Pháo đội đóng tại Đại Lộc và theo lệnh cuả đại uý Pháo Đội Trưởng, Thiếu Uý Dương Xuân Cầu trung đội trưởng dẫn một trung đội và hai khẩu đại bác 105 ly đến đóng vị trí cũng thuộc quận lỵ Đại Lộc nhưng gần con đường để đi lên Thường Đức, nơi đã xẩy ra trận đánh đẫm máu giữa Tiểu Đoàn1 Nhẩy Dù và quân cộng sản Bắc Việt tại ngọn đồi 0162.
Vấn đề tác xạ yểm trợ cho các đơn vị bạn rất hạn chế, một quả đạn đại bác được bắn đi phải có lệnh theo từng hệ thống chỉ huy cho nên đó là điều bất lợi cho quân bạn khi bị địch quân tấn công. Hàng ngày, với nhiệm vụ cuả một trung đội phó, tôi kiểm soát các loại đạn phòng thủ cuả 2 khẩu đội như: đạn chiếu sáng, đạn chống biển người(còn gọi là tổ ong), đạn khói, và một số đạn với đầu nổ chạm để sẵn sàng yểm trợ cho quân bạn.
Cho đến chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, trong lúc nhận lệnh cuả thiếu uý trung đội trưởng, đi kiểm soát lại các vọng gác trước khi trời tối, tôi thấy một toán quân bạn từ trong núi di chuyển ngang qua trung đội, tôi vội chận một người lính lại để hỏi:
-Các anh đi đâu vào lúc trời tối như thế này?
Người lính tác chiến trả lời:
-Tụi tôi được lệnh di chuyển về thành phố Đà Nẵng.
Tôi vội chạy vào căn lều cuả thiếu uý Cầu la lớn:
-Anh Cầu ơi! Anh em tác chiến họ rút đi rồi, bây giờ chỉ còn trung đội cuả mình nằm ở đây thôi.
Thiếu uý Cầu hỏi lại tôi:
-Mày có chắc là họ rút đi hết không?
Nói xong Thiếu Uý Cầu gọi máy về pháo đội và được lệnh cuả đại uý pháo đội trưởng là trung đội chuẩn bị sẵn sàng di chuyển khi có lệnh.
Đến khuya thì trung đội mới được lệnh xếp càng súng móc vào chiếc Cargo 4 tấn và cuối cùng thì tôi nói với hai người khẩu trưởng tháo máy nhắm và chuẩn bị lên đường.
Lần đầu tiên trong đời pháo thủ cuả tôi, một trung đội với hai khẩu đại bác 105 ly di chuyển giữa đêm khuya mà không có một đơn vị tác chiến nào bảo vệ pháo binh. Thiếu Uý Cầu ngồi xe trước dẫn đường và tôi ngồi xe sau, tất cả pháo thủ trên hai chiếc xe được lệnh súng cá nhân chiã ra hai bên đường.
Đoàn xe mở đèn mắt mèo đi trong đêm tối và về đến phi trường Đà Nẵng lúc 2 giờ sáng trong lúc phi trường đang bị cộng quân pháo kích, từng loạt các phi cơ đủ loại cuả không quân cất cánh cho đến khi trời vừa hừng sáng. Trung đội được lệnh di chuyển xuống bãi biển Non Nước để sát nhập chung cùng pháo đội và sẽ có tầu cuả Hải Quân vào đón.
Bãi biển Non Nước buổi sáng sương mù dầy đặc biển động mạnh, xa xa trong lớp sương mù thấp thoáng bóng dáng cuả những chiến hạm,trên mặt biển những xác người cộng với những chiếc phao bằng vỏ xe trôi bồng bềnh theo cơn sóng bạc đầu tắp vào bờ rồi cũng theo con sóng đó trôi ra biển khơi.
Bãi biển đông nghẹt người kể cả thường dân cũng như một số quân nhân cuả các binh chủng khác. Cảnh hỗn loạn và kinh hoàng xẩy ra khi một chiến hạm đang tiến vào bờ, mọi người chạy xuống nước để dành nhau lên tầu thì nhiều loạt súng nổ vào đám người, thủ phạm là một nhóm quân nhân vô kỷ luật và một số quân phạm thoát ra được từ quân lao Đà Nẵng, chúng bắn xối xả để ngăn chận đám người đang lội xuống nước để dành lên tầu. Trung Sĩ Nguyễn Duy Hinh thuộc pháo đội P tân lập cuả pháo binh Thuỷ Quân Lục Chiến đang đứng trên bãi biển bất ngờ bị một chiếc thiết vận xa M113 chạy điên cuồng đâm vào đám đông, Trung Sĩ Hinh bị cán nát đùi phải, nằm giãy giụa một lúc rồi bất động. Cách đó không xa, Trung Úy Nguyễn văn Hoà thuộc pháo đội I Tiểu Đoàn 3 Nỏ Thân Pháo Binh Thuỷ Quân Lục Chiến ôm xác người em gái bị trúng đạn cuả bọn quân nhân vô kỷ luật bắn bừa bãi để chúng dành nhau bơi ra tầu. Trong khi mọi người vội vã bơi ra biển, có một bóng người nghiêng nghiêng đổ dưới ánh nắng mặt trời trên tay bồng xác người em gái tóc xoã tung bay trong cơn gió lộng, anh lững thững đi ngược về thành phố Đà Nẵng.
Mọi người bắt đầu bơi ra tầu, Thiếu Uý Cầu đứng chần chừ một lát rồi nói với tôi:
-Nhân ơí! tao không biết bơi.
-Sĩ quan Thuỷ Quân Lục Chiến mà không biết bơi chán anh quá!
Tôi trả lời Thiếu Uý Cầu rồi quay lại nói với hai người lính:
-Thằng Văn và Tòng, hai đứa tụi bay kè thiếu uý trung đội trưởng bơi ra tầu.
Con sóng dữ cuả ngày biển động nhiều lúc lại đẩy ngược tôi vào bờ, cho đến khi bơi gần đến con tầu thì tôi đuối sức và chìm xuống, chung quanh nước đen ngòm, tôi đang vùng vẫy thì bỗng tay chạm vào một sợi dây thừng, tôi nắm lấy và giựt mạnh và thấy thân thể mình nhẹ bổng và từ từ được kéo lên mặt nước, mấy người thuỷ thủ cuả chiến hạm kéo tôi lên bửng tầu nằm thở dốc, sau này tôi được một thuỷ thủ kể lại rằng khi thấy một người lính Thuỷ Quân Lục Chiến đang chìm xuống, anh và một thuỷ thủ nưã đã quăng sợi dây thừng xuống để cứu tôi.
Xin cám ơn người lính thuỷ đã cứu tôi thoát chết để đến ngày hôm nay tôi còn ngồi đây về viết những dòng chữ này cũng như xin cám ơn vị hạm trưởng và tất cả thuỷ thủ đoàn cuả Hải Vận Hạm Lam Giang HQ402 đã cứu vớt các chiến hữu cũng như đồng đội cuả tôi trong hoàn cảnh đầy nguy hiểm và khó khăn cuả ngày 29 tháng 3 năm 1975. Một lời cám ơn chân thành nhất sau 39 năm dù là muộn màng.
Đến khoảng nưả đêm thì tất cả mọi người trên chiếc HQ402 được lệnh chuyển qua một chiến hạm lớn (hình như là HQ5), mọi người được lệnh bỏ lại vũ khí cá nhân trên sàn tầu và theo ánh đèn pha chiếu thẳng từ chiến hạm HQ5 leo thang lưới được thả ngang hông tầu và leo sang và đến hôm sau thì đổ chúng tôi xuống quân cảng Cam Ranh.
Ngày hôm sau trung đội lại được lệnh lên trấn đóng một ngọn đồi gần bờ biển, không thể tưởng tượng được là một ông sĩ quan trung đội trưởng không một khầu súng, dù là súng colt và một trung đội lính cũng không một khẩu súng cá nhân không một trái lựu đạn dẫn nhau lên núi đóng quân. Thiếu uý Cầu lầm bầm chửi thề:
-Đéo mẹ bố tiên sư, không súng ống lên đây làm cái gì? Việt Cộng nó mà tấn công thì chết cả đám, bố khỉ.
Tôi cười cười chọc:
-Thì cắt trái lựu đạn da cơ hữu ra quăng vào mặt nó.
Đám lính cười ồ lên, Thiếu Uý Cầu trừng mắt nhìn tôi trả đuã:
-Mày cắt trước làm gương đi.
Trời đã tối hẳn, hai anh em trải tấm poncho nằm cạnh bên nhau, kể lại cho nhau nghe về đời quân ngũ, 7 năm làm lính, 7 năm cầm súng đánh giặc vào sinh ra tử,đi khắp vùng chiến thuật, từ làng mạc xa xôi hẻo lánh đến những vùng sình lầy và trên những đỉnh núi cao cuả dãy Trường Sơn, miền địa đầu giới tuyến, Khe Sanh, Cam Lộ, Gio Linh, Ái Tử v.v.. rồi đến trận chiến Cổ Thành Quảng Trị, không bao giờ có thể ngờ rằng ngày hôm nay, đêm nay nằm đây, không một khẩu súng trong tay trong khi chiến tranh chưa kết thúc.
Một buổi trưa hè trên một ngọn đồi cuả vịnh Cam Ranh ánh nắng lấp lánh chiếu qua cành lá, viên thiếu uý trẻ nói với người trung đội phó cuả mình về một cuộc chiến đang tàn...
Đã 39 năm trôi qua, ba mươi chín lần cuả Tháng Ba, không phải chỉ có một lữ đoàn cuả binh chủng Thuỷ Quân Lục Chiến bị gẫy súng mà là một sự đỗ vỡ toàn diện để đưa một đất nước đã ròng rã chiến đấu trong hơn hai mươi năm với những trận đánh kiêu hùng cuả người lính Việt Nam Cộng Hoà để rồi chấm dứt trong nỗi uất hận, tức tưởi.
Có những câu chuyện được nghe kể lại rồi sẽ quên đi, nhưng có chứng kiến tận mắt những cảnh tượng đau thương, oan nghiệt chắc chắn sẽ không bao giờ quên.
Người hạ sĩ quan xấu số năm xưa thân xác đã chôn vùi trong cát cuả bãi biển Non Nước hay đã cuốn theo con sóng ra ngoài biển khơi nghìn trùng trôi đi và trôi mãi.
Người sĩ quan bồng xác người em gái có còn ở lại thành phố cũ hay đã trôi theo dòng đời lưu lạc phương nào.
Tháng Ba trời buồn, gió cao.
Pháo Thủ Phạm Thành Nhân
Nguồn https://hoiquanphidung.com/showthread.php?15285
Gửi ý kiến của bạn