1 - Lược sử Mạc Đăng Dung:
Mạc Đăng Dung: ( 1483 - 1541 ) sáng lập triều đại Nhà Mạc trong lịch sử nước ta. Ông đóng vai trò quan trọng trong việc đánh dẹp các thế lực cát cứ, chống đối triều đình. Đồng thời, ông loại bỏ ảnh hưởng những người ủng hộ Nhà Lê. Và ông cũng chống lại những thành phần phò vua Lê ở Thanh Hóa.
Xuất thân hàn vi, dân chài, lập thân bằng đường binh nghiệp.
Mạc Đăng Dung bước vào đường quan lộ sau khi thi đậu Võ trạng nguyên trong cuộc thi tuyển võ sĩ tại Giảng Võ đường ở Thăng Long dưới triều Lê Uy Mục. Từ một võ quan cấp thấp, nhờ tài thao lược và mưu trí, Mạc Đăng Dung đã vươn tới tột bậc quyền lực. Vào năm 1527 được thăng chức Thái sư, tước An Hưng vương thời Lê Cung Hoàng.
Việc ông phế bỏ vai trò vương quyền của họ Lê, cắt đất cầu hòa, và tự trói mình quỳ lạy một viên quan Trung Quốc là Mao Bá Ôn, đã khiến ông trở thành tâm điểm chỉ trích của các sử gia, tri thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử cho đến ngày nay...
2 - Thụ Hàng Thành & Bài Thơ Thụ Hàng Thành:
Năm 1540, Mao Bá Ôn tên đại thần nhà Minh thiết lập Mạc Phủ thuộc cửa Nam Quan, về sau gọi là Thụ Hàng Thành.
Đến kỳ đã định, Mạc Đăng Dung… và cháu là Văn Minh cùng nhóm thuộc hạ là: Nguyễn Như Quế, Đỗ Chế Khanh, Lê Thuyên... hơn 40 người do đường Nam Quan đi sang tới Thụ Hàng Thành ra mắt, làm lễ hàng giặc...
Mọi người tự buộc dây vào cổ, đi chân không vào Mạc Phủ tướng Minh, khúm núm, phủ phục, khấu đầu lạy, dâng tờ biểu xin hàng, nộp trình sổ sách dân đinh và điền thổ do Nhà Mạc đang cai quản...
Ông Ngô Thì Nhậm đời vua Cảnh Thịnh, năm 1793 trong dịp đi sứ nhà Thanh, ngang qua Thụ Hàng Thành có bài thơ nói lên lòng công phẫn trước việc làm của Mạc Đăng Dung:
Thụ Hàng Thành
Lộ kinh Mạc phủ nhập Bằng Tường,
Cố Thụ Hàng thành thị cố cương.
Sơn tự Lạng Sơn, khê giảo thiểu,
Thạch xưng Hạ Thạch lý thiên trường.
Thủy xa chuyển trục lôi huyên ngạn,
Hỏa hiệu tiêu đài tuyết mãn đường.
Đô thống Hàng Thành thành thậm sự,
Linh nhân thiên tải mạ Nghi Dương.
Ngô Thì Nhậm
Dịch Nghĩa:
(Đường đi qua Mạc Phủ vào Bằng Tường, Thành Thụ Hàng xưa là cương giới cũ của nước ta. Núi non giống như ở Lạng Sơn nhưng suối khe ít hơn. Đá thì gọi là Hạ thạch, riêng đường càng dài. Trục guồng nước chuyển, tiếng nước đổ như sấm huyên náo bên bờ. Trên đài lửa hiệu tàn bay như tuyết khắp nhà. Đô thống, Thành Hàng là cái trò gì vậy. Khiến người ta nghìn năm còn chửi mắng kẻ Nghi Dương )
Dưới đây là 3 bài thơ dịch:
Thành Thụ Hàng
Lối qua Mạc phủ tới Bằng Tường,
Thành Thụ Hàng xưa, dấu cố cương.
Núi tựa Lạng Sơn, khe suối ít,
Mốc nêu Hạ Thạch, dặm đường trường.
Tuyết bay tàn pháo đồn canh khắp,
Sấm chuyển guồng xe, bến nước vang.
Đô thống xin hàng, trò khốn nạn,
Nghìn năm bán nước tiếng Nghi Dương
Nguyễn Sĩ Lâm dịch
Thành Thụ Hàng
Đường qua Mạc Phủ tới Bằng Tường,
Thành Thụ Hàng xưa ấy cố cương.
Núi tựa Lạng Sơn nhưng ít suối,
Đá ghi Hạ thạch dặm đường trường.
Thủy xa chuyển trục ầm ầm sóng,
Lửa hiệu tàn bay tựa tuyết sương,
Đô Thống xin hàng trò tủi nhục,
Nghìn sau nguyền rủa đất Nghi Dương.
TS Phạm Trọng Chánh dịch
Thành Thụ Hàng
Mạc Phủ Bằng Tường chung lối qua
Thụ Hàng Thành xưa cõi biên nhà
Đá tên Hạ Thạch đường dài dặc
Núi tựa Lạng Sơn suối nhạt nhoà
Chuyển trục nước guồng trời sấm nổ
Bay tàn lửa hiệu tuyết bông sa
Hàng Thành - Đô Thống trò hèn hạ
Nguyền rủa Nghi Dương mãi mãi là...!
Nguyễn Minh Thanh dịch
3 - Lời Phụ Bàn:
Thuở nhỏ học sử, xem hình ông Mạc Đăng Dung cởi trần trùng trục, ngực nở nang, mang dây nhợ tự trói lòng thòng..., đi chân đất... Thấy ngại ngùng, nhục nhã cho nhà vua...Thân phận một quân vương. Song nghĩ lại, có thể, vì gốc là dân chài thường xuyên ở trần, nên đối với ông ở trần là chuyện thường. Tiện đây xin có mấy lời phụ bàn...
Nhà Trần cũng giết vua và soán ngôi. Nhưng hậu thế chưa hề có lời nào chê trách Nhà Trần, trừ Trần Thủ Độ. Vì Nhà Trần 3 lần đánh thắng giặc Nguyên Mông, giữ yên bờ cõi, đem an bình thịnh vượng cho toàn dân.
Ngược lại, Nhà Mạc không cảm phục được quần thần nhà Hậu Lê, không thu phục được lòng quốc dân, không khả năng chống chọi giặc Bắc.
Rồi với cung cách thậm tệ trong việc hàng giặc, dâng đất...cuả MĐD càng làm cho quần chúng rời xa, mất nhân tâm, do đó Nhà Hậu Lê có thêm cái cớ để trung hưng.
Riêng Mạc Đăng Dung qua sự kiện " Thụ Hàng Thành ", năm sau 1541 thì ông mất. Người đời cho rằng ông bị mưa dầm thấm đất, vì tự cảm thấy quá nhục nhã...
Thầm hỏi, sao MĐD không để cho Mạc Phúc Hải vua đương nhiệm là cháu nội của ông đi thay. Đỡ nhục hơn không...?!
Xét thấy nước ta từ cổ chí kim, ngoài Mạc Đăng Dung, không có vị vua nào làm chuyện vô sỉ tồi tệ như vậy, chỉ vì bã vinh hoa phú quí cho bản thân và giòng họ nhà mình...
MĐD đã rơi vào câu thơ của cụ Phan Bội Châu:
" Sống tưởng công danh, không tưởng nước,
Sống lo phú quý, chẳng lo đời."
và cũng chính cụ Phan nói:
" Sống mà như thế, đừng nên sống!
Sống tủi làm chi, đứng chật trời."
Nhục nhã thay, mà cũng cảm thương thay...!!
Tới đây, để kết thúc tiểu truyện lịch sử, người viết có bài thơ cảm khái về MĐD:
Mạc Đăng Dung ( 1483 - 1541 )
Người huyện Nghi Dương, thuộc Hải Phòng
Dân chài, võ trạng khoẻ vô song
Đánh Nam dẹp Bắc bình thiên hạ
Giết Chúa hàng Minh tủi Lạc Hồng
Quì gối thốt lời xin tội lỗi
Cúi đầu dâng biểu hoại non sông
Tê Phù, Liễu Cát...giao cho giặc
Minh Đức làm chi tệ thế ông...!!
NMT
Nguyễn Minh Thanh
GA, Hạ hồng 15 - 7 - 2019
Phụ Chú:
Thành Thụ Hàng: nơi Mạc Đăng Dung và hơn bốn mươi thuộc hạ tới đầu hàng nhà Minh. Trước có tên là Mạc Phủ do Mao Bá Ôn lập năm 1540 thuộc cửa Nam Quan, gần Bằng Tường. Bằng Tường cách Nam Quan hơn 20 dặm.
Nghi Dương: tên huyện, thuộc Hải Phòng, quê hương Mạc Đăng Dung.
Hạ Thạch: tên cột mốc bằng đá, trên đường đi Bằng Tường. Tương truyền do Mã Viện dựng.
Thủy xa: xe guồng chuyển nước
Hỏa hiệu: tức phong hoả đài, dùng đốt lửa truyền tín hiệu
Đô Thống: An Nam Đô Thống Sứ, chức nhà Minh phong cho MĐD
Tê Phù, Liễu Cát... địa danh MĐD cắt giao cho giặc Bắc
Minh Đức: niên hiệu vua Mạc Đăng Dung
Mạc Đăng Dung giết vua Lê Chiêu Tông năm 1526. Năm 1527 truất ngôi Lê Cung Hoàng. It lâu sau, MĐD ép vua và thái hậu tự tử, rồi lên ngôi hiệu MINH ĐỨC.
Tham khảo: Trang web:
Mạc Đăng Dung, Nhà Mạc, vua Cảnh Thịnh, Việt Báo.....
NGÔ THÌ NHẬM (1746-1803): HOÀNG HOA ĐỒ PHẢ - KÝ SỰ ĐI SỨ BÁO TANG VUA QUANG TRUNG VÀ CẦU PHONG VUA CẢNH THỊNH NĂM 1793, TS Phạm Trọng Chánh.
Danh Nhân Từ Điển, GS Tṛnh Vân Thanh