
Kết quả trông thấy là nước Miến Điện đã tự vứt bỏ chế độ Quân Phiệt thân Bắc kinh để Dân Chủ Hóa chế độ, tôn trọng Nhân Quyền, thả tù chính trị, cởi trói báo giới, tôn trọng đối lập, trao trả Dân Quyền cho dân chúng, mở rộng bang giao Quốc tế. Chẳng những Trung cộng không chống đối, mà còn mặc nhiên tán thành. Đây đúng là một bước lùi của Bắc kinh để vừa cứu được nền kinh tế suy sụp của Miến Điện, lại vừa duy trì được ảnh hưởng kinh tế của Trung cộng đã bén rễ được ở đây. Bắc kinh tự biết thế và lực của họ không thể đủ sức ôm đồm một xứ Miến Điện nghèo đói như Bắc Hàn được nữa, nên đành phải buông tay. Đối với Việt nam lại khác, vì Việt nam vốn nằm trong mục tiêu Hán hóa của Bắc kinh, còn là đất màu mỡ, ở đó có cái đảng Việt cộng tay sai ngoan ngoãn, đang được Mỹ và tư bản quốc tế vỗ béo, nên Bắc kinh còn có chỗ khai thác. Không vội gạt ảnh hưởng Mỹ ra, mà cứ cho đàn em bám lấy Mỹ để kiếm ăn chung. Lợi nhuận của Việt nam kiếm được ở thị trường Mỹ, đổ sang mua phế phẩm của Tầu, đóng thương hiệu Việt nam, nhập sang Mỹ. Quốc doanh Việt cộng hưởng huê hồng, dân Việt uống nước lạnh nhiễm độc. Cũng có thể Trung cộng muốn đặt giá cao để sang tay cho Mỹ chưa chừng.
Hiểu rõ mưu lược của Bắc kinh về Việt nam, chính phủ Hoa kỳ nhẹ nhàng đặt vấn đề Nhân Quyền lên hàng ưu tiên trong mối bang giao Mỹ-Việt. Lần đầu tiên, thượng nghị sĩ John McCain, người 2 lần ngăn dự luật Nhân Quyền Việt nam, đã được tuyệt đại đa số Hạ Viện Mỹ chấp thuận, không được đưa ra trình trước Thượng Viện Mỹ, đã cầm đầu một phái đoàn Thượng Nghị Sĩ Mỹ gồm cả Cộng hòa, Dân chủ và Độc lập thăm Việt nam, ngày 20 đến 21/1/12 “Đặc biệt nhấn mạnh với phiá Việt nam là quan hệ an ninh Mỹ – Việt gặp tác động trực tiếp của các vấn đề nhân quyền”. Ông McCain nói: “Không có tiến bộ trong vấn đề nhân quyền, thậm chí còn có thái độ tụt hậu trong vấn đề này”. Tiếp theo đó, từ ngày 1 đến 3/2/12, trợ lý bộ trưởng ngoại giao Mỹ, đặc trách Á châu Thái Bình Dương, Kurt Campbell sang thăm Hà nội, đây là lần đầu tiên nhân viên cao cấp của ngành Hành Pháp Hoa kỳ đã nhấn mạnh một cách rõ ràng rằng: “Rất muốn có một mối quan hệ tốt đẹp với Việt nam. Muốn Hoa kỳ và Việt nam tiến đến một tầm cao mới thì cần phải có những bước có ý nghĩa về phiá Việt nam, giải quyết quan ngại về Nhân Quyền, những thách thức có hệ thống liên hệ đến tự do bày tỏ ý kiến và tự do tổ chức”. Nhằm tăng cường mối quan hệ quân sự hiện hữu giữa Hoa kỳ và Việt nam, ông Kurt Campbell nói: “Hoa kỳ sẽ tiến hành tiến trình này theo từng bước một, qua đối thoại nhiều hơn, nhằm xây dựng sự tín nhiệm và tin tưởng. Để cải thiện hơn nữa mối quan hệ, Hoa kỳ cũng hy vọng sẽ có những thay đổi về Nhân Quyền tại Việt nam”. Có nghĩa là cả Lập Pháp lẫn Hành Pháp Hoa kỳ đều đặt Nhân Quyền lên hàng đầu của mối liên hệ giữa Mỹ – Việt.
Nhân mùa bầu cử tại Hoa kỳ, TT Obama đã mở một trang mạng có tên là We the People để nhận thỉnh nguyện thư từ các khối dân, với điều kiện, khi đạt được con số 25.000 trong vòng một tháng của những người đang sinh sống tại Mỹ gửi trực tiếp vào trang WhitHouse.gov/Petitions, thì sẽ có hồi đáp. Nhờ đó những người Việt sống trên đất Mỹ đã có thỉnh nguyện thư gửi tổng thống Obama về Nhân Quyền cho Việt nam, xin đừng mở rộng giao thương với Việt cộng khi còn vi phạm nhân quyền. Chỉ chưa đến một tuần đã đạt được trên 25.000 người ký, tuần thứ hai đã có trên 70.000, tuần thứ ba, ngày 5/3/2012, Tòa Bạch Ốc mời hai trăm ngừơi đại diện vào gặp để trình bày nguyện vọng, lúc đó chữ ký đã lên trên 130.000 người. Điều này khiến cho dư luận Hoa kỳ và Thế giới phải quan tâm về ý chí của người Việt luôn hướng về quê hương, đòi quyền làm người cho đồng bào mình. Cũng từ đó ngày 6/3/12 người Mỹ gốc Việt tới văn phòng của các Nghị sĩ, Dân biểu Mỹ để vận động cho các đạo luật Nhân Quyền Việt nam. Đây không những là đáp ứng nhu cầu thiết thân của toàn dân Việt nam đang sống dưới chế độ bạo trị của Việt cộng, còn đáp ứng đúng với nhu cầu chiến lược của Hoa kỳ đang quyết định ứng dụng tại Việt nam. Cũng ngày 5/3/12, Thượng Viện Mỹ đã gấp rút nhất trí thông qua một dự luật cho phép Bộ Thương Mại Mỹ áp đặt thuế đối với một số hàng hóa nhập khẩu từ Trung cộng và Việt cộng. Thuế này được đánh vào các mặt hàng bị xét là được nhà nước trợ giá, và đến từ các nước chưa được Mỹ công nhận quy chế kinh tế thị trường.
Ở Việt nam, Hoa kỳ chủ trương dùng giải pháp nhân quyền, nhẹ nhàng để xem phản ứng của Bắc kinh đối phó ra sao. Ngược lại, ở Philippines, Mỹ hỗ trợ cho giải pháp quân sự để Philippines mạnh bạo mời các nước công nghệ vào khai thác dầu khí ở thềm lục địa, trong vùng đang tranh chấp với Trung cộng. Đồng thời cho tiến hành một cuộc tập trận thường niên Mỹ – Phi, gọi là “kề vai sát cánh”- Balikatan – Theo hãng thông tấn Kyodo 3/3/12, đặc biệt lần này có sự tham gia của quân đội Nhật, Úc, Nam Hàn, và một số nước trong hiệp hội Asean. Phản ứng của Bắc kinh tuy không nói rõ là nhắm vào Philippines, nhưng Ôn Gia Bảo, thủ tướng Trung cộng đã phát biểu hôm 5/3/12, trước phiên họp đầu tiên của Quốc Hội thường kỳ rằng: “Chúng ta sẽ tăng cường khả năng của lực lượng vũ trang để hoàn thành các nhiệm vụ quân sự đa dạng với cốt lõi là khả năng đánh thắng cuộc chiến tranh cục bộ trong điều kiện thông tin hóa”. Có nghĩa là Trung cộng cố ý tránh một cuộc “đại chiến” với Mỹ. Nhưng nếu cuộc chiến tranh cục bộ nổ ra ở Biển Đông, trong đó Hoa kỳ đang giữ vai trò chủ đạo, nhất là về mặt quân sự đang hậu thuẫn cho Philippines, cho Đài loan, Nam Hàn, Nhật bản… thì vẫn là Tầu đánh nhau với Mỹ rồi. Rõ ràng là Mỹ đang áp dụng chiến thuật “hai mặt giáp công”. Mặt Nhân Quyền ở Việt nam. Mặt Quân Sự ở Philippines để xem Trung cộng có thực tâm muốn trở thành một cường quốc có trách nhiệm, hay vẫn là một nước có quán tính đế quốc bành trướng lạc hậu như xưa nay.
LÝ ĐẠI NGUYÊN
Little Saigon ngày 6/3/2012.
Gửi ý kiến của bạn