BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73466)
(Xem: 62247)
(Xem: 39438)
(Xem: 31182)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Tâm-thư gửi đồng-bào tôi: 13 Hồ-sơ Lịch-sử

25 Tháng Hai 200612:00 SA(Xem: 1109)
Tâm-thư gửi đồng-bào tôi: 13 Hồ-sơ Lịch-sử
53Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
53
Tâm-thư này, tôi đã có ý viết từ hồi mùa hè 2005, khi còn có thói vào mạng lưới www để xem báo tiếng Việt ở các nơi. Hồi đó, các cơ-quan thông-tin điện-tử ăn khách đều có bài về nỗ-lực lập hai đài tưởng-niệm những đồng-bào đã bỏ mình trên đường đi tìm Tự-do. Hôm 30 Tháng Tư trước đó, cũng có tin nhiều toán cựu thuyền-nhân đã ghé đảo Galang và cù-lao Bidong, làm một chuyến hành hương về chốn tạm-dung cũ—cũng là nơi nhiều người đã mắc kẹt cả mấy năm trường nên có thì giờ suy-ngẫm về tình-hình trong nước và thân-phận con người.

Hôm đó, tôi ở tận Úc-đại-lợi, "vùng đất phúc-lợi không đâu bằng" (the Lucky Country), mà cũng cảm thấy ngậm ngùi, buột miệng đọc hai câu thơ đầy cay đắng mà thấm thía của Ôn-như Hầu:
Phong-trần đến cả sơn khê
Tang-thương đến cả hoa kia, cỏ này.

Chuyện đài kỷ-niệm thuyền-nhân vô-danh đơn-giản chỉ có vậy. Ấy thế mà hồi trung-tuần Tháng Sáu, tờ Bưu-báo ở Jakarta đã có bài nói Cộng-hòa Xã-hội Chủ-nghĩa Việt-nam (CXCV) áp lực nhà cầm quyền Nam-dương đẽo bỏ Đài Tưởng-niệm Galang. Như báo này tiết-lộ thì Hà-nội "cho rằng hàng chữ nổi trên đài có lời lẽ xúc-phạm thanh-danh chế-độ CXCV." Mấy tháng sau, chính-quyền Kuala Lumpur cũng lại nhượng-bộ Hà-nội và cho lịnh dẹp bỏ Đài Bidong. Trong công-hàm trao đổi với Mã-lai-á, quan-chức chế-độ Cộng-sản cũng kêu là CXCV đã bị bôi nhọ.

Một nơi tưởng nhớ đồng bào nơi xứ người cũng không yên với CSVN


Nhưng thử hỏi thuyền-nhân đã viết gì mà các vị phải nổi giận đến thế? Ở Galang, Ủy-ban Xây Dựng Đài Tưởng-niệm chỉ đã viết thuyền-nhân muốn có chỗ hàng năm làm lễ "cầu an cho hương-hồn cả trăm ngàn người đã bỏ mình trên đường đi tìm Tự-do..." và ở Bidong, là nơi riêng trong năm đầu đã tiếp-nhận 58,000 thành-phần tỵ-nạn, Ủy-ban chỉ viết muốn "ghi ơn nhân-dân Mã-lai-á đã mở lòng nhân-từ như hải hà đùm bọc hàng chục vạn người dưng nước lã lúc cùng đường mạt lộ."

Sự thực thì phản-ứng của Hà-nội đã không hề làm cho giới thuyền-nhân ngạc-nhiên chút nào. Người Việt chúng ta thì dù còn ở trong nước hay đã ra hải-ngoại, đều biết tập-đoàn này đã quen tật gian dối—nói dối mà không cả ngượng miệng—chỉ cốt giữ độc-quyền yêu nước, độc-quyền lẽ phải, độc-tài chuyên-chế vạn tuế cầm quyền.

Chẳng thế mà hai năm trước khi Trung-tướng Trần Độ từ-giã cõi đời, nhân-vật đã có thời chủ-trì Ban Văn-hóa Văn-nghệ Trung-ương, đã ghi ở trang 42 cuốn NHẬT-KÝ RỒNG RẮN:
Nói thì dân-chủ, vì dân mà làm thì chuyên-chính, Phát-xít... Chế-độ này bắt mọi người phải đóng trò, bắt trẻ con phải đóng trò, bắt người già phải đóng trò... (Họ đã) hình thành một xã-hội dối lừa: lãnh-đạo dối lừa, Đảng dối lừa, cán-bộ dối lừa, làm ăn giả dối, giáo-dục giả dối, bằng cấp giả dối, đến gia-đình cũng lừa dối, lễ hội lừa dối, tung hô lừa dối...

Vụ Hà-nội đòi Jakarta và Kuala Lumpur phải đục bỏ đài kỷ-niệm thuyền-nhân vô-danh chỉ đã xác-quyết những lời trối trăng của Tướng Trần Độ nhưng theo ngu ý thì tình-hình nước ta còn tệ hại hơn thế nữa!

Thực vậy, tuy Chính-phủ Hà-nội lúc nào cũng leo lẻo cái miệng họ làm việc nước là nhân-danh mọi thành-phần xã-hội—trong đó Việt-kiều hải-ngoại cũng được kể là một—đất nước ta hiện nay đang bị phân-hóa rã rời: trong hàng-ngũ dân-tộc, sự chia rẽ thật là rõ rệt giữa khối đảng-viên Đảng Cộng-sản Việt-nam (ĐCV) và những người ngoài đảng, giữa thiểu-số cầm quyền miệng thét ra lửa và quần chúng lê-dân thấp cổ bé miệng, kẻ giàu thì giàu nứt đố đổ vách và người nghèo thì nghèo đến rớt mồng tơi, người Bắc và người Nam, dân thành-thị và người nhà quê, giới vô-thần và dân có đạo, người Kinh và người Thượng, dân trong nước và Việt-kiều hải-ngoại... Ngay trong hàng-ngũ cán-bộ đảng-viên, giới thạo tin cũng biết ông nào bà nào ngày ngày ngồi xổm trên luật-pháp và những thành-phần cắc-ké đụng tới luật-lệ là chỉ có nước sưng trán u đầu...

Tình-hình trong nước không phải bỗng dưng mà thê thảm như thế. Hiện-tình nát bấy ở đất tổ là hậu-quả của sách-lược Chia Để Trị mà ĐCV đã cấy trong những chiến-dịch đấu-tranh hận-thù cao ngất. Chỉ riêng ở đồng-bằng sông Hồng, vụ Cải-cách Ruộng Đất và trò đấu-tố đi kèm đã làm cho 172.008 người bất đắc kỳ tử [1] và nửa triệu người khác chết chùm theo thì thử hỏi đến bao giờ nông-thôn mới trở lại cuộc sống bình-thường chan chứa tình bà con láng giềng thủa trước. Tiếng than thời-lưu "bao giờ cho đến ngày xưa" chỉ có nghĩa là thế! Chỉ xin đan-cử thêm một tỷ-dụ: từ ngày tệ ăn tiền có kích-thước một quốc-sỉ, nhà cầm quyền đã ban-bố bao nhiêu là pháp-lịnh, nghị-quyết, nghị-định, thông-tư nhằm tiễu-trừ tham-nhũng nhưng những văn-bản này có làm cho họa kia suy suyển đi chút nào hay không? Thưa không! Như một thứ thiên-văn hắc-khổng (black hole), nó đã ngốn, đã nghiến tất cả những ai, những gì khi không đã xích lại gần nó, nên bị nó nuốt chửng đến cái ực!

Nhưng như cha ông ta vẫn thường nhắc nhở con cháu, "quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách". Vậy thì chúng ta có thể làm gì trong lúc này? Ngay trong hiện-tại, có lẽ mỗi người chúng ta phải có nỗ-lực suy-tư về tình-hình tối mù trong xứ—mà suy-tư một cách độc-lập mà can-đảm, chân-thực mà rộng lượng nhưng phải sòng phẳng với cả người lẫn ta. Khi nghĩ về họa tham-nhũng, chẳng hạn, có lẽ ai nấy nên tự-nhủ chính mình phải "làm một cái gì" đi chứ! Thực vậy, nếu gặp một toán Cảnh-sát Giao-thông đòi ăn tiền mãi-lộ (như trong truyện "Chị Cả Bống" của Phạm Lưu Vũ) mà ai nấy đều cương-quyết từ-khước thì có lẽ tệ-nạn này cũng bớt đi phần nào chăng?

Nếu một ngày đẹp trời nào đó, dân mình ai cũng nhất-quyết đòi lại quyền làm người thì ngay một chế-độ độc-tài toàn-trị đã giữ quyền sinh sát cả sáu chục năm liền cũng có lúc phải chào thua là cái chắc. Ta hãy thử nhìn lại những bước dân-chủ-hóa ban đầu ở mấy nước Đông Âu thì đủ rõ.

Thực vậy, Công-đoàn Đoàn-kết Ba-lan, phong-trào đập phá Bức Tường "Ô Nhục" ở Bá-linh, vụ Cách-mạng Nhung ở Tiệp-khắc, và mới cách đây hơn một năm, cuộc Cách-mạng màu Da Cam tại Ô-khắc-lan (Ukraina) đều là những hiện-tượng chính-trị không phải ngày một ngày hai mà có được. Những hiện-tượng đó đều đã bắt đầu với một hai hành-vi phản-đối nhè nhẹ. Ở Ba-lan, có lẽ nó chỉ là quyết-định xuống đường của một hai trăm công-nhân ụ đóng tàu ở Gdansk, đòi tăng khẩu-phần ăn khi phải làm việc nặng nhọc. Tuy nhiên, nếu những hiện-tượng phản-đối lẻ tẻ đó đi vào nền nếp thì chúng có cơ chuyển mình thành những phong-trào quần-chúng qui-tụ được muôn vạn người lúc nào không biết. Nói tóm lại, lấy riêng từng vụ việc mà xét thì ngay những hoạt-động bước đầu của Công-đoàn Đoàn-kết cũng chẳng có mấy ý nghĩa lâu dài nhưng đến một lúc nào đó, chúng làm như có khả-năng xúc-tác, biến nhân-tâm thành một trận cuồng-phong tâm-lý không bạo chúa nào có thể cưỡng nổi: yếu-tố quyết-định Mạnh Kha gọi là "thiên-thời, địa-lợi, nhân-hòa" chỉ là thế!

Trong trường-hợp Việt-nam, yếu-tố này ra vẻ vẫn còn vắng bóng. Như thế là tại làm sao?

Như thế là tại vì chúng ta quá lơ là chuyện chính-trị, chúng ta làm như muốn khoán trắng cho đảng cầm quyền việc kinh bang tế thế, chúng ta biết quá ít về những biến-chuyển lớn trong thời cận-kim, những chuyện còn đủ gần với chúng ta để có thể làm chúng ta thắc mắc, để lương-tâm chúng ta còn bị cắn dứt và thúc đẩy quảng-đại quần-chúng có phản-ứng mạnh dạn.

Khi nói thế, tôi đặc-biệt có ý muốn trình đồng-bào về 13 hồ-sơ lịch-sử sau đây:
1 Vụ Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh, bán nhà cách-mạng và tư-tưởng Phan Bội Châu cho Mật-vụ Pháp năm 1925, lấy một món tiền thưởng khổng-lồ, và chính-sách của ĐCV đối với tập-thể trí-thức trong và ngoài nước, nhất là vụ Nhân-văn - Giai-phẩm dưới thời Việt-nam Dân-chủ Cộng-hòa (VDC) và lịnh đốt sách cấm nhạc Miền Nam ngay sau khi họ chiến-thắng năm 1975 và khi mới thành-lập chế-độ CXCV;

2 Những chiến-dịch ám-sát đại-qui-mô ĐCV đã phát-động suốt hai phần ba thế-kỷ, mục-đích chỉ là để thủ-tiêu các thành-phần quốc-gia—mà tiêu-biểu nhất là Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Trần Khánh Giư, Tạ Thu Thâu, Lý Đông A, Huỳnh Phú Sổ, Vũ Nhất Huy, Lê Hữu Bôi, Nguyễn Văn Bông, Trần Văn Văn... Riêng năm 1945 và chỉ ở Quảng-ngãi mà thôi, 2.791 tín-đồ Cao-đài đã bị Việt Minh đồ-sát, không để lại tăm tích gì;

3 Chính-sách tôn-giáo ĐCV đã đeo đuổi từ khi lập đảng—xem đạo nào cũng tệ hại như thuốc phiện nên chùa chiền, nhà thờ, miếu-đường đều phải đập phá, mọi giá-trị tinh-thần đều phải tiêu-diệt. Sách-lược bài-tôn đó đã đi ngược tất cả những khái-niệm truyền-thống ta xem là linh-thiêng, kể cả "hồn thiêng sông núi," nên trong bãi sa-mạc đạo-đức đã làm cho lương-tri, trí-tuệ và hồn-phách Việt-nam khô héo từ một Hoa-giáp nay, nỗ-lực võ-trang tinh-thần để bài-trừ tham-nhũng nào cũng đổ vỡ;

4 Những đợt thanh-trừng hàng-ngũ Kháng-chiến-quân không có chân trong ĐCV, ngụy-trang dưới những mỹ-từ như Chỉnh Phong, Chỉnh Huấn, Chỉnh Quân (1952-53);

5 Số nạn-nhân các chiến-dịch đánh địa-chủ, đánh tư-bản tư-doanh—tên chính-thức gọi là Cải-cách Ruộng Đất, Cải-tạo Công - Thương-nghiệp—nhất là vụ sát-lục tập-thể ở nông-thôn Miền Bắc mấy năm 1953-56: trong đại họa này, 5,6% dân-số đã bị chôn sống, bỏ giọ trôi sông, đánh đập trí mạng... nên nhiều người đã "xin" được bắn một viên đạn vào đầu;

6 Quyết-định của Hồ Chí Minh trở lại phương-thức đấu-tranh võ-trang vào đầu 1959, tức là có bốn năm sau khi Chiến-tranh Việt-nam I kết thúc và vào lúc nhân-tâm còn xao xuyến cùng cực vì những vụ đấu-tố trong kỳ Cải-cách Ruộng Đất và vụ Nhân-văn - Giai-phẩm;

7 Số người bị lùa vào trại cải-tạo tập-trung trong kỳ Chiến-tranh Việt-nam I, hồi Hồ Chí Minh mới phát-động Chiến-tranh Giải-phóng Miền Nam (ở Miền Bắc), và sau khi chiến-tranh Việt-nam II chấm dứt (ở Miền Nam);

8 Thái-độ khinh rẻ nhân-mệnh—không cả bằng con run con dế—nhất là qua những con số thương-vong của Quân-đội Nhân-dân Việt-nam (QNV) suốt 30 năm khói lửa; chỉ cần biết là riêng trong ba tháng đầu Chiến-dịch Hồ Chí Minh, tức là cuộc Tổng Tấn-công Tết Mậu Thân (1968), Võ Nguyên Giáp đã nhìn nhận với nhà báo Ý Oriana Fallaci là QNV của ông bị thiệt-hại 500,000 người thì đủ hiểu;

9 Ai đã ra lịnh cho QNV sát-phạt dân-chúng như họ đã tru-lục nhân-dân Huế trong 28 ngày chiếm đóng cố-đô năm 1968 và vì lẽ gì mà trong lúc dân-chúng đã bỏ chạy—như trên Quốc-lộ 1 trong kỳ Mùa Hè Đỏ Lửa (1972) và ở Đường số 7 trong cuộc triệt-thoái rút bỏ Cao-nguyên (1975)—mà họ vẫn pháo như mưa, khiến cho cả ngàn người chết không toàn thây;

10 Số-phận hẩm hiu của cả mấy triệu người bị đuổi đi Kinh-tế Mới, nhất là con số những người đã bỏ mạng ở các vùng rừng thiêng nước độc;

11 Chiến-dịch đánh tư-sản và bài-Hoa ĐCV phát-động hồi cuối thập-niên 1970, khiến kinh-tế quốc-gia kiệt quệ mà vẫn không làm cho nhóm Lê Duẩn nghĩ lại nên cả triệu người bị trục-xuất ra bể và cả trăm ngàn người phải chết trong bụng cá. Tổng-uỷ Tỵ-nạn L.H.Q. đã ước tính tới một phần ba người vượt biển đã chết và cả ngàn phụ nữ bị bắt vào các động mại dâm;

12 Sự hiện-diện của hơn 320.000 lính Trung Cộng—chính-danh là Quân-đội Giải-phóng Nhân-dân Trung-quốc (QGNT)—ở Miền Bắc từ 1965 đến 1973, những việc họ đã làm suốt tám năm dài, và lý-do tại sao chính-quyền Hà-nội đã không hề đả động gì đến chuyện này;

13 Những con số viện-trợ khổng-lồ của Mạc-tư-khoa và Bắc-kinh dành cho Hà-nội, thực-tế đã biến QNV thành một đoàn lính đánh thuê; thực vậy, không có sự viện-trợ đó—suốt cả 15 năm Chiến-tranh Việt-nam II, luôn luôn lên đến hai phần ba ngân-sách quốc-gia—thì không làm sao Hà-nội có thể tiến-hành chiến-dịch xâm-lăng Miền Nam được.

Mười ba hồ-sơ vừa phác-họa không phải là tất cả những việc đại gian đại ác lịch-sử có thể gán cho họ Hồ và cấp lãnh-đạo ĐCV nhưng ngay từ bây giờ, chúng ta không thể để cho họ vừa ăn cướp vừa la làng và nhờ thế, che đậy một sự thực ai cũng đã ngờ ngợ nhưng chưa cầm chắc: chủ-nghĩa Cộng-sản chính là sợi chỉ suyên suốt, cái mẫu-số chung của tất cả các chính-sách phi nhân, hại nước. Nói như các thám-tử đời nay thì "cái lăn tay di-tử" (DNA fingerprint) nối-kết những hành-vi phạm-pháp chỉ có thể là chủ-nghĩa Mác - Lê vì mỗi hồ-sơ tội ác kia đều có liên-hệ với 12 cái còn lại và tổng-hợp tạo nên một thiên trường-hận-ca đầy máu và nước mắt chưa một lần được đề-cập một cách sòng phẳng trên căn-bản dân-sinh, dân-quyền [2] trong mấy vạn bộ sách xuất-bản suốt 60 năm qua.

Cộng-sản thì ở đâu cũng ngoan-cố mà Cộng-sản Việt-nam thì còn dính chất phong-kiến, gia-đình-trị nên còn ngoan-cố gấp bội! Vì thế mà ngay khi bị bắt quả tang, mấy ông mấy bà trong ĐCV cũng cứ cãi chầy cãi cối... mà khi không còn cách nào khác thì họ vẫn cứ chối bai bải.[3] Thái-độ "ba không" người Cộng-sản Việt-nam thường bày tỏ khi bị kẹt, không biết phải ăn nói ra sao—không biết, không nghe, không thấy—thực quả không khác gì cái im lặng đầy ngoan-cố của Đảng Mafia Ý. Đã đến lúc người Việt mình, trăm người như một, phải bắt tay nhau lật mặt nạ bọn Ác-đảng thì tập-đoàn này mới có ngày bị lòi chân-tướng. Như triết-gia Anh Francis Bacon đã nói từ Thế-kỷ XVII, scientia postestas est, "kiến-thức là sức mạnh", có hiểu biết thì mới chế-ngự được bạo-quyền. Hình như Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã có lần phán: "Khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ biết mới sống!" Ta có biết thì mới không để cho bọn chính-trị ma-đầu lừa bịp, làm điều bất-nhân bất-nghĩa mà vẫn muốn được ca-ngợi là yêu nước, thương nòi. Cũng chỉ vì thế mà ĐCV đã tìm đủ mọi cách giữ riệt nhân-dân ta trong vòng u u minh minh, không biết tý ty gì về những chương sử đầy tang tóc của dân-tộc và, do đó, dễ tin những lời đường mật ba xu của bọn phù-thủy chính-trị dưới trướng họ Hồ.

Nhưng từ khi tham-nhũng nhập vào xương-tủy chế-độ[4] thì ĐCV đã để lộ chân-tướng độc địa, và nay đã đến lúc con dân Việt-nam chúng ta phải có phản-ứng. Như tôi cũng trộm nghĩ thì ta chỉ có thể bắt đầu nỗ-lực cứu mình, cứu người bằng cách vén tấm màn bí-mật đã bao che những hành-vi bỉ-ổi của một tập-đoàn cường-quyền số một trong lịch-sử.

Nhưng ngay trong lúc này, giấy tờ, hồ-sơ gì thì cũng còn bị xem là bí-mật quốc-gia nên chưa ai có thể vào các trung-tâm văn-khố nghiên-cứu những vấn-đề làm ta thắc mắc. Do đó, người mình ai cũng có bổn-phận tìm hiểu về những chuyện đã xẩy ra cho thân-nhân bè bạn và từ đó, nói lên tất cả những chi-tiết mình phát-hiện được cho mọi người cùng biết. Ai có cha mẹ, anh em, bà con bị oan khiên điều gì, ta cũng phải tìm cho ra hết lẽ, rồi viết chuyện đó lên giấy trắng mực đen, đóng góp vào 13 Hồ-sơ Lịch-sử có ngày giúp ta đánh giá vai trò đích-thực của ĐCV trong lịch-sử hiện-đại.

Khi viết mấy dòng này, tôi đặc-biệt nghĩ đến các thành-phần đã bỏ Đảng, kể cả những người đã ra nước ngoài hay còn ở trong nước. Chẳng hạn, tôi muốn hỏi cựu Đại-tá Bùi Tín, tác-giả cuốn HOA XUYÊN TUYẾT và cũng là một chứng-nhân lịch-sử có hạng, tại sao ông chưa nói gì về sự hiện-diện của hàng mấy trăm ngàn binh-sĩ Trung Cộng ở Miền Bắc từ 1965 đến 1973. Không biết là trong tương-lai, họ Bùi có sẽ đả động gì đến những việc lính Trung Cộng đã làm ở Việt-nam suốt tám năm thiên địa phong trần đó hay không, nhưng ngay từ khi biết ít nhiều về vụ này, ta cũng phải hiểu Bắc-kinh đã gửi ngần ấy bộ-đội sang nước ta không phải là để cho họ đi nghỉ hè ở một xứ quanh năm nắng ấm. Bắc-kinh làm vậy chỉ là để giúp Bộ Tư-lịnh Hà-nội được rảnh tay phái hai mươi mấy sư-đoàn vào chiến-trường Miền Nam.

Chính vì thế mà tôi phải thắc mắc không biết Bùi tiên-sinh và các vị ly-khai còn kẹt ở bên nhà hiện đã hoàn toàn chọn nếp sống, nếp nghĩ dân-chủ tự-do hay chưa hay là các vị vẫn còn ở trong giai-đoạn chống đối một vài bộ mặt cầm quyền chứ trong lòng thì còn lưu-luyến "Tư-tưởng Hồ Chí Minh"! Tôi cũng thắc mắc không biết các vị đã thực sự lột xác, gột bỏ hẳn lối tư-duy cũ, xem dân Miền Nam, chỉ vì đã lựa đứng liên-minh với Hoa-kỳ, là đã chọn kiếp làm "chó săn Đế-quốc", chứ còn chính các vị, thì tuy đã ngửa tay nhận viện-trợ đại-qui-mô của Trung-quốc và Liên Xô, lại vẫn là những người yêu nước trung-trinh, đã không làm gì có thể chê trách!

Tôi lại còn thắc mắc không biết trong số các vị, có còn ai vẫn tin là khi cố Tổng-thống Ngô Đình Diệm đưa Tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh, tự Ba Cụt, lên đoạn đầu đài thì họ Ngô đã chứng-tỏ bản-chất khát máu đủ rõ nét để họ Hồ có cớ phát-động cuộc chiến-tranh "giải-phóng Miền Nam"?

Hơn nữa, phải chăng vẫn còn một số vị trong thâm tâm còn nghĩ là họ Hồ, mới vài ba năm sau khi cho lịnh chém giết mấy trăm ngàn đồng-bào trong vụ Cải-cách Ruộng Đất, lại có lý-do chính-đáng để đẩy đất nước vào một cuộc binh biến trường-kỳ làm cả triệu dân mình thương vong mà vẫn còn đáng được nhân-dân kính mộ và tri ân?

Đã đành là tôi còn vô số thắc mắc khác nữa nhưng trong thư này, chỉ xin hỏi một điều chót:

Tôi không biết các vị nghĩ sao nhưng cách đây ba chục năm, nếu cặp Lê Duẩn - Lê Đức Thọ không quá duy-ý-chí ra lịnh cho nhân-dân cả nước phải cố "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã-hội chủ-nghĩa"—bè lũ hai tên họ Lê làm thế nên đã đẩy CXCV đến chỗ suýt vỡ nợ, mấy mươi triệu nhân dân ta trường kỳ không có cơm ăn, áo mặc—thì có vị nào còn ủng-hộ một chế-độ đã gieo rắc đau thương triền miên cho hàng triệu con người, buộc bao nhiêu triệu đồng-bào ta phải sống cơ cực, lầm than suốt hai ba thế-hệ! Xin các vị hãy đốt nén hương lòng rồi thành-khẩn tự trả lời câu hỏi đó xong thì hãy đọc tiếp lá thư này.

Được cái hồi gần đây, khi đọc mấy kiến-nghị người dân trong nước gửi Ban Chấp-hành Trung-ương Đảng Cộng-sản Việt-nam (BCTư/ĐCV) để chuẩn-bị kỳ Đại-hội X tới, tôi đã có cảm-tưởng như vừa thoáng thấy một vài dấu hiệu hơi đáng khích-lệ. Đáng nói nhất là trường-hợp Đại-tá Đặng Văn Việt—nên tôi xin phép được "đối-thoại" với ông như một trường-hợp điển-hình chứ không có ý soi mói gì hết.

Vậy thì Đặng Văn Việt là ai? Gia-thế như thế nào? Học-vấn, tính tình, con người ra sao?

Là con trai vị Tham-tri Bộ Hình cuối cùng của Triều Nguyễn, năm 1945, cậu Việt còn đang học Trường Đại-học Y-khoa Hà-nội thì Nhật đảo-chính Pháp; hai ngày sau Vua Bảo-đại tuyên-bố Việt-nam độc-lập và một tháng sau giao cho học-giả Trần Trọng Kim lập Nội-các. Chính-phủ Trần Trọng Kim chỉ cầm quyền được mấy tháng ngắn ngủi nhưng cũng đã tạo được mấy thành-tích cực lớn—như thu hồi xứ Nam-kỳ, Việt-hóa nền giáo-dục Pháp-Nam, cứu đói ở đồng-bằng sông Hồng, thả hầu hết chính-trị-phạm, và lập Trường Thanh-niên Tiền-tuyến, tiền-thân của Trường Lục-quân Trần Quốc Tuấn—nhưng Cách-mạng Mùa Thu vừa bùng nổ thì Đặng Văn Việt đã về Huế, tự giao cho mình nhiệm-vụ đi bắt cựu Thượng-thư Bộ Lại Phạm Quỳnh [5] và cựu Tổng-đốc Quảng-ngãi Ngô Đình Khôi, giao họ Phạm và họ Ngô cho Ủy-ban Cách-mạng Thành-phố Nguyễn Tri Phương (Huế) và mấy bữa sau thì cả hai vị đại quan cựu trào này bị đánh đến hộc máu ra mà chết. Cũng nên biết là khi chuyện vừa kể xẩy ra thì thân-phụ cậu Việt, Tham-tri Đặng Văn Hướng, còn ngụ ở trong Thành-nội.

Trường-hợp Đặng Tham-tri còn có dăm ba chi-tiết đáng nói thêm. Sau ngày Toàn-quốc Kháng-chiến (19 Tháng Chạp năm 1946), Ông Hướng được Chủ-tịch Hồ Chí Minh vời ra chiến-khu tham-gia Nội-các; nhưng sáu năm sau, đang khi Ông Bà Bộ-trưởng về chơi quê nhà ở Nho-lâm, Nghệ-an, thì bị kẹt trong Chiến-dịch Cải-cách Ruộng Đất và bị mang ra đấu-tố đến chết, cực kỳ bi-thương. Cũng nên biết khi Ông Hướng giữ chức Tham-tri ở Huế thì Ông Bùi Bằng Đoàn [5] làm Thượng-thư ở cùng bộ, tức là "xếp lớn" của quan Tham-tri và, do đó, khi họ Bùi được họ Hồ vời ra phục-vụ trong hàng-ngũ Quốc-hội thì Ông Hướng cũng được họ Hồ chiếu-cố.

Trong khi đó thì Đặng Văn Việt tốt-nghiệp Trường Sĩ-quan Lục-quân và phục-vụ trong QNV của Võ Nguyên Giáp. Đầu năm 1950, Việt đã mang lon cấp Tá và chỉ-huy một trong mấy trung-đoàn đầu tiên, có công lớn trong mấy chiến-dịch biên-giới—nên được dân-chúng vinh danh là Anh-hùng Đệ-tứ Lộ Vương. Tuy công lao như vậy nhưng Ông Việt có gốc "phong-kiến" nên cứ lẹt đẹt ở hàm Đại-tá cho đến khi giải ngũ năm 1975. Tuy có lúc phải "đổi đời" đi giao bánh ngọt cho mấy tiệm cà-phê bình-dân ở Sài-gòn, Đại-tá Việt còn nổi tiếng đã nhiều lần nói: "Việt này không đời nào chống Đảng!" Nhưng cách đây hai năm, sau khi đi một vòng hải-ngoại, ra vẻ ông đã nghĩ lại và từ ngày về nước, đã viết mấy lá thư gửi BCTư/ĐCV đòi cải-cách dân-chủ. Ông Việt cũng đã viết cuốn hồi-ký NGƯỜI LÍNH GIÀ, tiết-lộ mấy chuyện ghê gớm như vụ bắt giữ và thủ-tiêu học-giả họ Phạm. Nhưng theo ý tôi thì ngay những tiết-lộ động trời như thế cũng chỉ mới là phần nổi của một băng-sơn ác-kế, toàn là những điều bất nhân bất nghĩa, ĐCV đã bí-mật giựt dây trong mấy chục năm qua.

Khi đọc lá thư Ông Việt mới gửi ngày 12 Tháng Hai năm nay, tôi còn muốn hỏi ông làm vậy là để nhằm cái gì. Trong lá thư 5000 chữ đó, Ông Việt đã nói nhiều nhất về: (1) nhu-cầu cải-cách dân-chủ, (2) hậu-quả xấu xa của độc-quyền lãnh-đạo, (3) và vấn-đề tham-nhũng. Lẽ dĩ nhiên, tất cả những điều ông viết đều có lý có tình cả, nhưng trước Ông Việt, vô số người đã lập những kiến-nghị nội-dung có chất-lượng hơn thế nữa. Vậy thì—chỉ nói về cái tiểu-ngã, cái tôi chủ-quan của ông—
• Ông Việt làm vậy vì còn tin-tưởng BCTư/ĐCV sẽ lắng nghe những đề-nghị của ông một cách chăm chú, nghiêm-túc hơn hay sao?
• Hay là Ông Việt cũng chẳng ngù ngờ gì mà nghĩ thế nhưng ông là người có nguyên-tắc nên ông vẫn cứ phải làm... cho lương-tâm bớt cắn dứt? Để chuộc tội với oan-hồn hai cụ thân-sinh?
• Cũng có thể, ông làm vậy chỉ là để gỡ tội với con cháu và các thế-hệ sau này?

Nói tóm lại, khi tự-vấn lương-tâm về bốn năm nghi-vấn trên, Đại-tá Việt—hay bất cứ ai đã từng có hành-vi tương-tự [7] —cũng phải chân-thành với chính mình và sòng phẳng với người khác, kể cả những người đã có lúc mình xem là thù hay bạn.

Tôi không được hân-hạnh quen biết Đại-tá Việt nhưng chỉ cần nói chuyện với mấy người đã quen ông trước Cách-mạng, tôi cũng biết ông còn sáng trí để biết Đảng của ông cũng chẳng sáng suốt và thần thánh gì..., nên chuyện dân-chủ-hóa guồng máy Đảng, dân-chủ-hóa đất nước cũng chỉ là chuyện đãi bôi. Chính vì thế mà muốn cho ĐCV nghĩ đến nhân-dân và đất nước hơn là chính mình—thực-tế là mấy ông mấy bà trong Bộ Chính-trị và BCTư/ĐCV—có lẽ chúng ta chỉ còn một cách, là lôi ra ánh sáng tất cả những tội tày trời của Đảng thì may ra nhân-dân cả nước, nhất là những người nay vào trạc tuổi ông Việt hồi Cách-mạng Tháng Tám, mới biết và có phản-ứng quyết-liệt, đòi ĐCV phải cải-cách từ trong nội-bộ ra xã-hội bên ngoài.

Đại-tá Đặng Văn Việt có thể đóng góp rất nhiều vào nỗ-lực chung này nếu ông thành-khẩn nhớ lại những việc đã qua, nhất là vì sao, tự đâu mà ông đã nhúng tay vào việc sát-hại một học-giả như Phạm Quỳnh [8], rồi công-bố những chi-tiết mấu chốt đó cho bàn dân thiên hạ rõ. Rất có thể, ngay đến bây giờ, vẫn còn có người nghi họ Phạm là một quân bài của Đế-quốc Pháp—và dĩ-nhiên là hồi mùa thu năm 1945, Ba-lê có âm-mưu trở lại Đông-dương—nhưng tôi vẫn không thể hiểu tại sao một thanh-niên lòng đầy nhiệt-huyết, lại được đào-tạo trong không-khí học-đường có truyền-thống nhân-bản tốt đẹp nhất ở cả trời Đông và trời Tây, mà bỗng dưng lại có thể giành cho mình quyền tước đoạt đời sống của người khác. Chính vì thế mà tôi vẫn cứ nghĩ quyết-định tàn sát Phạm Quỳnh phải có nguyên-ủy sâu kín hơn. Vào thời-điểm đó, Đặng Văn Việt đã gia-nhập ĐCV và, do đó, phải nhân danh Đảng mà làm chuyện tày trời kia. Vậy thì—chỉ bànvề cái phi-ngã, các yếu-tố bên ngoài—

• Ai đã mớm lời, đề-nghị, hay chỉ-thị cho cậu sinh-viên Việt làm một việc gớm ghiếc như vậy?
• Đảng-ủy cấp quận, cấp tỉnh hay cấp cao hơn? Nếu là cấp cao hơn thì cao hơn đến mức nào?
• Chính Ông Việt và những người có ý nghiên-cứu vụ việc này phải hướng nỗ-lực khảo-sát vào cấp ủy nào? Vào nhân-vật nào?
• Vào những bộ mặt cao nhất Thành-ủy Thành-phố Nguyễn Tri Phương (tức là Huế) hay là phải ra đến Bắc-bộ Phủ ở Hà-nội?
• Hay phải chĩa mũi dùi vào chính Chủ-tịch Hồ Chí Minh cũng không chừng?

Nếu Đại-tá Việt kể lại được một cách hoàn toàn vô-tư, sòng phẳng, tất cả câu chuyện vụ sát-hại học-giả họ Phạm thì một số những chi-tiết ông chỉ còn nhớ mong manh, cũng có thể giúp chúng ta hiểu thêm được phần nào những đợt Khủng-bố Đỏ lớn lao hơn, chẳng hạn như vụ tổ-chức Việt Minh ở Quảng-ngãi tru lục gần 3000 tín-đồ Cao-đài. Ta đã biết chính mấy ông Việt Minh ở Quảng-ngãi đã hạ-sát Tạ Thu Thâu khi họ Tạ đang trên đường từ Sài-gòn ra Hà-nội tham-gia Cách-mạng.

Vào thời-điểm này, người cầm bút còn là một cậu bé 12 nên tôi không biết gì mấy nhưng không-khí ở Hà-nội và các tỉnh Miền Bắc cũng ghê rợn không kém. Hồi mùa thu 1945 thì tôi đang "chạy loạn" ở Phúc-yên nên một hôm, ngẫu-nhiên được chứng-kiến một tai-biến lịch-sử. Hôm đó, cơn nước đang lớn, tỉnh lỵ sắp lụt, thì một đoàn mấy chiếc ghe ghé tỉnh tránh cơn lũ. Trên ghe, có khoảng 100 thanh-niên, ai nấy trông đều thông-minh sáng sủa, nhưng chỉ mấy phút sau thì tất cả đã bị nhân-viên Sở Liêm-phóng bắt và lùa vào Khám-đường Tỉnh... Cũng hôm đó, anh cả tôi bị Cảnh-sát chìm đến nhà, lôi xềnh xệch vào tù. Hai bữa sau, tôi theo bà chị dâu vào thăm nuôi anh thì mới biết số thanh-niên kia đều là con nhà gia giáo và họ đã bị bắt là vì có ý lên Vĩnh-yên tham-gia những hoạt-động cách-mạng của Việt-nam Quốc-dân Đảng (VQĐ), ở thị-trấn đó thì là do Ông Đỗ Đình Đạo cầm đầu... Mấy tháng sau nữa, tôi lại nghe tin đa-số các thanh-niên đó đã bị Việt Minh cho đi "mò tôm, mò cua" hết. Tôi tin chắc là trong đám nạn-nhân trường-hợp Khủng-bố Đỏ này, thế nào Đại-tá Việt cũng phải quen một số người và có thời chơi thân với họ. Nếu ông biết gì về bi-kịch này thì có lẽ ông cũng nên kể cho người đời nay hay!

Khi đề-nghị Đại-tá Việt và những người như ông kể lại cho hậu-thế nghe những chuyện chính họ đã tham-dự, chứng-kiến, hay biết chắc 100%, tôi không có ý buộc tội cá-nhân nào hết. Tôi không cả có ý kêu gọi họ đấm ngực xưng tội như tín-đồ Thiên-chúa-giáo vẫn thường làm. Nhưng tôi tin là tất cả chúng ta, những người còn sống, đều "mắc nợ" người bị oan khiên rất nhiều và để "trả món nợ" này, chúng ta chỉ có cách truy-cứu ra sự thật và nói cho con cháu họ hay. Những chuyện bất-công to lớn như vậy chỉ có thể dịu đi phần nào nếu hậu-thế khám-phá ra các sự-kiện liên-hệ và kể lại các sự-kiện đó ra một cách chi-tiết, đầy đủ nhất.

Ở Cộng-hòa Nam Phi, sau khi Ông Tù Thời-đại Nelson Mandela lên nhiếp chính (1994), Mandela đã không tìm cách trừng-trị những kẻ chủ-trương hay thực-thi thuyết A-pác-tai (Cách-ly Chủng-tộc) mà ông chỉ đòi Nhà Nước Nam Phi cho thành-lập những Ủy-ban Phát-hiện Sự Thật và Hòa-giải Hòa-hợp Dân-tộc (PST&HHD). Ông Mandela đã làm thế chỉ vì ông nghĩ là người Nam Phi, cả dân da trắng lẫn dân da đen, chỉ có thể dẹp quá-khứ đau thương qua một bên và chung sức lo chuyện tương-lai nếu nhân-dân Nam Phi sống theo châm-ngôn "vãng giả bất truy" [9]—nhưng không phải là "bất truy" với bất cứ giá nào. Thực vậy, trong những phiên họp của Ủy-ban PST&HHD, đa-số những người bị cáo-giác đứng đằng sau nhiều tội tày trời chỉ đã phải ra trình-diện nạn-nhân của họ (hay vợ con những người đã chết), trình-bày tất cả sự thật mình biết, rồi xin lỗi nạn-nhân. Cứ xem một số những việc đại gian đại ác của giới chủ-trương A-pác-tai trước kia thì ai cũng đã phải lấy làm lạ là những cuộc chạm trán này đã có phen đưa hai bên đến chỗ thông-cảm ít nhiều, gần như xóa bỏ được cái hận-thù tưởng như không đời nào vợi đi được.

Dù đã có lần lên tiếng ở chốn công-khai hay còn giữ nỗi đau riêng ở tận đáy lòng, nói chung thì người Việt chúng ta chỉ muốn biết việc gì đã xẩy ra trong quá-khứ đau thương của ta, ai hay những ai đã nhân danh cái gì mà làm những việc ác độc đó. Trong số mười nhân-vật tôi nêu danh ở Hồ-sơ số 2, tôi chỉ quen thân có hai vị, biết sơ hai vị khác, còn sáu vị còn lại thì chỉ mới nghe danh, biết mặt qua hình ảnh trên báo nhưng chỉ cứ quan-sát sự đau buồn của vợ con họ cho đến ngày nay thì tôi cũng phải nói "vãng sự bất tất hưu đề"[10] nếu gia-đình, họ hàng bà con họ không được thông-báo họ đã từ giã cõi trần trong tình-huống nào. Nói cách khác, thân-nhân, con cháu những người đã khuất còn không cả biết ngày giỗ kỵ ông bà, cha mẹ, anh em họ thì khó ai có thể để cho "vãng sự hưu đề" [11] luôn. Nếu những người đã chết trong lúc bị tra-tấn, bị chôn sống trong những nấm mồ tập thể, bị hạ-sát ở một góc rừng đầy đỉa vắt, bị quẳng xuống một khúc sông đầy cá sấu, hay chết ngộp trong một vùng Biển Đông... không về báo mộng cho thân-nhân biết họ đã chết như thế nào thì chúng ta, những người còn sống—ở cả bên này hay bên kia chiến-tuyến, hay chẳng thuộc phe phái nào—đều còn nợ họ một món nợ không kiếp nào trả hết.

Chỉ vì thế mà việc Hà-nội đòi Jakarta và Kuala Lumpur phá bỏ hai đài tưởng-niệm thuyền-nhân đã khuất mới là chuyện vô-lại, tắc-trách, phi-nhân! Như Oscar Wilde đã viết [12] thì "ở đất nào có chuyện đau thương thì đất đó ắt phải linh-thiêng. Rồi đây, có lúc người đời sẽ hiểu qui-luật muôn thủa đó. Nhưng nếu chưa cả ý-thức được đời là vậy thì người ta cũng chưa thể có một ý-niệm, dù là mơ hồ, về giá-trị vô-biên của cuộc sống." Nhà cầm quyền CXCV chỉ chứng-tỏ là họ không hiểu mảy may gì về cuộc sống ở phần thâm-thúy nhất trong cõi nhân-sinh.

Như tôi còn nghĩ thì trong vụ đục đẽo đài tưởng-niệm thuyền-nhân vô-danh, đám đồng-chí và đồ đệ họ Hồ, những kẻ lúc nào cũng tự cao tự đại là đỉnh cao trí-tuệ loài người, kể cả về mặt đạo-đức, không những đã chứng-tỏ họ không biết gì về đạo nghĩa mà họ còn đã làm một điều cực kỳ vô-chính-trị. Dường như họ đã quên là mỗi năm Việt-kiều vẫn gửi khoảng bốn tỷ đô-la về nước nên cứ có dịp là họ lại chê bai, sỉ-vả Việt-kiều đủ mọi điều. Người phương Đông mình gọi thế là "dĩ oán báo ân"—nôm na thì là "ăn mật trả gừng"—nhưng người phương Tây thì nói là "cho chó ăn, chó cắn tay" có lẽ không được văn vẻ cho lắm nhưng lại xác-thực hơn, thích-đáng hơn.

*
* *


Cách đây đúng một nửa thế-kỷ—vào khoảng ba năm sau ngày Josef Stalin về chầu "cụ Mác, cụ Lê-nin"—Ông Nikita S. Khrushchev đã đọc một diễn-từ bí-mật ở Đại-hội XX Đảng Cộng-sản Liên- bang Xô-viết (ĐCLX) và trong bài này, đã tố-cáo Stalin nhiều tội đáng cho voi dày ngựa xé, kể cả tội phát-động chủ-nghĩa tôn thờ cá-nhân và sát-phạt cả chục triệu người dân vô-tội.

Trong thuyết-trình trường giang đại hải này, Khrushchev đã nói nhiều điều nhưng tôi nhớ nhất là cáo-trạng sau đây: "Thay vì vận-động quần-chúng ủng-hộ những sách-lược mình đề ra, Stalin luôn luôn áp đặt giải-pháp ông chủ-xướng và thủ-tiêu các phần-tử chính-trị đối-lập—dù cho những người này đã không làm gì có thể gọi là chống đối—đối với Đảng và Nhà Nước Liên Xô."

Diễn-từ này có nhiều đoạn tiết-lộ nhiều chuyện khủng-khiếp đến nỗi có người trong cử-tọa-đoàn đã té xỉu, không biết trời trăng gì nữa. Một tháng sau, Boleslaw Bierut, lãnh-tụ Cộng-sản Ba-lan, mới có dịp đọc nguyên-văn bài thuyết-trình để đời của Khrushchev mà ông ta cũng bị ngay một cơn đau tim và ngã lăn ra chết không kịp ngáp!

Cũng nên biết là bài diễn-văn lên án Stalin đã được ghi-nhận vào lúc ở Bắc Việt, các nhà văn nhà báo đứng đằng sau vụ Nhân-văn - Giai-phẩm bị Đảng và Nhà Nước "ta" đánh tơi bời hoa lá. Bài này còn được xem như đã lần hồi tạo ra nhiều rạn nứt, gây ra vụ tranh-chấp Trung Xô vào khoảng năm 1960, rốt cuộc làm cho Khối Cộng-sản đổ vỡ tan tành. Hồi năm 1956, Mikhail Gorbachev mới 25 tuổi nhưng theo lời cha đẻ hai khái-niệm Glastnost (Trong Suốt) và Perestroika (Cải-tổ Cơ-cấu) thì "không có bài diễn-văn đó thì không làm sao tôi có thể đề ra thuyết Cải-tổ Cơ-cấu".

Đối với phần lớn nạn-nhân của Stalin và con cháu họ thì bản văn của Khrushchev là một trong những diễn-biến quan-trọng nhất Thế-kỷ XX. Theo lời Bác-sĩ Helen Lezvinskaya, cháu ruột một cặp vợ chồng trí-thức đã bị đày sang Xi-bia suốt hai chục năm trời, thì "có bài diễn-văn đó thì tôi mới biết nhân-dân nước tôi đã sống kiếp đời khổ ải đến chừng nào..."

Chỉ khi nào bàn cờ chính-trị Việt-nam có một Nikita Khushchev và cái ông Khrushchev Việt-nam này dội cả trăm gáo nước lạnh trên đầu nhân-dân cả nước—nhưng chuyện này ra vẻ còn khó khăn quá! [13] —thì chúng ta mới có hi-vọng có ngày biết được thực-chất cuộc Cách-mạng của Ông Hồ Chí Minh. Nhưng nếu tất cả chúng ta chịu khó đánh giá lại một số những biến-chuyển chính ta đã chứng-kiến phần nào thì may ra chúng ta có thể chặt đứt những xiềng xích đã trói chặt chúng ta với một quá-khứ đầy máu và nước mắt. Và chỉ khi nào cắt được những sợi dây vô hình còn níu kéo chúng ta lại với họ Hồ và ĐCV thì chúng ta mới có thể hi-vọng đưa phong-trào cách-mạng dân-tộc, dân-chủ, dân-quyền của cụ Phan Bội Châu đi được đến nơi phải đến, về đến chốn phải về.

*
* *


Vì có ý chuyển lá Tâm-thư gửi Đồng-bào Tôi: 13 Hồ-sơ Lịch-sử này đến tất cả mọi người còn ưu-tư vận-mạng đất nước, tôi sẽ tìm cách gửi tài-liệu này theo dạng thiên linh chuỗi (chain letter) cho 13 người quen biết rồi yêu-cầu mỗi vị đó gửi tiếp cho 13 vị khác, đồng-thời kêu gọi người nhận thư tìm hiểu thêm về một số trường-hợp oan khiên có ít nhiều liên-quan đến họ, đến gia-đình họ, và xin họ công-bố cho người khác hay những điều mới khám-phá.

Chẳng hạn, trong trường-hợp Đại-tá Đặng Văn Việt—hay bất cứ ai có người thân bị đấu-tố trong kỳ Cải-cách Ruộng Đất—tôi sẽ yêu-cầu ông kể lại: (1) trong trường-hợp nào hai cụ thân-sinh ra ông đã từ-giã cõi trần, (2) bao lâu sau thì chính ông mới hay biết về số-phận của cha mẹ, (3) trong chính-giới buổi đó, có ai làm gì để cứu hai cụ hay không, (4) chính bản-thân Đại-tá có làm gì để cứu song-thân hay không, (5) ông có biết cha mẹ có được chôn cất đàng hoàng hay không, hay là vong-hồn người đã khuất hãy còn đi vơ vẩn đâu đó,(6) một khi mọi sự đã rồi, Chính-phủ Kháng-chiến đã làm gì để vãn-hồi danh-dự cho hai cụ, (7) Chủ-tịch Hồ Chí Minh có gửi thư phân-ưu hay lời chia buồn với ông hay không, (8) sau khi Tướng Võ Nguyên Giáp được lịnh trên xin lỗi đồng-bào thì bao lâu sau, Ông Việt mới về được quê lo việc chôn cất song thân.

Lẽ dĩ-nhiên, Đại-tá cũng nên tìm hiểu là hồi năm 1953, làng ông có bao nhiêu dân đinh và trong số này thì bao nhiêu bị quy là điền-chủ, bị đấu-tố đến chết, gia-đình họ có bao nhiêu người chết chùm theo, bao nhiêu gia-đình tán gia bại sản mà sửa sai rồi cũng vẫn bại sản tán gia...

Chỉ cần dăm trăm người tham-gia cuộc "thảo-luận" này là nhân-dân ta sẽ có một ý-niệm khá rõ nét về thời-kỳ Hồ Chí Minh chủ-trương "thà giết oan mười người vô-tội còn hơn để sót một tên địch."

Tôi hi-vọng những câu hỏi ghi trong 13 hồ-sơ lịch-sử trên đây sẽ được dân-chúng đáp-ứng và nghiên-cứu rồi từ đó, tự đặt ra thêm nhiều câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó một cách thành-khẩn, khách-quan, đầy đủ thì chỉ cần bốn đợt gửi như thế—13 luỹ thừa 4 = 942,513 người—là chúng ta sẽ có một cuộc tranh-luận công-khai mà lớn rộng thế nào cũng sẽ giúp chúng ta vẽ được một bức tranh trung-thực về 13 đợt Khủng-bố Đỏ, xác-minh chúng phát-xuất từ Tư-tưởng Hồ Chí Minh và phải xem như 13 cột trụ chống đỡ cho Tòa Nhà Chính-trị CXCV khỏi đổ. Lúc đó, dư-luận trong nước mới có thể trong sáng, vô-tư và quân-bình. Và ta mới có thể hi-vọng đất nước chưa đến hồi mạt vận.

Nguyễn Ngọc Phách
[25-II-2006]


Chú thích:
[1] Đặng Phong (chủ biên), LỊCH-SỬ KINH-TẾ VIỆT-NAM: 1945-2000 (Tập II). Nhà Xuất-bản Khoa-học Xã-hội (2005), trang 85. Con số này là chưa kể những người chết chùm theo –như vợ con họ- phải ước-lượng đến ít nhất là 500.000 người.

[2] Trong chuyến Mỹ-du của Thủ-tướng Phan Văn Khải (2005), khi bị một ký-giả trong vùng Seattle chất vấn về chuyện vi-phạm nhân-quyền, Ông Khải đã nổi giận quát tháo: '"Thằng này láo! Đuổi nó ra!" Thế rồi ông bỏ ngang cuộc họp báo.

Cứ xét nghĩa-vụ bảo-vệ dân-sinh, dân-quyền của bất cứ chính-thể nào thì chuyện vừa kể quả có... lạ! Thế mà Nhà Nước ta vẫn cứ cao rao họ là "người đầy tớ của nhân-dân". Làm như Ông Khải thì có khác gì đầy tớ mà mắng chửi chủ nhà!

[3] Muốn biết ĐCV có thể cãi chầy cãi cối dến mức nào, chỉ cần nghe phát-ngôn-viên chính-thức thì sẽ vỡ lẽ ngay. Mỗi khi Hà-nội tống ngục các lãnh-tụ tôn-giáo, họ lại nói là những vị chân tu đó chỉ bị bỏ tù là vì các vị đã "phạm tội hình-sự".

[4 Muốn biết tham-nhũng Đỏ đã tiến nhanh, tiến mạnh như thế nào, độc-giả chỉ cần biết là theo báo Đảng, mới hồi năm 1998, Phạm Văn Phước bị kết án tử-hình vì nhiều tội, kể cả tội vứt năm bảy ngàn đô-la lên chiếu bạc mỗi canh. Năm nay, chỉ một lần cá độ, Bùi Tiến Dũng đã thua 2.000.000 đô-la Mỹ. Bọn sâu mọt này làm gì mà có lắm tiền thế!

[5] Dưới triều Nguyễn, Nội-các không có chức Thừa-tướng—nay gọi là Thủ-tướng Chính-phủ—nên ai giữ Bộ Lại cũng được xem như cầm đầu Lục Bộ. Chính vì thế mà sách vở của người phương Tây thường nói là hồi 1932, Ông Ngô Đình Diệm là người đứng dầu Nội-các. Sau khi Ông Diệm từ-chức thì người giữ vai vế đó là Ông Phạm Quỳnh.

[6] Để lường-định cái thế-gian Việt-nam của chúng ta nó nhỏ bé đến chừng nào, độc-giả cũng nên biết là hồi Ông Hồ Chí Minh còn phải đánh lá bài dân-chủ (1945-46), ông đã vời cựu Hình-bộ Thượng-thư Bùi Bằng Đoàn ra giữ vai Chủ-tịch Quốc-hội thứ nhất của nước Việt-nam Dân-chủ Cộng-hòa. Họ Bùi lại là thân-phụ của cựu Đại-tá Bùi Tín, sĩ-quan QNV đầu tiên vào Dinh Độc-lập sau khi Quân-lực Việt-nam Cộng-hòa tan rã.

[7] Ông Việt chưa tiết lộ rõ vụ này thì chưa ai biết hết đầu đuôi câu chuyện. Nhưng ai đã đọc kịch BÀN TAY NHÚNG CHÀM (Les Mains Sales) của Jean-Paul Sartre cũng có thể mường-tượng hoàn-cảnh nào đã đưa đẩy ông đến có hành-vi tàn bạo ấy.

[8] Theo cái nhìn bình-thường đầy tình người của dân ta thì hành-vi đó là một tội ác nhưng theo cái nhìn Mác-Lê thì là việc nên làm, phải làm cũng không chừng. Ai muốn hiểu thêm về đạo-lý Mác-xít - Lê-nin-nít thì phải đọc cuốn ĐÊM HAY NGÀY của Arthur Koestler (bản tiếng Anh nhan-đề là Darkness at Noon và bản tiếng Pháp là Le Zéro et l'Infini).

Nhưng sau một chuyến chu-du thiên hạ, Ông Việt ra vẻ cũng đã nhìn đời với một nhãn-quan mới. Thực vậy, cho đến mấy năm gần đây, thái-độ chính-trị của ông có thể thu gọn trong một câu ông hay nói: "Việt này không bao giờ chống lại Đảng!" Nhưng trong lá thư mới nhất vừa gửi BCTư/ĐCV, ông đã viết lại là: "Việt này không bao giờ chống lại Đảng, đi ngược lại quyền-lợi của nhân-dân! Việt này không sợ bất cứ một cường-quyền nào, chỉ sợ mình làm sai!"

Tôi muốn hỏi thêm Ông Việt: "Thế Đảng đi ngược lại quyền-lợi của nhân-dân thì ông chọn bên nào? Có chống Đảng để bênh dân không? Chỉ sợ mình làm sai mà có người chỉ cho biết mình đã làm sai thì ông có tìm cách sửa sai hay không?"

[9] Chuyện đã qua thì đừng đeo đuổi nữa.

[10] Chuyện đã qua nhưng không nhất thiết phải cho qua luôn.

[11] Chuyện đã qua thì hãy để cho qua luôn.

[12] Vì bản dịch Việt-ngữ của tôi không được hoàn-chỉnh, xin đăng cả nguyên-văn Anh-ngữ: "Where there is sorrow, there is holy ground. Some day, people will realize what this means. They will know nothing of life till they do."

[13] Nhưng khó quá không có nghĩa là không thể. Hồi năm 1989-90, nếu Ủy-viên Bộ Chính-trị ĐCV Trần Xuân Bách biết khai-thác những mâu-thuẫn trong hàng ngũ chóp bu ĐCV thì không chừng chính-sách Đổi Mới của Nguyễn Văn Linh đã có phần kết-thúc có lợi cho dân, cho nước hơn là cái quái thai "kinh-tế thị-trường theo định-hướng xã-hội chủ-nghĩa"—chí có lợi cho mấy ông mấy bà tư-bản đỏ hay con ông cháu cha trong chế-độ tư-bản rừng rú này. Ngay giờ đây, nếu mấy người như Tướng Võ Nguyên Giáp rán nhớ lại chuyện xưa, nhất là những việc phải táng tận lương-tâm mới làm nổi, và viết một bài "tự-kiểm" theo tinh-thần Khrushchev thì rất có thể họ cũng đánh động được lương-tâm con người Cộng-sản và buộc được ĐCV lột xác. Tuy đã 93 tuổi, Tướng Giáp mà viết (hay kể cho ai khác viết hộ ông) về cái chết của Tướng Nguyễn Bình năm 1951 thì chắc ông sẽ tiết-lộ được nhiều điều ý-nghĩa lắm!

Tình-hình chính-trị Thái-lan trong mấy ngày qua (Tháng Ba và Tư 2006), nhất là những cuộc xuống đường bất-bạo-động đưa đến vụ từ-chức của Thủ-tướng Thaksin Shinawatra, có lẽ là một bài học để đời cho người Việt chúng ta.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn