BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73492)
(Xem: 62248)
(Xem: 39439)
(Xem: 31184)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Cuộc chiến cách tân VN khỏi chủ nghĩa CS và con rồng kỳ diệu Đặng Mỹ Dung

12 Tháng Năm 201112:00 SA(Xem: 1504)
Cuộc chiến cách tân VN khỏi chủ nghĩa CS và con rồng kỳ diệu Đặng Mỹ Dung
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00
Sau 22 năm dài nghiên cứu qua nhiều tài liệu của CIA, FBI và sách báo ngoại quốc và VN kể cả CS, đầu năm 2010, Tiến sĩ Roger Canfield xuất bản quyển “Comrades In Arms: How the Ameri-cong won the Vietnam war against the common enemy-America” (Bạn Đồng đội: Làm thế nào bọn Mỹ-Cộng đã chiến thắng trong cuộc chiến VN chống lại kẻ thù chung của Mỹ). Tác giả nhận định “kết quả cuộc chiến là người Mỹ đã thua mặt trận chính trị ngay tại Quốc hội Hoa Kỳ năm 1975 và ảnh hưởng của truyền thông và các phong trào hoà bình-phản chiến, chớ quân Mỹ không thua trận do bị cộng quân đánh”. Điểm khác biệt giữa sách này với hàng ngàn cuốn sách viết về chiến tranh VN là ở chỗ chưa có một cuốn sách nào nghiên cứu chi tiết các cuộc tiếp xúc và thăm viếng qua lại giữa chánh quyền Hà Nội và phe phản chiến tại Mỹ lúc bấy giờ

 Nhân dịp này, Đài VOA đã phỏng vấn Giáo sư Carlyle A. Thayer -một chuyên viên hàng đầu về VN tại Học Viện Quốc Phòng Úc Đại Lợi, Trường Đại học NSW, về nhận định của Ts Canfield. G/sư Thayer trả lời: “Cuộc chiến VN là cuộc chiến cách mạng kéo dài. Và hiểu theo cách CS đó là cuộc chiến kết họp giữa quân sự và chính trị. Đó là cuộc đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao. Tôi không đồng ý với ý kiến cho rằng HK thua tại mặt trận ở quê nhà. Có rất nhiều cuộc nghiên cứu sâu rộng về vai trò của truyền thông trong cuộc chiến này, nhưng không có kết quả nào ủng hộ ý kiến cho rằng phong trào phản chiến tại Mỹ đã thành công trong việc dẫn tới việc Mỹ rút quân ra khỏi VN. Tôi cũng không đồng ý với quan điểm cho rằng HK thua trận. Cuộc chiến mà HK đương đầu là một cuộc chiến cách mạng kéo dài và vì thế nói thắng hay thua là không họp lý, vì theo thời gian mục tiêu của nước Mỹ thay đổi. Mỹ đã không thành công trong việc duy trì độc lập cho phe Cộng Hòa ở VN. Đây không phải là cuộc chiến tranh hiểu theo nghĩa thông thường là một quốc gia xâm lược một nước khác, mà đây là cuộc cách mạng đổi mới, một cuộc chiến cách tân VN khỏi chủ nghĩa CS. (Trà Mi, VOA, 23-03-2010)

 Người viết bài này luôn cho rằng chính giới Mỹ đã lợi dụng phong trào hòa bình-phản chiến để thực hiện mục tiêu chiến lược của họ. Trong những năm đầu, truyền thông báo chí ủng hộ chính quyền Johnson can thiệp vào VN. Đến khi việc áp lực Hà Nội ngồi vào bàn đàm phán sắp đạt được kết quả, -tháng Hai 1967, Chủ tịch HCM chấp nhận đề nghị đàm phán của TT Johnson- từ cuối năm 1967 các phong trào hòa bình phản chiến bắt đầu bùng phát đòi chính phủ rút quân khỏi VN. Họ đã thể hiện “đệ tứ quyền” để bày tỏ nguyện vọng. Sau khi HĐ Paris ra đời, Quốc hội HK thể theo lòng dân, giảm dần viện trợ quân sự cho VNCH để áp lực TT Thiệu thi hành hiệp định hòa bình. Thời gian HK dùng sức mạnh quân sự để áp lực Hà Nội phải đàm phán là hai năm, tương đương với thời gian Quốc hội Mỹ giảm dần quân viện để áp lực TT Thiệu thi hành hiệp định hòa bình.

 Tôi có chung ý nghĩ với G/sư Thayer là HK không thua trận ở VN. Tôi còn nhận thấy LX đã lợi dụng việc HK tuân thủ HĐ Paris: tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân MN và không can dự vào công việc nội bộ MN, để ủng hộ Hà Nội thôn tính MN, sau khi HK rút lui. Từ đó HK đã đưa LX và các nước Đông Âu bước dần đến chỗ cáo chung vào cuối thập niên 1980. Dựa vào đâu để khẳng định điều đó? Là vì, ba tháng sau biến cố 30/4/1975, HK, Gia Nã Đại cùng LX và toàn thể 33 nước Âu Châu ký bản Định ước cuối cùng Helsinski ngày 1/8/1975. Tất cả đồng cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Âu Châu và không can thiệp vào công việc của các nước này. HK đã đáp ứng đòi hỏi này của LX và từ đó Brezhnev vững tin HK không thể ủng hộ Tây Đức thống nhất nước Đức. Nhưng 6 năm sau, từ 1981 Công đoàn Đoàn kết nổi lên ở Ba Lan, đe dọa sự sống của Nhà nước CS Ba Lan. LX liền điều động chiến xa chuẩn bị đàn áp như họ đã từng làm ở Hung năm 1956 và Tiệp năm 1968. Song lần này họ không dám liều lĩnh vì bản Định ước cuối cùng Helsinski. HK tuyên bố nếu LX dùng bạo lực can thiệp vào Ba Lan, HK cũng sẽ can thiệp bằng bom nguyên tử.

 Sự quyết liệt của HK khiến LX phải chùng bước. Trong vòng 26 tháng sau đó, ba lãnh tụ tối cao LX có lẽ vì quá quẩn trí trước tình thế, đã lần lượt qua đời: Breznhev (10/11/1982), Andropov (9/2/1984) và Chernenko (10/3/1985). Tân lãnh tụ Gorbachev chấp nhận sự tan rã của khối CS Đông Âu qua lời tuyên bố “bất cứ quốc gia nào cũng có quyền quyết định vận mạng riêng của họ”. Ông đề ra các biện pháp cải cách chính trị một cách sâu rộng như chế độ tổng thống được thành lập, vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng CS bị hủy bỏ, hệ thống đa đảng được chấp nhận. Kế hoạch cải cách của Gorbachev gặp sự chống đối của những thành viên bảo thủ trong Bộ Chính trị. Dựa vào quân đội, công an và mật vụ là ba công cụ của nền chuyên chính vô sản, nhóm bảo thủ tổ chức đảo chính lật đổ Gorbachev, nhưng bất thành vì quân đội, công an, mật vụ không nổ súng vào nhân dân. Cuộc đảo chính của phe cực đoan thất bại, quyết định đầu tiên của Gorbachev khi trở lại chính quyền là đặt Đảng CS LX ra ngoài vòng pháp luật, giải tán Ban chấp hành Trung ương và từ chức Tổng bí thư đảng.

 Từ 1991 LX và khối CS Đông Âu sụp đổ. HK ủng hộ tối đa TT Boris Yelsin trong vai trò lãnh đạo nước Nga trong thời “hậu cộng sản”. Chiến tranh lạnh chấm dứt, song mối thân tình giữa lãnh tụ hai siêu cường thù địch vẫn duy trì. Khi cựu TT Reagan qua đời, ông Gorbachev -cựu Tổng Bí thư Đảng CSLX và là cựu tổng thống LX đã đích thân đến HK tiển đưa ông đến nơi an nghĩ cuối cùng. Đó là sự suy nghĩ của tôi về “thời kỳ hậu VN”, tôi chưa hề có ý nghĩ sâu xa, rất hữu lý như Giáo sư Thayer về “cuộc chiến cách tân VN khỏi chủ nghĩa CS”. Nay nghĩ lại, nếu VNCH giành được thắng lợi trong cuộc tuyển cử dân chủ tự do theo tinh thần HĐ Paris 1973, thì sự tồn tại của MN tự do cũng không thể lâu dài. Một khi CS còn thống trị ở miền Bắc, họ sẽ tìm mọi cách để thôn tính miền Nam bằng mọi giá. Người ta kỳ vọng với sự sụp đổ của LX, VN sẽ theo gương các nước Đông Âu từ bỏ chủ nghĩa CS. Một chủ nghĩa bị Cộng đồng các nước Âu Châu lên án là phi nhân tính, là thảm họa cho các dân tộc và tội ác chống nhân loại.

 Đối với VN, chủ nghĩa CS còn làm mất nước khi Hà Nội chủ trương “hợp tác toàn diện” với Bắc Kinh. Hậu quả là ngày nay Ảỉ Nam Quan, Thác Bản Giốc trở thành một phần lãnh thổ của TQ. Hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc huyện Tam Sa của TQ. Toàn bộ biển Đông thuộc TQ. Sự “hợp tác toàn diện” dẫn đến sự lệ thuộc toàn diện, cuối cùng VN có nguy cơ trở thành một quận huyện của TQ như thời Bắc thuộc, vì hai lý do: một là tham vọng cố hữu của “thiên triều” TQ, hai là sự trả thù của CSTQ đối với CSVN mà Đặng Tiểu Bình gọi thằng là “phường vong ân bội nghĩa”.

 Trong tình thế như kể trên, từ hai năm trước HK tuyên bố trở lại Biển Đông sau khi TT George W. Bush tuyên bố với TT Nguyễn Tấn Dũng là HK “ủng hộ VN bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ” (6/2008). Ngày 28/4 vừa qua, trong lời phát biểu tại Arlington, Virgina, bà Michèle Flournoy, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng HK, phụ trách các chính sách khu vực Á châu, cho rằng “cần xây dựng quan hệ đối tác với Việt Nam. Đây là một trọng tâm trong việc xây dựng mối quan hệ chiến lược tại khu vực Châu Á”.. Theo bà, một số thế lực ở đây đang củng cố và kiểm soát khu vực, điều này làm suy yếu hình ảnh về khu vực Đông Á hòa bình và thịnh vượng. Do đó HK cần tăng cường sự hiện diện lâu dài tại Châu Á, xây dựng các liên minh không truyền thống để răn đe và đối phó hiệu quả với các mối đe dọa”. Đây là cơ hội, giới lãnh đạo VN phải có quyết định dứt khoát giữa hai lựa chọn đã dấy lên từ bấy lâu nay: theo Tàu mất nước, theo Mỹ mất đảng. Vấn đề không chỉ thuần túy như vậy mà là Nghĩa vụ Yêu Nước và Trách nhiệm đối với Đất Nước. Không phải theo Mỹ mà hợp tác với Mỹ để bảo vệ toàn vẹn toàn thể lãnh thổ, để VN trở thành một nước Dân chủ Tự do, Độc lập tự chủ, không còn lệ thuộc bất cứ cường quốc nào, cả kể cả Nga, Tàu hay Mỹ. Đó là mục tiêu của HK khi can dự vào cuộc chiến VN trước đây. Còn ngày nay khu vực biển Đông đang bị đe dọa, thì mối quan hệ chiến lược với các nước trong khu vực và HK là điều cần thiết, không phải để đương đầu với một thế lực nào mà là để duy trì sự ổn định giúp khu vực phát triển phồn vinh. Đó là chủ trương mới của HK tại Đông Á trong thế kỷ 21, bao gồm các cường quốc lớn như Ấn, Nga, Tàu, Nhật…

 Giờ đây, sự tồn vong của đất nước là mối quan tâm hàng đầu của đồng bào ta ở trong nước và hải ngoại. Tôi mong mõi đồng hương ở Sydney đến tham dự đông đảo buổi phát hành Tập san 5 Nghiên cứu Văn Hóa Đồng Nai Cửu Long để nghe Giáo sư Carlyle A. Thayer thuyết trình đề tài “Những biến chuyển chánh trị gần đây ở VN và vấn đề Biển Đông” tại Nhà hàng Quốc tế ở Canley Vale vào ngày Chúa Nhựt 22/5/2011. Chúng ta sẽ yêu cầu Giáo sư Thayer nói rõ hơn nhận định của ông hồi tháng Ba năm ngoái về “Cuộc chiến cách tân VN khỏi chủ nghĩa CS” của HK trong đó Úc Đại Lợi là đồng minh chung thủy. Đề tài thuyết trình của ông có liên quan gì đến nhận định trên của ông và thời điểm đã chín muồi chưa?

 Nhân đây, tôi cũng mong mõi đồng hương tham dự đông đảo ba buổi nói chuyện tại Melbourne, Sydney và Adelaide của con rồng kỳ diệu Đặng Mỹ Dung đến từ HK. Qua tác phẩm Ngàn Giọt Lệ Rơi, cho thấy chị đã đóng góp ít nhiều vào cuộc chiến cách tân VN khỏi chủ nghĩa CS. Chị chống Cộng có ý thức ngay từ buổi thiếu thời, khi chị sống với cha là một đảng viên CS nhiệt thành trong các bưng biền kháng chiến. Tôi xin trích dẫn một số ý thức của chị trong tác phẩm NGLR.

 “Tôi nhớ hoài ngôi nhà ở gần ngã tư Ong Vèo. Ngôi nhà ngói đỏ,trước hiên có bốn cây cột gỗ mun to tướng. Nhà này không phải là nhà riêng, mà là cơ quan hoạt động chánh trị của ba tôi. Má tôi biết Việt Minh lấy nhà của những điền chủ giàu có để làm trụ sở, các cơ quan và nhà ở cho gia đình cán bộ. Má tôi không thích chủ trương cướp nhà kiểu này, mà phải âm thầm sống trong hoàn cảnh trái với lương tâm mình. Rồi má tôi xin tiền của ông bà ngoại để lén trả tiền mướn nhà và đất cho chủ điền. Và mỗi lần di chuyển đến địa phương khác, VM vẫn mượn nhà, mượn đất như vậy. Má tôi phải trả tiền để không bị lương tâm cắn rứt. Đó là một phim tài liệu trắng đen chiếu đi chiếu lại trong tâm khảm tôi mà má tôi là người kể chuyện”. Lúc đó MD 5 tuổi.

 Sau đó, gia đình MD theo cha tới “Kim Qui. Là một rừng tràm sát bên bờ rừng U Minh, có con kinh chảy ra biển, gần Đá Bạc. Thế là có sự hiện hiện của nhiều khuôn mặt “đưa đám” trong nhà… Đó là các cán bộ từ phương xa đến, có người nói giọng Nam, có người nói giọng Huế, giọng Trung; và có cả người nói giọng Bắc… Đối với ba tôi thì người miền nào đến đây cũng là đồng chí của ông”. NGLR nhắc đến địa điểm Kim Qui Đá Bạc, khiến người đọc “rùng mình rởn tóc” về tội ác của CS. Nơi đây VM đã giết hại rất nhiều người yêu nước, điển hình là ông Hồ Văn Ngà, thủ lãnh Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng.

 Giữa tháng 8/1945, được tin Nhựt đầu hàng, ông Hồ Văn Ngà đứng ra kêu gọi các đảng phái chính trị và tôn giáo hãy đoàn kết lại, thành lập Mặt trận Quốc gia Việt Nam Thống nhất “”đấu tranh chống thực dân Pháp sắp trở lại Nam Kỳ, để bảo vệ nền độc lập tự do”. Khi Việt Minh rút lui khỏi Sàigòn trong đêm 23/9/1945, ông cùng Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Kha Vạng Cân thành lập Ủy ban Phong tỏa Đô thành Sàigòn-Chợlớn để chống Pháp. Nửa đêm hôm đó, VM tới bắt ông dẫn đi biệt tích. Về sau người ta được biết năm 1946, ông Hồ Văn Ngà bị đập chết bằng củi đòn, thi hài bị thả trôi sông ở vùng Kim Qui Đá Bạc (Nguyễn Long Thành Nam, Phật Giáo Hòa Hảo trong lòng lịch sử dân tộc, Nxb Đuốc Từ Bi, California, 1991, Tr.366) Trong sách Hơn Nữa Đời Hư, ông Vương Hồng Sển đã kể lại khi bị VM quy tội Việt gian, ông Hồ Văn Ngà đã trả lời như sau: “Các anh muốn giết tôi thì giết mà đừng gán cho tôi tội Việt gian” (Nxb Văn Nghệ, California, 1995, tr.162)

 Tác giả ghi lại ký ức ngày Tết đầu năm 1955 tại nhà ông bà ngoại, năm ĐMD 9 tuổi, trước khi thân sinh cô và các cậu lên đường tập kết ra Bắc. “Bữa cơm cuối cùng trong gia đình bị gián đoạn bởi một chuyện bất thường xảy ra. Trong khi chúng tôi đang ăn, một người có trách nhiệm giữ an ninh cho ba và mấy cậu bước vô, xin nói chuyện với cậu Chin Thùy…Một lát sau ba tôi trở lại bàn ăn, nói cho gia đình biết là có một người đàn ông muốn băng qua lộ để về Cái Thanh, một làng nhỏ bên kia quốc lộ số 4. Ông ta nói rằng má của ông đau nặng, ông muốn về thăm má. Không một ai trong nhóm giữ an ninh biết ông là ai, nên họ quyết định giữ người này lại. Ông ngoại ngồi nhâm nhi cốc rượu, chờ ba tôi dứt lời mới lên tiếng: “Thà bắt lầm hơn thả lầm, phải không con?” Ông cho rằng ba tôi không có quyền quyết định khi chuyện có liên quan đến gia đình người khác. Ông nói “Nếu má thằng Khôi đau nặng, cậu muốn thằng Khôi về thăm má nó, con tính làm sao?”

 Sau bữa ăn, cậu Chín dẫn người đàn ông vô nhà. Ông ta là một nông dân. Chân ông còn dính xình khô, quần xắn lên khỏi đầu gối và ướt nhẹp. Ông khép nép ngồi bên mép chiếc ghế đẩu, mặt đầy lo sợ. Ông cúi đầu chào gia đình tôi, nhưng không dám nhìn thẳng mặt ai. Người đàn ông lập đi lập lại lý do cần phải băng qua lộ đêm đó “Má tui đau nặng, tui phải gặp bả trước khi bả nhắm mắt ông à”. Tôi thấy bác nông dân ôm mặt khóc. Tim tôi đau nhói khi tôi nghe tiếng nức nở của bác. Tôi nhìn người đàn ông trạc tuổi ba tôi, ngồi trước mặt ba tôi và các cậu Tư cậu Chín. Những người đàn ông này đều có mẹ già, ai cũng biết thương yêu, và ai cũng được yêu thương. Rồi tôi tự hỏi cái gì đã tạo nên sự khác biệt giữa người đàn ông này và những người đàn ông trong gia đình tôi? Người nông dân nầy đã vô tình đem tôi ra khỏi cái nôi của “cách mạng”. Lần đầu tiên trong tuổi thơ, tôi dám nghĩ thầm rằng hành động đêm đó của ba tôi vừa tàn nhẫn, vừa sai bét. Tôi nói thẳng với ông là ba không công bằng với người nông dân nên tôi ngủ không được.

 Hai mươi năm sau (1975) tác giả đến thăm cha ở Tokyo, là kẻ vừa chiến thắng…. “Khi bước vào phòng ông, tôi thấy ông đang ngồi cạnh một xấp giấy, trông giống thẻ căn cước, nhưng lớn hơn. Tôi tò mò cầm một thẻ lên coi thì biết đó là giấy gọi nhập ngũ của Mỹ. Giấy này được gởi đi vào tháng 7/1969 cho một thanh niên 19 tuổi. Lúc đầu tôi nghĩ đây là thẻ động viên của một người lính Mỹ tử trận. Một niềm thương cảm tràn ngập trong lòng. Chết cho tổ quốc là một vinh dự. Nhưng tình thương bị dập tắt ngay khi ba tôi cho biết những thẻ động viên đang để trên bàn là những thẻ của những tên phản chiến. Khi nhận được lệnh nhập ngũ thì chúng bỏ trốn, rồi gởi những thẻ này đến Tòa Đại sứ của MTGPMN. Tôi giận tím người khi biết chúng là những tên phản quốc. Như đổ dầu vào lữa, ba tôi vui vẻ nói; “Điều đó chứng tỏ rằng Mỹ đã sai lầm khi tham chiến ở VN”.

 Tôi chưa cần phân tích xem Mỹ sai lầm ở chỗ nào, nhưng đã nhận ra một sự thật làm tan nát tim tôi. Đó là sự ngăn cách giữa hai cha con tôi quá lớn; chúng tôi gặp nhau chỉ để xa nhau thêm mà thôi. Lẽ thuờng ở đời, ai không muốn ngả theo phe thắng, để mưu cầu danh lợi cho riêng mình. Nhưng tôi thì không, tôi không bao giờ phản lại Quốc Gia, phản lại lý tưởng mà gia đình tôi đã đi theo. Vì lý tưởng đó mà em trai tôi đã chết khi mới chập chững bước vào binh nghiệp. Tôi nghiêm giọng nói với ba tôi: “Hạng người phản chiến nầy chỉ là những tên phản quốc, hèn nhát, nên mới gởi những thẻ nầy cho kẻ thù”. Ba tôi lắc đầu: “Mỹ nhẩy vào VN là một sai lầm to lớn. Những người Mỹ trẻ này đã sáng suốt nhận ra như vậy”. Tôi cãi: “Họ ngay thẳng, thật thà, làm sao hiểu nổi cái lưu manh của cộng sản. Vậy khi Liên Xô và Tàu Cộng viện trợ khí giới cho các du kích của MTGP giết đồng bào, thì có chính nghĩa không? Cuộc chiến này sai bét vì người Việt lại giết người Việt”.

 Ông dịu dàng nói: “Ba không muốn tranh luận với con gái cưng của ba. Vì ba không bao giờ muốn thay đổi cách suy nghĩ của con. Nếu con hài lòng với niềm tin của con, tức là con đang có hạnh phúc. Đối với ba, gia đình rất đáng quý”. Tôi trả lời “Nhưng đảng của ba còn đáng quý hơn tụi con”. Ba tôi chậm rãi: “Đất nước trên hết đối với ba. Con can đảm, con đã tự lập, con lo cho con được. Con OK”. Tôi lấn tới: “Tất cả người dân miền Nam cũng đã OK. Vợ của ba, con cái của ba đều là hình ảnh của người dân miền Nam sống đơn sơ và hạnh phúc. Chúng con không có gì khác biệt với mọi người. Những nhu cầu, những mơ ước của chúng con đều là nhu cầu và mơ ước của hàng triệu dân miền Nam. Và mọi người đã OK, cho đến ngày Hà Nội đem quân xâm chiếm miền Nam”. Ba tôi gật đầu: Ba biết rõ những nhu cầu của người miền Nam. Ba hứa sẽ cố gắng hết sức mình để đáp ứng những nhu cầu đó”. Tôi chưa kịp nói gì thêm, ông đã đề nghị:”Mình nói chuyện khác đi con”.

 ĐMD từng tâm sự “Tôi yêu ba tôi vì tôi yêu người đã xả thân cho đất nước. Tôi có làm phiền lòng ông, chỉ vì tôi dám nói lên là ông đã bước quá sâu vào cậm bẫy của một lũ người phản quốc”. Để kéo ông ra khỏi cậm bẩy CS ở tuổi cuối đời, trong các cuộc gặp gỡ sau đó ở Paris (1976) và London (1977), ĐMD gợi ý ông về hưu, đoàn tụ với gia đình với lý lẽ: Ba đã cống hiến gần hết cuộc đời cho dân tộc. Nay đất nước đã hòa bình, ba 68 tuổi rồi, chúng con muốn ba về sống với má và chúng con. Ba chọn một nước trung lập nào ba thích, dành quảng đời ngắn ngủi còn lại để má và chúng con được cận kề bên ba. Đó là lẽ công bằng. Ông dứt khoát: ba là người VN, sanh ra ở VN và sẽ chết ở VN. Trong khi đó, đại diện MTGPMN tại Paris là Phan Thanh Nam và các đồng chí của ông ta ra sức “động viên” ĐMD thuyết phục bà mẹ trở về nước. Y tuyên dương hành động trở về của bà là một chiến thắng lớn của VN, là cái tát vào mặt TT Gerald Ford và Chính phủ Mỹ đã cho CIA bắt cóc bà đem về Mỹ.

 ĐMD không có ý định “tát vào mặt” chính quyền Hà Nội khi thuyết phục người cha rời bỏ VN. Hành động này chỉ muốn nói lên sự thức tỉnh của một người CS sau khi đạt được mục tiêu cuối cùng. Nhưng ông phản đối ý kiến của con, cho đó là thái độ vô cùng ích kỷ. Ông phải trở về nước, hoàn thành nhiệm vụ giúp MN tái thiết, để phát triển vững mạnh trong một thời gian năm bảy năm, trước khi thống nhất với MB. Trong khi ông lạc quan ở Paris, thì số cán bộ MTGPMN sau chiến thắng 30/4/1975 đã thấy rõ thân phận của mình, như câu nói của người xưa “Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh” (Thỏ chết thì chó săn bị làm thịt) Kỹ sư Trương Như Tảng, Ủy viên Trung ương MTGPMN và là Bộ trưởng Tư pháp trong Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa MN đã bày tỏ sự bất mãn khi CS chiến thắng MN, “một quyền lực sắt thép bao trùm khắp nước VN. Lúc thắng trận cũng là lúc CS bắt đầu loại bỏ MTGPMN. Trong buổi tiệc đơn sơ được tổ chức vào năm 1977 để chính thức giải thể MTGPMN, Đảng CS và chính quyền Hà Nội không thèm cử đại diện đến dự”.

 Ý định thuyết phục thân phụ lìa bỏ CS bất thành, ĐMD dấn thân vào nghiệp vụ điệp viên chống CS. Nhờ Phan Thanh Nam đón tiếp một cách nồng hậu ở Paris, cô có dịp đặt chân vào trụ sở MTGPMN và văn phòng bà Nguyễn Thị Bình trong thời gian diễn ra cuộc đàm phán Paris. ĐMD đã tiếp xúc với Đại sứ Hà Nội Võ Văn Sung và phát hiện một số cán bộ CS nằm vùng ở Paris. Những ghi nhận về nhân sự và hoạt động của CSVN tại Paris đều được MD báo cáo cho CIA. Cô giữ mối liên lạc với những người CS bạn của ba cô ở Paris, ông có uy tín lớn đối với họ. Những người CS tin tưởng ĐMD với tình thương cha sâu đậm, cô sẽ giúp họ thu thập những tin tức kỹ thuật và tình báo từ chồng cô. Lần hồi qua sự giao tiếp, cô được Đại sứ Võ Văn Sung giới thiệu với Chủ tịch hội Việt Kiều yêu nước ở Mỹ và Đinh Bá Thi, đại sứ CSVN ở LHQ. Qua Phan Thanh Nam cô gặp Trương Đình Hùng và một số cơ sở CS hoạt động ở Hoa Thạnh Đốn. Hùng nhờ cô chuyển một số tài liệu mật do Ronald Humphrey (một viên chức cao cấp của bộ Ngoại giao HK được phép đọc tài liệu mật) lấy trộm từ bộ Ngoại giao. MD trao những tài liệu mật này cho CIA để tráo thành tài liệu giả chuyển đến Tòa Đại sứ Hà Nội ở Paris. Humphrey có vợ là cháu của một nữ cán bộ CS, ông liều lĩnh hành động để CS sớm cấp giấy xuất cảnh cho vợ.

 Bọn phản chiến và các hội Việt kiều yêu nước đã tiếp tay giúp CS chiến thắng ở MN. Sau đó chúng ra sức tuyên truyền, phá hoại và tranh thủ đồng bào tị nạn vừa mới đặt chân đến Pháp và Mỹ. Việc ĐMD phát hiện các ổ CS nằm vùng, các tổ chức Việt Kiều yêu nước và ra toà làm nhân chứng để phá vỡ mạng lưới gián điệp của Hà Nội ở Mỹ là một đóng góp lớn giúp củng cố và phát triển Cộng đồng Người Việt Tự do ở HK trong bước đầu hình thành khi làn sóng thuyền nhân ồ ạt đến Mỹ hồi cuối thập niên 1970.

 Trong lời nói đầu quyền A Thousand Tears Falling, ông Griffin Boyette Bell, cựu Bộ trưởng Tư pháp HK, đề cao “Yung Krall đúng là một công dân Mỹ vĩ đại. Tình yêu nước Mỹ đã dẫn dắt cô trở thành nhân chứng then chốt trong vụ án gián điệp mang tên Con Rồng Kỳ Diệu. Tôi nhiệt liệt tán thưởng sự nghiệp của cô đối với nước ta (HK), và tôi vui mừng thấy câu chuyện của ngưòi phụ nữ xuất sắc nầy cuối cùng đã được để cho mọi người cùng đọc và biết đến…”

 Riêng cá nhân tôi, ĐMD còn là một người VN yêu nước trong sáng, chống CS có ý thức. Chị đã góp phần giúp HK tiến hành cuộc chiến “cách tân VN khỏi chủ nghĩa CS”. Một nước VN dân chủ tự do, không CS, là nguyện vọng tha thiết của mọi người VN yêu nước. Quyển NGLR là cuộc đấu lý có tính ý thức hệ, bày tỏ thái độ chính trị giữa người con Quốc Gia và người cha yêu nước theo chủ nghĩa CS. Ông bị tuyên truyền bởi những người CS “làm cách mạng chuyên nghiệp”, đệ tử của ông Hồ Chí Minh như các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt…về thiên đàng CS, thiên đàng xã hội chủ nghĩa LX. Trong hồi ký, ông HCM thú nhận chính chủ nghĩa yêu nước đã lôi kéo ông vào chủ nghĩa CS. Trong bài viết “Bước đường đưa tôi tới chủ nghĩa Mác Lê” đăng trong tạp chí Echo du Vietnam ở Paris số tháng 7/1960, HCM viết rằng: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chớ chưa phải chủ nghĩa CS đã đưa tôi tin theo Lenin, theo Quốc tế thứ ba…” (Bernard B. Fall, Ho Chi Minh on Revolution: Selected Writing 1920-1966, NY, Praeger, 1967, PP 5/6)

 Vì chủ nghĩa CS, vì tin Lenin và Quốc tế Thứ ba mới có phong trào Sô Viết Nghệ Tĩnh 1930-31 khiến đồng bào cảnh gíác về hiểm họa CS qua khẩu hiệu “Trí, phú, địa, hào. Cào tận gốc, trốc tận rễ”. Rồi 30 năm chiến tranh tàn khốc 1946-1975. Sau đó hòa bình được tái lập, đất nước thống nhất, đồng bào lại lâm vào cảnh đói khổ, hàng triệu người bỏ nước ra đi vì chế độ độc tài CS. Chiến tranh lại tái diễn giữa ba nước CS anh em Việt, Miên, Tàu. CSVN phải đổi mới, mở cửa giao thương với bên ngoài. Đất nước trên đường hồi sinh lại có nguy cơ bị đồng hóa vì tham vọng bành trướng của kẻ thù truyền kiếp ở phương Bắc. Đồng bào thức tỉnh, lên tiếng cảnh giác lại bị đàn áp bởi chính quyền chuyên chính vô sản.

 Tại sao thảm họa kéo dài suốt 80 năm kể từ khi Đảng CSVN ra đời năm 1930? Vì nhân dân bị CS lừa dối, vì bộ máy chuyên chính vô sản Trong buổi thuyết trình về đề tài “Nga Xô: hiện tại và tương lai” (Russia: Today and the Future) do tổ chức Harriman Institute bảo trợ, diễn ra tại trường Columbia University vào ngày thứ ba mùng 2 tháng giêng 2007. Trước hàng ngàn cử tọa, thuộc nhiều thành phần và chủng tộc, ông Mikhail Gorbachev cựu TT Liên Xô kiêm Tổng bí thư Đảng CSLX đã nói “Chế độ CS mà tôi đã mang cả đời ra phục vụ, chỉ toàn là sự tuyên truyền và các cán bộ đảng (trong đó có tôi) chỉ điều hành quốc gia bằng sự gian dối”. (VL January 16, 2007)

 Khi chế độ CS ở LX vừa sụp đổ (tháng 8/1991) trong cuộc phỏng vấn truyền hình của đài ABC ở HK, ông Borsi Yelsin nói rằng “Chủ nghĩa CS là một thảm kịch cho dân tộc chúng tôi. Kinh nghiệm lịch sử cho phép chúng tôi kết luận một cách quả quyết rằng mô thức xã hội chủ nghĩa đã thất bại. Tôi tin rằng đây không chỉ là một bài học đối với riêng chúng tôi mà còn cho cả các dân tộc khác nữa”. Chính chủ nghĩa yêu nước đã lôi kéo ông HCM vào chủ nghĩa CS. Thì ngày nay, hậu duệ của ông, cũng vì chủ nghĩa yêu nước, sẽ đẩy CNCS ra khỏi VN. Tôi xin giới thiệu đến đồng hương tác phẩm Ngàn Giọt Lệ Rơi của chị Đặng Mỹ Dung khi cuộc chiến cách tân đất nước khỏi chủ nghĩa CS đang bước vào giai đoạn kết thúc.

 Lê Quế Lâm

___________________________________________________________________

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn