BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 77465)
(Xem: 63331)
(Xem: 40777)
(Xem: 32400)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Nhận định bài tổng kết về Phan Thanh Giản của “Người Anh Cả”* giới sử học Hà Nội

15 Tháng Mười Hai 201112:00 SA(Xem: 1320)
Nhận định bài tổng kết về Phan Thanh Giản của “Người Anh Cả”* giới sử học Hà Nội
51Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
51
Bài tổng kết “Chúng Ta Đã Nhất Trí Về Việc Nhận Định Phan-Thanh-Giản” của ông Trần Huy Liệu, “Người Anh Cả”* giới sử học ở Hà Nội, viết từ tháng 8/1963 tự nó không tạo ra vấn đề hay gây ảnh hưởng gì cả dù rằng không hẳn mọi người đã nhất trí như tựa đề. Bài báo chỉ đâm ra dễ sợ, gây nhiều bất mản sâu đậm khi nó theo đoàn quân chiến thắng tiến vào thủ đô Saigon năm 1975.

Lần đầu tiên trong lịch sử báo chí thế giới, bài của một tác giả, qua đời năm 1969, thảo luận về một nhân vật lịch sử, trở thành một án lệnh. “Nhà cách mạng sử học” họ Trần dựa vào ý thức hệ, đã tước bỏ mọi đức tính, sự nghiệp của cụ Phan khi cáo giác nhân vật này đã “theo giặc, chống lại cách mạng, phản lại quyền lợi tối cao của tổ quốc”.

Với bản án như vậy thì chỉ có tử hình. Đúng thế. Dù cụ Phan đã quyên sinh từ hơn một thế kỷ trước năm 1867, tháng 5/1975, tượng “Tội Nhân Của Lịch Sử” ở trường Phan Thanh Giản Cần Thơ đã bị cảnh vệ mắng nhiếc cụ là “tên bán nước, tên có tội với nhân dân, tên tự tử vì hèn nhát…” rồi dùng búa đập cho đến khi “chiếc đầu gãy lìa khỏi cổ”, trước sự chứng kiến của một số người tập trung để chuẩn bị đi học tập cải tạo trong đó có nhà văn Trần Hoài Thư.

Theo Giáo sư Văn Tạo, hai giáo sư Nguyễn Công Bình và Nguyễn Đổng Chi do Ủy Ban Khoa Học Xã Hội ở Hà nội trong thời gian đầu của cuộc “giải phóng”, đã được cử vào để đóng góp vào việc hạ bệ uy tín, ảnh hưởng của cụ Phan như đổi tên đường Phan Thanh Giản ở Saigon thành đường Điện Biên Phủ, đổi tên trường học; xóa bỏ hay hạn chế bớt việc duy trì và tu tạo những di tích lịch sử về cụ ở Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cần thơ.(1)

Phan, Lâm Mãi Quốc; Triều Đình Khi Dân

Bài báo còn viết gì? Ông Trần Huy Liệu, người Nam Định (1901-1969), từng làm Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền và Cổ Động, trong bài nói trên đã vin vào “dư luận nhân dân đương thời biểu hiện trong tám chữ đề cờ của dân quân Tân An, Gò Công mà thủ lãnh là Trương Định” để cáo giác cụ Phan là đã hàng giặc, dâng nước cho giặc. Ông cho rằng, cụ Phan “công đức đã bại hoại thì tứ đức còn có gì đáng kể”.

Bài viết của “nhà sử học cách mạng” Trần Huy Liệu, nguyên Viện Trưởng Viện Sử Hoc, đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 55 (10/1963), do ông làm Chủ Nhiệm và Tồng Biên Tập xuất bản ở Hà Nội, còn nói cái chết của Cụ Phan Thanh Giản là theo “đạo dữ, là bất nhân, là phản bội”. Ông tố cáo cụ Phan, đã “dâng toàn bộ lục tỉnh Nam Kì cho giặc”.

Ông Vũ Ngọc Khánh, một người trong giới nghiên cứu có dịp bàn về PhanThanh Giản, một Tiến Sĩ trí thức Nam kì có đầu óc canh tân, cầu hòa, uyển chuyển, cho biết lúc bấy giờ năm 1963, chính sách chung là không thể chấp nhận khuynh hướng đầu hàng, khoan dung; nên cái nhìn về Phan Thanh Giản trở nên khắc nghiệt, vì phải theo quan điểm lập trường nhất định (2). Quan điểm lập trường nhất định đó là gì?

Ban Chấp hành Trung ương đảng khoá III đã họp 25 lần từ tháng 5 đến tháng 12/60 để quyết định các vấn đề quan trọng của đảng CS và Nhà nước, trong đó “có vấn đề nhiệm vụ quốc tế của đảng ta bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác Lênin, các kế hoạch 3 năm và 5 năm để xây dựng cơ sở vật chất của Chù Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc, tổng tiến công và chiến thắng đế quốc Mỹ ở miền Nam”. (2.1)

(Ngoài ra, theo tôi dười chế độ công sản mọi thứ phải được sự phê chuẩn của nhà nước. Dân chúng không được tư do tôn vinh, ca tụng người nào nếu người đó không nằm trong tiêu chuẩn của Đảng và nhà nước; người hùng phải được cấp phép).

Điều đáng nói là sử liệu “dư luận đương thời tám chữ Phan Lâm Mãi Quốc; Triều Đình Khi Dân” mà “người viết sử chân chính” Trần Huy Liệu vin vào để kết tội cụ Phan có phải là một chứng liệu xác thực hay không? Ông Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa Học lịch sử Việt Nam trong bài “Phan Thanh Giản, con người, sự nghiệp và bi kịch lịch sử” cho biết, nguồn gốc và xuất xứ chưa rõ. Cần tìm hiểu thêm. (3)

Linh cữu học trò già

Hội Nghị Khoa Học về cụ Phan Thanh Giản tháng 11/1994 tại Vĩnh Long đã kết luận câu nói trên là một loại tồn nghi qua truyền miệng không đáng tin. Theo Ông Nguyễn văn Trấn trong cuốn “Chợ Đệm Quê Tôi” câu nói đó là câu nói của đàng ngoài. “Chớ tôi từng đọc sách sử, chưa thấy ở trong Nam này có sĩ phu bốc đồng nào nói ra câu bia miệng đó”. (4)

Đàng khác, Cụ Đồ Chiểu một lòng kính trọng cụ Phan; đã viết hai bài điếu cụ Phan và cuối đời trong bài “Văn tế lục tỉnh sĩ dân trân vong” đã cùng nói về Phan Học Sĩ và Trương Tướng Quân. Ông Nguyễn văn Châu, nguyên Trưởng ban tuyên giáo Tỉnh ủy Bến Tre, trong bài “Nguyễn Đình Chiểu hiểu biết về Phan Thanh Giản”, cho biết đọc hết các hịch truyền, cáo thị của nghĩa quân Trương Đinh tương truyền là do cụ Nguyễn Đình Chiểu viết không tìm thấy tám chữ này.

Vả lại, chữ mải quốc không có ổn. Mãi là bán; mà bán là một sự thuận nhượng để đổi vật; đổi mối lợi cho người bán. Không lẽ cụ Phan bán nước để lấy cái chết? Trước khi quyên sinh cụ gửi trả hết cho nhà vua chức tước, sắc phong; dặn con cháu không được cộng tác với giặc Pháp và chỉ đề chín chữ trên minh sinh cạnh quan tài cụ: linh cữu học trò già góc bể họ Phan. Ngôi mộ ở Ba Tri, Bến Tre, nơi sinh quán của cụ, gần như mộ một dân thường chỉ ghi: Lương Khê lão nông chi mô (ngôi mộ của người nông dân già họ Phan). Cụ thọ 71 tuổi (1796-1867).

Hai con trai của cụ, Phan Tôn, Phan Liêm, nổi lên chống Pháp tại tỉnh Vĩnh Long, lập thành nhóm Cần Vương từ tháng 7 đến tháng 11/1867; khi bị dẹp hai ông bỏ trốn ra Bình Thuận. Người ta lại gặp hai ông bên cạnh Nguyễn Tri Phương ở Hà nôi, rồi bị bắt giữ ngày 20/11/1873.

Dâng sáu tỉnh Nam Kỳ cho giặc

“Nhà sừ học cách mạng” Trần Huy Liệu còn gán cho cụ Phan tội dâng toàn bộ sáu tỉnh cho Pháp. Sư thực thế nào? Hòa Ước Nhâm Tuất 1862, Phan Thanh Giản thừa lệnh triều đình giao cho Pháp ba tỉnh miền Đông với một số tiền bồi thường để đòi lại tỉnh Vĩnh Long. Ba tỉnh miền Đông và Vĩnh Long đã bị Pháp chiếm sau khi thành Gia Định do Nguyễn Tri Phương trấn giữ bị thất thủ sau hai ngày rưởi đánh nhau. Giao hay không giao nó đã mất vào tay Pháp rồi.

Còn ba tỉnh miền Tây mất vì quyết định bất nhất của triều đình. Các người giữ thành Phan Thanh Giản, Trương văn Uyển, Nguyễn Hữu Cơ, Trần Hoan có trách nhiệm là để mất chớ không có giao. Hơn nữa, trước đó “có lời thẩm nghị của đình thần là: các quan chức phải bỏ thành không được kháng cự nếu quân Pháp tấn công” (5).

Ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ Tướng chính phủ, trong bài “Những suy nghĩ sau hai cuộc Hội Nghị về nhân vật Phan Thanh Giản viết “Càng có thời gian chúng ta càng thấy Phan Thanh Giản bị cái án oan. Nhưng Phan Thanh Giản là người rất nghiêm khắc với mình và vì vậy ông chấp nhận tất cả, kể cả cái chết do ông chọn ngày giờ và ra đi”.

Ngoài ra, là một nhà trí thức thành đạt nhất ở Nam Kỳ lúc bấy giờ, lại là một người nhân bản, cụ ý thức rõ không thể “lùa dê vào miệng cọp chỉ giết hại quân lính và làm tiêu tan tài sản của dân”. Vì cụ Phan:

“Thấy việc Âu Châu phải giựt mình
“Kêu gọi đồng bang: mau thức dậy
“Hết lời năn nỉ chẳng ai tin.”


nên cụ đã “quyên sinh, góp cái chết của mình để khóc cái chết của dân”. (5)

Tiến sĩ Võ Xuân Đàn, trường Đại Học Sư Phạm ở Saigon đặt một câu hỏi: “Trên tầm vĩ mô trách nhiệm mất VN, cuối thế kỷ XIX là Vương Triều Nguyễn. Ở tầm vi mô trách nhiệm này thuộc vua Tự Đức và Phan Thanh Giản. Tự Đức để mất nước VN; Phan Thanh Giản để mất Nam Kỳ. Còn Bắc Kỳ qua hai lần tấn công giặc Pháp củng đã chiếm được. Trách nhiệm để rơi về tay Pháp thuộc về ai mà việc mất Nam Kỳ luc tỉnh lại qui về cho Phan thanh Giản?” (6)

Thế kỷ XXI nhìn về cụ Phan

Tại Saigon ngày 16/8/03, tạp chí Xưa&Nay, Hội Khoa Học Lịch Sử VN, Hội Đồng Khoa Học Xã Hội phối hợp tổ chức tọa đàm khoa học “Thế Kỷ XXI nhìn về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản” đã phổ biến một bản văn nói “ý kiến đồng thuận chung là không thể coi Phan Thanh Giản là “kẻ bán nước”. Nhân cách của Ông, cống hiến của Ông cho đất nước đã chiếm được tấm lòng ngưỡng mộ của nhân dân miền Nam”. Cuộc tọa đàm này là cuộc trao đổi tiếp theo hai cuộc hội nghị về những năm trước (1987 tại Bến Tre và 1996 tại Vĩnh Long) cũng nhằm đánh giá về cụ.

Bản văn còn cho biết,”Đại biểu của nhiều tỉnh như Vĩnh Long, Bến Tre nêu nguyện vọng là Nhà Nước nên xem xét và đặt lại tên đường Phan Thanh Giản, trường học Phan Thanh Giản, sửa chữa bổ sung kiến thức về Phan Thanh Giản trong các sách giáo khoa, giáo trình để đông đảo đồng bào, nhân dân ta hiểu Phan Thanh Giản hơn và đặt Ông vào đúng vị trí trong lịch sử, trong đời sống văn hóa của nhân dân ta”.

Nhà văn Sơn Nam kể lại, hồi xưa khi đi ngang qua miếu Văn Thánh học trò phải cúi đầu chào ông Phan. Nhà văn nói: ”Tôi lại vào bên hông miếu Văn Thánh để cúi đầu trước bức ảnh cụ Phan, chớ nào ai vào chánh điện để chào ông Khổng, ông Tăng Sâm Tử Lộ”. Nhà văn đề nghi, “trong chương trình sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông, đủ tình đủ lý”. (7)

Theo Tiến sĩ Võ Xuân Đàn, “Ở Bến Tre, Vĩnh Long và cả Nam Kỳ lục tỉnh hàng trăm năm nay đã lưu truyền những chuyện kể, những truyền thuyết, giai thoại nói lên chí hiếu học, tinh thần yêu nước thương dân, cuộc sống thanh bạch, cần mẫn, liêm khiết, trung thực, khiêm nhường của Phan Thanh Giản và coi ông như một biểu tượng tốt đẹp và là niềm tự hào của quê hương xứ sở”. (6)

Phạm Phú Thứ; Nguyễn Đình Chiểu

Chẳng những vậy, “hầu khắp các tỉnh ở Nam Kỳ không chỉ luôn luôn nhắc nhỡ, nhân dân còn lập bàn thờ thờ ông tại một số đình, đền chùa, miếu. Không ít nhà dân đã treo chân dung ông nơi trang trọng để thể hiện tình cảm như đối với người thân đáng kính trong thân tộc”. (7.1)

Giới trí thức lúc bấy giờ như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông rất thông cảm nỗi lòng cụ Phan. Bài điếu văn dài 99 câu của Phạm Phú Thứ có những câu như: “Lòng yêu nước sâu kín của Ngài đối với nước nhà đáng khóc lên được... Ngài thật là một người học rộng và có phẩm cách hơn người. Có bao nhiêu người hiểu biết tình thế thật sư của nước nhà? Khi nghĩ lùi về nguyên nhân của trận giặc này, tôi rất buồn nhớ đến ý chí của Ngài (không được thực hiện). (8)

Cụ Đồ Chiểu, có ngòi bút “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, đã làm hai bài thơ điếu cụ Phan một bằng chữ nôm, một bằng chữ hán. Cụ chỉ viết thơ điếu cho ba người.Trương Định, Phan Thanh Giản, Phan Ngọc Tòng. Minh trong sạch trải thờ ba chúa. Không Ông ai che chở dân lành. Hay trong lễ truy điệu nghĩa sĩ tại chợ Đập, làng An Đức, Ba Tri năm 1883, cụ đọc: Ít người được xem tấm bảng phong thần, Phan học sĩ hết lòng mưu quốc (Phan học sĩ mưu quốc không thành, nhưng tên còn ghi trong tấm bảng phong thần). (9)

Cố học giả Vương Hồng Sển, trong cuốn Nửa Đời Còn Lại, chương “Trở lại, thử tìm hiểu cảnh ngộ quan Phan khi đi sứ sang Pháp”, ông viết, “bấy lâu nay (1990), tôi nghe đầy tai lời trách quan Phan làm cho mất nước và vua Tự Đức đứng đầu tội ấy. Thấp cổ bé miệng, tôi có dại gì cãi họ duy trong thâm tâm riêng tưởng họ chưa tới mắt cá quan Phan”.

Lợi dụng sự kiện lịch sử

Đánh giá một nhân vật lịch sử ngoài việc dựa vào tính xác thật của các sử liệu, còn phải tìm hiểu thái độ của nhân dân đối với nhân vật đó. Bài tổng kết của “Người Anh Cả ” giới sử học Trần Huy Liệu đã lợi dụng các sự kiện lịch sử để phục vụ cho mục tiêu chính tri: phải đập xóa Phan Thanh Giản; biểu tượng của một nhà trí thức, yêu nước, có đầu óc canh tân, đầy lòng nhân ái. Vì sao? Vì nó trái với chủ trương “dẫu cho phải đốt sạch dãy Trường Sơn” hay “đánh Mỹ cho đến người VN cuối cùng” trong khi tổng tiến công chiếm miền Nam. Theo tôi, đó mới thật là theo “đạo dữ, là bất nhân, là phản bội”.

“Nhà báo” và ”chiến sĩ cách mạng” Trần Huy Liệu có quyền có ý kiến riêng, phê phán, đánh giá nhưng phải dựa vào những sử liệu có thật. Không thể lập luận hồ đồ (sáu chữ trong bài tổng kết). Đúng. Không thể lập luận hồ đô. Phan Thanh Giản có dâng toàn bộ lục tỉnh Nam Kỳ cho giặc không? Không. Hơn nữa, dư luận nhân dân biểu hiện trong tám chữ đề cờ của dân quân Tân An Gò Công mà thủ lĩnh là Trương Công Định cho đến nay nguồn gốc và xuất xứ vẫn chưa rõ. Người viết sử không thể vin vào một sự kiện chưa rõ và không có cơ sở lý luận để kết tội một nhân vật lich sử.

“Nhà sử học” Trần Huy Liệu đã qua đời nhưng việc làm này không phải đơn độc, tự biên tự diễn; mà có hệ thống, có chỉ đạo. Vì sự công bình của lịch sử và là hậu duệ của cụ Phan, người viết bài này đòi hỏi các giới chức liên hệ; Viện Sử Học Việt Nam… phải có lời xin lỗi gia đình họ Phan chúng tôi về những cáo giác trong bài nhận định và những lời lẽ trong buổi đập tượng kết tội cụ Phan Thanh Giản trước một số đông người hồi tháng 5/1975 tại trường học mang tên cụ ở Cần Thơ.

Mặt khác, Giáo sư sử học Đaị Học Quốc Gia Hà Nội Phan Huy Lê, Chủ tịch Hôi Khoa học lịch sử VN, có nói rằng kết quả và thái độ của hội thảo chắc sẽ giải tỏa phần nào những mặc cảm bấy lâu đè nặng lên tâm tư của nhiều người kể cả con cháu Phan Thanh Giản (3).

Vâng. Điều này đúng cho những ai đã làm một việc sai trái, tầm bậy: dùng uy quyền và bạo lực đập đổ một danh nhân của đất nước. Riêng chúng tôi chẳng hề có mặc cảm gì hết. Vì cụ đã qua nhiều thử thách của thòi gian và thời đại. Xin trưng dẫn những lời nói về cụ:

-Thủ nghĩa để thành nhân; Ngài giữ trọn nghĩa vụ ấy (Phạm Phú Thứ);

-Một Học sĩ (Nguyễn Đình Chiểu);

-Cầu cho người được đời đời tiếng thơm (Đồng Khánh);

-Một sự nghiệp hiển hách (Phan văn Hùm);

-Một tấm gương cho cả thế hệ trẻ (thư một phụ huynh hoc sinh ở Cần thơ đề nghị lập tượng cụ Phan ngày 25/2/1966);

-Nhân vật lịch sử của Nam Bộ, của cả nước chứ không phải riêng gì Vĩnh Long và Bến Tre (Võ Văn Kiệt);

-Nhà yêu nước và người báo hiệu cho một nước VN mới (tựa sách của Phan thi Minh Lể).

Biết người mạnh; biết ta yếu

Nhân nhìn lùi về lịch sử vào những năm giữa thế kỷ XIX, thử xem phải chăng xu thế thiết lập hệ thống thuộc địa của Tây Phương là điều tất yếu? Không hẳn. Vào những năm này, thực tế cho thấy lưỡi gươm của Trương Công Định, Nguyễn Tri Phương,Thủ Khoa Huân…và ông vua Tự Đức do dự, bất nhất không thể ngăn chặn được âm mưu xâm lược của thực dân. Riêng Nhật Bản và Thái Lan là hai nước thoát được nhờ họ biết họ yếu; họ nhượng bộ; họ học hỏi.

Nước Việt Nam có ai biết không? Có. Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ… Học giả Vương Hồng Sển trong cuốn Nửa Đời Còn Lại cho biết cụ Phan đi sứ bên Tây về tâu: bên nước Pháp có thiết kiều, thạch lộ. Các quan trong triều chê: đi xa về nói khoác. Nước ta phú hữu tứ hải còn không đủ thép làm gươm mà họ có thép làm cầu. Họ làm gì có đá để lót đường vì trong khi nước ta không đủ đá để mài gươm cho sắc bén.

Trái lại, Nhật bổn sau khi hải cảng Tokyo bị hạm độị Mỹ oanh tạc, họ mở cửa cho nước ngoài vào buôn bán; nhượng bộ những yêu sách của Mỹ để đợi thời. Và chính nhờ vậy, nhờ sự đồng tâm, nhất trí Hoàng Đế Mejii (Minh Trị) đã có thể thực hiện công cuộc hiện đại hóa đất nước mình. Sau gần 44 năm cải cách (1868-1912), Nhật Bổn lên thành một cường quốc hiện đại và hùng mạnh(10).

Thái lan cũng biết rõ nhược điểm của mình. Không đủ khả năng quân sự để đối phó, họ mua chuộc Anh hay Pháp bằng những thỏa hiệp ưu đãi mậu dịch; cải tổ thiên Tây phương rất khôn ngoan và ngoạn mục nhất là chính sách mời các cố vấn Tây Phương đến để giữ cho các đế quốc được hài lòng (11).

Nước ta có hào kiệt nhưng không có thế và có thời; cọng thêm ảnh hưởng quá sâu xa nền văn minh phong kiến Trung Quốc nên mới ra cơ sự ngày nay.

Bài này được viết nhân tạp chí Thế kỷ 21, ở California (Hoa Kỳ), số tháng 9/04 có chủ đề về Phan Thanh Giản. Chủ bút tạp chí là nhà văn Phạm Xụân Đài, tức Phạm Phú Minh, hậu duệ của Phó Sứ Phạm Phú Thứ, trong sứ bộ Phan Thanh Giản sang Pháp và Tây Ban Nha (1863-1864). Âu đó cũng là một điều hay và may.

Phan Thanh Tâm
Shoreview - 8/04


* Những chữ trong ngoặc kép về ông Trần Huy Liệu là những chữ của Viện Sử Học VN;

1- về sự nghiệp & vai trò lịch sử của PTG cua gs Văn Tạo;
2-quần chúng cảm thông để l/s đỡ phần nghiêm khắc của Vũ Ngọc Khánh;
2.1- Nghị Quyết Đại Hội đảng kỳ III;
3-PTG con người sự nghiệp,và bi kịch l/s của Phan Huy Lê;
4-Chợ Đêm Quê Tôi của Nguyễn Văn Trấn;
5-nhân cách lớn của Hoàng Lãi Giang;
6-Hãy trả về cho TS Phan Thanh Giản những giá trị và những hạn chế đích thực của TS Võ Xuân Đàn;
7.1-Ông PTG đã dám nghĩ, dám làm và dám chịu của Nguyễn Hữu Hiệp;
7-Ban đọc & toa soan XưA&Nay số 146;
8-PTG và nỗi đau 100 năm của Hoàng Lại Giang;
9-Nguyễn Đình Chiểu hiểu Biết về PTG của Nguyen văn Châu;
10-bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuốc địa Pháp ở VN (1858-1897) của Nguyễn xuân Thọ;
11-Vương quyền Thái Lan đài BBC;
(1, 2, 3, 5, 6, 7.1, 9, là những ý kiến phổ biến trong các cuốc hội thảo vê PTG).
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn