Nhà thơ Trần Mạnh Hảo trong bài Nguyễn Bính – Nhà Thơ Hiện Đại nhân kỷ niệm 30 năm ngày mất của Nguyễn Bính (27/01/1996) đã viết:
“Nếu cần phải chọn một câu thơ hay nhất để đại diện cho thơ tiền chiến, ông sẽ chọn câu thơ của ai?” Tôi (TMH) không do dự trả lời: “Tôi xin chọn một câu lục bát của Nguyễn Bính – Câu đó như sau:
Anh đi đấy? anh về đâu?
Cánh buồm nâu…cánh buồm nâu…cánh buồm”.
(TMH nói một câu lục bát có nghĩa là cả câu 6 và câu 8)
Còn nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc cũng khá tâm đắc khi nhắc đến bài thơ đó:
hôm nay dưới bến xuôi đò
thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
anh đi đấy? anh về đâu?
cánh buồm nâu … cánh buồn nâu … cánh buồm.
Thơ Nguyễn Bính, tựa “Không Đề” chỉ có bốn câu. Theo tôi, đây là một trong những bài thơ hay nhất, hoàn chỉnh nhất của Nguyễn Bính. Bài thơ có hai nhân vật, một người con trai và một người con gái. Người con trai ở dưới bến chờ xuôi đò. Người con gái trong nhà, qua vuông cửa sổ, thẫn thờ ngó ra. Nguyễn Bính nói họ “thương nhau”. Chắc là thương thầm, nên không có tiễn đưa. Nên người con gái mới băn khoăn tự hỏi anh đi đấy, anh về đâu? Sáu chữ mà bời bời hai tâm sự ngổn ngang. Anh đi đấy? là câu hỏi thảng thốt, đau nhói. Anh về đâu? là câu hỏi ngậm ngùi, buồn tênh. Người con gái ngạc nhiên, rồi bàng hoàng, rồi ngẩn ngơ. Chiếc thuyền rời bến, từ từ đi xa. Hình ảnh người con trai hút. Chỉ còn chiếc thuyền. Rồi chiếc thuyền cũng khuất. Chỉ còn cánh buồm vươn cao, vươn cao, chới với, chập chờn, lung linh, xa xăm:
cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…
Người con gái vẫn còn đứng đó, bên thành cửa sổ, vời vợi nhìn theo. Câu thơ cắt thành ba nhịp, tưởng như mỗi nhịp ngắt là một làn sóng đột nhiên trào lên, che khuất cánh buồm. Bao nhiêu lần khuất rồi hiện. Lần cuối cùng, đã xa lơ xa lắc, người con gái chỉ còn nhìn thấy, mờ thật mờ, hình ảnh cánh buồm thấp thoáng, nhòa đi trong khói sóng bập bềnh. Không còn thấy màu sắc nữa: chữ “nâu” ở nhịp cuối biến mất. (Đọc Thơ “Không Đề” của NB trên VOA)(1)
Đến đây tôi xin mở ngoặc để nói đến cuộc chia ly trong Tống Biệt Hành của Thâm Tâm. Phía người đưa tiễn ngoài mẹ, chị và em, toàn là tình thâm máu mủ ruột thịt, còn có người bạn thân (có thể là người yêu hoặc chí ít cũng thân thiết như tình ruột thịt.) Hơn nữa, đây không phải cuộc chia tay bình thường, mà là cuộc chia ly trong đó không gian chia cách là muôn trùng và thời gian chia cách là vô định.
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
cho nên khi ly khách đã cất bước khá xa rồi mà người bạn thân đưa tiễn còn bàng hoàng thốt lên:
Người đi! Ừ nhỉ! Người đi thật.
Câu thơ rất hay vì trĩu nặng chữ TÌNH.
Đọc kỹ câu:
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
của Không Đề tôi có thể suy ra mấy điểm sau đây:
1/ Nhà cô gái và bến đò ở cùng một mé sông vì chàng trai và cô gái có thể nhìn thấy nhau qua cửa tò vò (cửa sổ rất nhỏ).
2/ Khoảng cách giữa nhà cô gái và bến đò rất gần và không có căn nhà nào ở giữa án hướng vì chàng trai từ bến đò có thể nhìn thấy cô gái qua cửa tò vò.
3/ Tuy ngại ngùng không dám công khai đưa tiễn nhưng cô gái đã biết trước chuyến xuôi đò của chàng trai; nếu không thế, cô đã không ngồi cạnh cửa tò vò để đón “người yêu”. Ở tuổi biết yêu như cô gái nếu không ruộng rẫy cấy hái thì cũng tần tảo bán buôn chứ bố mẹ nào cứ để con gái thảnh thơi ngồi bên cửa cổ ngắm khách đi đò lên xuống. Nhưng NHQ đọc câu thứ 3:
Anh đi đấy? Anh về đâu?
lại nghĩ rằng: “Sáu chữ mà bời bời hai tâm sự ngổn ngang. Anh đi đấy? là câu hỏi thảng thốt, đau nhói. Anh về đâu? là câu hỏi ngậm ngùi, buồn tênh.”
Với tôi, câu hỏi đó chỉ do cô gái “biết rồi còn cứ giả vờ hỏi vớ vẩn!”
Trường hợp chiều lòng ông NHQ cho chàng trai “lờ tít” cô gái về chuyến đi của mình và cô gái cũng tình cờ được nghỉ (không phải làm rẫy, làm ruộng hoặc buôn bán). Chỉ đến lúc chàng trai đến bến đò mới tình cờ gặp cô gái ngồi bên cửa tò vò nhìn ra và bốn mắt gặp nhau tròn xoe ngỡ ngàng vì quá bất ngờ. Nhưng thái độ của cô gái lại rất khó hiểu, vẫn “tỉnh bơ” ngồi bên cửa sổ, không thèm bước ra vài bước để “người nhìn rõ người” trước lúc chia xa. Như vậy hoặc tình cảm giữa hai người chưa có gì là sâu đậm, hoặc chuyến đi của chàng trai chắc cũng không lâu lắc hoặc xa xôi gì lắm; có khi chỉ đi chợ huyện một tý rồi chiều về. Cũng có khi tất cả những điều trên đều đúng. Dù ở vào trường hợp nào đi nữa, do thiếu cái quan hệ “tình sâu nghĩa nặng” và tính nghiêm trọng của bối cảnh chia xa như Tống Biệt Hành, câu thơ:
Canh buồm nâu … cánh buồm nâu … cánh buồm
đã giảm rất nhiều sức gợi cảm đối với bài thơ vì không hợp tình, hợp cảnh, nghĩa là đã trở thành cung đàn lỡ nhịp.
Mỗi câu thơ, khi đứng một mình đều có vẻ đẹp riêng, sức gợi cảm riêng của nó. Khi được đặt vào khung cảnh bài thơ, vào trận đồ chữ nghĩa của tác giả – nếu thi sĩ có tài – thì sức gợi cảm ấy sẽ được gia tăng gấp bội. Câu thứ tư của Không Đề giống một cầu thủ bóng đá, có kỹ thuật điêu luyện nhưng lối chơi rất cá nhân, muốn độc sáng trên sân cỏ, không chịu phối hợp chặt chẽ với các cầu thủ khác trong đội. Có thể nói sức gợi cảm của cả bài thơ Không Đề rốt cuộc còn ít hơn sức gợi cảm của câu thứ tư khi đứng riêng lẻ. Bài thơ – về mặt tổng thể – thất bại
Ở Texas nơi tôi sinh sống, có loại nhà tiền chế. Mỗi nhà gồm 2 hoặc nhiều mảnh. Khi bạn mua họ dùng xe kéo đến đất của bạn và “nối lại”. Sau đó phủ lên chỗ nối trên nóc vài miếng vải lợp là xong. Loại nhà này cũng đẹp, cũng tiện nghi nhưng vì không bền nên giá rất rẻ so với nhà cố định. Về mặt cấu tứ, theo tôi, Không Đề na ná giống loại nhà tiền chế này. Một thi sĩ nào đó có thể thay hẳn 3 câu đầu bằng 3 câu khác, diễn tả một cuộc chia ly khác, của mối quan hệ tình cảm khác (mẹ con, bà cháu, bạn bè …) và sẽ có một bài thơ khác.
Khi đọc thơ hoặc bình thơ có người “bắt” ngay được những chữ hay, từ đắt, câu độc đáo, hình ảnh nên thơ. Nhận biết được như vậy rất hữu ích cho việc định giá trị bài thơ. Tuy nhiên, cao hơn một bậc, là nhận ra sự gắn kết câu chữ thành một thế trận chặt chẽ có thể tăng sức gợi cảm của bài thơ lên gấp bội.
Trần Mạnh Hảo là một nhà thơ có con mắt thẩm định thơ khá nhạy bén. Tôi khoái cái lối bình thơ của ông ở chỗ khen ra khen, chê ra chê, rõ ràng dứt khoát, chứ không vừa “ấy” vừa run như một số nhà bình thơ khác.
Tuy nhiên, khi cho 2 câu thơ
Anh đi đấy? Anh về đâu?
Cánh buồm nâu … cánh buồm nâu … cánh buồm
là “câu thơ hay nhất để đại diện cho thơ tiền chiến” theo tôi, ông đã khen quá lố và đã hoàn toàn sai lầm. Chưa cần so sánh với những nhà thơ tiền chiến tài hoa khác như Huy Cận, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương … 2 câu thơ trên còn phải đứng sau một số câu thơ hay khác của chính Nguyễn Bính về vẻ đẹp, sức gợi cảm và khả năng phối hợp với những câu thơ khác trong bài để tạo nên cái đẹp tổng thể của bài thơ.
Nguyễn Hưng Quốc là một trí thức khoa bảng, một nhà phê bình văn học tài năng, có tầm nhìn rộng về nhiều lãnh vực liên quan đến văn hóa, văn chương. Ông đã đưa ra những lời khen thật ưu ái đối với Không Đề, nhưng lời khen của ông chừng mực hơn, khôn ngoan hơn.
Do thuộc loại thơ “nhà tiền chế” nên Không Đề chưa đủ tầm cỡ để so sánh với Sông Lấp; ngay cả với một số bài lục bát khác của Nguyễn Bính nó cũng phải đứng sau. Cho nên nếu bảo Không Đề “là một trong những bài thơ hay nhất, hoàn chỉnh nhất của Nguyễn Bính” thì tôi e rằng nó không xứng đáng với lời khen ấy.
Có người bảo tôi “Ông bình thơ mà hơi kiệm lời khen”. Đồng ý là khi bình thơ thì khen dễ hơn chê. Khen nặng tay một tý cũng chả mất lòng ai. Ngược lại, lỡ chê sai hoặc chê quá lời một tý thì người ta sẽ đuổi anh đến hang cùng ngõ tận. Đây là trò chơi nguy hiểm. Nhưng đã chấp nhận chơi thì dám chơi, dám chịu – cứ thẳng lòng, căng ngòi bút. Bởi đâu phải chỉ có người bình thơ đôi co với tác giả mà còn biết bao người đọc khác đứng ngoài, có người cầm hoa, có cả người cầm gậy (vui một tý) chú tâm theo dõi.
Để kết luận xin được nói thêm một điều. Thưởng thức bóng đá xin đừng quá chú tâm vào kỹ thuật cá nhân của cầu thủ mà quên tài năng của huấn luyện viên trong tổ chức đấu pháp toàn đội. Với thơ, đó là cái đẹp tổng thể của bài thơ.
Galveston, Texas 05/2015
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
Nguồn http://t-van.net/?p=22328
Chú Thích:
1/ Đoạn bình này cũng xuất hiện trong bài Tứ Thơ của ông.
“Nếu cần phải chọn một câu thơ hay nhất để đại diện cho thơ tiền chiến, ông sẽ chọn câu thơ của ai?” Tôi (TMH) không do dự trả lời: “Tôi xin chọn một câu lục bát của Nguyễn Bính – Câu đó như sau:
Anh đi đấy? anh về đâu?
Cánh buồm nâu…cánh buồm nâu…cánh buồm”.
(TMH nói một câu lục bát có nghĩa là cả câu 6 và câu 8)
Còn nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc cũng khá tâm đắc khi nhắc đến bài thơ đó:
hôm nay dưới bến xuôi đò
thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
anh đi đấy? anh về đâu?
cánh buồm nâu … cánh buồn nâu … cánh buồm.
Thơ Nguyễn Bính, tựa “Không Đề” chỉ có bốn câu. Theo tôi, đây là một trong những bài thơ hay nhất, hoàn chỉnh nhất của Nguyễn Bính. Bài thơ có hai nhân vật, một người con trai và một người con gái. Người con trai ở dưới bến chờ xuôi đò. Người con gái trong nhà, qua vuông cửa sổ, thẫn thờ ngó ra. Nguyễn Bính nói họ “thương nhau”. Chắc là thương thầm, nên không có tiễn đưa. Nên người con gái mới băn khoăn tự hỏi anh đi đấy, anh về đâu? Sáu chữ mà bời bời hai tâm sự ngổn ngang. Anh đi đấy? là câu hỏi thảng thốt, đau nhói. Anh về đâu? là câu hỏi ngậm ngùi, buồn tênh. Người con gái ngạc nhiên, rồi bàng hoàng, rồi ngẩn ngơ. Chiếc thuyền rời bến, từ từ đi xa. Hình ảnh người con trai hút. Chỉ còn chiếc thuyền. Rồi chiếc thuyền cũng khuất. Chỉ còn cánh buồm vươn cao, vươn cao, chới với, chập chờn, lung linh, xa xăm:
cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…
Người con gái vẫn còn đứng đó, bên thành cửa sổ, vời vợi nhìn theo. Câu thơ cắt thành ba nhịp, tưởng như mỗi nhịp ngắt là một làn sóng đột nhiên trào lên, che khuất cánh buồm. Bao nhiêu lần khuất rồi hiện. Lần cuối cùng, đã xa lơ xa lắc, người con gái chỉ còn nhìn thấy, mờ thật mờ, hình ảnh cánh buồm thấp thoáng, nhòa đi trong khói sóng bập bềnh. Không còn thấy màu sắc nữa: chữ “nâu” ở nhịp cuối biến mất. (Đọc Thơ “Không Đề” của NB trên VOA)(1)
Đến đây tôi xin mở ngoặc để nói đến cuộc chia ly trong Tống Biệt Hành của Thâm Tâm. Phía người đưa tiễn ngoài mẹ, chị và em, toàn là tình thâm máu mủ ruột thịt, còn có người bạn thân (có thể là người yêu hoặc chí ít cũng thân thiết như tình ruột thịt.) Hơn nữa, đây không phải cuộc chia tay bình thường, mà là cuộc chia ly trong đó không gian chia cách là muôn trùng và thời gian chia cách là vô định.
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
cho nên khi ly khách đã cất bước khá xa rồi mà người bạn thân đưa tiễn còn bàng hoàng thốt lên:
Người đi! Ừ nhỉ! Người đi thật.
Câu thơ rất hay vì trĩu nặng chữ TÌNH.
Đọc kỹ câu:
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
của Không Đề tôi có thể suy ra mấy điểm sau đây:
1/ Nhà cô gái và bến đò ở cùng một mé sông vì chàng trai và cô gái có thể nhìn thấy nhau qua cửa tò vò (cửa sổ rất nhỏ).
2/ Khoảng cách giữa nhà cô gái và bến đò rất gần và không có căn nhà nào ở giữa án hướng vì chàng trai từ bến đò có thể nhìn thấy cô gái qua cửa tò vò.
3/ Tuy ngại ngùng không dám công khai đưa tiễn nhưng cô gái đã biết trước chuyến xuôi đò của chàng trai; nếu không thế, cô đã không ngồi cạnh cửa tò vò để đón “người yêu”. Ở tuổi biết yêu như cô gái nếu không ruộng rẫy cấy hái thì cũng tần tảo bán buôn chứ bố mẹ nào cứ để con gái thảnh thơi ngồi bên cửa cổ ngắm khách đi đò lên xuống. Nhưng NHQ đọc câu thứ 3:
Anh đi đấy? Anh về đâu?
lại nghĩ rằng: “Sáu chữ mà bời bời hai tâm sự ngổn ngang. Anh đi đấy? là câu hỏi thảng thốt, đau nhói. Anh về đâu? là câu hỏi ngậm ngùi, buồn tênh.”
Với tôi, câu hỏi đó chỉ do cô gái “biết rồi còn cứ giả vờ hỏi vớ vẩn!”
Trường hợp chiều lòng ông NHQ cho chàng trai “lờ tít” cô gái về chuyến đi của mình và cô gái cũng tình cờ được nghỉ (không phải làm rẫy, làm ruộng hoặc buôn bán). Chỉ đến lúc chàng trai đến bến đò mới tình cờ gặp cô gái ngồi bên cửa tò vò nhìn ra và bốn mắt gặp nhau tròn xoe ngỡ ngàng vì quá bất ngờ. Nhưng thái độ của cô gái lại rất khó hiểu, vẫn “tỉnh bơ” ngồi bên cửa sổ, không thèm bước ra vài bước để “người nhìn rõ người” trước lúc chia xa. Như vậy hoặc tình cảm giữa hai người chưa có gì là sâu đậm, hoặc chuyến đi của chàng trai chắc cũng không lâu lắc hoặc xa xôi gì lắm; có khi chỉ đi chợ huyện một tý rồi chiều về. Cũng có khi tất cả những điều trên đều đúng. Dù ở vào trường hợp nào đi nữa, do thiếu cái quan hệ “tình sâu nghĩa nặng” và tính nghiêm trọng của bối cảnh chia xa như Tống Biệt Hành, câu thơ:
Canh buồm nâu … cánh buồm nâu … cánh buồm
đã giảm rất nhiều sức gợi cảm đối với bài thơ vì không hợp tình, hợp cảnh, nghĩa là đã trở thành cung đàn lỡ nhịp.
Mỗi câu thơ, khi đứng một mình đều có vẻ đẹp riêng, sức gợi cảm riêng của nó. Khi được đặt vào khung cảnh bài thơ, vào trận đồ chữ nghĩa của tác giả – nếu thi sĩ có tài – thì sức gợi cảm ấy sẽ được gia tăng gấp bội. Câu thứ tư của Không Đề giống một cầu thủ bóng đá, có kỹ thuật điêu luyện nhưng lối chơi rất cá nhân, muốn độc sáng trên sân cỏ, không chịu phối hợp chặt chẽ với các cầu thủ khác trong đội. Có thể nói sức gợi cảm của cả bài thơ Không Đề rốt cuộc còn ít hơn sức gợi cảm của câu thứ tư khi đứng riêng lẻ. Bài thơ – về mặt tổng thể – thất bại
Ở Texas nơi tôi sinh sống, có loại nhà tiền chế. Mỗi nhà gồm 2 hoặc nhiều mảnh. Khi bạn mua họ dùng xe kéo đến đất của bạn và “nối lại”. Sau đó phủ lên chỗ nối trên nóc vài miếng vải lợp là xong. Loại nhà này cũng đẹp, cũng tiện nghi nhưng vì không bền nên giá rất rẻ so với nhà cố định. Về mặt cấu tứ, theo tôi, Không Đề na ná giống loại nhà tiền chế này. Một thi sĩ nào đó có thể thay hẳn 3 câu đầu bằng 3 câu khác, diễn tả một cuộc chia ly khác, của mối quan hệ tình cảm khác (mẹ con, bà cháu, bạn bè …) và sẽ có một bài thơ khác.
Khi đọc thơ hoặc bình thơ có người “bắt” ngay được những chữ hay, từ đắt, câu độc đáo, hình ảnh nên thơ. Nhận biết được như vậy rất hữu ích cho việc định giá trị bài thơ. Tuy nhiên, cao hơn một bậc, là nhận ra sự gắn kết câu chữ thành một thế trận chặt chẽ có thể tăng sức gợi cảm của bài thơ lên gấp bội.
Trần Mạnh Hảo là một nhà thơ có con mắt thẩm định thơ khá nhạy bén. Tôi khoái cái lối bình thơ của ông ở chỗ khen ra khen, chê ra chê, rõ ràng dứt khoát, chứ không vừa “ấy” vừa run như một số nhà bình thơ khác.
Tuy nhiên, khi cho 2 câu thơ
Anh đi đấy? Anh về đâu?
Cánh buồm nâu … cánh buồm nâu … cánh buồm
là “câu thơ hay nhất để đại diện cho thơ tiền chiến” theo tôi, ông đã khen quá lố và đã hoàn toàn sai lầm. Chưa cần so sánh với những nhà thơ tiền chiến tài hoa khác như Huy Cận, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương … 2 câu thơ trên còn phải đứng sau một số câu thơ hay khác của chính Nguyễn Bính về vẻ đẹp, sức gợi cảm và khả năng phối hợp với những câu thơ khác trong bài để tạo nên cái đẹp tổng thể của bài thơ.
Nguyễn Hưng Quốc là một trí thức khoa bảng, một nhà phê bình văn học tài năng, có tầm nhìn rộng về nhiều lãnh vực liên quan đến văn hóa, văn chương. Ông đã đưa ra những lời khen thật ưu ái đối với Không Đề, nhưng lời khen của ông chừng mực hơn, khôn ngoan hơn.
Do thuộc loại thơ “nhà tiền chế” nên Không Đề chưa đủ tầm cỡ để so sánh với Sông Lấp; ngay cả với một số bài lục bát khác của Nguyễn Bính nó cũng phải đứng sau. Cho nên nếu bảo Không Đề “là một trong những bài thơ hay nhất, hoàn chỉnh nhất của Nguyễn Bính” thì tôi e rằng nó không xứng đáng với lời khen ấy.
Có người bảo tôi “Ông bình thơ mà hơi kiệm lời khen”. Đồng ý là khi bình thơ thì khen dễ hơn chê. Khen nặng tay một tý cũng chả mất lòng ai. Ngược lại, lỡ chê sai hoặc chê quá lời một tý thì người ta sẽ đuổi anh đến hang cùng ngõ tận. Đây là trò chơi nguy hiểm. Nhưng đã chấp nhận chơi thì dám chơi, dám chịu – cứ thẳng lòng, căng ngòi bút. Bởi đâu phải chỉ có người bình thơ đôi co với tác giả mà còn biết bao người đọc khác đứng ngoài, có người cầm hoa, có cả người cầm gậy (vui một tý) chú tâm theo dõi.
Để kết luận xin được nói thêm một điều. Thưởng thức bóng đá xin đừng quá chú tâm vào kỹ thuật cá nhân của cầu thủ mà quên tài năng của huấn luyện viên trong tổ chức đấu pháp toàn đội. Với thơ, đó là cái đẹp tổng thể của bài thơ.
Galveston, Texas 05/2015
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
Nguồn http://t-van.net/?p=22328
Chú Thích:
1/ Đoạn bình này cũng xuất hiện trong bài Tứ Thơ của ông.
Gửi ý kiến của bạn