PHẦN BỐN
CHU KỲ RỰC RỠ
67
Anh em trong đoàn quân du kích
Cùng vác súng lên đàng
Đi lên
Đi lên
Xuyên qua rùng qua núi
Qua mây mờ đêm tối
Vượt suối băng ngàn
Giặc tiến tới đây
Súng kia cùng nhau cướp lấy
Nhằm cùng nhau bắn
Mỗi viên là mỗi quân thù… (1)
Bài hát đánh thức chim muông trên cây, giật mình cá tôm dưới nước. Lâu-đài âm thanh phóng ra, làm xôn xao lá cành. Những bước chân một-hai-nhịp mạnh. Đường đất muốn nứt ra. Bài hát ngừng lại, tiếng vang còn lơ-lửng đầu thôn, cuối xóm. Trăng đồng nội sáng tỏ. Trăng soi rõ bầy nhi-đồng súng gỗ, của thằng Khoa, lên sân đình, tập bắn. Hơn bốn mươi nhi-đồng xếp hàng đôi, bước đều theo lời hô, của trung đội trưởng Khoa.
- Mốt, mốt hai mốt… Mốt, mốt, mốt, mốt hai mốt…
Trong bầy nhi đồng súng gỗ, có đứa đùa nghịch:
- Mót, mót khoai mót!…
Cả bọn cười vui. Trung đội trưởng Khoa hét lớn:
- Trật tự!
Khoa rút còi, thổi một mạch. Toét, toét. toét toe toét… Rồi, cất còi-vào túi quần xoóc, và nói:
- Chú ý… Dân quân Việt Nam… Một, hai, ba…
Lâu đài âm thanh vỡ tung:
Dân quân Việt Nam mau bồng súng ra sa trường
Dân quân Việt Nam không lùi bước trước rừng gươm
Tay phất cao lá cờ tranh đấu mà cứu giống nòi
Vung kiếm lên ước nguyền Việt Nam muôn năm sáng tươi… (2)
Mỗi giọng hát là một chí tình. Tưởng chừng đoàn quân súng gỗ đang tiến-ra chiến trận. Thằng Khoa đi tách ngoài hàng ngũ. Trung đội trưởng, cơ-mà.
Sau ngày thị xã Thái Bình tiêu thổ kháng chiến, gia đình Khoa tản cư-về làng mình. Làng Tường An, cách thị xã mười mấy cây số. Nhà cửa ở-thị xã bị đập phá, chỉ còn trơ lại vài bức tường, nhô khỏi đống gạch-khổng lồ. Hôm từ giã ngôi nhà xưa, con phố cũ, mẹ thằng Khoa đã khóc-nức nở. Cha nó buồn buồn. Nhiều người đã khóc. Rồi, chia tay nhau. Cái-thị xã nhỏ bé, êm đềm, bỗng trở thành hiu quạnh. Kẻ về Kiến Xương, Tiền-Hải. Kẻ sang Quỳnh Côi, Phụ Dực. Ngày trở lại thị xã, thật xa xôi. Bởi-vì, cụ Hồ đã trả lời Bao giờ Pháp sang Thái Bình thì có thái bình, câu-hỏi của một người dân thị xã Thưa Hồ chủ tịch, bao giờ đất nước ta-thái bình, kháng chiến thành công.
Pháp chưa sang Thái Bình, nó chiếm-Nam Định thôi. Gọi là tiêu thổ kháng chiến, nhưng nhà thờ và đền Mẫu-không bị phá. Khu nhà của các bà xơ vẫn y nguyên. Thoạt đầu, dân thị xã-được vào thăm nền nhà của mình. Sau, bị cấm hẳn. Ngã tư Vũ Tiên, cầu-Bo, cầu Kiến Xương, lối đê Đoan Túc rào kín. Bộ đội canh gác cẩn mật.-Dần dần, nếp sống áo nâu quen đi, chẳng ai muốn về thị xã. Gia đình ông-Thụy qua Thái Ninh. Thằng Côn về Ô Mễ. Nhà nó giầu nhất tổng. Làng nó-có cái chợ to lắm. Một tháng sáu phiên, vui không thể tả nổi. Tường An-thuộc tổng Ô Mễ. Từ làng Khoa sang làng Côn, phải qua con đường lát-gạch của làng Thọ Bi, qua cổng Thọ Bi, qua cây cầu gỗ làng Đại Hội.-Thằng Vũ về làng, sống thiếu bạn bè, đâm ra buồn. Nó đã trốn nhà, đi-làm liên lạc viên cho đại đội 4. Vũ noi gương anh Kim Đồng. Cha nó-mất công tìm đại đội 4. Thì nó đã theo trung đoàn 44.
Khoa rất ngưỡng mộ anh. Đối với nó, chỉ Vũ là chiến, là tuyệt cú mèo.-Khoa chưa biết Kim Đồng Vũ bao phen giao thông trong rừng, gian lao-nguy nan muôn trùng ra sao, song nó biết liên lạc viên của bộ đội oai vô-cùng. Nhiều thằng liên lạc đã theo bộ đội, về Tường An. Lưng giắt hai-trái lựu đạn, vai đeo ba lô, tay cầm cái thông nòng súng ba-zô-ca, mặt-vênh vang. Các chi phụ nữ xúm nhau thăm hỏi thằng liên lạc, và tặng-quà bánh, khăn áo. Bộ đội diễn kịch, thằng liên lạc lên hát một bài,-đưọc vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Liên lạc viên là hình ảnh mơ ước của-nhi đồng súng gỗ. Anh Lý, phụ trách nhi đồng, nói rằng, nhi đồng nào-xuất sắc gương mẫu, sẽ được chọn làm liên lạc viên. Thằng Khoa thèm làm-liên lạc viên, đến nhỏ rãi. Nó đã tỏ ra xuất sắc. Đang là tiểu đội-trưởng, Khoa nhẩy lên trung đội trưởng.
Làng Tường An nghèo nàn, nhỏ-bé, chỉ có hai thôn. Nằm dưới đê sông Trà Lý, suốt đời lo đê vỡ, mà-con ngòi duy nhất chả khi nào đầy nước. Buổi sáng, nước dâng chưa tới-giữa ngòi, đã buổi trưa nước rút vội. Một nửa con ngòi luôn luôn khô-cằn, vào mùa hạ. Thầy địa lý bảo làng không ai khá giả trọn vẹn. Muốn-khá giả, phải bỏ làng tha phương cầu thực. Một số người may mắn, ăn nên-làm ra. Những người khác thử thời vận mãi tận Hà Nội, rồi cũng đến-làm cu ly xe tay, vú em, đầy tớ. Cha thằng Khoa là người may mắn. Anh-em nó được đi học, được hưởng văn minh thành thị. Trở về quê hương,-giữa đám trẻ con nghèo dốt, tự nhiên, thằng Khoa sáng nước. Sự láu lỉnh-của Khoa đã chinh phục hết nhi đồng trong thôn của nó. Chỉ cần kể-chuyện Zorro, cứu khốn phò nguy, chuyện cao bồi bắn mọi da đỏ, chuyện-Tác Dăng chúa tể sơn lâm, là bọn nhóc con sẵn sàng hoan hô Khoa.
Dưới mắt nhi đồng Tường An, thằng Khoa giỏi nhất hạng. Khoa biết đá-bóng. Quả bóng ten nít trụi lớp lông trắng bọc ngoài, còn trơ cao su-đen thùi của Khoa cũng bắt nhi đồng thèm muốn. Vui lắm, Khoa mới cho-bọn nhóc đá bóng cao su. Còn thì toàn bẻ bòng xanh, đem nướng mềm, kéo-nhau ra bãi tha ma, Khoa dạy bọn nhóc đá bóng. Nó lấy đất cầy,-xếp cột gôn, đem những gôn Luyến, a văng xăng Vọng trộ bọn nhóc. Nào, gôn-Luyến đôi tay dính nhựa mít sơ lanh, dính hơn nhựa mít. Nào, a văng xăng-Vọng, đôi chân súng đồng, sút bóng như sút tảng đá. Khoa nói gôn với a-văng xăng…, bọn nhóc chẳng hiểu gì, phục Khoa sát đất. Nó chê anh-Phúc diễn kịch, đóng vai Tây không biết một tí tiếng Tây nào. Anh Thái-đóng vai Việt gian, vất đi. Nó khoe sẽ diễn kịch, đóng vai Tây, nói-tiếng Tây như… thật. Khoa hay ưỡn ngực: Tao học trường Monguillot,-cơ mà!
Điều khiến Khoa hậm hực, là nhi đồng Tường An thiếu bộ trống-đồng. Từ hai năm nay, Tường An không nằm trong huyện Vũ Tiên nữa, mà-hướng sang huyện Thư Trì. Tường An biến thành ranh giới Vũ Tiên-Thư-Trì, và thuộc xã Đại Đồng. Mỗi kỳ đại hội nhi đồng xã, tụi Đồng Đức, Đại-Đồng đeo trống đánh vang lừng. Tường An đứng nghe, mà mơ ước có bộ-trống đồng. Tường An nghèo quá, quỹ làng xác xơ, lấy đâu sắm trống-đồng. Tiền nguyệt liễm chả ăn thua gì. Vụ chiêm vừa rồi, nhi đồng đi mót-lúa, cắt rạ thuê, vẫn không đủ tiền mua trống. Khoa hy vọng, cuối năm,-nhi đồng tát ngòi bắt cá và đi hôi cá, Tường An sẽ có trống đồng.-Trống đồng tuyệt diệu. Đêm ngủ chợt thức giấc, Khoa còn nghe tiếng-trống đồng, từ làng Đồng Đức, vọng sang. Và, Khoa nuốt nước bọt. Nhi-đồng Tường An đá bóng hạ nhi đồng Đồng Đức hàng hai chục quả; một mình-Khoa sút lọt gôn Đồng Đức mười bốn quả. Nhi đồng Tuờng An hát hay-nhất xã. Nhi đồng Tường An vẽ chân dung bác Hồ, theo trí nhớ, được-xã khen. Nhi đồng Tường An chỉ thiếu một bộ trống dồng.
Thề hát tới khúc chiến thắng
Thề phanh thây quân xâm lăng
Việt Nam anh dũng hát câu khải hoàn.
- Mốt, mốt, mốt hai mốt… Mốt, mốt hai mốt…
Đội nhi đồng đã qua cầu Chờ, sắp rẽ vào sân đình. Trung đội trưởng Khoa đếm-nhịp thật lớn. Ở sân đình, đội nhi đồng của trung đội trưởng Huệ đang-hát bài Quân dân nhất trí. Và, thằng Huệ đếm nhịp hùng dũng ra phết.
Huệ không ghét Khoa, nó muốn tỏ nó không thua Khoa. Huệ là thằng nhóc tháo-vát nhất thôn trên. Nó theo học võ với ông Tô Đại Hồng, ở Ô Mễ. Huệ-biết đánh trung bình tiên, đánh côn. Hễ đêm nào có kịch, là Huệ lên-sân khấu múa bài mai hoa quyền, để ganh đua với Khoa cái tài vừa gẩy đàn-banjo vừa hát. Huệ bán kim chỉ, ở chợ phiên Ô Mễ. Chợ búa quen rồi, nên-Huệ khôn ngoan. Anh Lý yêu cả Khoa lẫn Huệ. Anh đặt một giải thi đua-cho hai đội nhi đồng. Bỗng nhiên, Huệ và Khoa trở thành hai đối thủ. Cuối-tháng này, hai đội nhi đồng sẽ hát thi, diễn kịch thi. Đội nào hay,-trung đội trưởng sẽ đại diện Tường An, chỉ huy toàn thể nhi đồng Tường-An, vào những dịp đại hội nhi đồng xã. Và, nếu có trống đồng, đội-thắng giải thi đua được sử dụng. Khoa đinh ninh rằng, đội nhi đồng thôn-dưới của nó sẽ thắng giải.
- Bên trái… quay! Mốt, mốt, mốt hai mốt…
Đội nhi đồng đã vào đến sân đình. Trung đội trưởng Khoa lăng xăng hô-hoán:
- Dậm chân… Dậm!
Hơn bốn mươi ông nhóc đang bước, bị phanh chân. Bây giờ, súng gỗ trên-vai, các ông đứng một chỗ, chân trái dậm, chân phải nhấc.
- Mốt, mốt, mốt, mốt hai mốt!
Nhiệt tình và lòng tự phụ tập trung dưới gót chân. Các ông nhãi dậm-chết thôi. Chân không mà có thể dậm lún đất. Ở hiên đình, đông đủ-thiếu nữ đang chuyện trò vui vẻ. Trung đội trưởng Khoa cứ tưởng có-nhiều đôi mắt theo rõi mình, nó làm ra vẻ quan trọng, chẳng một ai buồn-cười. Trong cái không gian và thời gian này, không một trò chơi nào-lố bịch hết. Toàn những trò chơi yêu nước. Ngay khẩu súng gỗ trên vai-nhi đồng còn quan trọng nữa là. Quan trọng cả với người lớn, cả với cụ-già. Con gà Huệ đang gáy. Con gà Khoa cần gáy hay hơn. Nó hắng giọng:
- Mờ trong bóng chiều… Một, hai, ba…
Đội nhi đồng thôn dưới cất tiếng hát:
… Một đoàn quân thấp thoáng
Núi cây rừng
Lắng tiếng nghe hình dáng
Của người anh hùng
Trên khu đồi hoang
Im trong màn sương
Ta ra đi trong một chiều buông âm u
Âm thầm trong khói mù
Bao oan khiên đang về đay hú với gió
Là hồn người Nam nhớ thù… (3)
Giá trời không sáng trăng và những bước chân không dậm nạnh, đêm khuya-vắng, nghe tiếng hát, người ta sẽ tưởng Đoàn quân ma đang đi diệt thực-dân Pháp. Bài hát chấm dứt, trung đội trưởng Khoa đếm nhịp:
- Mốt, mốt hai mốt…
Rồi hô:
- Đứng lại… đứng!
Một tiếng dậm thật đều, thật lớn. Im lặng. Trung đội trưởng Khoa biểu-diễn tài chỉ huy:
- Bên trái… quay!
Anh Lý đã tới. Huệ và Khoa nhường quyền chỉ huy cho anh. Anh Lý khuyên-nhủ nhi đồng hãy gắng sức học tập, để lớn lên đánh đuổi quân xâm lăng. Mỗi-buổi tối, anh Lý đều khuyên nhủ như vậy. Muốn được lên chiến khu thăm-bác, tất cả nhi đồng hãy thi đua yêu nước, nhất tâm vâng lệnh bác Hồ-và chính phủ kháng chiến. Nhi đồng lắng nghe lời anh Lý. Khuyên nhủ-xong, anh Lý kể những chiến thắng, của trung đoàn 44, ở Hưng Yên, Hải-Dương, ở liên khu 3, ở chiến khu Việt Bắc, ở Nam Bộ. Giặc Pháp chết tơi-bời. Sông Lô ối máu xâm lăng. Tàu thực dân Pháp bị bộ đội ta bắn cháy,-chìm nghỉm. Câu cuối cùng của anh Lý là: Cuộc kháng chiến của toàn dân-ta nhất định phải thành công, Việt Nam nhất định phải độc lập. Nhi-đồng nghe tin chiến thắng, reo hò vang trời. Ở trong tim các ông mặt trời-nhỏ đó, giòng máu kiêu hãnh đang réo sôi. Chờ nó réo sôi cực độ, anh Lý-nói:
- Tối nay, các em tập bắn quỳ, bắn nằm…
Súng gỗ đã là súng thật. Khúc cây cũng là khẩu súng. Và, khi anh Lý hô-bắn, đạn khạc ra đùng, đoàng… Trăng chiếu sáng hơn. Trăng say sưa-nhìn những đứa trẻ Việt Nam học tập yêu nưóc. Những tiếng đạn mồm nổ-liên tiếp. Như thể chiến trận đã về đây, xác thù ngập đường, kín lối.-Và, đêm không muốn sáng, với những đứa trẻ không muốn ngủ.
(1) Trích Du kích quân, của Đỗ Nhuận
(2) Trích Dân quân Việt Nam, của Đỗ Nhuận
(3) Trích đoàn quân ma, của Lưu Hữu Phước
68
-Trời trở lạnh. Ngoài đồng, lúa đã vào mẩy. Bèo trên mặt ao ngả mầu vàng-ối. Nhũng bè rau rút ngủ suốt ngày. Vì, gió lộng. Và, lũ gọng vó sợ-rét, hết ham đùa giỡn. Pháp đã chiếm giữ Nam Định. Ở bên này, ở ngôi-làng bé nhỏ dưới chân đê Trà Lý, đời sống thật bình thản. Không-ai sợ giặc Pháp cả. Mọi người chỉ đợi giặc Pháp qua Thái Bình, để cướp-súng giặc giết giặc. Bác Hồ đã dạy, Pháp đến Thái Bình là có thái bình.-Cho nên, dân Thái Bình nóng lòng chiến đấu. Bởi, Thái Bình là mồ chôn-thực dân Pháp. Bởi, Thái Bình chiến thắng, thì toàn quốc sẽ chiến thắng,-thủ đô Hà Nội sẽ được giải phóng, và Việt Nam độc lập muôn năm. Trên-tường đình, những câu thơ gửi gấm hy vọng kháng chiến thành công vào dân-Thái Bình, viết bằng mầu gạch non ngon mắt:
Bao giờ du kích Thái Bình
Diệt tan giặc Pháp thì mình lấy ta.
Bao giờ yên nước yên nhà,
Ba kỳ thống nhất thì ta lấy mình.
Dân Thái Bình hãnh diện, nhận trọng trách. Thành thử, mỗi người đều-trở thành chiến sĩ. Phụ lão cứu quốc, nông dân cứu quốc, thanh niên-cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, nhi đồng cứu quốc. Đoàn thể nào cũng tập bắn-súng gỗ, tập bò, và tập trận giả… Anh thợ rèn đầu làng đã thắng giải-thi đua, vì sản xuất nhiều dao găm, mã tấu. Anh mõ hèn mọn làm trưởng-ban tuyên truyền xung phong. Hhiệm vụ của anh vô cùng quan trọng. Anh-đã dựng xong bốn cái chòi thông tin, cao ngang ngọn cau. Buổi tối, anh bắc-loa đọc tin bộ đội giết giặc Pháp. Ông Tú nấu rượu nắm chức chủ tịch-Ủy ban kháng chiến hành chính Tường An. Lý trưởng Ngạn gia nhập du kích-thôn, bị trương tuần Hành bắt gác liên miên. Hễ ngủ gật, bị lôi ra-phiên họp phê bình gay gắt. Ông Năm, lang thuốc lá, nhờ để dành-trái bòng thật to và mua cái mũ tặng Hồ chủ tịch, được Hồ chủ tịch gửi-thư cám ơn, nên buổi họp toàn thôn, hay toàn xã, ông được ngồi ghế danh-dự, cạnh chủ tịch. Chánh tổng Hạp ngồi ghế cuối cùng. Ông Năm lồng bức-thư của Hồ chủ tịch vào khung kính, treo giữa nhà. Và, từ đó, ông xung-phong chữa bệnh không lấy tiền. Bộ đội về làng, ông đem cam, chuối,-tiền ủng hộ. Mỗi nhà có một hũ gạo kháng chiến, trước khi vo gạo-thổi cơm, bớt ra một nắm, bỏ vào hũ để, lâu lâu Ủy ban tới lấy, gửi-nuôi bô đội. Hũ gạo kháng chiến của ông Năm, luôn luôn, đầy nhất. Ông hí-hửng ghê lắm, đòi làm cha nuôi bộ đội, đóng góp hơn các bà mẹ nuôi bộ-đội.
Chẳng có ai không yêu nước. Lòng yêu nước thành thật đến ngây thơ. Ủng-hộ một cây tre, cũng là yêu nước. Không khí chờ đợi giặc, diệt giặc sôi nổi-liên tục. Đề phòng Việt gian len lỏi, đầu làng và cuối làng dựng cổng-tre vững chắc, đêm ngày canh gác cẩn mật. Ban ngày, người lạ mặt vào làng-bị hỏi chứng minh thư, bị khám xét kỹ lưỡng. Vô phúc ai mang cuốn sách-tiếng Tây màu xanh, đỏ, trắng, bị nghi mang cờ tam tài. Bèn bị trói chặt-giải về Ủy ban cứu xét. Ai thủ trong túi lưỡi dao cạo Gillette, còn bọc-miếng giấy in hình đầu Tây, bị nghi là Việt gian. Máy bay Bà Già bay tít-tắp trên cao, ai vô tình giơ tay vẫy, bị ăn no đòn. Ban đêm, qua cổng-làng, phải mang đèn. Phụ nữ canh gác sẽ cùng người đi đêm vấn, đáp-như sau:
Hỏi:
- Ai?
Đáp:
- Tôi.
Hỏi:
- Đi đâu?
Đáp:
- Đi, (Đi đâu thì nói rõ)…
Hỏi:
- Đứng lại! Đằng sau quay!
Nếu người đi đêm chưa kịp đứng lại, phụ nữ canh gác sẽ hô tiếp:
- Đứng lại! Đằng sau quay, kẻo tôi bắn!
Dù biết phụ nữ canh gác sẽ bắn súng gỗ, người đi đêm cứ tuân lệnh. Bấy-giờ, mấy chị phụ nữ từ vọng gác chạy ra xem có phải người trong làng-không. Đề phòng Việt gian là công tác hàng đầu, và sôi nổi liên tục.-Tạo không khí kháng chiến nhộn nhịp vẫn là nhi đồng súng gỗ. Mà nhi đồng-súng gỗ Tường An, chỉ có Khoa và Huệ. Mấy hôm trước, trong cuộc tập-trận giả, nhi đồng thôn dưới làm giặc Pháp, đóng đồn ở sân đình, bị nhi-đồng thôn trên, làm quân ta, đánh thua tơi bời. Giặc Pháp là phải thua.-Trung đội trưởng Huệ bắt quân ta, đeo lá đầy người, bò sước cả đầu gối.-Giặc Pháp bắn đạn mồm tưng bừng, quân ta không chết, chồm dậy xung-phong. Giặc Pháp biết thân phận, ngã sóng soài, hoặc giơ tay hàng.-Tướng Le Petit Khoa thoát vòng vây chạy trốn. Trung đội trửng Huệ dậm-chân bực tức. Tối mai, nhi đồng thôn dưới làm quân ta. Trận đánh sẽ-xẩy ra ở sân chùa. Khoa đã thề sẽ bắt sống Henri Rivière Huệ. Và, nó-dẫn nhi đồng thôn dưới ra gò Mối, tuyển lựa quân cảm tử.
Sương xuống ướt đẫm cỏ. Gió lạnh. Nhi đồng thôn dưới đứng co ro. Trung-đội trưởng Khoa huýt còi:
- Tập họp hai hàng dọc!
Nhi đồng lục tục vào hàng ngũ.
- Nhìn đằng trưóc… thẳng.
Trung đội trưởng Khoa đầy quyền uy.
- Thôi!
Những cánh tay buông đều đặn.
- Dậm chân… dậm!
Khoa đánh nhịp:
- Mốt, mốt, mốt hai mốt…
Và bắt giọng:
- Đường Lạng Sơn âm u ù u… Một, hai, một…
Nhi đồng hát vang;
Đường Lạng Sơn âm u ù u
Trời bình minh êm ru ù u
Vẳng nghe tiếng súng trong sương mù
Đường chiến khu bao la à a
Vệ quốc quân xông pha à a
Chiều im gió lắng nghe tiếng quân ca
Biên khu
Biên khu
Vang lời quân Chi Lăng reo hò
Cờ loang máu nhớ in thù xưa
Dưới trăng mờ ôi gió đưa
Tiếng hú
Tiếng hú
Ta nhìn qua Cai Kinh ngang tàng
Vọng tiếng súng Bắc Sơn ầm vang
Máu quân thù tràn đầy trên xá lang… (1)
Hơi thở từ lồng ngực thoát ra, bốc khói. Hơi thở làm nắng, làm mặt trời-đêm bắt sương khô, gió ấm. Những bàn châm dậm mạnh. Xác chết dưới gò-cũng rung động, huống chi người sống. Nhịp chân, lời ca, tiếng hô hoán-tạo khung trời đêm gò Mối thành khung trời bình minh thơ ấu, của những-ông nhô yêu nước. Bài hát đã dứt. Âm thanh còn lan tỏa đó đây. Khoa cho-bọn nhãi ngừng dậm chân. Nó hỏi:
- Có thằng nào rét không?
Câu trả lơì vỡ đất:
- Không.
Khoa nói:
- Tối mai, chúng mình phải bắt sống thằng Henri Rivière Huệ. Chúng mình-chơi bộ đội Ký Con, tiêu diệt hết đồn giặc Pháp.
Thằng Đàm lo ngại:
- Con nhà Huệ có võ.
Khoa hất đầu:
- Võ của Pháp như cái củ khấm! Võ thực dân chỉ để bắt gà.
Thằng Xương rít qua kẽ răng:
- Tao sẽ đá trả thù thằng Việt gian Hòe. Bữa nọ, nó đá tao đau quá.
Khoa lại hỏi:
- Chúng mày có muốn nhi đồng thôn dưới xuất sắc hơn nhi đồng thôn trên-không?
Bọn nhãi nhao nhao:
- Muốn… muốn…
Khoa đưa tay vuốt mái tóc ngắn:
- Thế, hôm nay, chúng mình tập trận thật chiến. Chỉ cần hai mươi cảm-tử quân, là đủ hạ đồn của thằng Henri Rivière Huệ.
Khoa cao hứng xô lô một khúc Chiến sĩ thành Tô:
Ta là người thành Tô xưa
Ta về đêm nay say sưa
Dao găm vung lên một tên Pháp rơi đầu
Xe bò xe tăng đốt cháy
Súng đạn thì ta cướp lấy (2)
Nó tưởng nó là chiến sĩ thành Tô, đang đốt cháy xe tăng của Pháp, ở Hải-Phòng.
- Yên chí, tao sẽ thộp cổ thằng Henri Rivière, bắt nó húp nước cáy!
Bọn nhãi không hiểu Henri Rivière là gì. Chúng phỏng chừng đó là-một thằng thực dân mũi lõ độc ác. Và, chúng chẳng thèm bắt trung đội-trưởng Khoa cắt nghĩa.
- Bây giờ, tao chọn hai mươi đứa làm bộ đội Ký Con, còn lại là thực dân-Pháp.
Thẳng Hội nói:
- Ông đếch làm giặc Pháp đâu. Ông làm quân ta cơ.
Khoa phân trần:
- Làm quân ta khổ lắm, mày dám nhẩy xuống ao bèo không?
Hội dõng dạc đáp:
- Dám.
- Mày dám chịu đánh đau không?
- Dám.
Nhiều thằng khác xin xỏ làm quân ta. Hầu như thằng nhãi mào cũng ghét làm-giặc Pháp và Việt gian. Làm giặc Pháp và Việt gian sướng vô cùng.-Toàn đóng đồn ở chân đống rơm, hay sân chùa, sân đình; không phải đeo-lá đầy mình và len lỏi trong bụi tre, bụi dứa. Giặc Pháp chuyên môn-thua, chuyên môn bị bắt trói nhốt một chỗ, nên chẳng thằng nào thích-làm giặc Pháp. Làm quân ta mà bị giặc Pháp đuổi, phải bông nhông xuống ao,-lặn thoát thân. Lạnh như cắt, vẫn bông nhông anh dũng. Lại dám nhẩy từ ngọn-đống rơm xuống bắt sống giặc. Hễ giặc Pháp bắt được, tra tấn đau cách-mấy, không được kêu la, mà phải noi gương anh Kim Đồng. Quân ta đánh-trận là chiến thắng. Chiến thắng thì vui khôn tả, hát hò liên hoan, nên-bọn nhãi cứ thích làm quân ta.
- Khoa ơi, tao đào giun cho mày câu cá trê, mày cho tao làm quân ta nhé!
- Tao xúc tép cho mày câu cá rô, nhớ không, Khoa?
- Cây ổi nhà tao có cái chạc đẹp tuyệt vời, tao sẽ chặt biếu mày, Khoa-ạ!
- Tao xung phong ăn cắp bòng non đá ban.
- Tao đan giúp mày bốn cái rọ cá rô.
- Tao cho mày hai cái ống lươn.
Trung đội trưởng Khoa lắc đầu:
- Tao khoái chỉ huy nhi đồng Tường An. Tao khoái nhi đồng thôn mình-sẽ giữ bộ trống đồng. Tao khóai quân ta sẽ bắt sống Henri Rivière Huệ.-A lê hấp, thằng nào đã làm giặc Pháp, không được làm quân ta.
Thằng Ngạn buồn hiu:
- Mày phải cho ông làm quân ta một lần chứ?
Khoa nói:
- Đêm nay, mày được làm quân ta đánh Henri Rivière.
Bọn nhãi chia đôi. Bên quân ta, theo trung đội trưởng Khoa, rời gò Mối.-Bên giặc Pháp, không có chỉ huy, đóng đồn tại chỗ. Giặc Pháp cầm chắc-thua bét tĩ, sau một hồi bắn đạn mồm loạn xà ngầu, nên các ông nhãi-chán nản. Khoa dẫn quân đi. Đi dưới ánh trăng mờ. Đi trong sương lạnh.-Nó nghĩ tới Vũ. Và, nó mơ thành liên lạc viên. Khoa có nhiều giấc mơ. Dễ-chừng, những giấc mơ của nó no đầy hơn cả những giấc mơ của Vũ, khi Vũ-bằng tuổi nó. Thời của Vũ thiếu tiếng trống đồng giục giã, từ làng bên-vẳng sang, mỗi đêm khuya, những lần Khoa trở giấc. Tiếng trống đồng-thật tuyệt diệu. Như thể tiếng quân reo mừng ngày kháng chiến thành-công. Khoa đã nghe lính khố xanh đánh trống đồng, thổi kèn bú rích. Tiếng-trống đồng của lính khố xanh không làm Khoa xao xuyến. Tiếng trống ấy ồn-ào và tầm thường quá đi thôi. Nó chả hòa với tiếng đập của trái tim-Khoa, cùng tiếng nứt của một mơ ước đâm chồi.
- Này Khoa…
- Gì?
- Tao cũng khoái đánh trống đồng. Phải bắt sống thằng Hăng e Huệ, thôn-mình mới được giữ bộ trống đồng à?
- ừ.
- Khoa ơi!
- Gì?
- Con Liên nó khen mày hát hay nhất làng đó.
Khoa im lặng. Thằng Đường ngỡ bạn chưa nghe rõ, nhắc lại câu mình đã nói:
- Con Liên nó khen mày hát hay nhất làng đó.
Khoa hỏi:
- Sao mày biết?
Đường đáp:
- Ông biết tỏng. Mà, mày hát bài Nhớ thủ dô hay thật.
Khoa lảng chyện:
- Chiều mai, mày nhớ chặt ít ống đu đủ nhé! Kiếm ít đất sét nữa.
Đường ngạc nhiên:
- Để làm gì?
Khoa vỗ vai chiến hữu:
- Bắt thằng Henri Rivière.
Đoàn quân đã lách qua bụi tre. Khoa cảm hứng, hát khe khẽ:
Vì nước suốt canh thâu,
trong đêm tàn chân lần đi
Lát sau xuyên bóng mờ, ta xông pha
Lướt qua rừng rú
Qua mưa gió giông tố ầm ỹ.
Ta nguyền thề quân tham giết quân tham… (3)
Khoa thấy, đêm nay, đoàn quân của nó mới giống Đoàn quân ma. Khoa tưởng-nó sắp chiếm được đồn Tây, để nhìn rõ nụ cười hai má lúm đồng tiền của-con Liên.
(1) Trích Lạng Sơn, của Phạm Duy
(2) Trích Chiến sĩ thành Tô, của Canh Thân
(3) Trích Đoàn quân ma, của Lưu Hữu Phước
69
-Henri Rivière Huệ đóng quân ở sân chùa. Ngôi chùa mới tiêu điều làm-sao, chứ? Không có cửa, cũng chẳng có cổng. Tượng bụt ngổn ngang. Ông-thì mất râu, bà thì mất tai. Trước và sau chùa, người ta đánh những đống-rơm to tướng. Chùa chả có sư gì cả. Cột mọt ăn tứ tung. Mái nhìn-thấy trời. Gà qué rủ nhau vào chơi, gáy ỏm tỏi. Bụt hết thiêng, nên gà-nhẩy cả lên đầu bụt, mà mổ lia lịa. Hương khói vắng ngắt. Chùa bị dân-làng bỏ phế. Thiếu cả quả chuông.
Cách đó chừng trăm thước, ngay trên-đất làng Tường An, lại có một ngôi chùa thật đẹp, nhưng là chùa của-làng Đại Đồng. Ngôi chùa không có tượng bụt. Dân làng Đại Đồng ít lai-vãng. Thành ra ngôi chùa chỉ còn là nơi nhi đồng Đại Đồng tập đánh-trống.
Bà nội Khoa bảo rằng, ngày xưa, hai ông tiên chơi chọi gà, đem-chùa Tường An và chùa Đại Đồng đặt cuộc. Tiên làng nào thua, làng ấy-mất chùa. Tiên Đại Đồng ăn gian, mang gà gỗ dự trận. Tiên Tường An-ngay thẳng, vác gà thật chọi với gà gỗ. Chọi ba ngày liền, gà của-tiên Tường An chết lăn cu lơ. Làng Tường An mất chùa, phải dọn tượng-về cái vựa thóc thờ cúng tạm, chờ ngày xây chùa mới. Khi tiên Tường An-biết mình bị tiên Đại Đồng gạt gẫm, chùa Tường An đã thuộc làng Đại-Đồng. Ông sư, bà vãi bỏ đi kiếm chùa khác. Tiên Tường An hứa xây một-ngôi chùa lớn hơn. Bao nhiêu năm ròng rã, tiên mải hạc nội mây ngàn,-không thèm trở lại, và ngôi chùa tạm càng ngày càng tiêu điều. Tường-An không có chùa, vì thế.
Henri Rivière Huệ đang chiếm ngôi chùa hoang-phế. Bọn giặc Pháp và Việt gian canh chừng cẩn mật, đề phòng quân ta-tấn công. Huệ không muốn làm một tên giặc Pháp tầm thường. Cũng như-Khoa, nó sẽ đánh nhau với quân ta quyết liệt, trước giờ đầu hàng. Chọn-sân chùa, là Huệ khôn lắm. Nó chỉ canh phòng ba mặt. Đằng sau chùa, có cái-ao đầy đặc bèo Nhật bản, ăn thông ra con ngòi, quân của Khoa khó-lòng tấn công đồn Pháp, mặt sau. Buổi chiều, Huệ đã một mình lén tới-chùa, bê những ông tượng đắp thành hình tròn, trống khoảng giữa. Nó sẽ-trốn trong đó, nếu hết đường tẩu thoát. Giặc Pháp hái hàng bị sung-xanh, ổi xanh làm lựu đạn, chống giữ đồn. Huệ tin chắc Khoa không thể-thắng nó dễ dàng. Nó chờ đợi Khoa.
Ở cầu Chờ, quân ta tập trung đông đủ. Hễ được làm quân ta đi đánh-thực dân Pháp, chẳng ông nhãi nào chịu nằm nhà, nhất là những ông nhãi-cứ bị làm thực dân Pháp và Việt gian, những lần chơi trận giả tại-thôn mình. Trung đội trưởng Khoa, và hai mươi cảm tử quân mặc trần xì-mỗi cái quần đùi. Những đứa khác, đeo lá đầy mình mẩy, trên đầu đội lá-trang. Bộ đội về làng, thường mang lưu đạn hình thù giống cái chày giã-cua, gọi là lựu đạn chày. Quân ta lấy đất sét, nặn lưu đạn chày.-Vài ông nhãi xé lá chuối gói gio, làm tạc đạn. Đội cảm tử cầm ống đu đủ.
Khoa dõng dạc hỏi:
- Thằng nào thích noi gương anh Kim Đồng?
Nhiều cánh tay giơ lên. Khoa phê bình từng đứa:
- Thằng Quyền bị kiến lửa đốt, cũng khóc. Thằng Nhân ngã khẽ, cũng kêu-đau. Thằng Tí không dám bắt cá trê, sợ ngạnh đâm nhức tay. Thằng Hòa bị-chó đuổi, cắm đầu chạy… Chúng mày noi gương anh Kim Đồng thế quái-nào được.
Anh Kim Đồng dũng cảm phi thường. Cha anh là ông Hương bị giặc giết.-Mẹ anh chết luôn. Anh xung phong làm liên lạc viên cho bộ đội để… yêu-nước và rửa thù nhà. Bộ đội đã diễn kịch Kim Đồng. Đoạn Kim Đồng-chịu thử thách, khán giả nhô con đứng cả tim. Anh bộ đội hỏi Kim Đồng:
- Muốn làm liên lạc viên, em phải để anh chặt một cánh tay của em.
Anh Kim Đồng không suy nghĩ, đưa cả hai tay lên bàn:
- Em xin được chặt cả hai tay.
Anh bộ đội vung mã tấu. Khán giả nhô con hồi hộp. Mã tấu vung cao, quật-xuống. Cách tay Kim Đồng một gang, mã tấu dừng lại. Anh bộ đội khen-ngợi Kim Đồng:
- Em dũng cảm quá, Kim Đồng. Anh thử lòng kiêu hùng của em đó thôi. Em-xứng đáng là nhi đồng Việt Nam.
Khán giả nhô con vỗ tay, hoan hô anh Kim Đồng. Đoạn Kim Đồng bị giặc-Nhật bắt, tra tấn tàn nhẫn, anh quyết chết không tiết lộ bí mật,-khán giả nhô con đả đảo phát xít Nhật, và đứng dậy hát vang:
Anh Kim Đồng ơi anh Kim Đồng ơi
Tuy anh qua đời
Gương anh sáng ngời
Đoàn tôi cố noi…
Trên sân khấu, tấm màn thô sơ khép lại.
Trung đội trưởng Khoa chỉ định một Kim Đồng:
- Tao cho thằng Hiển làm anh Kim Đồng.
Hiển hí hửng:
- Tao thề thà chết vinh hơn sống nhục!
Và, Kim Đồng Hiển ra đi để… bị Henri Rivière Huệ bắt. Khoa đã rỉ tai-dặn nó phải khai gì với Huệ. Kim Đồng Hiển cắm cổ chạy. Gần đến đồn-giặc, Kim Đồng phanh chân, lững thững vừa đi, vừa hát:
Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
Bên đèo tiếng gió reo ngàn thông reo
Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều
Bên đèo đoàn quân reo đạn bay vèo
Hôm nay đây vai vác súng trông mây trăng gió buồn đứng
Chiều vàng nhớ núi rừng… (1)
Henri Rivière Huệ sai quân bò khỏi đồn, bắt sống tên liên lạc do thám của-địch. Quân giặc bò chậm quá. Kim Đồng Hiển đợi lâu, bèn chụm tay vô-miệng, tuyên truyền địch vận:
Người bạn tôi ơi
Người con của đất Việt
Ở bên phía quân thù
Người còn thức hay mơ
Bên kia là phía sầu u có người dân Việt gục đầu trên đất thù
Bên đây là phía tự do vẫn được ông già làm toàn dân chết co… (2)
Hiển là thằng nhãi vui nhộn. Nó nghe ai đó, trong đám dân tản cư, hát-trệch vẫn được cha già làm toàn dân ấm no, thành vẫn được ông già-làm toàn dân chết co, nó tưởng nó cũng hát cho vui, thế thôi. Giặc Pháp-đã vồ nó. Và, một tên thực dân dọa Hiển:
- Mày dám gọi bác Hồ là ông già, mày phản động!
Hiển nhanh trí:
- Ông làm Kim Đồng, ông giả vờ hát sai cho chúng mày tức, bắt ông tra-tấn ông…
Kim Đồng Hiển bị hai tên thực dân cầm cẳng lôi xềnh xệch vào nộp-chủ tướng Henri Rivière. Kim Đồng văng tục, và dọa:
- Lát nữa, quân ta chiến thắng, ông quăng hai thằng xuống ngòi.
Trời đã rét ngọt. Hai tên giặc Pháp sợ quýnh, vội lạy lục Kim Đồng,-và trút tội cho Henri Rivière Huệ:
- Con nhà Huệ bắt chúng tao lôi mày chứ, chúng tao đâu nỡ xử tệ…-quân ta.
Kim Đồng Hiển im lặng. Nó đã nằm dưới gót chân Henri Rivière Huệ.-Thằng thực dân nổi giận:
- A lê a la ba xi ba xu, may la Viet Nam tao danh may no đon…
Thằng Việt gian thông ngôn:
- Quan lớn bảo mày là Việt Nam, quan đánh mày no đòn.
Kim đồng phóng lên bãi nước bọt:
- Sư bố thực dân Pháp!
Henri Rivière đá Kim Đồng một cú:
- Mày chửi sư bố tao à?
Kim Đồng nói:
- Ừ đấy, ai bảo mày nói… tiếng Tây giả cầy! Pe rơ toa, Phờ răng xe!
Henri Rivière hỏi thông ngôn:
- A lê a la ba xi ba xu, Pe rơ toa, Phờ răng xe la cai gi?
Thông ngôn Việt gian lại hỏi Kim Đồng:
- Quan lớn muốn biết Pe rơ toa, Phờ răng xe là gì!
Kim Đồng quát:
- Là bố mày, giặc Pháp. Thằng Khoa dạy ông đó, con ạ!
Henri Rivière Huệ sai Việt gian kín đầy lọ nước ngòi, để gần chỗ Kim-Đồng Hiển nằm. Nó không thèm nói tiếng Tây nữa. Đá Kim Đồng một cú,-Henri rivière hỏi:
- Mày đi liên lạc, hở?
Kim Đồng đáp:
- ừa đấy, ông đi liên lạc đấy. Ông thà chết không khai gì sốt cả. Ông-là… Kim Đồng!
Henri Rivière cười khiêu khích:
- Giết mày chỉ tổ tốn đạn, ông gội đầu giúp mày. Hì hì hì, trời lạnh,-mà ông rưới nước từ từ xuống lưng mày, thì xương sống mày co lại, Kim-Đồng ạ!
Kim Đồng bỗng sợ quá. Nó trở giọng:
- Ê Huệ, tao khai hết. Tao ghét thằng Khoa lắm. Ông chơi trận giả nốt đêm-nay, sáng mai, ông sang Đống Năm ở với chú ông rồi. Ông đếch sợ thằng-Khoa. Ông muốn nó thua bét tĩ. Thằng Khoa đóng quân sau chùa Đại Đồng,-từ buổi chiều, nó chờ chúng mày buồn ngủ là tấn công.
Henri Rivière vuốt râu tưởng tượng. Nó hét inh:
- Mày đáng ăn c. cho anh Kim Đồng.
Henri Rivière Huệ ra lệnh:
- Tắm giùm nó!
Bọn Việt gian dội nước ướt hết áo Kim Đồng. Anh Kim đồng chửi bới um-sùm. Anh bị giặc Pháp trói ghì cánh khỉ, giam ở chân đống rơm. Henri-Rivière sai quân phục kích ngả chùa Đại Đồng. Nó đã mắc mưu trung đội-trưởng Khoa. Quân ta tụ họp tại cầu Chờ, một lúc lâu. Khi biết chắc-anh Kim Đồng quê hương Việt Bắc xa mù đã rơi vào tay giặc, cánh-quân tiên phong, do trung đội phó Mẫn sẹo chỉ huy, lên đường. Tiếng lá-ngụy trang kêu sột soạt. Trung đội trưởng Khoa nhìn đoàn quân đi, cảm-khái:
- Đoàn quân đi thấp thoáng trong đêm… Một, hai, ba…
Toán cảm tử hát vang:
Đoàn quân đi thấp thoáng trong đêm không một vì sao
Uốn khúc đường đào
Mưa trơn bùn sâu
Đoàn quân đi giữa sóng mến thương xuân về đầm ấm
Tôi thấy những nàng
Khăn hồng lệ thắm
Hẹn ngày mai chiến thắng chớ quên đường về làng xưa… (3)
Bài hát vừa dứt, một ông cảm tử quân xô lô:
Bao em tôi đôi mằt toét nhèm
Đang say mê cái nồi bún ốc
Hai mươi cảm tử quân cười rộ. Thế là cái lạnh biến đâu mất. Phía cầu-đình, khuất sau nhũng bụi tre, tiếng hát của toán quân Mẫn sẹo vọng-lại:
Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi
Nào có mong chi đâu ngày trở về
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi ra đi thà chết chớ lui… (4)
Mhư hâm nóng toán cảm tử quân của Khoa.
Trung đội trưởng Khoa oai vệ:
- Tao dặn lần cuối: Gần đến đồn giặc, lặn hết, tay trái bịt mũi, tay phải-cầm ống đu đủ. Nhớ thở bằng mồm, cấm ho. ống đu đủ nhô khỏi mặt nước-chừng gang tay thôi. Nào, xung phong…
Các cảm tử quân lần lượt nhảy xuống ngòi. Khoa dẫn đầu. Nó hô hoán:
- Lặn thử!
Hai mươi cái đầu của những ông nhô, tập làm anh hùng, chìm dưới mặt-nước. Chỉ còn những cái ống đu đủ nhô lên. Những ống đu đủ biết đi! Hai-mươi chiếc tầu-ngầm-người, sáng kiến của Khoa, của kháng chiến, của-một giai đoạn tuyệt vời của lịch sử dân tộc chống xâm lăng. Giặc Pháp-đã thua tơi bời, vì nhũng sáng kiến ngây ngô đó. Khoa nhô lên khỏi mặt-nước đầu tiên. Rồi, tất cả cùng nhô lên. Và, đi trên bùn. Rẽ nước, rẽ-bèo mà đi. Có thể chạy một mạch qua cầu đình, nhào xuống lặn ngòi cũng-được. Khoa không thích thế. Nó muốn quân ta phải gian khổ cơ. Càng gian-khổ bao nhiêu, càng là quân ta bấy nhiêu. Khoa có anh là thằng Vũ. Các-bạn của anh nó, là Côn, là Vọng, là Luyến, là Long, là Lộc đều chiến,-đều đã thắng tuị An Tập và tụi trường Tầu. Khoa sẽ chiến như Vũ, sẽ-đè bẹp thằng Huệ, để được giữ bộ trống đồng, nay mai. Khoa sẽ làm lác-mắt bọn nhi đồng Hải Phòng, Hà Nội tản cư về Tường An. Nó thèm chơi-thân với con Liên, như Vũ đã chơi thân với Thúy. Cứ bắt sống Henri-Rivière Huệ đêm nay, là Khoa có đủ thứ. Cái thứ nhất, chắc chắn, Khoa-sẽ chỉ huy nhi đồng cả hai thôn. Khoa thích thú, reo lớn:
- Đánh mạnh, đánh mạnh để chiếm lại thủ đô!
Toán quân cảm tử nô nức. Chúng chạy dưới nước. Qua cầu đình, trung đội-trưởng Khoa vỗ tay, những cái đầu chìm nghỉm. Chẳng ai biết, trừ trung-đội phó Mẫn sẹo đang cho quân tiên phong nằm sát vệ đường, mở mắt thao-láo, chờ ống khói tầu ngầm và con ngòi xao động, là tiến lên khiêu-khích quân thù, cho quân cảm tử đánh bọc hậu, bắt sống trọn ổ giặc Pháp.
(1) Trích Nhớ chiến khu, của Đỗ Nhuận
(2) Trích Người lính bên kia, của Phạm duy (đã đổi lời, khi vào Tề)
(3) Trích Đoàn quân đi, của Việt Lang
(4) Trích Vệ quốc quân, của Phan Huỳnh Điểu
70
Anh Kim Đồng rét run, nằm co quắp ở chân đống rơm. Kim Đồng quê hương-Việt Bắc xa mù, chắc cũng khổ đến thế này là cùng. Kim Đồng Tường An-vui lắm, vì Henri Rivière đã mắc mưu của nó. Kim Đồng hy sinh cho chiến-thắng. Không có Kim Đồng nào sung sướng cả. Muốn làm Kim Đồng, phải-chết vinh hơn sống nhục, phải dám tẩm xăng đốt cháy, nhẩy vào kho đạn-của giặc Pháp, như em bé Nam Bộ. Kim Đồng Hiểu sẽ lừng lẫy chiến khu,-giống hệt Kim Đồng trong bài hát. Bây giờ, nó đang ăn đòn nước lạnh của-thực dân. Và, nó mong quân ta từng giây từng phút. Cái bùi nhùi của-giặc trên thềm chùa chỉ muốn bốc cháy khi gió thổi mạnh. Hiềm vì bùi-nhùi quấn chặt quá. Lát nữa, Kim Đồng được quân ta cởi trói, sẽ rút rơm,-dùng bùi nhùi của giặc mồi lửa cháy bùng, để sưởi ấm và hong khô-quần áo. Kim Đồng cười thầm, nhìn Henri Rivière dẫn quân đi bao vây-quân ta, bên chùa Đại Đồng, ngôi chùa mà ông tiên làng Trường An chọi gà-bị thua ông tiên làng Đại Đồng.
Chờ Henri Rivière ra khỏi đồn khá xa, Kim Đồng dọa bọn giặc Pháp còn-lại:
- Thằng nào đầu hàng trước nhất, sẽ không bị quân ta quẳng xuống-ngòi.
Giặc Pháp đã biết rõ số phận của nó. Hung hăng cách mấy, rồi cũng thua-bét tĩ. Chưa hề thấy giặc Pháp thắng trận nào. Giặc Pháp bị quân ta-đánh tơi bời, ở Nam Bộ, ở Việt Bắc. Hai nghìn giặc Pháp chết chìm dưới-đáy sông Lô. Bài hát ghi rõ chiến công hiển hách này:
Ai nhớ sông Lô
Giặc lên ăn cướp dân ta
Tôi nhớ sông Lô
Chiều nao phơi xác quân thù
Hỡi cô con gái giặt yếm bên bờ
Thuyền tôi đậu bến sông Lô
Nửa đêm nghe tiếng quân thù thở than
Than rằng
Khoan hỡi hò khoan
Hôm nào chiến sĩ Việt Nam
Trên dòng sông mênh mang
Tiếng thần công vang vang
Hai ngàn quân Pháp vùi thây
Oai hùng thay Lô giang… (1)
Tin bộ đội ta đánh giặc Pháp, đọc mỗi tối trên chòi phát thanh, toàn là-chiến thắng. Tầu giặc, bị bắn chìm. Máy bay giặc, bị hạ rơi. Xe tăng tầu-bò của giặc, bị đốt cháy. Giặc Pháp không được quyền thắng quân ta.-Giặc Pháp, trong các cuộc chơi trận giả, càng phải thua liểng xiểng.-Quân của Henri Rivière Huệ gạ gẫm:
- Đánh nhau một lát, rồi mới thua chứ?
Kim Đồng lắc đầu:
- Quân ta chỉ đánh toán quân của thằng Huệ thôi. Thằng Khoa bảo sẽ quẳng-hết chúng mày xuống ngòi. Đứa nào đầu hàng ngay, được tha.
- Chưa đánh đã hàng à?
- Ở Hải Phòng, vừa nghe tin bộ đội ta định đánh, tụi Pháp đã quăng-súng khóc sướt mướt, xin tha tội. Tụi mày không nghe tin chiến sự, hả?
- Có.
- Thế còn đòi đánh cái con khỉ gì nữa?
- ừa, tụi tao hàng.
- Thả tao đi.
- Không.
- Sao?
- Thả mày, thằng Huệ nó sẽ khền tụi tao. Mà, Kim Đồng phải chết mới anh-dũng. Kim Đồng sống nhe răng chán lắm, không giống kịch.
Thằng giặc vừa nói, vừa cười. Nó đá Kim Đồng một cú đau điếng:
- Đừng khôn lỏi, Hiển vổ! Kim Đồng vổ thích sống nhục hơn chết vinh.
Kim đồng vổ giở võ dọa:
- Ông sẽ cho mày xuống ngòi mò ốc.
Giặc Pháp khoái trá:
- Chúng tao rút lui có trật tự, thằng vổ ạ! Bọn thôn dưới chiếm đồn-trống, bắt tượng làm tù binh. Còn chúng tao về nằm khoèo ổ rơm, ăn ngô-rang.
Và, giặc Pháp hành hạ Kim Đồng vổ không nương tay. Khi ấy, nằm sát vệ-đường làng, trung đội phó Mẫn sẹo căng mắt chờ ống khói tầu ngầm. Quân-ta hối chỉ huy:
- Tấn công chưa, Mẫn sẹo?
- Gượm đã.
- Mày bắt chúng tao ngủ suốt đêm à?
- Đợi thằng Khoa.
- Xung phong đi! Ông nóng lòng giết giặc, giành độc lập quá rồi.
Mẫn sẹo không thể nhìn rõ ống khói tầu ngầm. Vì, trời đêm may-thiếu trăng. Nó đã nghe rõ tiếng òng ọc của bùn, dưới đáy ngòi cuộn-lên. Và, những đám bèo di chuyển. Thằng Khoa đó. Mẫn sẹo hạ lệnh:
- Bò số một!
Toán quân tiên phong lết, cơ hồ loài rắn. Hai khuỷu tay mỗi quân ta-dùng thay chân. Đã tập bò, tập bắn, ném lưu đạn, quân ta áp dụng đúng-các kiểu bò, mà anh Lý huấn luyện. Anh Lý không dạy chiến thuật… tầu-ngầm. Đang thở bằng ống đu đủ, Khoa vẫn có thể mơ mộng rằng, anh Lý-sẽ khen ngợi nó và nhi đồng thôn dưới. Biết đâu chừng, anh Lý sẽ viết-thư gửi bác Hồ. Bác Hồ sẽ gửi thư cho Khoa, như bác Hồ đã gửi thư cho-ông Năm.
Mẫn sẹo không biết mơ mộng. Nó bò thật chậm. Tới cổng đồn-giặc, Mẫn sẹo ngừng lại, chờ Khoa lặn nốt khúc ngòi, để tiến về cái-ao, phía sau chùa. Đồn còn cách vài chục thước. Giặc Pháp nghênh ngang-đi đứng. Quân ta có thằng ngửa cổ ho. Mẫn sẹo xuỵt xuỵt. Thằng quân-ta buồn ho, bịt miệng, gục mặt xuống cỏ mà ho. Nó ho khổ, ho sở. Ho-là đồ… Việt gian phản quốc! Những lúc không dược phép ho, nó cứ-thèm ho. Một thằng quân ta ho là, y rằng, nhiều thằng quân ta khác-lây ho. Mấy đêm trước, Khoa dẫn quân đi đột kích bòng của ông lang Căn, chỉ-vì ho, mà bị bầy chó của ông lang Căn sủa inh ỏi, chạy trối chết. Mẫn-sẹo sợ lộ mục tiêu, cảnh cáo:
- Thằng nào ho sẽ bị khai trừ.
Bị khai trừ là chịu đựng một hình phạt đau đớn nhất. Nhiều thằng quân-ta cấu cổ cho đỡ ngứa. Rồi, hết ho. Mẫn sẹo đếm thầm từ một tới hai-trăm. Nó tính đoạn đường nước của toán quân cảm tử. Mẫn sẹo truyền-lệnh:
- Chuẩn bị tấn công!
Toán quân tiên phong ngồi dậy. Mẫn sẹo hét lớn:
- Xung phong!
Quân ta ào ạt chạy. Hhững trái lựu đạn chầy, nặn bàng đất sét, nung-khô, tung lên… Tung đúng sách vở dạy. Rút kíp tưởng tượng, đưa ra-đàng sau, dộng xuống gót chân, đếm một hai ba, và ném. Ném xong, vội-vàng nằm rạp chờ tiếng nổ. Giặc Pháp chống trả mãnh liệt. Quân ta hứng-đạn ổi xanh, bòng non lốp bốp. Tạc đạn gio phóng vào đồn giặc. Bụi bay-tung toé. Một thằng Pháp gọi ơi ới:
- Huệ ơi, chúng nó tấn công rồi! Về cứu tụi tao, mau lên!
Henri Rivière Huệ đang bao vây quanh chùa Đại Đồng, nghe tiếng kêu cứu,-hai chân bốn cẳng chạy về đồn. Nó nguyền rủa thằng Kim Đồng vổ. Anh-Kim Đồng mừng rên:
- Quân ta đâu, giải phóng tao đi chứ?
Năm thằng quân ta liều chết, vượt qua làn đạn ổi xanh của giặc, cứu Kim-Đồng.
- Mày ở đâu hả, Hiển?
Kim Đồng ngẩng đầu:
- Tao bị giam ở chân đống rơm.
Quân ta nhào tới đống rơm, lôi Kim Đồng ra khỏi đồn giặc. Vừa lúc Henri-Rivière Huệ kéo quân về. Giặc Pháp được tiếp viện, ném ổi xanh tưng-bừng. Quân ta đánh cầm chừng, theo đúng chiến thuật của trung đội trưởng-Khoa. Đột nhiên, trong toán quân ta có vị anh hùng chửi bậy:
- Mẹ bố đứa nào ném cứt trâu trúng ông đấy?
Giặc Pháp cười ha hả:
- Ông chứ còn ai? Mìn rùa đó, con ạ!
Quân ta hứng thêm nắm bùn. Mẫn sẹo biết là trung đội trưởng Khoa đã-lên bờ. Nó cho quân rút lui. Henri Rivière truy kích.
Toán quân cảm tử,-lặng lẽ, tiến vào trong chùa. Quân của Mẫn sẹo chạy thật nhanh. Bất-chợt, Mẫn sẹo dừng lại phản công. Lựu đạn chầy nguy hiểm vô cùng. Thằng-giặc nào bị trúng cũng kiếp vía. Henri Rivière sợ lựu đạn chầy,-chuồn gấp. Quân của Mẫn sẹo đuổi theo. Giặc Pháp về tới đồn, cảm tử-quân của Khoa nấp ở trong chùa, ào ra. Henri Rivière bị hai gọng kìm-kẹp chặt. Hai bên sáp lá cà, đấm đá nhau túi buị. Henri Rivière tả xung-hữu đột, múa mai hoa quyền. Trung đội trưởng Khoa quyết bắt sống Henri-Rivière, xem chừng, khó khăn.
Thằng Đường làm hỏng công phu của Khoa.-nó xung phong quá sớm. Khoa đã phân công tác: Chờ Henri Rivière-đến gần, một tiểu đội cảm tử, bất thần, phóng ra ôm chặt Henri-Rivière, trói gô nó. Thế là nó hết múa mai hoa quyền và đá song phi. Con-nhà Đường ngu dốt, ngứa mồm hô xung phong. Kế hoạch hỏng, toán quân cảm-tử đành xuất đầu lộ diện.
Bây giờ, cả hai bên không dùng lựu đạn chầy đất sét, tạc đạn gio, và-đạn ổi xanh, bòng non giết nhau nũa. Sáp lá cà là vật lộn, đấm đá,-cấu véo. Vài cảm tử quân của ta muốn kết thúc chiến trường nhanh chóng, để còn-đốt rơm sưởi cho ấm, lẻn ra phía ngòi bông nhông xuống nước. Giặc Pháp-ngu dốt bám sát. Cảm tử quân móc bùn pháo kích. Giặc Pháp ăn no đạn bùn, la-bai bải. Cảm tử quân bứng bùn lên bờ. Đạn bùn tung vào chiến trường.-Giăc Pháp trốn lủi, hàng ngũ tán loạn. Henri Rivière Huệ bị vây chặt. Nhiều-tên thực dân và Việt gian đã đầu hàng. Một thằng mũi lõ nhanh trí-khôn, hô to:
- Nghiêm!
Nó cất gọng hát quốc ca:
- Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc…
Giặc Pháp hát theo. Cả quân ta lẫn quân Pháp ngưng chiến, đứng thẳng-như đang chào cờ. Henri Rivière lợi dụng giờ ngưng chiến, phóng khỏi vòng-vây, chạy vô chùa. Quân ta quên chào cờ, quên luôn cờ in máu chiến thắng-mang hồn nước, quyết bắt Henri Rivière. Tên giặc hô nghiêm và hát đoàn-quân Việt Nam đi bị đạp ngã sõng soài. Nó gang họng đôi co:
- Chúng mày không chào cờ là đồ phản quốc!
Quân ta cãi:
- Giặc Pháp dã man không được chào cờ Việt Nam.
Trận chiến tiếp tục. Giặc Pháp bị bắt quá nửa. Những đứa khác thoát cảnh-tù binh, chạy về nhà nằm ngủ. Anh Kim Đồng Hiển, tức Hiển vổ, cậy mình-lập chiến công đầu, đòi quyền xử tù binh. Và, anh đã quăng hai tên-giặc lôi anh, như lôi chó chết, xuống ngòi. Những tên giặc tưới nước-lạnh tra tấn anh, bị anh lấy bùn đắp kín đầu tóc, lỗ tai, và giật đứt-hết giải rút. Lại bắt tù binh đứng thẳng, giơ tay. Quần của tù binh-trễ quá đùi. Tù binh phải dang chân đỡ quần khỏi tụt. Quân ta ôm-bụng cười, mừng chiến thắng. Mẫn sẹo tịch thu bùi nhùi, sai tù binh kiếm-củi khô, rút rơm đốt… lửa trại.
Cảm tử quân, dưới quyền chỉ huy của-trung đội trưởng Khoa, đang lục soát trong chùa. Chùa tối om. Khoa bảo-Mẩn sẹo, mang rơm vào chùa đốt sáng. Vẫn không tìm được Henri-Rivière.
Kim Đồng nói:
- Hun nó như hun chuột, nó sẽ chui khỏi hang.
Trung đội trưởng Khoa mím môi suy nghĩ:
- Ông có cách rồi.
Khoa pha trò cười. Quân ta cười hinh hích. Henri Rivière ngậm miệng.-Khoa lôi một tên tù binh vào chùa, dụ dỗ không tra tấn, nó nhận lời ngay.-Nó mếu máo:
- Huệ ơi, bọn thôn dưới tước hết quần áo của chúng tao rồi. Bọn nó lột-trần truồng chúng tao. Mày không đầu hàng, bọn nó quẳng hết chúng tao-xuống ngòi.
Máu thực dân nổi lên, Henri Rivière phẫn nộ:
- Đồ khốn kiếp!
Trung đội trưởng Khoa hí hửng:
- Hết trốn núp nhé, thực dân. Mày thua ông rồi. Ra đi. Giơ tay lên!
Henri Rivière bị mắc mưu, ức hộc máu mồm, xô ngã một ông tượng, hai-tay giơ lên cao, lững thững ra. Cảm tử quân xông tới ôm chặt tướng-giặc, dùng dây trói tay, chân Henri Rivière, khiêng nó ra sân chùa. Đống-lửa đã cháy lớn. Quân ta nhìn rõ Henri Rivière buồn thiu. Trung đội-trưởng Khoa hỏi Henri Rivière Huệ:
- Thôn dưới xứng đáng giữ trống đồng chưa?
Huệ đáp:
- Còn thi đua chống giặc dốt nữa. Nếu chúng mày đoạt giải, thôn dưới-được giữ trống đồng.
Khoa nói:
- Chúng tao sẽ thắng, và tao sẽ chỉ huy cả mày.
Huệ nín lặng. Khoa tự tay cởi trói cho Huệ. Nó đứng dậy, lủi thủi bước.-Khoa cấm quân ta hành hạ tù binh. Thế là không còn quân ta và quân giặc-nữa. Tất cả vui hát bên đống lửa. Gần nửa đêm, nhi đồng thôn dưới xếp-hàng ra về. Mặt đường đất lại muốn nứt lở. Mây sợ hãi không dám che-lấp sao. Trời, cơ hồ, đã tan sương mù. Vùng trời êm ả của thôn quê lại-khuấy động bởi tiếng hát của một thời xao xuyến:
Những bông hoa ngày mai
Đón tương lai về tay
Đang xuân đời mỉm cười vui hát lên
Khi đoàn quân tiến về là đêm sáng dần… (2)
Đêm, có vẻ, sáng dần. Và, Khoa tưởng chừng nó đang kéo quân về thị xã-Thái Bình như, từ xa xôi, nhiều người đang tưởng quân ta kéo về Hà Nội,-chiếm lại thủ đô.
(1) Trích Tiếng hát sông Lô, của Phạm Duy (đã đổi lời, khi vào Tề)
(2) Trích Tiến về Hà Nội, của Văn Cao
(Còn Tiếp)
Gửi ý kiến của bạn