"Viết cho PNV, và cho những người đã từng khoác áo chinh y..."
Đầu năm 1980, được thả ra khỏi trại cải tạo, tôi được rời Việt Nam đi Pháp. Thời gian tạm trú tại Paris tôi nghèo tả tơi. Phải sống chung với nhiều anh em trong một căn phòng nhỏ. Những đêm mùa đông, không tiền đi chơi ở ngoài, bạn bè mua rượu tụ đến uống. Trong cuộc rượu, anh em thường nhắc lại những hoài niệm ở Saigon, chuyện buồn vui quân ngũ, chuyện tình, chuyện lòng. Khi nói về chuyện tình, đề tài thường được nói đến, là những cuộc tình với những cô nữ sinh ở các trường Gia Long, Trưng Vương, hay với các cô sinh viên ở các đại học. Chúng tôi nhắc lại các hoa khôi ở hai trường trung học nữ có tiếng ở Saigon.
Một đêm, khi có người nhắc lại các người đẹp như Hằng, Hoa, Uyển, Lan... Một người bạn bất chợt hỏi tôi có biết Uyển không. "Uyển nào?" tôi hỏi. "Thì Phượng Uyển ở Trưng Vương chớ Uyển nào!" Người bạn trả lời. Tôi gật đầu ừ, ừ, nói là biết. Nhưng trong bụng, tôi gằn giọng hừ lên một tiếng! Có biết Phượng Uyển không, tôi tự hỏi, để rồi thấy hình ảnh một người con gái rất quen thuộc, rất gần với mình.
Phượng Uyển ở Trưng Vương là một cuộc tình mà tôi đã quên. Còn chăng chỉ là những dư hương, như một bài nhạc mà mình chỉ nhớ giọng chứ không còn nhớ tên. Lúc đó, cuộc sống ở Pháp rất chật vật, tôi không còn thì giờ để nghĩ đến những mối tình cũ, tôi chỉ cố gắng tạo dựng một gia đình mình đang có, với vợ, con, với những bận bịu thường nhật của một gia đình. Nói như vậy không có nghĩa là tôi hoàn toàn quên hẳn mối tình của tôi với Phượng Uyển trong thời loạn. Một thời mà người ta yêu nhau vì sợ không còn dịp để yêu, và cố quên nhau vì sợ mình sẽ mất tình yêu. Tôi xin giải thích điều đó.
Tôi quen Uyển vào lúc tôi học năm cuối ở đại học Quân Y. Nàng đang học đệ Nhất ở Trưng Vương. Lúc mới quen, tôi cố gắng không yêu Uyển như một tình yêu, nhưng sau cùng tôi bị say bởi men tình. Nhưng ai không yêu được, nếu giai nhân là một quốc sắc.
Hàng năm, trường Trưng Vương tổ chức lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng, và có mời rất nhiều người đến dự... sinh viên, học sinh, quân, quan, và nhiều chàng độc thân coi đó như là một hội hoa. Những thanh niên ưu tú nhất của đất nước đến đó để tìm những trang quốc sắc thiên hương. Buổi diễn hành tưởng niệm cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng chống lại giặc Tàu Tô Định cũng được tổ chức vào ngày đó. Những người con gái đẹp nhất Trưng Vương được đóng vai hai Bà Trưng, cỡi voi uy nghi lắm. Mỗi năm như vậy, tôi cùng nhiều người bạn rủ nhau đến đó chơi. Đến đó để làm giặc với các cô nữ sinh thì đúng hơn.
Lần đó, tôi đứng nhìn những mỹ nhân đang đứng trên hành lan lầu xem lễ... và cùng lúc, Phượng Uyển xuất hiện như một rực rỡ. Nàng là một trong những á hậu của trường Trưng Vương. Bạn ơi, khi thấy Uyển rồi, hãy bỏ đi cái chuyện anh chàng Romeo đứng nhìn Juliet đứng trên cửa sổ, rồi ước mình được thành đôi găng tay của Juliet để được chạm vào đôi má của nàng. Không, lúc đó, tôi muốn trở thành cái yếm của người con gái để được ôm vào thân xác của Uyển. Một thân xác huyễn hoặc, mơ hồ, liêu trai. Rồi, "dùng dằng nửa ở nửa về, khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình." Tôi thiếu điều muốn xô những tên bạn khác, khi những tên này thấy được người đẹp và muốn tiến đến trêu chọc, để tôi có thể chạy dến trước, nói chuyện với người đẹp.
Lần đầu tiên đi chơi, Uyển cố gắng giữ một thái độ của kẻ bàng quan về vấn đề tình cảm. Hai tháng sau, liên hệ của tôi và Uyển trở thành một tình yêu tha thiết. Chiến tranh có một không khí mầu mỡ nào đó làm tình yêu rất dễ chớm nở. Nó nói lên những ý nghĩa như giã từ và chia lìa; chờ đợi và hội ngộ... Những hoàn cảnh rất "kiếm-hiệp tàu" để những đôi tình nhân thử lòng nhau. Để yêu nhau. Thời chiến tranh là một thời để yêu.
Đó là đầu mùa hè năm 1967. Các binh chủng chủ lực như Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù có thêm một vài tiểu đoàn tân lập. Cuộc nội chiến Việt Nam trở nên tàn bạo hơn. Những cuộc hành quân lớn đánh vào Chiến Khu C, khu Tam Giác Sắt ở Vùng 3, trận Kinh Ô Môn ở Vị Thanh, Vùng 4, và nhất là trận Dakto ở vùng 2, cho thấy bộ mặt mới của chiến tranh. Xác chết chở từ mặt trận về nhiều hơn. Nghiã trang quân đội được nới rộng ra. Những địa danh lạ hoắc như Ia Drang, Dak Pek, Pleime, bắt đầu xuất hiện trên báo chí.
Suốt mùa hè năm đó, Tôi và Uyển đã hẹn hò với nhau nhiều lần. Thường đi dọc theo con đường Cường Để và một nửa con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (vì Uyển nói phía kia của đường Nguyễn Bỉnh Khiêm chẳng có gì thơ mộng cả) để nhìn những tàn cây xanh, cảm ơn những bóng mát đã che chở một cuộc tình của tôi và nàng, ít ra là trong một giai đoạn nóng bỏng của đất nước vào lúc đó.
"Mình sẽ còn yêu nhau vào những muà hè năm sau không anh?" Uyển hỏi, hình như linh cảm một điều bất thường. Tôi không trả lời, chỉ yên lặng đi bên Uyển. Tôi sợ phải đem cho Uyển nhiều vương vấn: Tôi sắp ra trường, và phải chọn binh chủng. Phải rời Saigon, phải đi một nơi nào đó thật xa, và có thể chết như những người bạn, những sĩ quan y sĩ đàn anh đã chết. Sẽ giã từ Phượng Uyển và Saigon, giã từ những buổi chiều bình yên như những hơi thở nhẹ của Uyển. Một hơi thở có thể làm cho những chiếc lá vô tri rung lên vì xúc cảm. Và thử tưởng tượng, qua hơi thở đó nàng đã nhiều lần hôn tôi.
Tôi chọn đi Thủy Quân Lục Chiến vì tôi có nhiều bạn ở y khoa đi các đơn vị chủ lực. Như Châu đi Nhảy Dù, Vinh đi Biệt Kích, Chuyên đi cấp cứu ở những cái "C" là những căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt ở những tiền đồn biên giới. Còn những người bạn không phải là bác sĩ, ra từ các trường Võ Bị thì cũng tình nguyện đi những binh chủng chủ lực như trên. Phúc, Phán, Tống, Khôi, họ đều đi Dù hoặc TQLC. Năm trước, 1966, một người bạn khóa đàn anh, Châu ở Tiểu Đoàn 6 Dù có về trường chơi, đeo bằng Dù và lon trung úy coi oai phong, hào hùng lắm.
Những y sĩ tiền tuyến cũng chết như những lính đánh trận khác. Năm 1965 có sáu sĩ quan y sĩ chết, năm 1966, chín người, năm 1967 chỉ mới có tháng Bảy mà đã có năm người hy sinh cho đất nước rồi. Tôi chọn binh chủng Thủy Quân Lục Chiến và không cho Uyển biết. Nhưng khi nghe tôi đã tình nguyện đi lính Thủy Quân Lục Chiến, Uyển cắn môi để khỏi khóc. Nhưng rồi nàng cũng khóc.
Lần hẹn hò cuối cùng đó, tôi biết được thêm một vài chuyện nữa về gia đình của Uyển: Nàng sợ khi thấy tôi đi ngành tác chiến vì một ông anh bà con của nàng, cũng là một bác sĩ quân y của Thủy Quân Lục Chiến. Hân, một người đàn anh học trên tôi ba lớp, đã chết ở trận Bình Giả vào cuối năm 1964. Vài tháng sau đó Vinh, học trước hai năm, ở Nhảy Dù, cũng chết. "Nhỡ anh chết rồi thì làm sao mình còn yêu nhau được nữa," Uyển nói với tôi. Em nói rất đúng Uyển ạ! Yêu nhau phải có hai xác thân để ôm nhau mà yêu. Yêu nhau không chỉ là mộng tưởng trong đầu.
Một buổi trưa tan học, tôi giã từ Uyển. Và Saigon. Vừa vào lính, tôi được "rửa tội" tại chiến trường để trở thành một quân nhân tác chiến thực thụ. Tôi được rửa tội bằng đạn, bom, máu và cái chết, vào mồng hai Tết Mậu Thân ở khu vực chùa Ấn Quang, Chợ Lớn. Trong trận đó, Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân gặp nhiều trở ngại khi thanh toán mục tiêu. Họ lui ra để cho chúng tôi vào dứt điểm. Chết, chết, và chỉ có chết. Ở đâu cũng thấy cái chết của bạn và quân thù.
Hơn một tuần sau, khi mặt trận đô thành tạm yên, tôi theo Tiểu Đoàn 1 của Thắng và Tiểu Đoàn 5 của Nhã bay ra Phú Bài, từ đó đáp trực thăng vào thành nội Huế để giải tỏa thành phố đang bị cộng sản chiếm. Hơn mười ngày đánh nhau ở thành nội Huế, để đổi hơn một ngàn xác địch, Thủy Quân Lục Chiến có 110 chết, và khoảng 400 bị thương. Tôi bị ói lên ói xuống vì mùi hôi của tử thi. Cho đến tháng sáu năm 1968 tôi mới gởi Uyển lá thư đầu tiên viết từ Bồng Sơn.
Tháng mười, tôi được về phép và gặp nàng. Gặp Uyển lần đầu tiên sau hơn một, người tôi mềm như sợi bún. Gần một năm tôi mới hít được hơi thở này. Câu hát trong bài ca "càng đi xa anh càng nhớ em" rất đúng. Chỉ có điều "đi xa" ở đây có một nghĩa nguy hiểm hơn nhiều. Khi cái chết gần kề, người đầu tiên mình nghĩ đến là người mình yêu. Tôi nói cho Uyển nghe tôi đã nhớ Uyển như thế nào. Lần đó chúng tôi yêu nhau như chưa bao giờ biết.
Cuối năm 1969, tiểu đoàn chúng tôi đang đóng ở Mai Lộc, bên trái là núi Bá Hô, Khe Gió, bên phải là Cam Lộ, và vĩ tuyến 17 chỉ cách đó một tầm súng cối. Tôi viết cho Uyển một lá thư với nhiều hứa hẹn. Tôi nói với nàng là tôi đã thấy sợ: những lần hành quân lội rừng bảy mươi ngày, những đêm ngồi chờ vuốt mắt bạn bè vì mình không cứu sống được. Hay là khi đọc những lá thư nồng nàn Uyển gởi tôi, làm tôi rất xao xuyến, khi tôi bắt đầu nghĩ về cái chết, và liên tưởng đến Uyển.
Tôi nói cho nàng biết là vòng tay mỹ nữ của nàng đã làm tôi hèn ra, đã làm tôi sợ chết. Tôi hứa khi được ba năm công vụ tôi sẽ xin di chuyển về phục vụ ở một bệnh viện quân đội tại một thành phố nào đó, rồi hai đứa sẽ tính chuyện lấy nhau. Trong ánh nắng nhạt dần của một buổi chiều ở Mai Lộc, tôi viết cho nàng, "Mình sẽ lấy nhau đầu năm 1971. Nhưng hứa với anh điều này: nếu anh có rủi ro chết trận, em phải quên anh và đi lấy chồng ngay. Em phải hứa như vậy thì anh mới an lòng."
Ngày 1 tháng Năm, 1970, tôi tham dự cuộc hành quân Toàn Thắng 43 và 44, đánh qua Miên. Về lại Saigon đóng ở trại Cửu Long, Thị Nghè. Trong thời gian ở hậu cứ, tôi gặp Uyển hàng ngày, và cũng đang chạy chọt để chuẩn bị về luôn ở một bịnh viện hậu cứ. Trong khi đó Uyển đang học đại học sư phạm năm thứ ba. Gia đình nàng có vẻ túng quẩn: bố nàng cũng là một quân nhân ở Sư Đoàn 7, đang đóng ở miệt Hậu Giang. Nàng phải đi làm thêm để giúp mẹ và đàn em. Mẹ Uyển đang mang thai một đứa em nữa. Uyển đã thú nhận với tôi nhiều lần, là mẹ nàng nói nếu nàng lấy tôi thì khổ lắm. Trong một gia đình có hai người cột trụ đều là quân nhân hết, lỡ có chuyện gì thì làm sao sống được. "Có chuyện gì" đây là muốn nói, nếu tôi tử trận và bố nàng cũng tử trận, thì hãy tưởng tượng đâu có thảm cảnh nào tàn bạo hơn.
Nàng nói nàng nghĩ rất nhiều về những gì mẹ nàng nói. Có một lần, khi hôn tiễn tôi đi, nàng nói "Em yêu anh, nhưng anh phải hiểu, em có thể chờ một người đi xa, nhưng không thể chờ một xác chết. Chết là một cái gì rất vĩnh viễn, không bao giờ trở lại." Tôi yêu nàng tha thiết vào những ngày đó. Mỗi khi đi, tôi chỉ nói với nàng là chuẩn bị chờ tôi. "Mình sẽ lấy nhau năm 1971." Tôi hứa hẹn với nàng.
Tháng 12 năm 70, tiểu đoàn của chúng tôi đang đi hành quân ở Vùng II bỗng nhiên cả sư đoàn tụ về Đông Hà, Quảng Trị, và Huế. Tháng Hai năm 1971, tin chánh thức từ Bộ Tư Lệnh cho biết Quân Đoàn I sẽ đánh qua Hạ Lào. Sư đoàn Dù, Sư đoàn 1, Liên đoàn 1 Biệt Động Quân và Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh Thiết Kỵ sẽ là lực lượng chánh đánh vào Tchepone. Thủy Quân Lục Chiến chỉ đứng ở bên nầy biên giới bảo vệ các căn cứ tiếp vận ở Khe Sanh, Lao Bảo, Lang Vei mà thôi.
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Nhưng Thủy Quân Lục Chiến chỉ mừng được có một tháng. Cuối tháng Hai, tình hình quân sự của cuộc hành quân Hạ Lào hoàn toàn thay đổi. Hai cao điểm của Biệt Động Quân ở hướng cực bắc đường số 9 bị thất thủ. Biệt Động Quân rút về hai Đồi 30 và 31 của Tiểu Đoàn 2 và 3 Dù. Khuya đêm 24, tháng Hai, 1971, Đồi 30 mất. Sáu ngày sau Đồi 31 của Tiểu Đoàn 2 Dù cũng phải di tản vì không chịu nổi áp lực.
Lệnh từ trên Bộ Tổng Tham Mưu quyết định: "Thẩy tụi Thủy Quân Lục Chiến vào; vẽ lại chiến thuật hành quân. Quân Dù rút ra, nhường cho Sư Đoàn 1 đánh vào Tchepone. Thủy Quân Lục Chiến nhảy vào thế cho Sư Đoàn 1 ở những căn cứ hỏa lực." Bộ Tư Lệnh Tiền Phương đồng ý và thi hành huấn lệnh từ Saigon. Ban đầu chỉ có một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến tham dự, vài ngày sau, Bộ Tư lệnh quân đoàn I quyết định đánh cho cạn láng luôn. Họ thảy vào 2 lữ đoàn còn lại.
Thủy Quân Lục Chiến đóng quân ở các căn cứ Lang Vei, Đôn, Màu Xanh, Hotel và Alpha. Xa hơn nữa, những toán Viễn Thám của Thủy Quân Lục Chiến thì đóng kèm với Sư Đoàn 1 ở căn cứ Lolo, Hy Vọng, Sophia. Mục tiêu Tchepone chỉ cách Sophia một tầm súng. Tôi đóng ở căn cứ Đôn, Ngôn đóng ở Hotel, Phúc đóng ở Delta, các tên bạn khác đóng ở các căn cứ hỏa lực khác.
Buổi chiều trước khi nhảy vào căn cứ hoả lực, mặt tên nào nhìn cũng thê lương. Ngôn đùa với tôi là mùa hè năm này sẽ có một bầy con gái đi lấy chồng. Tôi không hiểu nó nói gì. "Thì chuyến này nguyên "băng" tụi mình "vãnh" hết, mấy em ở nhà phải đi lấy chồng chứ đâu chờ làm đám cưới với cái xác của mầy được!" Ngôn trả lời tỉnh bơ. Nghe nó nói tôi ghê quá.
Chiều hôm đó, tôi có đưa cho một người hạ sĩ quan trợ y thân tín một chiếc hộp nhỏ, có đựng một con búp bê mặc áo Thủy Quân Lục Chiến, tất cả thư tình qua lại giữa tôi và Uyển, và một tập truyện Tàu có tựa là "Tinh Tinh, Nguyệt Lượng, Thái Dương," một cuốn tiểu thuyết rất hay về tình yêu của ba cô con gái --mà tên là tựa truyện-- trong thời loạn lạc chiến tranh giữa Tàu và Nhật. Đây là một quyển tiểu thuyết, với nhiều hoàn cảnh ngang trái, lâm ly mà tôi đã cắt ra từ một nguyệt san định gởi cho Uyển đọc. Tôi nói với người lính nếu tôi tử trận, anh ta phải về ngay Saigon (anh ta về Saigon hàng tuần để bổ thuốc cần thiết cho bệnh viện dã chiến) đưa tận tay cho Uyển. "Phải giữ cái hộp này cho kỹ, vì đây là linh hồn của tao," tôi nói với người hạ sĩ quan. "Trăn trối" xong tôi nhảy xuống căn cứ hoả lực Đôn. Hôm đó là ngày 2 tháng Ba, 1971.
Tuần đó, ở Saigon, gia đình của các quân nhân thuộc sư đoàn Nhảy Dù ở hậu cứ đã rầm rộ biểu tình trước dinh Độc Lập. Lính Dù không bị thiệt hại nặng nếu tính theo tỷ lệ quân số tham dự cuộc hành quân. Gia đình của các tử sĩ biểu tình là vì đa số các quân nhân bị tử thương đều không có xác đem về. Chết mất xác là một cái chết rất thê lương so với cái chết thường nhất là đối với các thân nhân còn ở lại.
Xuống căn cứ Đôn tôi mới hiểu tại sao lính Dù chịu không nổi: Việt Cộng pháo như mưa, pháo ngày pháo đêm. Đạn ở đâu mà tụi nó có nhiều quá. Mặc dầu B-52 trải bom từng giờ, tụi Việt Cộng vẫn tụ quân lại để công đồn và pháo kích. Có lẽ chúng biết quân ta đang đánh vào chỗ nhược, nên địch lồng lộn lên, bảo vệ mật khu của họ tới cùng. Tân binh của Bắc Việt tràn qua biên giới, bổ xung thêm vào cho mặt trận. Tử thi của các cán binh cộng sản bận đồ mới toanh.
Tchepone nằm trong tay của quân đội Việt Nam Cộng Hoà vào ngày 7 tháng 3. Nhưng Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 1 Bộ Binh bị chết gần hết để đổi lấy cái thị trấn không to hơn hậu cứ của sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Bây giờ Thủy Quân Lục Chiến chúng tôi chỉ cố giữ những cao điểm, chờ cho Sư Đoàn 1 và Dù rút về tới căn cứ Bản Đông nằm trên đường số 9 là lui quân.
Nhưng trận chiến cũng giống như một bàn cờ tướng. Khi mình bị gài quân rồi, muốn rút đi phải thí quân. Hai căn cứ Sophia và Hy Vọng nằm gần Tchepone vừa di tản thì căn cứ Lolo bị tràn ngập ngay. Ngày 19, tháng Ba, ở các căn cứ chung quanh Lolo như Delta 1, Chị Hằng, Mầu Nâu, quân Bắc Việt đã xuất hiện ngoài hàng rào phòng thủ. Căn cứ Alpha và Bravo của các "Thiên Thần Mũ Đỏ" nằm trên đầu của Thủy Quân Lục Chiến bị pháo thê thảm. Các căn cứ Đôn, Màu Xanh, Delta, Hotel của các "Thủy Thần Mũ Xanh" cũng bị chìm dưới biển lửa của pháo binh địch.
Bộ Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến quyết định ngay: Quân từ Đôn tụ về Delta, từ đó, Lữ Đoàn 174 phải mở đường máu đánh về hướng Đông để bắt tay với Lữ Đoàn 258 ở hai căn cứ Hotel và Màu Xanh. Từ Dôn về Delta không hề hấn gì. Nhưng từ Delta về Hotel thì lại là một chuyện khác. Lữ Đoàn 174 bị cắt ra từng mảnh nhỏ. Một tiểu đoàn tình nguyện ở lại tử thủ để cản đường địch, cho hai tiểu đoàn còn lại về đến Hotel. Số tôi còn khổ: tôi đang đi theo tiểu đoàn "tình nguyện" đó. Đường từ căn cứ Delta về Hotel dài chừng bảy cây số. Vừa đánh vừa rút lui, năm ngày sau mới về được phía ngoài vòng đai của Hotel. Tiểu đoàn bị thiệt hại rất nặng, và Cộng quân chận đánh không cho chúng tôi lọt vào căn cứ.
Không thể lọt vô căn cứ Hotel, chúng tôi đi ngược về căn cứ Màu Xanh với hy vọng được di tản bằng trực thăng về căn cứ Lang Vei gần biên giới Việt-Lào. Nhưng chúng tôi không còn Màu Xanh hay Màu Đỏ nào nữa để hy vọng. Khi thấy hai tiểu đoàn của Lữ Đoàn 147 về tới Hotel rồi, Bộ Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến di tản căn cứ này vào ngày 23 tháng Ba. Trên đường về, họ rước luôn toán quân đang đóng ở Màu Xanh, và ra lệnh B-52 thiêu hủy Hotel và Màu Xanh để khỏi lọt vào tay địch.
Khi về đến nơi, đứng nhìn căn cứ Màu Xanh bị thiêu hủy, đám quân chúng tôi thấy những hy vọng sống sót còn lại bị cháy bốc lên như cơn lửa. Điểm đóng quân của Thủy Quân Lục Chiến gần nhất là Lang Vei, cách đó 25 cây số, ở bên kia biên giới Việt Nam. Chúng tôi chỉ còn cách phải tiến về hướng đó. Thật ra chúng tôi di chuyển theo bản năng sống thì đúng hơn. Vì sau lưng chúng tôi, Bắc Quân vẫn còn bám sát theo, như những bầy kên kên đang bổ nhào xuống một con hổ bị thương.
Một toán của chúng tôi lạc trong rừng 18 ngày. Ngày 5 tháng 4 cuộc hành quân Lam Sơn 719 được coi là chấm dứt. Ngày 15 tháng 4, lính viễn thám Đại Đội Hắc Báo của Sư Đoàn 1 được lệnh nhảy vào Mường Nông, một địa điểm nằm trên cao nguyên Lào, cách biên giới Việt Nam 40 cây số để dọ thám tình hình ở mật khu 611. Trong chuyến đột nhập đó, họ có "lượm" được một toán quân 18 người đang bị lạc. Trong đó có tôi.
Tôi về nằm nhà thương Trung Ương Huế cùng ngày. Về đây tôi được biết Thủy Quân Lục Chiến có tất cả 3 sĩ quan y sĩ tử trận, một mất tích và giả chết là tôi trong lúc chín sĩ quan tiểu đoàn trưởng của Thủy Quân Lục Chiến, 4 chết và 5 bị thương. Nhảy Dù tổn thất còn nặng hơn. Bị mất tích gần 23 ngày mà tôi vẫn còn sống. Tôi nghĩ mình còn may mắn lắm.
***
Người lính trợ y đến thăm, ôm tôi mừng rỡ. Anh ta nói là khi Delta bị tràn ngập, chờ đến khi cuộc hành quân chấm dứt, và khi nghe tin từ một nhân chứng nói là tôi đã tử thương ở giữa đường từ căn cứ Delta về Hotel, anh về Saigon trao hộp kỷ vật cho Uyển như được dặn. "Cô ấy xỉu khi nhận được tin và đồ của bác sĩ. Em thấy đau lòng quá, vội đi ngay. Bác sĩ nên đánh một cái điện tín về nhà ngay cho cô ấy được bình phục lại." Người lính nói. Tôi gởi ngay cho Uyển một điện tín, nhưng một tuần sau thì điện tín bị trả lại vì không người nhận. Rất lo, tôi muốn về Saigon ngay, nhưng mãi đến hai tuần sau tôi mới bình phục, và được phép về Saigon.
Nhà Uyển đóng kín cửa khi tôi đến tìm nàng. Chạy đến nhà một cô bạn của Uyển để hỏi tin thì mới biết được tại sao điện tín bị trả về: Uyển không nhận được vì cả nhà đã về Cần Thơ rồi. Người bạn của Uyển còn nói thêm, tuần đầu tiên khi nhận được tin tôi mất tích, nàng như là mê man đi. Rồi cả nhà phải về Cần Thơ để thăm ông bố, ông ta đang bị thương: lính Quân Đoàn IV cũng đang đánh qua Miên. Cô bạn còn nói rõ, Uyển sẽ hứa hôn với một giáo sư ở đại học sư phạm Cần Thơ: nàng sợ quá rồi; nàng sợ phải yêu một tình yêu có thể chết bất ngờ.
Nghe những gì đã xảy ra, tôi lưỡng lự không biết có nên về Cần Thơ tìm Uyển không. Nhưng biết nàng đâu mà tìm. Hơn nữa, tinh thần tôi đang căng thẳng vào lúc đó: Xác những người bạn cùng đơn vị còn nằm nhà quàng ở nghĩa trang quân đội, mình phải đến tiễn họ đi. Tôi đi đưa đám tang những người bạn rồi ở lại Saigon, chờ coi Uyển có trở về không. Ở Saigon chờ Uyển, tôi bị ám ảnh bởi một ý nghĩ rất lạ: Có thể nào tôi sống được như một người đã chết đối với Uyển không? Có thể nào tôi sống và không bao giờ gặp lại hay biết Uyển là ai? Tôi nghĩ nhiều như vậy vì tôi biết, Uyển sẽ biết, nàng là người lỗi hẹn.
Buổi chiều trời mưa thật lớn. Tôi và một người bạn ngồi ở quán 007, trong khu cafe Nguyễn Du ở phía sau trường Võ Trường Toản và Trưng Vương. Gặp lại một vài tên bạn cùng lữ đoàn, chúng nhìn tôi, ngạc nhiên và nói tưởng là tôi đã tử trận ở Hạ Lào rồi. Tôi thẫn thờ một hồi lâu. Đâu phải chỉ có một mình Uyển là nghĩ mình đã chết. Có thể nào nàng hứa hôn? Nàng đã nghĩ mình chết thật?
Buổi chiều, trời giông mưa thổi vào những thân cây thật hung bạo. Gió mạnh, lắc rơi những chiếc lá yểu mệnh xuống đường, và cuốn những chiếc lá rơi theo cơn bụi của mưa về một hướng vô tình nào đó. Đoạn trước, tôi có nói về hơi thở của Uyển: "Hơi thở nhẹ của nàng có thể làm cho những chiếc lá vô tri rung lên vì xúc cảm." Chiều hôm đó, tôi tưởng tượng giông mưa là hơi thở của nàng. Chỉ có điều, khi hay tin tôi về và biết mình lỗi hẹn, trái tim của Uyển đã kêu lên những tiếng đau thương. Rồi từ nỗi thống khổ của lồng ngực, hơi thở của nàng đã trở thành cơn giông bão của buổi chiều hôm nay.
Tôi vẫn thường an ủi những người bạn có trắc trở về tình cảm, là đôi khi những cuộc tình đổ vỡ cũng có những cái đẹp của nó. Chiều mưa hôm đó, dù tôi có muốn thảm kịch hóa chuyện giữa tôi và Uyển để tìm ra cái đẹp của một chuyện tình lỡ, tôi không thấy được một cái đẹp nào trong cuộc tình đổ vỡ của tôi và nàng. Một buổi chiều ướt nhẹp, người yêu đính hôn, và bên tai còn nghe văng vẳng tiếng khóc từ những đám tang. Tôi ngồi bất động, tưởng mình như "Người Viễn Khách Thứ Mười" trong vở kịch Nghiêm Xuân Hồng: Mình chỉ về đúng hẹn cho những lo lắng, khó xử.
Một tuần trước khi hết phép, Bộ Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến thông cáo cần sĩ quan y sĩ cho mặt trận Cam Bốt. Từ sau cuộc viễn chinh 1970, Thủy Quân Lục Chiến vẫn còn duy trì hai tiểu đoàn tác chiến đóng bảo vệ quân bạn Miên ở Neak Luong. Tôi tình nguyện đi, đi để quên. Việt Cộng đã thua ở Cam Bốt từ năm 1970, nên chúng tôi chỉ đóng quân lì một chỗ, ăn nhậu, hay đọc thơ tình, thơ tình cũ, hoặc tảo thanh lặt vặt trong các xóm Miên.
Nhưng ở Neak Luong có cái nguy hiểm không ngờ được. Ở Hạ Lào, đánh nhau thê thảm như vậy mà tôi không bị gì hết. Ở đây, một đêm đang ngủ, pháo địch rơi ngay vào hầm, tôi bị thương máu ra lênh láng. Tôi được di tản về Cần Thơ, rồi về Saigon. Tôi nằm điều trị được một tháng thì hay tin Uyển thành hôn.
Trong bệnh viện, tôi thường nằm mê gặp nhiều mộng dữ. Tôi thấy mình chết trận nhiều lần. Có lẽ, trong vô thức, tôi muốn mình chết đi để Uyển được an tâm đi lấy chồng. Dù tôi có làm bộ chết vì bị nghĩ là đã chết rồi, nhưng nếu bạn có hỏi tôi về một Phượng Uyển nào đó ở Saigon... thì đây, đây là một hai tự tình mà tôi còn giữ lại.
Nguyễn Kỳ Phong