BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73504)
(Xem: 62250)
(Xem: 39444)
(Xem: 31185)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Thư ngỏ gởi Tổng bí thư Giang Trạch Dân

20 Tháng Hai 200212:00 SA(Xem: 1023)
Thư ngỏ gởi Tổng bí thư Giang Trạch Dân
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00
TP HCM, ngày 20-02-02

Thưa đồng chí kính mến,

Với truyền thống hiếu khách, người Việt Nam chúng tôi bao giờ cũng hồ hởi và trân trọng đón khách, nhất là với những vị thượng khách quốc gia như đồng chí, vị Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa láng giềng vĩ đại. Nhưng lần này khi nhận được tin đồng chí sang thăm chúng tôi không vui mà cảm thấy lòng hết sức băn khoăn. Vì vậy, tôi, Trần Khuê, một người làm công tác nghiên cứu văn hóa và với tư cách một công dân kiêm chủ nhân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mạn phép trình bày nỗi băn khoăn của mình, mong đồng chí đọc và vui lòng cho biết ý kiến.

Nhớ lại trong thế kỷ trước, mối tình hữu nghị ''vừa là đồng chí vừa là anh em'' giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông dày công vun đắp đã không ngừng nở hoa và kết quả, chúng tôi vẫn không khỏi bồi hồi xúc động. Chúng tôi biết ơn sự giúp đỡ khảng khái và hào hiệp của Đảng, Chính phủ và Nhân dân Trung Quôc đối với sự nghiệp đấu tranh cho độc lập và tự do của Việt Nam. Nếu chúng tôi không nhớ nhầm thì trong dịp tiếp một đoàn đại biểu cao cấp của Việt Nam do Hồ Chủ tịch dẫn đầu, Mao Chủ tịch đã thay mặt Nhân dân Trung Quốc xin lỗi Nhân dân Việt Nam về những lỗi lầm và tai họa mà các triều đại phong kiến Trung Quốc đã gây ra cho Nhân dân Việt Nam trong quá khứ. Người còn đề nghị và tự tay mình bút phê sửa lại tên cho cửa ải biên giới Việt -Trung, đổi ba chữ ''Trấn Nam Quan'' thành ''Mục Nam Quan'', nghĩa là biến đổi cái ''cửa ải đè ép phương Nam'' thành ''cửa ải hòa thuận với phương Nam''. Tấm lòng ưu ái và mối tình hữu nghị thắm thiết ấy, được lịch sử ghi nhận và nhân dân Việt Nam đời đời trân trọng.

Nhân dân lao động Việt Nam cũng như nhân dân lao động Trung Quốc và nhân dân lao động toàn thế giới, trong lịch sử, hiện tại và tương lai đều chỉ mong được an cư lạc nghiệp. Mọi cuộc nội chiến hay ngoại xâm chẳng qua chỉ là do các tầng lớp thống trị gây ra nhằm phục vụ cho những tham vọng ích kỷ của dòng họ mình hoặc giai cấp mình. Nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc mặc dù đã phải trải qua nhiều cuộc chiến kể từ các triều Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh,,, đến nay, nhưng chưa bao giờ họ coi nhau là thù địch. Bằng chứng là những đồng bào Việt Nam chúng tôi khi sang Trung Quốc kiều ngụ, công tác hay du lịch,,, đều được nhân dân Trung Quốc đối xử tốt. Hàng triệu Hoa kiều sinh sống tại Việt Nam từ nhiều đời nay vẫn được sống trong bình an và yên tâm sinh cơ lập nghiệp. Bà con người Việt coi anh chị em Hoa kiều như đồng bào thân thiết của mình. Lịch sử chưa hề ghi nhận được một sự mâu thuẫn hay xung đột lớn lao nào giữa bà con người Việt và bà con Hoa kiều. Cả hai đều luôn luôn cùng nhau chung hưởng ngọt bùi và chia sẻ mọi đắng cay. Họ kề vai sát cánh, chung lưng đấu cật, cùng đổ mồ hôi và xương máu để xây dựng và bảo vệ mảnh đất mà họ đang cùng nhau sinh cơ lập nghiệp. Với những anh chị em Hoa kiều đã đấu tranh hy sinh cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất Việt Nam, họ cũng được tôn vinh và thờ cúng như các anh hùng, liệt sĩ Việt Nam. Lịch sử không tìm thấy ở nhân dân Việt Nam đầu óc kỳ thị tôn giáo hay chủng tộc.

Nhân dân Việt Nam có quyền tự hào về lòng nhân ái, lượng khoan dung và đạo lý sống của mình. Dân tộc Việt Nam mong muốn được chung sống thuận hòa với các nước láng giềng và các nước bè bạn khắp hoàn cầu. Dân tộc chúng tôi không mong chiếm đất của ai và cũng không cho phép ai lấn chiếm đất đai của mình. Hàng nghìn năm qua, nhân dân nước chúng tôi đã không ngừng chiến đấu hy sinh để bảo vệ từng tấc đất của Tổ Tiên Ông Bà để lại. Ý chí của dân tộc chúng tôi đã thể hiện rõ trong lời dụ của Hoàng đế Lê Thánh Tông (1441-1497):

''Nay nhận được tờ tấu của viên quan ở An Bang tâu: ''Người nhà Minh sai nhiều binh lính từ Quảng Tây sang, nói phao là sang hội đồng khám địa giới''. Việc này phải sai người dò thám ngay, nếu thấy có ý gì khác, phải lập tức đưa công văn đi các đạo tập hợp binh lính phòng giữ. Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được? Phải kiên quyết tranh luận, không để cho họ lấn dần. Nếu họ không theo, còn có thể sai sứ sang triều đình của họ, biện bạch rõ lẽ phải trái. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất đai của Thái Tổ để lại để làm mồi cho giặc, người ấy sẽ bị trừng trị nặng''.(Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục quyển XXII, tờ 30. Bản dịch của Viện Sử học Hà Nội Tập Một, trang 1121.''

Vừa qua chúng tôi giật mình kinh ngạc khi nghe tin Bộ chính trị Lê Khả Phiêu chỉ thị cho Chính phủ Phan Văn Khải ký với Chính phủ Trung Quốc hai hiệp định biên giới Việt Trung và đã nhượng mất ngót một nghìn ki-lô-met vuông địa giới (?) và ngót một chục nghìn ki-lô-mét vuông hải giới(?). Vì cả hai Đảng và hai Chính phủ đều giữ bí mật nội dung hai bản Hiệp ước này nên không rõ diện tích lãnh địa và lãnh hải mà các đ/c lãnh đạo Trung Quốc vừa lấy thêm của Việt Nam cụ thể chính xác là bao nhiêu. Tháng 8-2001, chúng tôi có tổ chức một đoàn lên khảo sát thực địa ở Lạng Sơn thì quả thật đã thấy ở cây số 0 nằm trên vạch biên giới Việt Trung không còn nhìn thấy Mục Nam Quan nữa. Phía Trung Quốc đã xây một tòa nhà sừng sững chắn ngang. Rồi người thì nói nó đã nằm sâu trong lãnh thổ Trung Quốc 500 mét, người thì nói 2000 mét. Diện tích đất nhượng người thì bảo mất 500 km2, người thì bảo mất hơn 700km2, có người lại nói mất hẳn 900 km2. Riêng đ/c Lê Thế Nghĩa, nguyên Trưởng ban Biên giới của Chính phủ, thì cho chúng tôi biết Mục Nam Quan hiện nằm cách vạch biên giới là 800 mét và tổng số diện tích địa giới mà Việt Nam phải cắt nhượng cho Trung Quốc chỉ mất 232 km2 (?). Còn vùng hải giới, theo một cán bộ trong Ban biên giới thì tỷ lệ chia lại vùng vịnh Bắc Bộ là: Việt Nam: 53,23%, Trung Quốc: 46,77%. (Theo hiệp ước ký năm 1895 giữa triều Thanh-Trung Quốc và chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam thì tỷ lệ là: Việt Nam: 64%, Trung Quốc: 36%.), như thế có người tính cụ thể Việt Nam mất đứt 112.000km2 lãnh hải.

Trân trọng đề nghị các đ/c công bố công khai nội dung hai bản hiệp định để nhân dân hai nước cũng như nhân dân thế giới đều được tỏ tường chính xác. Tuy nhiên, theo truyền thống văn hóa Việt Nam thì việc cắt đất nhượng cho ngoại bang dù chỉ một cây số vuông cũng là trọng tội, chứ đâu phải tới hàng trăm hay hàng ngàn cây số. Nhớ lại hồi phái đoàn Phan Thanh Giản vâng lệnh hoàng đế Tự Đức ký hiệp ước 1867 nhượng ba tỉnh Nam Kỳ cho thực dân xâm lược Pháp đã bị dư luận nhân dân lên án dữ dội như thế nào: ''Phan, Lâm mãi quốc, Triều đình khí dân'' (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước, còn Triều đinh Huế thì bỏ dân). Và Hoàng đế Tự Đức đã phải làm hẳn một bài thơ giả đò xấu hổ để tránh búa rìu của dư luận, đồng thời hy vọng đánh lừa cả đương thời và hậu thế:

Khí dân Triều trữ cữu,
Mãi quốc thế gian bình,
Sử ngã chung thân điếm
Hà nhan nhập miếu đình.
(Tự Đức - Ngự chế thi tập)


Tạm dịch:

Tội lũ bay: bán nước,
Tội triều đình: bỏ dân,
Khiến đời ta mang nhục,
Mặt nào gặp tiền nhân?
(Trần Khuê dịch)


Lại nhớ khi Ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Văn Hoan, chỉ do mâu thuẫn quan điểm với tập đoàn lãnh đạo Lê Duẩn - Lê Đức Thọ, chạy sang xin cư trú chính trị bên nước bạn Trung Quốc, lập tức đã bị Bộ Chính trị chỉ thị cho Quốc hội kết án tử hình vắng mặt. Mặc dù đến nay, thấy ông chẳng gây ra tác hại gì cụ thể, người ta vẫn chẳng chịu tuyên bố chiêu tuyết và xóa án cho ông. Thử hỏi Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu kỳ này ký hiệp ước nhượng đất, nhượng biển cho ngoại bang thì sẽ nhận được bản án nào đây cho xứng tội?

Rõ ràng Quốc hội Việt Nam có thể giơ tay biểu quyết thông qua những hiệp đinh có lợi cho Dân tộc và Đất nước như Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, chứ không thể muối mặt giơ tay thông qua hai hiệp định bán nước Việt Trung. Nếu cộng sản Việt Nam cả gan biểu quyết thông qua hai bản hiệp định bán nước này thì đúng là phản bội dân tộc và chỉ càng lộ rõ thêm bộ mặt bù nhìn của mình. Còn nhân dân Việt Nam thì dù sống ở trong nước hay hải ngoại, đời nay hay đời sau dứt khoát không bao giờ chấp nhận những hiệp ước nhục nhã ấy.

Việc hai bên ký hai Hiệp định này rõ ràng lợi bất cập hại. Đ/c thử bình tâm nghĩ lại xem. Hai đảng ta đều là đảng Cộng sản, hai nước chúng ta đều là xã hội chủ nghĩa anh em, lại núi liền núi, sông liền sông, môi hở răng lạnh. Đúng như Hồ Chủ tịch kính mến của chúng tôi từng có thơ ca ngợi:

Mối tình hữu nghị Việt Hoa
Vừa là đồng chí, vừa là anh em


Chẳng lẽ tình anh em mà lại nỡ chơi xấu nhau như thế chăng? Đã bao nhiêu thế kỷ nay, phong kiến Trung Quốc đã luôn luôn tìm dịp hà hiếp bắt nạt Việt Nam, lẽ nào xã hội chủ nghĩa Trung Quốc ngày nay lại còn bảo nhau kế thừa truyền thống lấy thịt đè người chăng?

Chẳng lẽ tình đồng chí mà lại nỡ chơi xỏ nhau như thế chăng? Chẳng lẽ Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc lại không thấy rằng lấn thêm một ít lãnh địa, lãnh hải như thế sẽ làm mất mặt Đảng cộng sản anh em mình như thế nào chăng?

Lý do tồn tại của Đảng cộng sản trên đất nước này là để lãnh đạo nhân dân đứng dậy giành độc lập và tự do. Nó không thể tồn tại để quan liêu, tham nhũng, ức hiếp quần chúng hoặc tùy tiện ký nhượng đất đai sông biển của Tổ Quốc. Việc Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu ký hai hiệp ước bât bình đẳng đã làm thiệt hại quyền lợi chung của Dân tộc Việt Nam và làm hại uy tín và thể diện của Đảng cộng sản Việt Nam. Ký hai hiệp ước bất bình đẳng này, vô tình hay hữu ý, những người lãnh đạo Đảng cộng sản và Nhà nước Trung Quốc đã đẩy người anh em đồng chí của mình ra trước vành móng ngựa của Tòa án Nhân dân và Tòa án Lịch sử. Một bên tự vạch áo cho thiên hạ thấy mình là kẻ theo chủ nghĩa sô-vanh nước lớn, còn một bên trở thành kẻ tội đồ bán nước.

Cả hai Đảng vẫn đang hô lớn rằng mình là những người trung thành với chủ nghĩa Mác lại có thể hành xử như thế được sao? Giá như Mác và Ăng-ghen sống lại hẳn cả hai ông đều phải đau buồn và xấu hổ về những đệ tử của mình vàchăc chắn hai ông phải chết thêm một lần nữa. Đúng như đ/c Lý Thụy Hoàn đã nói trước Đảng bộ Thượng Hải: ''Chúng ta chẳng có ai hiểu chủ nghĩa Mác. Chúng ta chỉ lừa dối nhau thôi.''

Nhưng đau nhất vẫn là nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc. Hơn một nửa thế kỷ đi theo Đảng cộng sản, rốt cuộc vẫn là một cuộc sống thiếu tự do và dân chủ, lại còn đeo đẳng những mối hận thù dân tộc. Và còn nhân dân ở Thế giới thứ ba cũng như phần Nhân loại đang quằn quại trong áp bức và đói khổ, họ phải suy nghĩ sao đây về người cộng sản, về chủ nghĩa xã hội, họ còn biết đặt niềm tin và hy vọng vào ai đây?

Liên Xô vĩ đại đã sụp đổ và tan rã một cách đau đớn chẳng lẽ lại chưa thức tỉnh chúng ta hay sao, không mang lại cho chúng ta một bài học kinh nghiệm nào chăng? Về nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô, mỗi nơi nói một phách. Nhưng theo sự nghiên cứu riêng của chúng tôi, một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự sụp đổ đó nằm trong Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô. Cái Điều 6 này đã đặt Đảng cộng sản vào vị thế siêu quyền lực, trên cả Nhân dân, Quốc hội và Luật pháp, không chịu một sự giám sát, kiểm sát nào cả. Nó dẫn Đảng cộng sản đến tình trạng độc tài chuyên chế, suy thoái và sụp đổ không thể nào cứu vãn nổi.

Sau khi Bộ Chính trị Lê Duẩn cho sao chép Điều 6 của Hiến Pháp Liên Xô thành Điều 4 của Hiến Pháp Việt Nam, nhiều người đã khuyến cáo nên bỏ đi vì nó gây ra quá nhiều tai họa, mà một trong những tai họa đó là tham nhũng tràn lan thành quốc nạn. Nay lại thêm một tai họa tày trời nữa là việc ký hiệp ước dâng đất, dâng biển cho các đồng chí. Nếu không có Điều 4, không tự coi mình là lực lượng đứng trên cả Nhân dân, Quốc hội và Luật pháp, thử hỏi Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu có dám tùy tiện ký những hiệp ước bán nước như vậy không, dù cho có sức ép của Ban cố vấn hoặc sức ép từ phía các đồng chí. Đáng lẽ Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu phải hỏi ý kiến Quốc hội hoặc trưng cầu ý kiến của Nhân dân chứ? Mà nếu đã biết dựa vào sức mạnh của Nhân dân thử hỏi ai ép nổi họ mắc sai lầm và phạm tội trầm trọng đến mức đó.

Vừa qua, sự bất bình chính đáng của các vị lão thành cách mạng và tướng lĩnh hưu trí cũng như làn sóng phản đối của đồng bào trong nước và kiều bào hải ngoại trước tội ác trời không dung, đất không tha này chứng tỏ bản lĩnh chính trị và sức mạnh tinh thần của nhân dân Việt Nam vẫn thường trực sống động và mãnh liệt nhường nào! Nếu nhân dân Trung Quốc lương thiện hiểu rõ chuyện sai trái tội lỗi này chắc cũng bất bình chẳng khác gì nhân dân Việt Nam. Các đ/c cứ thử cắt một phần đất biên giới của Trung Quốc nhượng cho ngoại bang xem nhân dân Trung Quốc sẽ phản ứng ra sao. Và với lương tri của mình, liệu Việt Nam có thể làm ngơ không lên tiếng ủng hộ nhân dân Trung Quốc anh em của mình được chăng?

Ôi, mấy nước xã hội chủ nghĩa còn lại, bây giờ lại cần lấn chiếm đất đai của nhau, bắt nạt, ức hiếp nhau để chứng tỏ tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và tinh thần Quốc tế xã hội chủ nghĩa hay sao? Đúng là ta đang làm trò cười cho thế giới tư bản chủ nghĩa và cho con cháu đời sau.

Tất nhiên, những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam và Trung Quốc cứ có thể quên đi mọi thứ tình nghĩa. Nhưng chẳng lẽ lại không còn ai lưu tâm tới khía cạnh pháp lý của vấn đề? Chúng tôi nghĩ rằng cả hai Đảng và hai Nhà nước chúng ta nên ngồi lại thảo luận để đi tới những thỏa thuận mới về địa giới và hải giới phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của cả hai dân tộc Việt- Trung. Nếu không, nhân dân Việt Nam chúng tôi lại phải nhờ đến Liên Hiệp Quốc làm trọng tài phân xử. Hoặc phải nhờ đến một Tòa án quốc tế phán quyết. Vì nhiều luật gia Việt Nam và quốc tế quan tâm nghiên cứu những hiệp ước bất bình đẳng này cũng đang lần lượt lên tiếng trên các diễn đàn và các cơ quan ngôn luận. Hy vong chúng ta có thể thu xếp ổn thỏa với nhau để khỏi phải làm phiền đến Công pháp quốc tế. Chúng tôi cũng sẽ có một bức thư gửi đến Luật sư Chủ tịch Fidel Castro để đề nghị đồng chí ấy, với tư cách người đứng đầu một nhà nước xã hội chủ nghĩa rất sành sỏi về luật pháp quốc tế, lên tiếng về vấn đề nan giải này.

Thư bất tận ngôn. Chúng tôi kính gửi tới đồng chí lời chào trân trọng và lời chúc sức khỏe. Rất mong nhận được những ý kiến chỉ giáo của đồng chí.

Kính thư
Trần Khuê

Địa chỉ liên lạc:
Trần Khuê
296 Nguyễn Trãi Q.5
TP Hồ Chí Minh - Việt Nam
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn