風急天高猿嘯哀,
渚清沙白鳥飛回。
無邊落木蕭蕭下,
不盡長江滾滾來。
萬里悲秋常作客,
百年多病獨登臺。
艱難苦恨繁霜鬢,
潦倒新停濁酒杯
Đăng Cao
Phong cấp thiên cao viên khiếu ai,
Chử thanh sa bạch điểu phi hồi.
Vô biên lạc diệp tiêu tiêu hạ,
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
Vạn lý bi thu thường tác khách,
Bách niên đa bệnh độc đăng đài.
Gian nan khổ hận phồn sương mấn,
Lao đảo tân đình trọc tửu bôi.
Đỗ Phủ
Dịch nghĩa:
Lên Cao
Gió thổi trời cao tiếng vượn rầu rĩ
Bến nước trong cát trắng chim lượn vòng
Ngàn cây bát ngát lá rụng xào xạc
Dòng sông dài dằng dặc nước cuộn trôi
Muôn dặm thu buồn xót thân nơi đất khách
Suốt đời quặt quẹo một mình lên ngắm trên đài
Gian khổ uất hận mái tóc pha sương
Lận đận vì mang nhiều bịnh nên ngưng uống rượu đục
Dịch thơ :
Lên Cao
Gió mạnh trời cao vượn rúc sầu
Bến trong cát trắng lượn đàn âu
Lào rào lá rụng cây ai đếm
Cuồn cuộn sông dài bước đến đâu
Muôn dặm quê người thân não cảnh
Một thân già yéu bước lên lầu
Khó khan ngao ngán bao là nỗi
Rượu uống không ngon chóng bạc đầu
Tản Đà
Lên Cao
Gió lộng trời cao vuợn nỉ non
Bến trong cát trắng chim chờn vờn
Rào rào lá uá bao la rụng.
Cuộn cuộn sông dài bát ngát tuôn
Thu đến bi than ngàn dặm nhớ
Lầu lên bệnh hoạn một thân buồn
Gian nan dầu dãi pha sương trắng
Ương yếu nhì nhằng ngưng rượu suông
Nguyễn Minh Thanh dịch
Đỗ Phủ ( 712 - 770 ): nhà thơ Trung Quốc đời Đường, cùng thời với Lý Bạch. Thơ Ô. gắn liền với thời cuộc, với sự thống khổ của dân lành trong thời tao loạn. Ông đã cùng sống cùng chịu khổ như họ, nên có được những cảm thông sâu sắc , những bài: Bành Nha Hành, Tân Hôn Biệt...Người đời sau mệnh danh Ông là Thi Sử & Thi Thánh.
Bài thơ Đăng Cao ( Cửu Nhật Đăng Cao ), tức là bài thơ làm nhằm ngày 9 tháng 9 âm lịch, tiết Trùng Cửu.là một trong những bài thơ hay nhứt của tiên sinh. Chỗ độc đáo của bài Đăng Cao là 4 cặp đều đối nhau rất tài tình và tự nhiên làm cho người đọc rất thích thú. Trên đây, hậu sinh cố gắng dịch 4 cặp đối nhau theo nguyên tác, nhưng không được chỉnh .
Nguyễn Minh Thanh dịch, soạn
Gửi ý kiến của bạn