BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 76629)
(Xem: 63102)
(Xem: 40493)
(Xem: 32115)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Cánh tay phải bị tù của Tướng Giáp

17 Tháng Hai 201612:00 SA(Xem: 5149)
Cánh tay phải bị tù của Tướng Giáp
54Vote
40Vote
31Vote
20Vote
10Vote
4.65
Cánh tay phải của Đại tướng Võ Nguyên Giáp chọn cho mình cái tên như lẽ sống xuyên suốt cuộc đời ‘Trọng Nghĩa’.

Tượng Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên bàn làm việc của ông Lê Trọng Nghĩa


 

Thật ra ông họ Đoàn, Đoàn Xuân Tín, tên khi đi học và khi bị tù, huyết thống của Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng.

Lê Trọng Nghĩa (1922 -2015) là cháu năm đời Đoàn Hữu Trưng, phò mã nhà Nguyễn, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa dân phu xây lăng Tự Đức (khởi nghĩa Chìa Vôi), bị đàn áp, nên đổi tên là Trần Lăng Thống (ý đau khổ vì xây lăng mộ vua chúa) theo thuyền chạy ra Bắc rồi lấy vợ họ Đoàn đổi tên con là Đoàn Biện Khơ, ông này chính là ông nội của ông Lê Trọng Nghĩa.

Em ruột đại tá Lê Trọng Nghĩa là đại tá QĐNDVN Đoàn Sự cho tôi biết chi tiết này.

Đại tá Đoàn Sự là phiên dịch tiếng Trung trong Đại bản doanh của tướng Giáp trong chiến dịch Điện Biên, từng làm việc tại Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc và là phó Giám đốc nhà XB QĐND.

Cuộc đời đại tá Lê Trọng Nghĩa nhiều chuyện cần và phải viết, để nắn lại cái lom khom nhiều kẻ vẫn chót lưỡi đầu môi câu cửa miệng, ‘lời anh nói là lời non nước’.

Vận mệnh dân tộc đã trao vào tay Lê Trọng Nghĩa những ngày đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cái lên gân vĩ cuồng không biết mình, biết ta của chỉ thị 12/3/1945 ‘Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta’, trong thời điểm tháng Tám mùa thu, thiếu hào hoa, tỉnh táo của chàng trai 23 tuổi Lê Trọng Nghĩa, chắc chắn không có một ngày 2/09/1945.

 

 

Năm lần gặp gỡ Khâm sai Đại thần của triều đình Huế tại Bắc Kỳ Phan Kế Toại và Nguyễn Xuân Chữ, đặc biệt uyển chuyển trong tiếp xúc đại diện với Tướng Tsuchihashi Yuitsu (1891-1975) Tổng tư lệnh quân đoàn 38 phòng thủ Đông Dương, ông đã khéo léo tranh thủ sự tiếp tay ngầm của phía Nhật, dành thế thượng phong cho phong trào cách mạng Thủ đô.

Thiếu sự quyết đoán và sáng tạo của ông, nhiều khả năng khác có thể đến từ phía Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, đặc biệt là phía Nhật.

Từ những tư liệu giải mật của Nhật, Pháp, cũng như triều đình Huế cho thấy, nếu đi theo con đường sử dụng bạo lực ‘Đồng bào tuốt gươm vùng lên, diệt phát xít, giết bầy chó đê hèn của chúng’, vận hội thành công của Việt Minh nhiều khả năng triệt tiêu.

Lúc đó Việt Minh ra Quân lệnh số 1 hô hào tấn công đồn binh Nhật, cướp nhà băng, triệt hạ các đảng phái khác không phải là Việt Minh. Song chính nhờ ‘lờ đi’ quân lệnh này mà Hà Nội thành công. Tổng Bí thư Trường Chinh đã phải phái Lê Đức Thọ lên Thái Nguyên bảo ngừng đánh Nhật, thực chất là sửa sai.

Trường Chinh sau này cũng đã phải sửa sai trong chính sách Cải cách Ruộng đất.

Trong cuốn sách ‘Từ Hỏa lò đến Phủ Khâm sai’ ông trao cho tôi ngày mùng Một Tết Ất Mùi, với chữ ký và nụ cười cuối cùng của cuộc đời, có nhắc đến công điện của Toàn quyền Nhật Takeshi Tsukamoto gửi về Tokyo:

Quân Nhật kéo vào Đông Dương


 

 

"Chiều ngày 19, đã dự cuộc gặp gỡ với các lãnh tụ ETSUMEI (Việt Minh), tham gia bàn bạc với những người đó như những đại diện chính thức. Phía Nhật định giáng cho ETSUMEI một trận, nhưng căn cứ nhiều lý do thử cho xúc tiến một ‘dàn xếp thỏa hiệp’, quân đội sẽ tự kiềm chế không sử dụng võ lực."

Nhận định quân đội Nhật tại Việt nam thời điểm đó rệu rã, hoảng loạn là thiếu chính xác. Ngay ngày 22/08/1945, kiều dân và binh lính Pháp ở khách sạn Metropol Hà Nội, đối diện Bắc Bộ Phủ nổ súng gây hấn, quân Nhật đã bao vây trọn khu vực, đảm bảo an ninh nhanh chóng.

Trong lần thăm Thái Nguyên năm 13/13/1960, ông Hồ Chí Minh rỉ tai phóng viên báo Nhân Dân đi cùng, rằng, thời điểm năm 1945 Việt Minh trong cả nước có chưa đến 500 đảng viên.

Thật sự Hà Nội khởi nghĩa thành công đã ba ngày mà Trung ương Đảng CSVN không hề biết, thậm chí còn cho đó là sự manh động, sẽ bị đàn áp như cuộc nổi dậy tại Warsaw (Ba Lan) thời điếm cuối Thế Chiến 2.

Ông Lê Trọng Nghĩa viết:

“Tinh thần dân chúng bốc cao, nhưng Hà Nội mới chỉ có các tổ tự vệ, tự vệ chiến đấu chưa tập trung và số vũ khí ít ỏi của quần chúng. Lực lượng bảo an, cảnh sát của chế độ cũ đã bị giải thể. Hà Nội chưa liên lạc được với Trung ương, còn phải đối mặt với hơn mội vạn quân các sư đoàn Nhật chưa hạ vũ khí, chờ quân Đồng Minh tới. Ủy ban nhân dân Bắc Bộ đã báo động ngầm dự phòng lúc nguy cấp sẽ có lệnh cho rút bớt cán bộ về an toàn khu ở ngoại thành, đánh du kích chờ lực lượng Trung ương về tiếp cứu."

Thậm chí, đơn vị Giải Phóng quân từ Tân Trào về không được Nhật cho phép vào Thủ đô.

Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội


 

 

Sau nhờ sự can thiệp của những nhân vật từng tiếp xúc với ông Lê Trọng Nghĩa là ông chủ tịch Hội Hữu nghị Nhật-Việt và nhân viên tình báo Lý Hán Tân, Việt Nam Giải phóng quân mới được vào Hà Nội.

Nếu Nhật thật sự muốn tiêu diệt Việt Minh, đồng thời Giải phóng quân với quân số ít ỏi, không được qua cầu sông Đuống, không vào được Hà Nội ngày 23/08/1945, thì liệu Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể khai sinh ra nước VNDCCH ngày 2/09/1945?

Chắc chắn Việt Nam Quốc Dân đảng hoặc đảng phái chính trị khác theo chân 30 vạn quân Trung Hoa của tướng Lư Hán sẽ làm chủ vận mệnh Việt Nam?

Từ góc nhìn đó, Việt Nam phải cảm ơn Nhật Bản trong tình huống tế nhị tháng 8/1945, không sử dụng vũ lực dẫn đến đổ máu.

Còn câu chuyện ‘dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương và Thường vụ’ (còn ở Tân Trào), Hà Nội đi đầu giành thắng lợi ở Thủ đô có thể vĩnh viễn xếp vào ‘tài liệu không cần phổ biến’ của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những quyết định quan trọng của tướng Giáp trong chiến dịch Điện Biên hợp đồng chặt chẽ với Chánh văn phòng Bộ Quốc Phòng, Cục trưởng Cục quân báo, Đại tá đầu tiên của nước VNDCCH Lê Trọng Nghĩa.

Chiến thắng Điện Biên trả lại vĩnh viễn cái tên cho đất nước, có một chi tiết liên quan đến sự sống còn của trận đánh.

Khi tướng Giáp hạ lệnh kéo pháo ra, hoãn thời điểm nổ súng và đánh đòn nghi binh sang Lào căn dặn Lê Trọng Nghĩa giữ kín nhiều chi tiết với đoàn cố vấn Trung Quốc của tướng Vi Quốc Thanh.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong hồi ký cá nhân nhận định đây là ‘quyết định khó khăn nhất’ trong nghiệp cầm quân.

Bi kịch Võ Nguyên Giáp- Lê Trọng Nghĩa


 

 


Từ mùa hè năm 1966, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở vào tình thế một cuộc phòng thủ chiến lược, vừa phải đối đầu với không quân chiến lược của Mỹ ở Miền Bắc, vừa đánh ở Miền Nam. Lực lượng chiến đấu Mỹ vừa đổ quân vào giúp VNCH. Miền Bắc Việt Nam vấp phải khó khăn trong việc tiếp liệu, cung cấp quân lính, quân trang vào miền Nam. Họ phải nỗ lực một cách tuyệt vọng nhằm không bị thua kém trước cuộc đổ quân ồ ạt của các lực lượng viễn chinh tinh nhuệ của Mỹ.

Song nghị quyết 9 của Trung ương Cục Miền Nam lại kêu gọi nỗ lực tối đa, nhằm “tranh thủ thời cơ thuận lợi, tập trung lực lượng, quyết tâm giành cho được những thắng lợi có tính chất quyết định trong mấy năm tới, dẫn tới Tổng khởi nghĩa.”

Tướng Võ Nguyên Giáp nhận định ngược với Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”, chỉ có thể tung ra sau khi quân đội Việt Nam Cộng hòa đã bị ‘tiêu hao’ và trở nên kiệt quệ tới mức không còn đủ sức đàn áp những cuộc nổi dậy của quần chúng .

Ông Giáp phản ứng mạnh mẽ trước đánh giá tình thế sai lệch, không đếm xỉa đến xương máu của ông Duẩn:

“Nếu vì lý do nào đó cuộc nổi dậy tại các đô thị gặp khó khăn và chúng ta buộc phải rút lui lực lượng, cũng không vấn đề gì. Đó sẽ chỉ là một dịp cho chúng ta diễn tập và rút ra các bài học kinh nghiệm nhằm chuẩn bị cho sau này.”

Thực tế chứng minh tầm nhìn xa của tướng Giáp. Mậu Thân 1968 gây tổn thất rất nặng cho VNDCCH về sức người, sức của.

Merle L. Pribbenow II, cựu sĩ quan tác chiến CIA với công trình nghiên cứu "General Võ Nguyên Giáp and the Mysterious Evolution of the Plan for the 1968 Tết Offensive" (Tướng Võ Nguyên Giáp và tiến trình bí ẩn kế hoạch tấn công Tết Mậu Thân 1968) viết:

Trận Mậu Thân tại Huế 1968


 

 

“Võ Nguyên Giáp phản đối cuộc tấn công Tết (Mậu Thân) mạnh mẽ đến mức sau đó ông bị mất quyền, không chỉ không được tham dự vào tiến trình lập kế hoạch mà còn phải rời Việt Nam sang Đông Âu. Giáp chỉ trở về cho tới khi cuộc tấn công Tết đã thực sự mở màn.” Pribbenow đã trực tiếp gặp tướng Giáp và đại tá Lê Trọng Nghĩa lấy tư liệu.

Bi kịch của Võ Nguyên Giáp trùm lên định mệnh Lê Trọng Nghĩa.

Bí thư thứ nhất của Đảng, thuộc phái chủ chiến Lê Duẩn vừa đẩy tướng Giáp ngồi chơi xơi nước, vừa nhổ tận gốc đồng đội thân tín của tướng Giáp.

Đỗ Đức Kiên, Cục trưởng Cục tác chiến Bộ Tổng Tham mưu bị bắt. Lê Minh Nghĩa, Chánh văn phòng Bộ Tổng Tham mưu bị bắt. Những con bài sẽ phụ họa cho một kế hoạch lớn.

Đại tá Lê Trọng Nghĩa (trái)


 

 

Lê Trọng Nghĩa bị bắt 8/01/1968.

Đại tá Đoàn Sự, em ruột đại tá Lê Trọng Nghĩa, người luôn bên anh những ngày sóng gió, thuật lại chi tiết: "Khi ông Lê Đức Thọ, Ủy viên Trung Ương, Trưởng ban Tuyên án vụ 'Xét lại chống Đảng' muốn ép cung Lê Trọng Nghĩa ai chủ mưu việc này, ông Nghĩa kiên quyết khẳng định vai trò Lê Duẩn."

Những đồng sự Đỗ Đức Kiên, Lê Minh Nghĩa không can trường như Lê Trọng Nghĩa đã bỏ cuộc, đầu hàng, được cho lên chức.

Riêng đại tá Lê Trọng Nghĩa, bị giam giữ từ tháng 2/1968 đến 1976 không xét xử theo pháp luật, cũng bị tảng lờ những đòi hỏi chính đáng trong suốt 48 năm.

Lê Trọng Nghĩa


 

 

Trong di chúc trước lúc ra đi ông đề nghị Đảng Cộng sản Việt Nam phải khôi phục danh dự “vì không phản bội Tổ quốc như đã quy kết, mà chỉ vì quy cho tôi liên quan đến vụ việc Đại tướng Võ Nguyên Giáp”.

Việc bắt bớ những người thân cận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, những người muốn đấu tranh thống nhất qua hòa bình, trong khi các nhà lãnh đạo Việt Nam luôn luôn coi ‘giải phóng miền Nam’ là công tích riêng.

Đã đến lúc cần hiểu chữ XHCN mà họ cho là Thiên đường đi tới là Xám Hối Cả Ngày.

Lê Trọng Nghĩa đã mở đầu quyển sách của ông với dòng chữ ‘Từ Hỏa lò đến phủ Khâm sai’, như một nửa chặng đường của đời ông.

Trách nhiệm của thế hệ đi sau là đổi chữ Xã Hội Chủ Nghĩa thành lương tâm, cốt cách biết xám hối, biết ăn năn khi làm xấu của Tính Thiện.

Bút tích của Đại tá Lê Trọng Nghĩa


 

 

Mùng bốn Tết, ngày giỗ đầu đại tá Lê Trọng Nghĩa, đọc lại bên bàn thờ ông những vần thơ ngày nào Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã tặng Đoàn Thượng:

"Thanh Miếu tuế thời hương, lăng cốc bất khai canh hoàn cụcHồng Châu kim cổ lộ, cương thường sức kởi vãng lai nhân."

Bản dịch của Đoàn Trọng Hân:

"Chí thời Thanh Miếu ngát hương, thủy nhật nguyệt chiếu minh gương Trung Nghĩa

Kim cổ hồng châu qua lại, Khách vãng lai trông rõ cột Cương Thường."

 Phạm Cao Phong

Nguồn BBC
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn