Anh ra đi đột ngột quá, làm cho những người yêu anh ngỡ ngàng và cả thế giới phải bàng hoàng. Tin này về trong nước chắc cũng sẽ có những người khóc anh dù như người ta sẽ bít bùng tin tức, không cho tin về anh lọt về quê hương!
Nhưng mặt khác cũng có người cho rằng chuyện anh ra đi chóng vánh có thể là một điều hay bởi ung thư phổi là một căn bệnh hiểm nghèo rất đau đớn. Ra đi như thế, có thể anh đã trút được những ngày dài đớn đau và được giải thoát nhẹ nhàng như anh nói, “Cũng chỉ là người bước trước, kẻ bước sau thôi.”
Song nói thế thì nói chứ những người yêu anh, quý anh làm sao mà không xót xa, không muốn níu kéo anh ở lại, dù chỉ là đôi ba ngày phù du! Nhưng anh đã dứt khoát ra đi, cũng như anh đã dứt khoát với chế độ mà anh cho là không phải của loài người!
Đồng hành cùng anh từ những ngày anh còn ở Hỏa Lò cũng như là người đầu tiên đem tiếng nói của anh ra với thế-giới (“A Voice from the Hanoi Underground” trong Asiaweek, 31 tháng 7, 1982) khi anh hãy còn chỉ được biết dưới tên là “Ngục-sĩ,” tôi đã đi theo được phần nào những thăng trầm của cuộc đời Nguyễn Chí Thiện.
Rồi để chuẩn bị đón anh ra với tự do, tôi đã dịch hầu hết 400 bài trong tập Tiếng Vọng Từ Đáy Vực để kịp giới thiệu một tiếng nói đấu tranh rất Việt Nam - bằng thơ - với thế giới (The Flowers of Hell, 1996).
Cuối năm 1998, anh em mình lại còn có dịp đi một vòng Úc Châu do Cộng Đồng Người Việt Tự Do bên đó mời sang. Đi với anh hơn hai tuần qua sáu thành phố, mình mới có dịp chuyện trò về bao nhiêu chuyện tâm đắc như biết anh thuộc làu cả 700 bài thơ anh làm trong tù (dù không có bút giấy nên phải học thuộc lòng), hay được thấy sự uyên bác của anh về văn học thế giới (Trung Hoa, Pháp, Anh, Nga). Tôi cứ tiếc mãi là bây giờ anh nằm xuống, người ta sẽ không bao giờ còn có cơ hội nghe những bàn luận thật lý thú của anh về văn học nước nhà (như về thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du) hoặc về các tuyệt-tác-phẩm trong văn thơ nước người.
Đến khi anh sang Pháp do Parlement des Écrivains mời, năm đầu ở Strasbourg với anh Vũ Thư Hiên, rồi hai năm sau ở St. Lô, Normandie, tôi cũng cố mò sang thăm anh ở khu nhà gần trạm xe buýt L'Enfer (Địa Ngục). Những năm này đã giúp anh hoàn tất hai tác phẩm lớn: bản dịch Hoa Địa Ngục sang tiếng Pháp (Fleurs de l'Enfer) do BS Nguyễn Ngọc Quỳ và Dominique Delaunay (2000) và bản thảo tập truyện Hỏa Lò (do Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ in ra năm 2002). Cũng trong thời gian ở Pháp, anh đã gặp Tổng Phống Pháp Mitterrand.
Sau khi anh trở về Mỹ, anh em mình như hình với bóng. Không bao giờ tôi qua Cali mà không tìm gặp anh, dù là để tán gẫu hay hỏi thăm sức khỏe hay chỉ uống với nhau một ly nước, dùng một bữa cơm đạm bạc (vì anh ăn rất nhảnh).
Chỉ tiếc là những năm sau này anh mắt kém, dễ mỏi, không đọc được lâu và cũng không ngồi viết được lâu nên dù muốn, anh đã không thực hiện được cuốn hồi ký mà tôi cứ xin anh cố gắng hoàn tất. Trong khi đó anh khuyên tôi nên viết một cuốn lịch sử văn học VN trong tiếng Anh mà tôi cứ lần lữa nên đâm thất hứa với anh.
Nhưng dầu sao, qua mấy tác phẩm lớn của anh, anh cũng đã để lại được một di sản đồ sộ cho văn học nước nhà. Qua văn thơ của anh, đã được dịch sang nhiều thứ tiếng (Anh, Pháp, Đức, Tiệp, v.v.), thế giới ngày nay không thể không biết đến anh và qua anh, một góc nổi của văn học VN hôm nay. Thơ anh đã vào sách giáo khoa ở Mỹ, vào những tuyển tập thơ tù của Liên Hiệp Quốc, vào từ điển văn học thế kỷ thứ 20, truyện của anh (Hỏa Lò Stories) đã được Yale University Press in ra, làm thành những mốc lớn của văn học VN đi ra với thế giới.
Nhưng di sản chính của anh lại lớn hơn thế nhiều. Đó là gương can đảm, chất hiên ngang bất khuất trong anh ngay trước cường quyền, ngay cả ở trong tù, chứng minh được sức mạnh của giáo dục truyền thống VN, và lòng thương vô bờ bến của anh đối với những số phận thiệt thòi, thấp cổ bé họng trong xã hội:
Sẽ có một ngày
Con người hôm nay
Vất súng, vất cùm, vất cờ, vất đảng
Đòi lại khăn tang, xoay ngang vòng nạng oan khiên
Về với giáo-đường, mồ mả gia-tiên
Mấy chục năm trời bức bách lãng quên
Bao nhiêu thù hận tan vào mây khói
Sống sót trở về phúc-phận an thân
Kẻ bùi ngùi hối hận
Kẻ kính cẩn dâng lên
Này vòng hoa tái ngộ
Đặt lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ-nguyên tã trắng thắng cờ hồng...
Sẽ có một ngày.... oan khiên
Tiếng mục-đồng êm ả
Tình quê sẽ bao la
Thay tiếng Quốc-tế-ca
Bằng tiếng diều cao vút trong chiều tà
Trên nền trời bao la
Trên nền trời xanh lơ
Trên nền trời bao la
Trên nền trời xanh lơ...
(theo bản phổ nhạc của PD)
Anh Nguyễn Chí Thiện ơi, VĨNH BIỆT! Song anh có thể tin như sắt đá với tôi... là ngày đó sẽ đến!
Nguyễn Ngọc Bích
Đồng Xuân, Bang Trinh Nữ, Hoa Kỳ Quốc
Đêm 3 tháng 10, 2012
Theo Người Việt
Gửi ý kiến của bạn