đi biu cho t chc cng sn ni đa nào. Đông Dương cng sn đng đã có Trnh Đình Cu, Trn Văn Cung. An Nam cng sn đng đã có Châu Văn Liên, Nguyn Thiu. Đông Dương cng sn liên đoàn b mc kt không c được đi biu. Nguyn Sinh Cung-Lý Thy-Tng Văn Sơ chưa h là đng viên ca mt t chc cng sn nào trong và ngoài nước. Không phi người ca Quc tế cng sn, không phi người ca đng cng sn trong nước, Tng Văn Sơ thc s làm cho mi người có mt lo s nghi ng hơn là tin cy.

 

Không giành được vai trò gì ti hi ngh hp nht, không có mt trong hi ngh tháng 10 năm 1930 ông ta đo văn, đo ý Lun cương chính tr do Trn Phú chp bút vi s cng tác cht ch ca Trnh Đình Cu, Trn Văn Cung thành ra cái gi là “Chính cương vn tt” và “sách lược vn tt” đ giành chính danh thành lp đng sau khi Trn Phú và nhng người làm nên Lun cương chính tr chính thc và tham gia hi ngh ln th nht b Pháp bt. Như vy là đ tô mu cho mình, Tng Văn Sơ đo ý Lun cương Chính tr ca Trn Phú thành Chính cương vn tt và sách lược vn tt ca mình, đi tên đng cng sn Đông Dương ca nhóm Trnh Đình Cu, Trn Văn Cung, thành đng cng sn Vit Nam, đ tranh bng được vai trò sáng lp đng ri li đi thành đng cng sn Đông Dương như lúc sinh thành.

Dừng tại đây để nhìn lại quảng đường từ bến Nhà Rồng năm 1911 Nguyễn Tất Thành đổi ra tên Ba xuống tàu thủy làm bồi bếp đến hết năm 1930 ông ta có mặt ở đâu, học hành ra sao mà nhận mình là tác giả Thỉnh nguyện thư gửi Hòa hội Véc xây, 1919? Lẽ nào trình độ tiểu học Đông Ba với nghề giỏi nhất trong quảng thời gian đầu đời là bồi bếp, tiếng Pháp mới có một nắm tiếng bồi mà đã soạn ra một văn bản mang tầm quốc tế được sao? Đứa trẻ con cũng không tin được. Đã làm vic cho Pháp dù dưới nước hay trên cn là người ca Pháp không đi nào nhng người ca phong trào Đông Du li nhn vào hàng ngũ mình. Tâm Tâm xã và Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội là của họ. Họ tôn sùng thần tượng Phan Bội Châu và trung thành với chí hướng xã thân vì nước của thần tượng này. Một tay bồi tàu thất học lúc đó chẳng là gì trong mắt họ. Vị thế trong hội Thân ái của số người Việt ở đông bắc Thái Lan do Đặng Thúc Hứa gây dựng cũng không phải. Rút cục Lý Thụy chẳng là gì cả ngoài cái bung xung dây máu ăn phần. Tứ cố vô thân mưu sinh qua ngày bằng cách lê la mà thôi.

Về sau những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam vì muốn nâng uy tín của mình để giành cảm tình của dân chúng đã đưa Lý Thụy nhập vào Nguyễn Ái Quôc “hữu danh vô thực” thành ủy viên phương đông bộ của quốc tế cộng sản.Xin thưa trước năm 1930 Lý Thụy-Chin Thâu chưa là cái gì cả. Ủy viên Đông Phương bộ là Lê Hồng Phong sau Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản (Quốc tế III). Bởi Lê Hồng Phong là đại biểu chính thức của đảng cộng sản Đông Dương được bầu tại đại hội một tổ chức ở Ma Cao năm 1935 tham dự đại hội VII và là ủy viên của đại hội đó. Lý Thy-Tng Văn Sơ b Hà Huy Tp, Lê Hng Phong đui ra khi đi hi Ma cao (cái gọi là “đại biểu dự khuyết của đại hội Ma cao dự đại hội VII” thực sự là man khai. Nếu là đi biu ca đng cng sn Đông Dương thì đi nào Stalin li bt giam và đày ra tn Sibiari. Mãi cho đến nhng năm tám mươi ca thế k XX, Nguyn Chánh Nhì, đi biu chính thc ca X y Nam Kỳ d đi hi Ma cao 1935 là người duy nht ca đi hi đó còn sng khng đnh “như đinh đóng ct” rng “bác” b Hà Huy Tp, Lê Hng Phong ty chay kch lit.

 

Đã đến lúc mi người Vit Nam nên đt câu hi và tìm cách t tr li: vì sao mt người nhn mình là tác gi thnh nguyn thư Véc xây 1919, nhn mình là người sáng lp đng mà các thành viên ca phong trào Đông Du mà trung tâm là Tâm Tâm xã đu né tránh và mt điu cũng đã đến lúc cn nói là tt c các tng bí thư đng cng sn t Trnh Đình Cu, Trn Phú, Lê Hng Phong, Hà Huy Tp, Phan Đăng Lưu, Nguyn Văn C, Lê Dun đu căm ghét. Vì cái thế nào đó phải bêu nhưng cũng vì cái lẽ gì đó muốn xúc đổ đi mà không đổ được. “Bác” chỉ được người ta bêu lên như là một cục “nam châm” để hút bụi sắt thép trong trái tim dân mà thôi. Thức tịnh họ luôn luôn giám sát quản thúc “bác”.

 

Th xem li ti sao mt người t nhn là sáng lp Vit Nam Thanh niên Cách mng Đng chí hi, sáng lp đng cng sn Vit Nam mà khi giành được quyn lãnh đo li không có bóng dáng ca nhng người tng làm nên hai t chc đó mà li là vài người mang tên Tàu l hoc như Lâm Bá Kit (Phm Văn Đng), Lý Quang Hoa (Võ Nguyên Giáp), Trường Chinh, Vũ Anh (người Qung Tr làm công nhân cơ khí sa cha ô tô Vân Nam tên tht là Trnh Đông Hi). Mt người duy nht ca Tâm Tâm xã là H Tùng Mu thì b máy bay Pháp bn chết khi mt mình mt nga đi trong vùng t do. Tht đáng ng.

Hồ Tùng Mậu bị máy bay Pháp bắn chết, Hồ Chí Minh có điếu văn “Chú Tùng Mậu ơi! Lòng tôi đau xót linh hồn chú biết chăng? Tôi lại nghĩ đến điếu văn của Lê Duẩn đọc tại lễ tang Hồ Chí Minh. “Tổ quốc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta, đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính người đã làm rạng rỡ tổ quốc ta, nhân ta và non sông đất nước ta...” Năm ngày sau lễ tang nổi tiếng đó thì ở một xã của huyện Tân Lạc tỉnh Hòa Bình một ông chủ tịch xã tên là Nguyễn Văn Này chết. Người ta lại đọc điếu văn y chang “Tổ quốc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Nguyễn Văn Này và chính Nguyễn Văn Này đã làm rạng rỡ tổ quốc ta...

( Còn tiếp)

Nguyễn Gia Định

HàNội 2011
Ý kiến bạn đọc
05 Tháng Mười Một 20148:00 SA
Khách
tac gia cua bai nay la ai?,co phai la nguoi nghien cuu lich su.hay cung la dan thuong nhu toi?neu la thuong dan thi khong the nao biet duoc nhung bi mat ve doi tu cua nhung lanh tu.ma cung khong bao gio biet duoc nhung cach thuc hoat dong chinh tri cua nhung vi nguyen thu quoc gia.rat bi mat.
17 Tháng Giêng 20138:00 SA
Khách
bài viết hoàn toàn bịa đặt, vớ vẩn, không có căn cứ, nếu Nguyễn Sinh Cung không phải Bác Hồ thì sẽ chẳng ai biết về tiểu sử của ông, chứ nói gì có tài liệu về Nguyễn Sinh Cung cho thằng cha này ngồi mà liệt kê nhảm nhí... Vớ Vẩn
28 Tháng Sáu 20127:00 SA
Khách
Tôi có người bạn, vào năm 1975, anh ta chỉ mới 17 tuổi, thế nhưng, đầu 1976, anh ta đã lén lấy hình của ông HCM đem xé đi, bởi anh ta quá nhạy cảm, anh ta không thể không xót lòng trước sự độc ác và trân tráo của công an, trước những lầm than mà nhân dân miền Nam hứng chịu, trước những đêm nằm nghe cảnh nông dân la hét vì bình điểm ở nhà kho đội bên nhà. Khi tôi hỏi tại sao anh ta dám lấy ảnh của người mà đảng cộng sản chỉ thị nhân dân tôn làm bậc thánh để xé đi, anh ta trả lời : Tôi không rõ ông ta là ai, nhưng làm sao một người tốt lại có thể cầm đầu một ác đảng hùng mạnh đến thế, điều chắc chắn, ông ta phải là một người giảo hoạt loại siêu đẳng. Xin cảm ơn bài viết mà tôi vừa đọc. Trước đây, tôi cứ tưởng, CS sẽ biến toàn dân VN thành một lũ người thiếu máu trầm trọng đến ngày trái đất bị tiêu diệt, thế nhưng, ngày nay, nhờ Internet, một số người có lương tâm và có hiểu biết, kể cả một số người tốt lỡ lầm theo CS, đã cho tôi thấy rằng, đây là một dân tộc còn hi vọng... Có phải thế không ?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn