Vô danh:“Thảm họa Dân Tộc Việt Nam đang gánh chịu bắt nguồn từ tiệm bán rượu tại Huyện Bình Khê, Tỉnh Bình Định vào năm 1910!”
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Ủy Ban Quân Quản Thành Hồ có dựng một tấm bảng tại bến Nhà Rồng (1), trên đó có câu: “Nơi đây Bác ra đi tìm đường cứu nước”. Sự thật và tác hại thảm khốc của chuyến ra đi là hai chủ đỉểm của bài này.
A. SỰ THẬT VỀ MỘT CHUYẾN RA ĐI
Câu viết ghi trên có hai vế: “Nơi đây bác ra đi” và “tìm đường cứu nuớc”.
A1. “Nơi đây Bác ra đi”
Ngày 3 tháng 6 năm 1911, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành (NTT) mang tên giả là Nguyễn Văn Ba xin làm phụ bếp trên chiếc thương thuyền Amiral Latouche Tréville thuộc Compagnie des Chargeurs Réunis. Nơi trang 12, quyển “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch”, Trần Dân Tiên - một tên giả của Hồ Chí Minh (HCM) - bịa lời nói của một công nhân tên Mai không có mặt trên cõi đời này, dĩ nhiên là bịa đặt, tương tự như các sự kiện ông ta kể trong suốt cuộc đời 79 năm của ông ta, trong suốt chiều dài của tập sách nói trên và trong quyển “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện” của T. Lan, một tên giả khác của HCM (T.Lan tức Tuyết Lan, một người tình của HCM tại Thái-Lan):
“Vào khoảng cuối năm 1911 hay 1912 - tôi nhớ không đúng nữa - tôi làm việc ở phòng ăn của các sĩ quan trên tàu. Tàu của chúng tôi cặp bến Sài Gòn để lấy hàng và đón khách. Một buổi trưa, một người trai trẻ (NTT) lên tàu. Sau một phút ngập ngừng, anh ta hỏi xin việc. Tôi trả lời là không có việc và có chăng nữa, tôi cũng không có quyền nhận anh ta. Tôi cười vì chàng trai có vẻ một anh học trò, không phải là người lao động như tôi. Tôi không hiểu tại sao tôi thấy thương hại anh ta và tôi nói: ‘Đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đến gặp chủ tàu. Có le ông ta sẽ có việc cho anh làm’. Chủ tàu hỏi:
- Anh có thể làm việc gì?
- Tôi có thể làm bất cứ việc gì! Chàng trai trả lời.
- Được, ta sẽ lấy anh làm phụ bếp. Sáng mai anh đến đây nhận việc.”
Nơi chú thích 3 trong một bài viết trên Nhật báo Người Việt số 4741 ngày 30/11/1998 (13 tháng 10 - Mậu Dần), ký giả lão thành Như Phong Lê Văn Tiến (NP LVT) viết:
“Dưới chế độ thuộc địa của Pháp, người Việt muốn đi lại giữa ba xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ đã phải có thẻ căn cước có dán hình. Việc xuất nhập cảnh giữa các thuộc địa với chính quốc Pháp còn nhiều thủ tục không đơn giản như Trần Dân Tiên (HCM) đã thuật. Việc một người lạ tự tiện xuống một tàu hàng cập Bến Nhà Rồng mà không xin phép là việc rất khó có thể xảy ra. Theo lời ông Nguyễn Thế Truyền thuật lại tại Hà Nội năm 1949 và tại Sài Gòn năm 1960 thì sau khi ông Nguyễn Sinh Huy bị cách chức Tri Huyện vì phạm lỗi, người con là Nguyễn Tất Thành phải bỏ học, đi làm con nuôi cho một linh mục người Pháp và chính vị linh mục này đã giúp xin việc làm cho con đở đầu của mình để được xuống tàu sang Pháp tìm sự nghiệp…” (2)
Như vậy, quả thật NTT có “ra đi” từ Bến Nhà Rồng, nhưng không phải như HCM lấy tên giả là Trần Dân Tiên bịa chuyện, tương tự như Trần Huy Liệu bịa đặt huyền thoại “Anh hùng Lê Văn Tám” (3) và Tố Hữu dựng đứng chuyện Nguyễn Văn Trổi hô to: “Hồ Chí Minh muôn năm” trong khi gục chết trước toán hành quyết (4). Còn việc “tìm đường cứu nước” thì sao”?
A2. “Tìm đường cứu nước”
Người “phía bên kia”, người “phía bên nây”, hai học giả người Pháp, một Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên sô không hận thù gì với HCM và nhứt là những hành động của chính ông ta sẽ trả lời cho câu hỏi này.
A21. Nhận định của các học giả, ký giả và chánh trị gia
1/Trong báo Time, ấn bản Á Châu số cuối tháng 8 (23-30/08/1999), cựu Đại tá CSVN Bùi Tín đã viết:
“Theo tiểu sử chính thức, Ông Hồ Chí Minh đã rời Sài Gòn năm 1911 để ra đi tìm đường cứu nước. Nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy ông đã xuất dương vì những động cơ khác hẳn. Ông Hồ Chí Minh ra đi vì phẩn chí khi thấy cha bị cách chức khỏi ngành quan lại vì tội giết người trong một cơn say rượu và vì ông đã viết thư xin phục hồi chức vụ cho cha nhưng không được.” (5)
2. Với vô số tài liệu tìm thấy liên quan đến Nguyễn Ái Quốc và HCM (6), ký giả NP LVT viết
“Năm 1911 Nguyễn Tất Thành Đã Xin Phục Vụ Chế Độ Thực Dân Pháp”, trong đó có đoạn dưới đây:
“Có phải là người thanh niên đó ‘ra đi tìm đường cứu nước’ như lời xưng tụng của những đệ tử sau này? Hoặc là, cũng như hầu hết những người khác, ông bỏ quê quán ra đi để tìm một đời sống khá hơn và điều kiện lập thân, tạo sự nghiệp.” (7)
3. Đệ nhứt Bí Thư Đảng CS Liên Bang Sô Viết Khrushchev (1953-1964) cũng đã có nhận định tương tự khi ông ta viết: “Cuộc chiến nầy (1955-1975) không vì tương lai của người dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam đang đổ máu và xả thân cho Phong trào Cộng Sản Thế Giới.” (8).
NTT “ra đi tìm đường cứu nước”, tại sao nhân dân Việt nam không đổ máu và xả thân cho Tổ Quốc Việt Nam mà lại “cho Phong Trào Cộng Sản Thế Giới”? Như vậy rõ ràng HCM đã đạp lên máu, nước mắt và thân xác con dân Việt Nam để cố trèo lên đỉnh vinh quang trong cái gọi là “thế giới đại đồng” ảo tưởng!
4. Học giả Jean-Francois Revel, thuộc Hàn Lâm Viện Pháp Quốc, đã viết: “Mục tiêu của ông ta (HCM) không phải là nền độc lập của Việt Nam mà là việc sát nhập nước này vào quốc tế cộng sản và áp đặt chủ nghĩa độc tài Staline vào dân tộc Việt Nam.” (9).
5. Trên VietnamNews http:nguoi-viet.com/spcl/0712/vietnam.htm), trong bài “Sử gia Pierre Brocheux tin là HCM có nhiều vợ”, nhà văn Bảo Thạch viết: “Theo những tài liệu lịch sử được lưu trữ tại Pháp, anh thanh niên NTT, bắt đầu từ năm 1910, mang nặng trong tâm khảm bi kịch của gia đình. Vào năm 1910, bố anh, ông tri huyện Nguyễn Sinh Huy bị kỷ luật nặng và mất chức vì tội say rượu và đánh chết một nông dân. Anh thanh niên NTT phải bỏ học. Sử gia Pierre Brocheux cũng thiên về giả thuyết NTT lên tàu sang Pháp năm 1911 để tìm đường tự cứu mình và cứu gia đình.” (10)
Các hành động sau đây của HCM chứng minh điều này không phải là giả thuyết mà là sự thật. Mục tiêu của ông ta đã lộ quá rõ qua những hành động của chính ông ta.
A22. Những hành động của chính đương sự
1. “Ra đi tìm đường cứu nước”: tại sao không hợp tác với các nhà yêu nước chơn chánh khác đang chống chế độ thuộc địa Pháp như các cụ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Hồ Học Lãm v.v. mà lại dùng thời giờ để viết thơ tỏ tình với một thiếu nữ người Pháp? (11)
2. “Ra đi tìm đường cứu nước”: tại sao lại nộp đơn xin nhập học École Coloniale để tốt nghiệp ra phục vụ thực dân Pháp? Nhật báo Người Việt, số 4741, 30-11-1998, tr.A1, LTS giới thiệu bài viết của ký giả NP LVT:
“… giấc mộng làm quan phục vụ chế độ thuộc địa của HCM đã hiện rõ từ năm 1911”. Ký giả viết “Hai tháng sau khi tới Pháp, NTT có ý định thôi việc lao động dưới tàu biển để đi học. Tham vọng của anh ta lúc này đã khá lớn. Trường anh ta muốn xin vào học là École Coloniale chuyên đào tạo các viên chức trung cấp và cao cấp để đi làm quan cai trị tại các thuộc địa (12).
3. “Ra đi tìm đường cứu nước” tức là tìm đường đánh đuổi thực dân Pháp, tại sao lại van xin Khâm sứ Trung Kỳ cho bố ông ta một chức vụ trong Tòa Khâm hay bên Nam Triều để có kế sinh nhai nghĩa là xin cho bố mình làm việt gian, cộng tác với “thực dân, phong kiến”? (13)
4. “Ra đi tìm đường cứu nước”: tại sao lại mật báo với Pháp để bắt một nhà ái quốc chơn chánh là Cụ Phan Bội Châu để lãnh 150,000 đồng tiền Đông Dương (14). Thủ đoạn này quá ác độc. Một thanh niên 35 tuổi mượn tay thực dân Pháp ám hại một Ông Cụ 58 tuổi đang rong ruổi trên đường vận động cứu nước; Cụ còn là đồng hương Nghệ An, bạn thân của cha mình. Không có bất cứ một lý do nào có thể biện minh cho hành vi vô luân và tàn độc đó ngoài lý do làm mật thám cho thực dân Pháp, đuợc trả tiền.
5. Tổng kết trận chiến Điện Biên Phủ, HCM đã minh thị xác nhận: “Nhận chỉ thị của Quốc tế CS để giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ.” (Lịch Sử Đảng Cộng sản Đông Dương, Nhà Xuất Bản sách Giáo khoa Mác Lenin, Hà Nội 1979, tập I trang 32). Lời xác nhận này cho thấy HCM chỉ là một tên tay sai của Đệ Tam Quốc Tế chớ không phải một nhà yêu nước “ra đi tìm đường cứu nước” như bọn hậu duệ của ông ta ca tụng.
6. Trong “Diễn văn khai mạc Đại Hội năm 1960”, HCM lại xác nhận: “Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là thành viên trong đại gia đình Xã Hội Chủ Nghĩa, đứng đầu là Liên Xô vĩ đại. Chúng ta có nhiệm vụ giữ vững vị trí tiền đồn của chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam Á và trên toàn thế giới…”(Bằng xương máu của người Việt như Khrushchev đã viết!)
A23. Nhận định về những hành động của chính đương sự
Theo thiển kiến, ba sự kiện nêu trên, tự chúng, không có gì đáng chê bai và gièm pha!
1. Lúc bấy giờ NTT mới bước vào cái tuổi tam thập nhi lập, hãy còn độc thân thì việc tỏ tình để đi đến “duyên giai ngẫu, nghĩa vợ chồng” chỉ là chuyện thường tình mà thôi. Cũng là chuyện thường tình khi ông ta theo chế độ đa thê của vua chúa. Đáng trách là những người trong guồng máy tuyên truyền của “đảng” đã không ngừng bịa và bịp: “bác” dâng hiến cả cuộc đời cho “kách mệnh” nên đến khi vào nằm trong lòng kiếng “bác” vẫn còn trinh! Điều đáng tiếc là nếu cô Bourbon vui vẻ nhận lời làm bà NTT thì dân tộc Việt Nam không điêu đứng như ngày hôm nay. Nhưng biết đâu cô ta lại chẳng trở thành “Nông Thị Xuân gốc Pháp”! (15)
2. NTT có “mộng làm quan” thì việc ông ta xin đặc cách nhập học École Coloniale cũng là một việc bình thường, đáng khen vì có “tinh thần cầu tiến”! Nếu viên Chủ tịch Hội đồng Quản trị trường này không bác đơn của ông ta do Tổng trưởng Bộ Thuộc Địa chuyển đến thì Việt Nam không bị Tàu cộng đè đầu cởi cổ như hiện nay và sẽ không trở thành một nước Tây Tạng phía
3. Việt Nam có câu “Nhơn sanh bách hạnh hiếu vi tiên. Chữ rằng mộc bổn, thủy nguyên, làm người phải nhớ tổ tiên ông bà cùng là mẹ cha”. Thế thì NTT lo cho cha già đang lâm cảnh đói khổ bằng cách van xin viên Khâm sứ Trung Kỳ cho bố mình một việc làm với thực dân Pháp để mưu sinh là việc làm của một người con chí hiếu, phù hợp với lời dạy của người xưa.
4. Tuy nhiên, điều cần ghi nhận là các sự kiện nói trên không được kể trong các tài liệu của “đảng” và trong hai tác phẩm HCM viết để tự đề cao dưới bút hiệu Trần Dân Tiên và T.Lan, vì những sự kiện đó không tạo “quang vinh” cho “đảng” và cũng theo phương châm “tốt khoe, xấu che”, nhưng được tìm thấy trong văn khố nước Pháp đều thật sự dính líu tới Pháp. Thế mà một phần tư thế kỷ sau, dưới sự lãnh đạo của HCM, tức NTT trước kia, Việt minh (VM) đã sát hại đồng bào bị chúng “chụp mũ việt gian” với lý do “liên hệ đến Tây”!
Đối chiếu các trường hợp thực sự dính líu tới Pháp của NTT kể trên và các trường hợp bị chụp mủ “liên hệ đến Tây” được kể ở phần chú thích, người đọc sẽ thấy rõ ai thật sự là việt gian:
Ngày 26-08-1945, quân đội viễn chinh Pháp tái chiếm Sài Gòn. Lâm Ủy Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ, do đảng viên CS Trần Văn Giàu làm chủ tịch, bỏ trốn về Chợ Đệm ngày 16-09 và ra lịnh dân chúng tản cư. Dân Sài Gòn bỏ nhà cửa chạy về nông thôn. Họ chạy qua làng Lộc Thuận, Quận Bình Đại, tỉnh Bến Tre, nơi gia đình người viết “đi trốn Tây” (để gặp những người hung ác hơn Tây!). Trên đường làng có một trạm kiểm soát do ba tên du kích đóng chốt: Phiêu, Trầm, Vinh. Bọn trẻ con thường đến đó để xem các loại súng như súng bắn chim, súng hai lòng, súng lục, vài ba trái lựu đạn, dao găm, mã tấu… Do đó, mới trên 10 tuổi, bọn con nít chúng tôi đã phạm một trong tam-ác (nhìn ác, nghe ác và làm ác). Xin người đọc châm chước để không trách cứ: “Khổ lắm, biết rồi, nói mải”. Nói mải bởi vì Họ làm mải từ ngày 3 tháng 2 năm 1930 đến nay, ngày càng tinh vi nhưng càng dữ dằn và ác độc hơn. Xin đọc tội ác của VM như người viết đã thấy cách nay trên 65 năm (16) và những quả báo mà các tên cuồng sát đã lãnh như người viết đã biết cách nay gần nửa thế kỷ (17).
Có người cho rằng bọn địa phương xuẩn động làm bậy. Người viết nghĩ: Nếu không có chỉ thị “bạo lực cách mạng” của bọn thượng tầng thì đám hạ tầng không bao giờ dám bạo gan nhúng tay vào máu của lương dân vô tội. Nếu “trên” không hạ lịnh thì bọn VM tại Quảng Ngãi không bao giờ dám hạ sát Tạ Thu Thâu hồi tháng 9 năm 1946 (18). Bạo lực là bản chất của CS bất cứ dưới gầm trời nào! Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn, một học giả người Nga đã từng viết: “Đi xe đạp lên mặt trăng còn dễ hơn là làm cho CS từ bỏ bạo lực!”.
Tóm lược: NTT tức Lý Thụy tức Hồ Chí Minh, nhờ làm con nuôi của một vị linh mục ngưởi Pháp, đã ra đi từ Bến Nhà Rồng để tìm đường thực hiện “giấc mộng làm quan” (chú thích 2).
B. NHỮNG TÁC HẠI THẢM KHỐC CỦA MỘT CHUYẾN RA ĐI!
Khi xưa, trong thi phẩm “Phận Làm Trai”, Cụ Nguyễn Công Trứ đã viết: “Có trung-hiếu nên đứng trong trời-đất, không công-danh thời nát với cỏ-cây” và trong “Chí Nam Nhi”: “Trong vũ trụ đã đành phận-sự. Phải có danh mà đối với núi sông”. Công danh, đối với Cụ, chỉ là một phương tiện để phục vụ đất nước. Có phương tiện ấy trong tay, Cụ đã để lại cho đời một công trình to lớn: khai khẩn đất hoang ở vùng bải biển tỉnh Nam Định và tỉnh Ninh Bình để thành lập huyện Tiền Hải (nay thuộc Thái Bình) và huyện Kim Sơn (vẫn thuộc Ninh Bình).
Còn “giấc mộng công danh” của HCM đã du nhập “vòng kim cô” Marx-Lénine (19) về tròng lên đầu dân tộc, mang “xã hội chủ nghĩa” về giam giữ toàn dân, áp đặt chủ nghĩa độc tài Staline để cai trị Đất Nước và biến dân Việt thành những tù nhơn trừ bị, những tử tội dự khuyết, đúng như Solzhenitsyn đã viết: “Sống dưới chế độ cộng sản, mọi người đều bị ít nhứt một lần vào tù”.
Chuyến ra đi tìm đường làm quan của ông ta đã tạo bao cảnh máu đổ, thịt rơi, lệ tuôn thấm đất, xương trắng Trường Sơn, mạng người lá rụng (20), khói lửa phủ trùm đất nước, con chửi cha, vợ tố chồng, kẻ thọ ơn vu khống người thi ơn, anh em chém giết lẫn nhau và - nếu không có một đại động xóa bàn cờ quốc tế - sẽ để lại một bản đồ thế giới trên đó Việt Nam bị xóa tên. Không những thế, dân tộc Việt Nam cũng sẽ không còn trong cộng đồng nhơn loại! Có thể người đọc cho rằng HCM đã chết trên 40 năm thì làm thế nào mà có thể là nguyên nhơn của thảm trạng ngày nay. Xin thưa: những người cầm quyền hiện nay chỉ là cái ngọn, là những cành cây còn HCM mới là rễ cây, gốc cây. Chính HCM đã sinh sản và đào tạo đám hậu duệ của ông ta từ thế hệ này sang thế hệ khác theo kế sách “trăm năm trồng người theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (21) và vạch con đường để đám hậu duệ theo đuổi. Điều 4 Hiến Pháp năm 1992 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (22) và các bài viết của chính HCM tôn vinh Vladimir Lénine đã chứng minh điều khẳng định này:
- Khi hay tin Lénine chết ngày 21-03-1924, HCM viết trên báo Pravda ngày 27-03-1924:
“Lénine đã mất. Tin này đến với mọi người như sét đánh ngang tai, truyền đi khắp các bình nguyên ở Châu Phi và các cánh đồng xanh tươi ở Châu Á”. Kết thúc bài khóc Lénine, HCM viết: “Khi còn sống, người là cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay người là ngôi sao sáng dẫn đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội. Lénine bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. (Không nhớ tên dịch gỉả, xin tạ lỗi).
- Tôi giành được những thắng lợi to lớn đó, trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác-Lê” (trả lời phóng viên tạp chí L’Humanité khoảng tháng 7 năm 1969, (Báo Nhân Dân ngày 05-03-1070) hai tháng trước khi “đi gặp Cụ Cac Mac, Cụ Lenin và các vị cách mạng đàn anh khác” (chúc thư viết tay của HCM).
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ nhờ sự chỉ huy và cố vấn của các viên tướng Trung cộng, HCM huênh hoang tuyên bố: “Nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản để giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ.” (“Lịch Sử Đảng Cộng sản Đông Dương”, Nhà Xuất Bản sách Giáo khoa Mác Lenin, Hà Nội, 1979, tr.32)
Về tác hại thảm khốc do chuyến ra đi của NTT tạo nên, người viết sẽ không đề cập những vấn đề mà nhiều sử gia nổi tiếng, những học giả uyên bác, các nhà biên khảo lừng danh đã viết một cách thật công phu và đầy đủ: công cuộc cải cách ruộng đất man rợ và chánh sách sửa sai tàn bạo; cuộc tàn sát đẩm máu tại Quỳnh Lưu; Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm;Tổng công kích Tết Mậu Thân tại cố đô Huế; pháo kích các trường học tàn sát các em học sinh; đại lộ kinh hoàng” và Liên Tỉnh lộ số 7; tàn sát quân, công, cán, chính sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 qua chế độ lao động khổ sai; tàn sát đồng bào vượt biên; thành lập các vùng kinh tế mới tàn độc; giết chồng cưởng đoạt vợ; cướp của giết người, giết người cướp của; phá chùa, phá nhà thờ, đàn áp tôn giáo; xuất cảng phụ nữ làm “gái” quốc tế; xuất cảng thiếu nhi sang Cam-Bốt làm điếm theo lối khẩu dâm; xuất cảng công nhân làm lao nô theo sách lược “đem con bỏ chợ” (Samoa, Mả-Lai, Jordan…); đầu độc Đức Tổng Gíám Mục Nguyễn Kim Điền sau khi cầm tù Ngài 13 năm, trong đó có 9 năm biệt giam; giam cầm, hành hạ Linh Mục Nguyễn Văn Lý; quản chế Đại Lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang đến chết; tiếp tục quản chế Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ; đàn áp đẫm máu giáo dân tại Nguyệt Biều, Thái Bình, Tam Tòa, Thái Hà, Đồng Chiêm, Cầu Dầu v.v…; đàn áp, giam cầm, đánh đập các nhà tranh đấu bất bạo động trong nước v. v.
Người viết chỉ xin tóm lược năm vấn đề:
- Lấy máu đào của nông dân làm lễ tế cờ Đỏ Búa Liềm
- Tàn sát người quốc gia kháng chiến trong các chiến khu: Một trường hợp điễn hình
- Cướp chính quyền từ tay Người Quốc Gia, thôn tính Miền Bắc, tấn chiếm VNCH để mở rộng biên cương Đệ tam Quốc tế
- Dâng đất, dâng núi, dâng rừng, dâng biển, dâng đảo, dâng ải, dâng thác, dâng tài nguyên thiên nhiên cho Trung cộng (TC) để đưa đất nước vào vòng tay Đại Hán
- Môi Trường ô nhiễm và thực-phẩm-có-độc-tố.
B1. Lễ Tế Cờ Đỏ Búa Liềm tại Liên Khu 4 và 5
Mục tiêu “làm quan” của HCM đã hiện rõ ngay sau khi đảng cộng sản Đông Dương được thành lập vào ngày 3 tháng 2 năm 1930. Nhằm tạo dựng “Chính quyền Xô Viết” tại các tỉnh thuộc Liên khu 4 và 5 dưới quyền lãnh đạo của ông ta, HCM phát động đảng-sách “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rể” và lừa bịp nông dân bằng khẩu hiệu “lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo” để xúi dục nông dân các huyện tham gia biểu tình, phát động cái mà ông ta gọi là “Cao Trào Xô Viết Nghệ Tỉnh” với chiêu bài “chống sưu cao thuế nặng của thực dân phong kiến”.
“Cao trào” nóì trên được phát động vào ngày lễ Lao Động Quốc Tế 01-05-1930 mà cao điểm là “cuộc biểu tình võ trang của nông dân thuộc hai huyện Hưng Nguyên và Nam Đàn” ngày 12- 09-1930 do Cộng sản tổ chức. Đoàn biểu tình đã dương cao cờ đỏ búa liềm của Nga sô. Thực dân Pháp đã cho ba phi cơ thả bom giết 217 nông dân và làm 125 người bị thương. Cùng với nông dân Nghệ An, nông dân Hà Tỉnh do CS xúi dục, cưởng ép đã tham gia liên tiếp các cuộc biểu tình “đòi thực dân, phong kiến giảm sưu thuế nặng, chống bóc lột đàn áp dân cày” tại các huyện Hương Khê, Can Lộc, Thanh Hà, cũng với cờ đỏ búa liềm dẫn đầu (23).
Tại sao các cuộc biểu tình “đòi thực dân, phong kiến giảm sưu thuế, chống bóc lột đàn áp dân cày lại mang tên là “Cao trào Xô Viết Nghệ Tỉnh”? Tại sao lại tàn sát lương dân vô tội? Và tại sao các đoàn biểu tình lại vác cờ đỏ búa liềm thay vì các biểu ngữ nói lên nguyện vọng của nông dân?
HCM đã lợi dụng sự thật thà, chất phác và tánh dễ tin của nông dân để lấy máu đào của nông dân tô thắm cờ đỏ búa liềm để tỏ dạ trung thành với Nga Sô và cho đế quốc này thấy ông ta sẽ áp đặt “Chính quyền Xô Viết” lên các Liên khu liên hệ. “Cao trào” này hoàn toàn bị thất bại. Phải chăng vì sự thất bại nhục nhã này mà HCM bị Staline “quản chế” mấy năm và sau cùng đã phải đệ đơn van xin Staline cho hoạt động trở lại?
Tóm lược: Nếu NTT không “ra đi tìm đường cứu nước” thì không có vụ lấy màu đào của nông dân để tô thắm lá cờ đỏ búa liềm của Nga sô tại các tỉnh liên hệ!
B2. Cộng-sản-hóa hoặc tiêu-diệt các lực lượng kháng chiến Nam Bộ
Ngày 24-08-1945, Jean Cédile và các chiến hữu nhảy dù xuống phía bắc Sài Gòn, bị Nhựt bắt giữ. Một tuần sau, ông ta vượt ngục và trở thành đại diện Pháp quốc với chức vụ Cao Ủy Cộng Hòa (Commissaire de la République), trong khi chờ Tướng Leclerc đến.
Ngày 13-09-1945, Tướng Douglas Gracey của Anh quốc điều động sư đoàn 20 vào Sài Gòn với nhiệm vụ giải giới quân đội Nhựt từ vỉ tuyến 16 trở xuống. Nhưng Gracey lại chuyển quyền cho Cédile của quân đội viễn chinh Pháp. Theo đề nghị của Cédile, Gracey giải thoát và võ trang 1,400 binh sĩ Pháp, đa phần là lính Lê Dương, bị Nhựt cầm tù tại Trung đoàn Lục quân Thuộc địa (11è RIC, Régiment d’Infanterie Coloniale đóng tại Thành Aux Mares, trước 30-04-75 là Bộ Tư Lịnh Cảnh Sát Quốc Gia) trong cuộc đảo chánh ngày 09-03-1945.
Ngày 22-09-1945, ngay sau khi được tái võ trang, lính Lê Dương và lính Nhảy dù của Cédile, dưới quyền chỉ huy của Trung tá Rivier, đánh chiếm các cơ quan hành chánh và tiến chiếm các tỉnh Nam Phần. Các lực lượng kháng chiến quốc gia Nam Bộ như Quốc Dân Đảng, Đệ Tam Sư Đoàn Nguyễn Hòa Hiệp, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hòa Hảo, Dân Xã Đảng, Tịnh độ Cư Sĩ, Bình Xuyên v.v. bắt đầu giao tranh với các đơn vị viễn chinh Pháp. Trong khi đó, Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ, do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch, đã lẩn trốn về Chợ Đệm ngày 16-09-1945, không một chút kháng cự, để rồi sau đó xử dụng Quốc gia Tự vệ Cuộc của Nguyễn Văn Trấn thảm sát hàng trăm người cao niên, phụ nữ, trẻ con gốc Pháp tại khu cư xá René Hérault Tân Định, Sài Gòn (24).
Cuộc kháng chiến Nam Bộ đã bùng nổ vào cuối tháng 9 năm 1945. Cuối năm 1946, HCM điều động Hoàng Quốc Việt và Trung tướng CSVN Nguyễn Bình (NB) vào Miền Nam với sứ mạng cộng-sản-hóa hoặc tiêu-diệt các lực lượng kháng chiến quốc gia Nam Bộ.
Để thấy rõ thủ đoạn tàn độc nói trên, xin lấy một trường hợp điển hình liên quan đến lực lượng kháng chiến Bình Xuyên. Dĩ nhiên các lực lượng kháng chiến quốc gia khác cũng cùng chung một số phận.
Khi nói về Bình Xuyên (BX), người ta chỉ biết Lê Văn Viễn tức Bảy Viễn (BV).Thật sự, Đệ nhứt Thủ lãnh hay Tổng Chỉ Huy lực lượng, BX là Dương Văn Dương tức Ba Dương. Trong năm 1945, quân đội viễn chinh Pháp hành quân đã bị BX phục kích gây tổn thất nặng nề trên lộ trình Sài Gòn-Bà Rịa. Sau đó, BX triệt thoái vế làng Long Hậu Tây, phía nam Phú Xuân, Nhà Bè, Long Kiểng. Khi Pháp tiếp tục đánh chiếm các tỉnh, Ba Dương chuyển quân về Bến Tre. Tại đây, trong cuộc hành quân ngày 20-02-1946 có Không-quân yểm trợ, phi cơ Pháp xạ kích nơi Ba Dương đóng quân. Ông chạy lòng vòng quanh một cây rơm để tránh đạn. Ông tử thương do đạn của tên thủ hạ Từ Văn Ri do NB mua chuộc. Sau đó, tên phản loạn bị hành quyết. Em của Ba Dương là Dương Văn Hà được các đơn vị trưởng BX suy cử giữ trách vụ Tư lịnh lực luợng BX và BV, Tư lịnh phó. Để phân tán lực lượng BX, NB phong BV làm Khu trưởng chiến khu 7 và có ý định giải tán lực lượng BX nhưng bị BV cực lực chống đối. Chiến Khu 7 về sau trở thành Liên-khu 7 gồm các tỉnh Miền Đông, Saigon và Gia-Định (theo vikipedia).
Trong lòng chiến khu 7, vào giữa năm 1948, những cuộc đấu khẩu và phục kích để tận diệt lẫn nhau giữa BV và NB đã xảy ra thường xuyên. Các cuộc đấu khẩu giữa BV và NB đã được tác giả Nguyễn Long Thành Nam thuật lại trong một tác phẩm của ông (25).
Sau cuộc đấu khẩu nẩy lửa này, BX biết không thể cộng tác với VM được nữa nên tìm cách liên lạc với Sài Gòn. Ngày 17-06-1948, BV cùng toàn bộ lực lượng BX về hợp tác với Chánh Phủ Nguyễn Văn Xuân. Một số đơn vị võ trang của các Giáo phái cũng từ bỏ các khu chiến về hợp tác với Chánh Phủ Quốc Gia. Rất tiếc là sau khi rời bỏ bưng biền về Sài gòn, BV đã có quá nhiều tham vọng và có những hoạt động bất lợi cho đất nước trong giai đoạn lâm nguy. Do đó, ông ta đã làm cho lòng yêu nước của lực lượng BX bị chuyển hướng. Sau năm 1955, khi nói đến BX, người ta chỉ biết BV, Bình Khang, Kim Chung, Đại Thế Giới, Công-an xung phong, mấy ai biết và còn nhớ Đệ Nhứt thủ lãnh BX Dương Văn Dương tức Ba Dương và bào đệ của ông là Dương Văn Hà! Trong Đồng Tháp Mười, trước năm 1975, có con kinh mang tên Dương Văn Dương.
Như trên đã viết, sứ mạng của Nguyễn Bình vào Nam là tiêu diệt các lực lượng kháng chiến quốc gia Nam Bộ để VM Cộng sản chiếm độc quyền kháng chiến. Theo lời tố cáo của BV thì chính NB đã hạ lệnh cho tên Bửu Vinh ám hại Đức Huỳnh Giáo chủ. Thế tại sao “Người Pháp lại than phiền rằng Tướng Nguyễn Bình không chịu tập trung quân vào khu chỉ định chờ một giải pháp chính thức, trái lại Nguyễn Bình mở đường sang Cao Miên và Lào, tìm cách liên kết với các nhóm cách mạng chống Pháp khác, như Hòa Hảo của Đức Huỳnh Phú Sổ” (26).
Phải chăng người Pháp ngộ nhận vấn đề này với sự kiện NB bị HCM triệu hồi về Hà Nội và bị Lê Duẩn gián tiếp báo cho quân Pháp lộ trình di chuyển của NB để chúng phục kích giết chết trên đất Miên?
B3. Cướp chánh quyền và thôn tính Miền Bắc
Ngày 14-08-1941, Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin D.Roosevelt và Thũ Tướng Anh Quốc Winston Churchill cùng ký Hiến Chương Bắc Đại Tây Dương cam kết tôn trọng quyền tự quyết của các quốc gia bị trị (27). Với Hiến Chương này, Anh và Mỹ gíán tiếp ngăn chận Pháp tái chiếm Đông Dương. HCM cũng thấy, sớm hay muộn, Việt nam cũng sẽ thu hồi được nền độc lập từ tay người Pháp. Do đó, ông ta tìm mọi phương cách tiêu diệt các đoàn thể quốc gia để nắm độc quyền thương thuyết với Pháp. Việc điều động Nguyễn Bình vào chíến trường Nam Bộ và đón ruớc quân của Leclerc và Valluy vào Miền Bắc cũng nhằm đạt mục tiêu nói trên.
Ngày 11-03-1945, Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố hủy bỏ các Hiệp ước bảo hộ đồng thời tuyên bố Việt Nam độc lập. Chánh phủ Trần Trọng Kim được thành lập.
Ngày 16-08-1945, “Đại hội Quốc dân” với 60 đại biểu được triệu tập tại Tân Trào (Tuyên Quang) để thành lập “Ủy ban Giải phóng Quốc gia” do HCM làm Chủ tịch, âm mưu
Ngày 17-08-1945, một nhóm nhỏ VM với mấy lá cờ đỏ sao vàng đã biến cuộc meeting của Tổng Hội Công Chức nhằm chào mừng và ủng hộ Chánh phủ Trần Trọng Kim thành một cuộc meeting chào mừng và ủng hộ VM.
Ngày 19-08-1945, các nhóm võ trang VM dẫn nhau đi chiếm Tòa Đốc lý và các cơ quan hành chánh. Thế là cuộc “cướp chánh quyền” từ tay Người Quốc Gia tại Hà Nội mà VM gọi là “cách mạng tháng 8” hay “cách mạng mùa thu” đả đẩy Việt Nam vào cõi trầm luân không bến bờ! “Đảng sử” không cho biết HCM có đến “điện Kremlin” chào Staline và báo cáo: “Mission accomplie” không! Ngày 25-08-1945, Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị. Ngày 02-09-1945, HCM tuyên bố Việt Nam độc lập (28).
Tháng 12 năm 1945, HCM tỏ vẻ thất vọng và thú thật ông ta đã thất bại vì hơn ba tháng kể từ ngày tuyên bố độc lập, không một quốc gia nào nhìn nhận sự độc lập của Việt Nam. HCM thấy chỉ còn giải pháp thương thuyết với Pháp (29). Khoảng sáu tháng, sau cuộc kháng chiến Nam bộ bùng nổ, HCM ký với Jean Sainteny Thỏa ước Sơ Bộ ngày 06-03-1946 chấp thuận cho quân đội viễn chinh Pháp đổ bộ lên Miền Bắc. Ngày 14-03-1946, 13.000 lính Pháp đổ bộ lên Hải Phòng. Bốn ngày sau, dưới quyền chỉ huy của các Tướng Leclerc và Valluy, 1.200 quân và 200 quân xa từ Hải Phòng kéo lên Hà Nội (30). Với Sơ Ước 06-03-1946, HCM nhằm hai mục tiêu: Mượn tay Pháp tiêu diệt các chánh đảng quốc gia còn hoạt động trên đất Bắc và được Pháp gián tiếp công nhận là kẻ đối thoại duy nhứt về mọi vấn đề liên quan đến Việt Nam. Còn Pháp thì nhằm tái chiếm Bắc Việt dưới danh nghĩa thay thế quân của Tưởng Giới Thạch giải giới quân Nhựt. Dĩ nhiên, để đạt mục đích nói đây, Pháp phải thương lượng với Chánh Phủ Trung Hoa và kết quả của sự điều đình này là Thỏa Ước ngày 28-02-1946 ký kết tại Trùng Khánh giữa Ngoại trưởng Vương Thế Kiệt và Đại sứ Jacques Meyrier (31). Từ Hà Nội, quân đội viễn chinh Pháp hành quân đánh chiếm Bắc Ninh, Đáp Cầu, Hải Dương, Huế, Nam Định, Phủ Lạng Thương, Vinh v.v…tương tự như chúng tấn chiếm Sài Gòn và các tỉnh Nam Phần chỉ khác hai điểm:
1. Sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp tại Sài Gòn do sự trợ giúp của Tướng Gracey còn sự hiện diện của họ tại Hà Nội do sự thỉnh mời của HCM;
2. Cuộc kháng chiến Nam Bộ bùng nổ ngay sau khi Pháp chiếm đóng Sài Gòn ngày 22-09-1945 và đang tiến chiếm các tỉnh trong khi đó mải đến 15 tháng sau khi quân của Leclerc vào Hà Nội và sau khi quân của Tướng Morlière chiếm đóng các tỉnh ghi trên, HCM mới tuyên bố “Ngày toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946” sau những thất bại trong việc thương thuyết với Pháp.
Sau nhiều cuộc đàm phán bất thành (32), chiến tranh Pháp-Việt Minh vẫn tiếp diễn. Vào năm 1947, HCM bày tỏ ý muốn được gia nhập Liên Hiệp Pháp nếu Pháp nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam. Pháp không chấp thuận vì thấy rõ chân tướng Việt Minh là cộng sản và nghĩ đến Giải pháp Bảo Đại. Giáo Sư Thạc Sĩ Vũ Quốc Thúc, Khoa Trưởng Trường Luật Sài Gòn (1957-1963) đã nhắc lại một số biến cố lịch sử đưa tới sự thành hình của Quốc Gia Việt Nam với Cựu Hoàng Bảo Đại (Cựu Hoàng) làm Quốc Trưởng (33).
Từ Hồng Kông, Cựu Hoàng gởi thông điệp Ngày 15-05-1948 ủy nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân thành lập Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời. Ngày 05-06-1948, trên tuần dương hạm Duguay Trouin thả neo tại Vịnh Hạ Long, dưới sự chứng kiến của Cựu Hoàng, Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân đã cùng Cao ủy Toàn quyền Đông Dương Emile Bollaert (1947-1948) đưa ra một bản tuyên ngôn chung được gọi là Thỏa Hiệp Vịnh Hạ Long. Thỏa hiệp này long trọng nhìn nhận nền Độc Lập và Thống Nhứt của Việt Nam, nhưng Pháp vẫn nắm giữ các vấn đế quốc phòng, tài chánh và ngoại giao. Quốc Trưởng, bất mãn với “bước tiến quá nhỏ” trong việc thương thuyết, trở về Pháp và quyết tâm “chỉ trở về khi nào Việt Nam thật sự thống nhứt và độc lập”. Tuy thế, Quốc kỳ nền vàng, ba sọc đỏ cũng đã phất phới tung bay từ ngày đó, trên khắp Ba Miền Đất Nước, từ Ải Nam Quan đến Mủi Cà Mau.
Năm 1949, HCM lại kêu gọi hòa giải và cam kết sẽ đứng trung lập giữa khối Tây phương và khối cộng sản. Lời kêu gọi này, được công bố cùng lúc với chiến thắng của Mao Trạch Đông, không được Pháp đáp ứng (01-10-1949). Đầu năm 1950, không hy vọng hòa giải được với Pháp, HCM xin Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh nhìn nhận chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” do ông ta thành lập tại vùng biên giới phía Bắc. Tây phương bây giờ mới thấy “chánh phủ” HCM là một chư hầu của đế quốc Sô Viết. Ngoại trưởng Dean Acheson (1949-1953), dưới thời Tổng thống Harry S. Truman, cho rằng với sự ủng hộ và yểm trợ của Liên bang Sô Viết (LBSV), HCM là kẻ tử thù đối với nền độc lập của các quốc gia Đông Dương” (34).
Ngày 08-03-1949, Tổng Thống Vincent Auriol (1947-1954) ký với Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp ước Élysée, được Quốc hội Pháp phê chuẩn ngày 02-02-1950, nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp, với tên nước là QUỐC GIA VIỆT NAM (État du Vietnam);
Pháp còn giữ các lãnh vực tài chánh, ngoại giao và quốc phòng. Quốc Trưởng Bảo Đại không hài lòng lắm với Hiệp ước này nhưng ông vẫn chấp thuập để chờ đợi một giải pháp tốt hơn và sẽ lần lần thu hồi trọn vẹn nền độc lập cho đất nước; nếu không, Pháp sẽ quay lại đàm phán với VM cộng sản (35). QUỐC GIA VIỆT NAM ra đời và được trên 50 quốc gia nhìn nhận.
Cuộc chiến vẫn tiếp diễn nhưng với bản chất khác. Đó là cuộc chiến giữa Quốc Gia Việt Nam được Pháp trợ chiến và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được TC và khối cộng sản quốc tế tiếp sức. Với một hậu phương vững mạnh và được chính các tướng lãnh TC “hợp đồng tác chiến” và chỉ huy, cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ ngày 13-03-1954, đưa đến cuộc hòa đàm tại Genève ngày 08-05-1954 dưới sự đồng chủ tọa của Anh và Nga. Ngày 18-06-1954, Quốc Trưởng Bảo Đại cử nhiệm ông Ngô Đình Diệm giữ trách vụ Thủ Tướng Quốc Gia Việt Nam. Cuộc hòa đàm Genève kết thúc với hiệp định đình chiến ngày 20-07-1954 chia cắt đất nước thành hai quốc gia: Việt Nam Cộng Hòa theo chủ nghĩa quốc gia dân tộc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa theo chủ nghĩa Marx-Lénine. Ngoại trưởng Trần Văn Đổ, thừa lịnh Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, phản đối việc chia cắt đất nước và từ khước ký hiệp định. Hoa Kỳ cũng không ký hiệp định: Ngoại trưởng Foster Dulles và thứ trưởng Bedel Smith vắng mặt trong phiên họp cuối cùng của Hội nghị.
B4. Hoàn tất sứ mạng nhuộm đỏ Việt Nam: Hoàng Sa và Trường Sa
Sau khi cưởng chiếm được Miền Bắc của Quốc Gia Việt Nam, HCM tiếp tục thừa lịnh Đệ Tam Quốc Tế tấn công để cưởng chiếm nốt phần đất còn lại của Quốc Gia Việt Nam được các quốc gia đồng minh nhìn nhận là một Quốc Gia độc lập, có chủ quyền với tên nước là VIỆT NAM CỘNG HÒA. Để hoàn thành nhiệm vụ do Đệ Tam Quốc Tế giao phó, HCM van xin Staline và Mao Trạch Đông bán chịu các quân dụng tối tân để trang bị “quân đội nhân dân”. Họ Mao long trọng tuyên hứa bán chịu tối đa, không ngưng nghỉ cho tới khi nào họ Hồ hoàn thành nhiệm vụ với điều kiện Hồ không chống đối việc Cộng hòa Nhân dân Trung hoa (TC) chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH; sau khi chiếm xong Miền Nam, “thiếu đủ hai bên sẽ tính sau”. Nhóm chữ này do người viết suy diễn từ các sự kiện xảy ra sau khi VNCH bị cưởng chiếm, đang biến VN thành quận huyện của “Đại Hán” hoặc một xứ Tây Tạng phía nam của Trung Cộng. Nếu không có âm mưu trước giữa Mao và Hồ thì làm gì dịch vụ dâng hiến Hoàng
Sa và Trường Sa chỉ diễn tiến trong vòng có 10 ngày:
- Ngày 4-9-1958, TC ra tuyên ngôn nới rộng hải phận của chúng thêm 12 hải lý để nuốt
- Chỉ 3 ngày sau, ngày 7-9-1958, HCM họp Chính trị bộ (Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Văn Hoan, Hoàng Quốc Việt…), không phải để thảo luận mà để thông báo quyết định của ông ta về tuyên ngôn nói trên. Xin mời quý vị đọc cuộc đối thoại giữa hai vợ chồng Võ Nguyên Giáp trước khi ông này đến nhà Lê Đức Thọ nhận lịnh sang Tàu (trong phần chú thích). Với câu nói khai mạc mà cũng là bế mạc, HCM đã khốp mỏ các đồng chí của ông ta (36).
- Chỉ 7 ngày sau, vâng lịnh HCM, Thủ tướng VC Phạm Văn Đồng gởi Thủ tướng TC Chu Ân Lai bức “công hàm” ngày 14-9-1958, với nội dung nguyên văn như sau:
“Chính phủ nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa quyết định về hải phận của Trung quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể”.
“Công hàm” này hoàn toàn vô giá trị vì hai lẻ: Thứ nhứt, theo hiến pháp, mọi vấn đề về lãnh thổ phải được quốc hội phê chuẩn, dù là quốc hội bù nhìn đi chăng nửa; thứ hai, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới vĩ tuyến 17, nghĩa là thuộc lãnh thổ VNCH; đây là hành động bán nước ngu xuẩn, gian manh, ngang ngược: bán nhà của người láng giềng cho đệ tam nhân!
Sau khi chiếm xong Miền Nam, Hà Nội “không tính thiếu đủ” với TC. Lê Duẫn còn ngã theo Liên Bang Sô Viết (LBSV) và tấn chiếm Cam bốt của Polpot, đàn em của TC. Đặng Tiểu Bình, sau khi công du Hoa Kỳ về, đã “dạy” Việt cộng (VC) bài học thứ nhứt vào năm 1979, xua quân đánh phá sáu tỉnh biên giới. Hà Nội cũng “chưa chịu tính” với TC mà còn mạt sát “bọn bành trướng Bắc Kinh” và gọi Đặng Tiểu Bình là “Đặng lưu manh” vì còn dựa vào LBSV. TC bèn “dạy” VC “bài học thứ hai” với trận chiến 1984-1989, chiếm nhiều cao điểm chiến lược quan trọng dọc theo biên giới trong đó có dãy “Núi Đất” mà bọn Tàu gọi là “Lão Sơn”. VC bắt đầu biết sợ. Vào năm 1990, Lê Đức Thọ, Trưởng ban tổ chức của “đảng”, đã cưởng ép Đại Tướng CSVN Võ Nguyên Giáp sang Tàu cầu hòa (xin xem chú thích 36). Cuối năm 1991, LBSV sụp đổ. Hà Nội lên cơn sốt rét cấp tính và “bắt đầu tính thiếu đủ” với TC.
Kết quả của việc “thiếu đủ tính sau”: Hiệp ước biên giới trên đất liền ngày 30-12-1999 (700 cây số vuông mất vào tay TC, trên đó có Ải Nam-Quan và Thác Bản Giốc). Bọn Tàu vẫn nói “chưa đủ”, kết quả: Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Việt ngày 26/12/2000 (10,000 cây số vuông lọt vào nanh vuốt của TC). Bọn Tàu tiếp tục nói “chưa đủ, còn thiếu nhiều”, kết quả: dân Tàu đi trên đất nước Việt Nam như đi trên đất Tàu (vào Việt Nam không cần thông hành chiếu khán, ở bao lâu cũng được, ở luôn cũng không có gì trở ngại. Hiện nay, TC đã có một China Town tại Lạng sơn và nhiều “làng người Tàu” tại miền Bắc. Với xảo thuật “vết dầu loang”, sẽ còn nhiều China Towns và “làng người Tàu” trên lãnh thổ Việt Nam). Thế nhưng TC vẫn chưa hài lòng: “Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung hoa đã giúp chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ năm 1949 đến năm 1975, kể cả sinh mạng của hàng vạn binh lính Hồng quần mà quý quốc chỉ trả có bấy nhiêu, chưa bắng 1 phần ngàn những gì Trung quốc hy sinh cho quý quốc”. Thế là TC vào khai thác bauxite trên “Tây nguyên” và biến “Tây nguyên” thành một căn cứ chiến lược ngay trên nóc nhà của Việt Nam để khống chế không những bán đảo Đông Dương mà còn cả toàn cõi Đông Nam Á! TC cũng chưa thấy đủ, buộc VC cho mướn rừng 50 năm, trên 16 tỉnh phía Bắc và nhiều tỉnh phương Nam. Vì đâu nên nỗi? Chỉ vì “một chuyến ra đi”!!!
B5. Môi-Trường-Ô-Nhiểm và Thực-Phẩm-Có-Chất-Độc
Trong tác phẩm “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc”, học giả Hoàng Văn Chí viết:
“Trí thức ở miền Bắc đã nổi dậy chống chế độ CS từ mùa Xuân năm 1956 mà mải đến cuối Thu năm ấy báo-chí Sài-gòn mới được tin vì nhà cầm quyền miền Bắc đã dùng mọi biện-pháp để cố tình bưng bít một cuộc nội biến đánh dấu sự suy sụp của hệ thống tư tưởng cộng sản”
Thật ra, nhiều biến cố quan trọng khác mà người Miền Nam không biết hoặc biết quá trể: HCM bán đứng Cụ Phan Bội Châu cho Pháp, cải cách ruộng đất, nông dân Quỳnh Lưu nổi dậy, HCM xin Mao Trạch Đông gởi 320 ngàn quân sang Việt Nam từ năm 1965, phi công Bắc Hàn tham chiến tại Miền Bắc, “xét lại chống đảng”, Nông Thị Xuân “bị xe cán chết” v.v…
Với cuộc “cải cách ruộng đất”, hàng vạn người bị giết. Với vụ đàn áp đẩm máu ở Quỳnh Lưu, trên 3.000 nông dân bị tàn sát. Với Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm, hàng trăm văn thi sĩ bị trù dập. Với cái gọi là “xét lại chống đảng”, hàng trăm đảng viên CS bị thanh toán. Với vụ Nông Thị Xuân, ba người bị thảm sát. Với môi trường đầy ô nhiểm và thực phẩm chứa độc tố, sức khỏe và sanh mạng của đồng bào bị đe dọa nặng nề, không phải trong nhứt thời mà từ năm 1955 ở Miền Bắc và mãi mãi cho đến khi chế độ CS sụp đổ, thì nỗi đau xót làm sao nói nên lời! Người xưa đã nói đại khái như sau: biết mà không nói, phải tội; nói mà không nói hết lời cũng phải tội, nhưng nói với những kẻ giả bộ điếc và những “người dại quanh năm” (chó dại có mùa) hoặc những kẻ mà Jean Paul Sartre gọi là idiots thì phí lời.
Tiến sĩ Hóa học Mai Thanh Truyết, từ mấy năm qua, đã viết nhiều bài nghiên cứu về thực phẩm có độc tố nhập cảng từ Trung cộng và sản xuất tại xứ việt cộng. Người viết nghĩ ông viết để đồng bào đề phòng trong việc mua sắm - xin đừng thấy rẻ mà mua rồi tốn thêm tiền mua vài chiếc áo quan, làm giàu cho các nhà quàn! - chớ không phải để nhà cầm quyền Hà Nội xem lại vấn đề vì ông thừa biết nhà cầm quyền đó xem ngoại tệ quý hơn sức khỏe và sanh mạng của người dân. Họ chủ trương “Đô vi quý, đảng thứ chi, dân vi khinh”. Mặt khác, họ sợ Tàu khiển trách hơn là thương dân chết vì thực phẩm có độc tố của Tàu.
Xin nêu vài dẫn chứng:
1. Trong bài “Bắc Kinh Động Thủ, Thái Thú Bấp Bênh”, Giáo sư Trần Minh Xuân trích dẫn lời phát biểu của bà Phạm Chi Lan sau buổi tọa đàm ngày 16-06-2009 do báo điện tử VietNamNet tổ chức nhằm tìm giải pháp đối phó với hàng Trung Quốc phẩm chất thấp: “Doanh nhân Trung Quốc vào Việt Nam mua tôm giá cao sau đó biến chế và tiêm thêm hóa chất làm cho con tôm lớn và nặng lên để bán lại cho Việt Nam”. Liền sau đó, tên “Tham tán Kinh tế Thương mại” của sứ quán TC tại Hà Nội phản ứng: “Một số cơ quan truyền thông của Việt Nam đã không thực hiện đúng thỏa thuận giữa hai chính phủ, dám chỉ trích chất lượng hàng hóa Trung Quốc” và hắn yêu cầu VC khuyến cáo các tờ báo này. Hai chính phủ thỏa thuận về vấn đề gì? VC thỏa thuận nhập cảng thực phẩm có độc tố của TC để giết dân?
2. Giáo sư cũng đã trích một đoạn trong bản tin được phóng viên Trần Văn của đài RFA phát đi ngày 7-7-2009: “… Một số nhà báo Việt Nam từng kể rằng, năm 2007, vào lúc nữa đêm, chính quyền Trung Quốc đã “vời” Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc đến để trách mắng vì báo chí Việt Nam dám chỉ trích chất lượng hàng Trung Quốc…” (38).
Cũng về thực phẩm và hàng hóa nhập cảng từ Tàu, xin đọc một đoạn trong bài “Không Dùng Hàng Hóa Tàu Có Sống Được Không?” của tác giả Phương Tôn, Chủ bút Diễn đàn Điện tử khoahoc.net (39).
Về môi trường, không những viết bài nghiên cứu và xuất bản các tác phẩm, Tiến sĩ Mai Thanh Truyết còn đi thuyết trình và tham dự các cuộc hội luận, điễn hình là cuộc hội luận ngày 19-04-2009 tại Houston. Ông đã liệt kê nhiều loại ô nhiễm mà đồng bào trong nước đang phải sống trong đó: ô nhiễm arsenic, ô nhiễm nguồn nước ngầm, ô nhiễm mặt đất, ô nhiểm vì rác, ô nhiểm vì nhập cảng phế thải độc hại vào Việt Nam. Ngoài ra, tưởng còn phải kể ô nhiểm không khí, ô nhiểm nước uống, ô nhiểm tiếng động. Theo ông, từ năm 1986 - thời điểm Việt Nam “mở cửa” để phát triển - tình trạng môi trường ngày càng tệ hại. Người viết nghĩ môi sinh không lành mạnh ảnh hưởng tai hại đến sức khỏe của đồng bào và sức đề kháng của dân tộc trước kẻ thù ngoại xâm lẫn nội xâm ! Tác gìả “Vang Bóng Một Thời” Nguyễn Tuân đã viết: “Nước ta là một pháp trường trắng, không có đầu rơi, không có máu chảy, nhưng có người chết.” Phải chăng ông muốn ám chỉ những cái chết vì thực phẩm có độc tố và môi trường ô nhiểm? Còn “pháp trường đỏ”, máu đổ thành sông, xương chất thành núi từ ngày 03-02-1930 được bày ra trước mắt cấn gì phải đề cập!
Nếu không có “chuyến ra đi năm ấy” thì làm gì có chuyện “bên nây biên giới là nhà, bên kia biên giới cũng là quê hương” (Tố Hữu) để kẻ thù nhồi nhét thuốc độc vào mâm cơm của đồng bào và xuất cảng phế thải độc hại làm ô nhiễm môi sinh của dân tộc.
KẾT LUẬN
Bốn năm sau khi cuộc cách mạng tháng 10 bùng nổ, một trận đói kinh hồn giết hại cả triệu dân Nga. Từ đó, cuộc cách mạng đi từ thất bại này đến thất bại khác. Năm 1921, một cuộc nội chiến do nông dân dấy lên. Từ ngày 28-02 đến ngày 18-03-1921, thủy thủ, binh sĩ, thợ thuyền nổi loạn tại thành phố cảng Kronchtadt chống chánh phủ Sô-viết. Họ thành lập một Ủy Ban Cách Mạng Lâm Thời đòi hỏi tự do ngôn luận, tự do báo chí. Mải đến ngày 18-03-1921, cuộc nổi loạn mới bị đạo quân của Toukhatchevski dập tắt. Nền kinh tế suy thoái và hầu như hổn loạn buộc Lénine phải ban hành Chánh Sách Kinh Tế Mới (NEP=New Economic Policy). Nhưng không một tia hy vọng nào le lói ở cuối đường hầm. Phần vì chán nản, phần bị các biến chứng của cuộc mưu sát năm 1918 hành hạ, Lénine từ bỏ mọi hoạt động chánh trị từ năm 1922 và qua đời ngày 21-01-1924 sau ba cơn đột quỵ trầm trọng và bị bịnh giang mai tàn phá cơ thể. Hung thần Staline lên thay thế vào năm 1922, thẳng tay khủng bố, tù đày, sát hại cả chục triệu người mới duy trì được chế độ vô sản chuyên chính.
Lénine đã để lại cho đời nhiều câu nói nhuộm màu tang tóc, đa sát làm “ngôi sao dẫn đường” cho HCM và đám hậu duệ “đi tới cuộc cách mạng xã hội”. Nghị quyết của đại hội đảng CSVN lần thứ 4 vào năm 1976 đã long trọng tái xác quyết: “Để đưa cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện tiên quyết là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản”. Nhưng chuyên chính vô sản là gi? Lénine ưa chuộng câu tục ngữ của Pháp “On ne saurait faire une omelette sans casser des oeufs”. Vì vậy, trong L’État et la Révolution, ông ta viết: “Chánh phủ vô sản cần phải giết hết giai cấp tư sản để đi đến thắng lợi” và trong Proletarian Revolution: “Vô sản chuyên chính là hệ thống quyền hành đạt được và duy trì bằng bạo lực của vô sản chống lại tư sản, một hệ thống quyền bính không bị giới hạn bởi bất cứ một thứ luật lệ nào”. Tại sao lại phải giết hết giai cấp vô sản? Léon Trotski, cánh tay mặt của Lénine trong cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917, đã trả lời đại khái như sau: vô sản là giai cấp trong dòng lịch sử là giai cấp hướng thượng còn giai cấp tư sản hiện nay là giai cấp đang tan rả; không những nó không đóng vai trò chánh yếu trong cơ cấu sản xuất mà còn phá hoại nền kinh tế thế giới và nền văn hóa nhơn loại (40).
Tất cả cảc cuộc tàn sát người quốc gia và người không cộng sản do CSVN thực hiện dưới sự lãnh đạo của HCM từ truớc đến nay đều bắt nguồn từ tư tưởng của Lénine: “Ai Không theo ta là chống ta. Ai chống ta thì phải chết” (41). Do đó, không làm gì có cái gọi là “thành phần thứ ba” mà một nhóm người tự khoác cho mình trước năm 1975!
HCM đã từng ở “trên đất nước Lénine”, đã từng đọc những gì hắn viết tất phải biết hắn là người như thế nào và hắn đã đưa nước Nga về đâu. Thế mà ông ta vẫn tôn hắn là cha, là thầy, là đồng chí và đem chủ thuyết của hắn về “cứu nước. Nếu không có chuyến ra đi của NTT vào năm 1911 thì chủ nghĩa Mác-Lê không có lối để chui vào tàn sát nhơn tài của đất nước, tàn phá non sông gấm vóc do tiền nhân dày công xây dựng và Việt Nam đã thu hồi độc lập từ năm 1948 mà không phải trảỉ qua hai cuộc chiến đẳm máu .
Người viết quá chủ quan chăng? Chúng ta hãy nhìn các cựu thuộc địa của Bỉ, Hoà Lan, Pháp, Anh, Hoa kỳ. Sau Đệ nhị Thế chiến, các thuộc địa này đã lần lượt thu hồi độc lập một cách trọn vẹn mà không phải trải qua những trận cuồng sát kinh hồn và hai cuộc chiến đẩm máu như ba xứ Đông Dương. Nam Dương: 1945; Phi Luật Tân: 1946; Ấn Độ, Hồi Quốc: 1947; Tích Lan, Miến Điện: 1948; Tunisie, Maroc, Sudan: 1956; Mã Lai: 1957; Tân Gia Ba: 1959; Congo, Côte d’Ivoire, Madagascar: 1960; Algerie, Rwanda: 1962. Tại sao? Vì các nhà tranh đấu cho nền độc lập của nước họ là những bậc vĩ nhân, là những người yêu nước chơn chánh, đã khôn ngoan không du nhập tà thuyết Mác-Lê để tàn phá đất nước của họ; họ đã không nhập cảng “xã hội chủ nghĩa” để cầm tù dân tộc của họ. Nói tóm lại, họ không có “mộng ước làm quan” mà chỉ lấy phúc lợi của dân tộc làm cứu cánh cho cuộc tranh đấu và chắc chắn họ đã không dại khờ tôn vinh những kẻ đã từng bị lịch sử nhân loại lên án và họ luôn luôn ghi nhớ lời tiên đoán của Bruno Bauer (42), người cùng thời với Karl Marx: “Học thuyết Marxisme sẽ mang đại họa đến cho xã hội loài người” và họ không hề tôn vinh tên độc tài khát máu Lénine lên làm cha, làm thầy, làm đồng chí, làm cố vấn của họ. Họ cũng không tôn vinh tên đồ tể Staline là Tổng Tư Lệnh toàn quân đội nhân dân thế giới! (43)
TQLC LÊ CÔNG TRUYỀN
KBC 3331
Nguồn Thủy Quân Lục Chiến
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bến Nhà Rồng, thương cảng trên sông Sài Gòn (Quận Tư), được xây dựng vào năm 1864
2. Nhật Báo Người Việt, số 4741. 30-11-1998 (13 tháng Muời - Mậu Dần), tr.A1, LTS giới thiệu bài viết của ký giả lão thành Như Phong Lê Văn Tiến: “… giấc mộng làm quan phục vụ chế độ thuộc địa của HCM đã hiện rõ từ năm 1911.”
3. Vào năm 2004 giáo sư Phan Huy Lê, Chủ Tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, đã cho biết câu chuyện về người “anh hùng Lê văn Tám” là chuyện không có thật. Tác giả câu chuyện láo khoét này chính là Trần Huy Liệu, “nhà sử học” được Hồ Chí Minh bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền sau “cách mạng Tháng Tám 1945”. Trước khi chết (1969) vài năm, Ông Liệu cho GS Phan Huy Lê biết rằng mình viết câu chuyện này nhằm tuyên truyền và nhờ GS Lê, sau này đất nước bình yên nói lại dùm.
4. Sư kiện Nguyễn Văn Trổi hô to "Hồ Chí Minh muôn năm" là điều mà Tố Hữu, trước khi chết, đã thú nhận rằng chuyện đó do hắn phịa ra trong một bài thơ ca ngợi Nguyễn Văn Trổi chứ không có thật! Ngược lại theo luật sư được chỉ định biện hộ cho Trổi lúc bấy giờ là luật sư Nguyển Văn Chức thì Trổi khóc than với ông: “Chúng nó hại em rồi Luật Sư ơi” .
Trổi làm nghề thợ điện ở Quảng Nam, bản tính hiền hòa, không tham gia bất cứ một tổ chức nào. Tin anh ta bị bắt vì tội đặt bom định sát hại Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara làm cả nhà kinh ngạc, không ai tin là có thật. Thật ra, chính VC cưỏng ép Trổi nhận công tác mà chúng dư biết không thành công, cốt gây tiếng vang mà thôi. Sau khi anh ta chết, gia đình vẫn sống bình thường, không có một sự đe dọa nào từ phía chính quyền VNCH. Nhưng họ lại rất sợ VC. Sau đó chúng ra lịnh người nhà đưa vợ anh ta là Phan thị Quyên đến một địa điểm biên giới Miên Việt. Tại đây người nhà được cho trở về với lời đe doạ không được tiết lội. Chị Quyên bị chúng dẩn đi và bặt tin từ đó. Mãi đến 30-4-75, chị mới trở về, người nhà mới biết VC đưa chị băng rừng lội suối ra Bắc. Họ đưa chị đi khắp thế giới tuyên truyền cho người anh hùng "chống Mỹ cứu nước" mà nhân chứng bất đắc dĩ chính là người vợ của anh.
5. Nhật báo Người Việt, Hà Nội xé bỏ bài viết của Bùi Tín trên báo Time, Thứ Sáu - Số 5011, 27 tháng 8, 1999, tr. A12
6. Trung Tâm Văn Khố Hải Ngoại (CAOM) tại Aix En Provence có một thùng tài liệu ghi Hồ sơ Nguyễn Ái Quốc”, mã số INDO-HCI-SPCE //1116 mà người nghiên cứu có thể đến tham khảo và được sao chép tự do (Như Phong Lê Văn Tiến, Nhật Báo Người Việt)
7. Nhật báo Người Việt, số 4741. 30-11-1998 (13 tháng Muời - Mậu Dần), tr.A8
8. Nikita S. Khrushchev, Khrushchev Remembers (Strobe Talbott dịch từ Nga ngữ sang Anhgữ), nxb Little Brown, 1970, (Kết luận Chương về HCM và Chiến Tranh Việt Nam).
9. Jean-Francois Revel, HCM, “Lòng Yêu Nước Bị Chuyển Hướng” (1/10 bài viết trong Hồ Chí Minh, Sự thật, về Thân Thế & và sự nghiệp”, nhà xuất bản Nam Á), Paris, 1990, tr.17
10. Bảo Thạch, “Sử gia Pierre Brocheux tin là HCM có nhiều vợ”, Người Việt Online. VietnamNews http:nguoi-viêt.com/spcl/0712/vietnam.htm).
11. Nguyễn Thế Anh, Hành trình chính trị của HCM (1/10 bài viết trong Hồ Chí Minh - Sự thật về Thân thế và Sự nghiệp, Nhà sách và xuất bản NAM Á, Paris 1990, tr.25: “Năm 1923, chắc ông đã biết thế nào là thất tình, khi một cô gái Pháp tên Bourbon cự tuyệt tình yêu mới chớm trong lòng ông. Ngày 10-5-1923, Nguyễn Ái Quốc gửi cô Bourbon những dòng sau đây: “Mải miết chọn ảnh cô, mải miết ngắm chúng, cuối cùng tôi thấy cái nào cũng đẹp cả . Không thế sao được, khi mà chính người mẫu là một thanh nữ yêu kiều, duyên dáng quyến rũ. Tôi gửi trả cô hai tấm, tôi giữ lại ba tấm, tôi sẽ cố làm cả ba nếu đủ thờI giờ giờ. Nhân dịp, cô có cho phép tôi làm thành hai bản không? Một cho cô và một cho tôi để kỷ niệm tình bạn chúng ta…”. Một số thư từ, và vài cuộc gặp gỡ đã tiếp sau đó, nhưng cô ả đã quyết định chấm dứt ngày 11-6-1923 với lời lẽ sau: “Tôi mới nhận được thư ông và tôi ông, và tôi xin ông hãy giữ các bức ảnh đã rửa cho tôi. Đâu phải tôi đã nhờ ông phóng to ảnh đó. Tôi thấy bức thư ông gửi cho tôi quá là kỳ dị, và tôi không hiểu rõ cho lắm ý nghĩa của lời lẽ ấy” (Chú thích thứ 6 của bài “Hành trình chính trị…” tr. 47:Bản sao của các bức thư này, mà cơ quan an ninh đã ngăn chặn, được bảo tồn tại Trung tâm văn khố Hải ngoại, kho SLOTFOM, série ll, carton 14).
12. Hai lá đơn xin đặc ân học Trường Thuộc Địa đề ngày 15-09-1911 gởi từ Marseille đến Tổng thống và Tổng trưởng Bộ Thuộc Địa Pháp: “J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’École Coloniale commme interne. Je suis entièrement dénué de resources et avide de m’instruire. Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriots... En attendant votre réponse que j’espère favorable, agréez, Monsieur le Président,l’assurance de ma reconnaissance anticipée”. Ký giả NP LVT dịch: “Tôi hân hạnh xin Ngài ban đặc ân cho tôi được nhận cho theo học Trường Thuộc Địa với tư cách sinh viên nội trú. Tôi hoàn toàn không có nguồn lợi nào và tôi khao khát được học hỏi. Tôi mong muốn được phụng sự nước Pháp đối với đồng bào tôi. Trong khi chờ đợi phúc đáp của Ngài mà tôi mong là thuận lợi, xin Ngài thể nhận nơi đây lòng tri sâu xa của tôi.” NTT mất cơ hội làm qưan cho thực dân Pháp vì theo qui chế của Trường Thuộc Địa “học sinh Ban bản xứ của Trường phải do Phủ Toàn Quyền Đông Dương tuyễn mộ và gởi sang”.
13. Lá đơn ngày 15-12-1912 gởi Khâm sứ Trung Kỳ từ Nửu Ước để xin cho bố ông ta có việc làm để sinh sống trong đó câu: “Poussé par mon amour d’enfant, j’ose même désirer vous prier de bien vouloir lui accorder un emploi comme ThừaBiện des Bộs ou Huân Đạo, giáo Thụ; afin qu’il puisse gagner sa vie sous votre haute bienveillance…” (Thúc đẩy bởi chữ hiếu, tôi xin Ngài vui lòng gia ân cho bố tôi một việc làm như Thừa Biện các Bộ hoặc Huấn Đạo, Giáo Thụ để Người có kế mưu sinh dưới sự chăm sóc quảng đại của Ngài.” Dưới ký tên “Paul Tatthanh, Fils de Mr. Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy”. (---dấu “;” trước chữ “afin” có trong đơn chớ không phải người viết đánh máy sai)
14. Tháng 6 năm 1925, Cụ Phan vế dự lễ tưởng niệm Phạm Hồng Thái, vị anh hùng đã ném bom toan hạ sát toàn quyền Martial Merlin tại khách sạn Victoria, Sa Diện vào đêm 19-06- 1924. Bọn Lý Thụy mật báo trước với mật thám Pháp nên khi Cụ Phan từ Hàng Châu đến Thượng Hải thì bị bắt tại Ga Cửa Bắc.
- Trịnh Văn Thanh, Thành Ngữ-Điển Tích-Danh Nhân-Từ Điển, nxb Văn Học, Hà Nội, tr.742: “Năm 1925, nghe theo lời Lý Thụy (HCM) và Lâm Đức Thụ, Phan Bội Châu gia nhập tổ chức ‘Toàn Thế Giới Bị Áp Bức Nhược Tiểu Dân Tộc’. Nhưng sau đó Lý Thụy và các đồng chí lập mưu bắt Phan Bội Châu nộp cho Pháp” (người viết: mật báo cho Pháp bắt).
- Minh Võ, Hồ Chí Minh * Nhận Định Tổng Hợp, Tủ sách TIẾNG QUÊ HƯƠNG, Virginia 2003, tr. 525-545
15. Vietmedia, Ai Giết Cô Nông Thị Xuân? p.1 (posted 2008-07-8 tue 04:38AM).
- Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày;
- Nguyễn Minh Cần, Vài Mẩu Chuyện Về Cuộc Đời Hồ Chí Minh (án mạng xe cán),
16. Tội ác của bọn Việt Minh như người viết đã thấy:
- Chúng lục soát dỏ xách của một phụ nữ, tìm thấy một cái kiếng tròn tròn. Tên Trầm hét to: “Việt gian! Nó dùng kiếng để ra hiệu cho Tây bỏ bom. Hai đứa bây tính sao? Tên Phiêu: “Cho nó đi chầu hà bá chớ còn tính cái con mẹ gì nữa”. Nhưng Vinh không đồng ý: “Tụi bây không nên giết oan người ta. Cái kiếng nhỏ xíu làm sao ra hiệu cho máy bay. Phụ nữ nào mà chẳng có thứ kiếng đó”. Phiêu nạt: “Mầy im đi. Để tụi tao làm việc.” Thế rồi hai tên ác ôn khiêng một tảng đá ong đặt trên bải lày của con rạch rồi cột tay chân nạn nhân vào đó. Nạn nhân chứng kiến cái chết của mình từng giây, từng phút! Đến 3, 4 giờ chiều nước sông từ từ dâng lên nhận chìm nạn nhơn xuống đáy nước!
- Một anh thanh niên cởi xe đạp chạy đến trạm kiểm soát bị chận xét. Phiêu mở tung dỏ xách treo lủng lẳng ở guidon, thấy mấy cái sơ-mi trên cổ áo có mấy sợi chỉ xanh đỏ mà chúng gọi là mật hiệu để bọn việt gian nhận nhau và kết tội anh thanh niên là “việt gian”. Bản án: tử hình. Thi hành bản án: chôn sống.
- Trầm xét valise của một cụ già. Trong đó có vài quyển sách gói bằng giấy báo chữ Pháp. Phiêu kết tội cụ già là “việt gian” vì “đọc báo chữ Tây”. Bản án: tử hình. Thi hành bản án: mổ bụng dồn trấu. Khi chúng sắp thi hành bản án, bọn chúng tôi sợ quá, dông tuốt về nhà; Vinh bỏ đi, về sau đấu thú làm “thân binh” (partisan: một lực lượng do Pháp tuyển mộ để diệt trừ bọn VM).
17. Quả báo mà bọn sát nhơn đã lãnh:
Vào khoảng đầu năm 1962, trước khi được gọi tái ngũ vào Lữ Đoàn TQLC, người viết gặp lại anh Vinh tại chi nhánh Việt Nam Thương Tín ở ngả tư Phú Nhuận. Anh Vinh lúc bấy giờ là Trung sĩ nhứt, tùng sự tại Viện Bài Lao Ngô Quyền. Anh cho biết hai tên Trầm và Phiêu bị thân binh (partisans) phục kích bắn chết hồi năm 1947 hay 1948 gì đó khi hai tên nầy đi thâu thuế cho Việt minh. Nghe anh Vinh kể lại cái chết của hai tên cuồng sát, người viết chợt nhớ các câu trong Minh Tâm Bửu Giám:
“Bình sanh hành thiện Thiên gia phúc (Bình sanh làm điều thiện,Trời sẽ ban cho phước
“Nhược thị ngu ngoan thụ họa ương Còn độc ác, Trời sẽ giáng cho tai họa
“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo Thiện và ác thế nào cũng có báo ứng
“Cao phi viễn tẩu giã nan tàng. Cao bay xa chạy cũng khó mà thoát được)
Trong kinh Pháp-Cú (Damma-pada) có câu: “Dẫu rằng các ngươi chạy lên trời cao, ẩn dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm, không có nơi nào mà các ngươi tránh khỏi cái quả ghê gớm về tội ác của các ngươi”.
Thiện và ác chưa thấy báo là vì:
“Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo. Ở thiện có thiện báo, ở ác có ác báo.
“Nhược hoàn bất báo, thời thần vị đáo Hiện chưa thấy báo, là vì chưa đến lúc (44)
18. - LM Cao Văn Luận, Bên Giòng Lịch Sử - Hồi Ký 1940-1965, nxb Mới, Fort, Smith, AR 73913 Tr.97: “Trong buổi tiếp tân ngày 25-06-1946 tại Hotel Royal, Paris, một đảng viên CS Pháp, thuộc hệ phái Trotstki, hỏi về cái chết của Tạ Thu Thâu. Cụ Hồ làm mặt buồn rầu, thiểu não: ‘Ông Thâu là một nhà ái quốc lớn, chúng tôi rất buồn lòng khi hay tin ông mất’. Bị hỏi dồn ai là thủ phạm thủ tiêu ông Thâu, cụ Hồ đã trả lời gắng gượng:
‘Ai đi sai con đường tôi đã vạch sẽ phải bị tiêu diệt’. Con người cộng sản giáo điều ở cụ Hồ hiện rõ trong câu nói đó và câu nói tàn bạo đó giải thích được những hành động sau này của chính phủ Việt-Minh ở vùng gọi là giải phóng.”
“Một nhà ái quốc lớn” mà “phải bị tiêu diệt” chỉ vì “đi sai con đường tôi đã vạch”. Như vậy, “con đường tôi đã vạch” là con đường gì mà “một nhà ái quốc lớn” đã đi sai để “phải bị tiêu diệt’? Phải chăng đó là con đường mà J.F. Revel đã thấy: “sáp nhập nước này vào quốc tế cộng sản và áp đặt chủ nghĩa độc tài Staline vào dân tộc Việt Nam”?
- Stéphane Courtois et Jean-Louis Panné, LeKomintern à l’action (Một bài trong loạt bài “Révolution mondiale, guerre civile et terreur”), Le Livre Noir Du Communism, Edition Robert Laffont. S.A. Paris, 1997, tr.342: “Arrêté plus tard, Tạ Thu Thâu, leader historique du mouvement, fut exécuté en février 1946. Hồ Chí Minh n’avait-il pas écrit que les trotskists “sont les traitres et les espions les plus infâmes”? (Lettre du 10 mai 1939, les Cahiers Léon Trotski, No 46, juillet 1991) -Tạ Thu Thâu thuộc Đệ Tứ.
19. Thép Mới, Thời Dựng Đảng, do đảng CSVN xuất bản: “Các thế hệ Việt Nam sau này sẽ nhớ đến Hồ Chủ Tịch như là người đã có công đem chủ nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam”. “Công” hay “Tội”? “Tôn vinh” hay “Kết án”?
20. Hai trong nhiều tác phẩm của nhà văn Xuân Vũ Bùi Minh Triết.
21. Được vua Tần hỏi về quốc sự, Quản Trọng tâu trình:
Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc
Thập niên chi kế, mạc như thụ mộc
Bách niến chi kế, mạc như thụ nhân
22. Điễu 4 HP năm 1992 của đảng csvn: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến Pháp và luật pháp”. - Sự Thật, 27-01-1924: “Khi còn sống, người là cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay người là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội”
23. Nguyễn Vỹ, Tuấn - Chàng Trai Nước Việt, Chứng Tích Thời Đại từ 1900-1970, Quyển 2 nhà xuất bản Sống Mới, Fort Smith, AR 73913, Tr.163 (xuất bản tại Sài Gòn ngày 11 tháng 12 năm 1969): Văn sĩ Nguyễn Vỹ đã thuật lại một cuộc biểu tình tại Quảng Ngãi: “Một đêm không trăng, mùa hè năm 1930, vào khoảng giữa canh một, CS nỗi dậy khắp các phủ, huyện tỉnh Quảng Ngãi. Ở huyện Đức Phổ, cuộc khởi loạn bùng dậy tại làng Tân hội vào lúc 8 giờ đêm. Cộng sản tụ họp hàng ngàn người tại một gò đất cao và đốt đuốc sáng rực cả một góc làng, nổi trống inh ỏi. Họ bắt giết, chặt đầu bằng dao và rựa, những người “làm việc cho Tây”, trong số đó có một Phó Tổng, một lính “phú lít” đã về hưu và một người nữa trong làng. Mấy người này chạy trốn ra ruộng, bị CS đuổi theo bắt được và chặt làm ba khúc. Xong, họ kéo nhau xuống Huyện. Đường quan lộ từ làng Tân Hội xuống huyện lỵ Đức Phổ dài đến 10 cây số, họ cầm đuốc đi bộ, ào ạt một đoàn dài, đi lộn xộn không có trật tự, la lối om sòm. Một cây cờ đỏ búa liềm của Nga Sô đi tiền phong. Trong đoàn có cả một số đàn bà con gái, tất cả đếu cắt tóc cụt và mặc áo quần bà ba đen, họ mang đủ thứ khí giới của nông dân: dao, rựa, mác và những cây củi, cây đòn xóc. Qua mỗi làng, mỗi xã, đều có những đoàn người khác gia nhập, khi đến huyện lỵ thì số cộng sản và dân cày nổi loạn lên ước khoảng bốn ngàn người. Họ hò hét, diễn thuyết, xúi dục dân chúng theo họ, ùa vào đốt huyện đường và lùng bắt ông Huyện. Nhưng ông này đã trốn thoát.”
24. Stanley Karnow, VIETNAM, A History – The First Complete Account of Vietnam at War,
Penguin Books, Potomac, Maryland, May 1983, tr.148-149. Stanley Karnow đổ trúc tội ác này lên các chiến sĩ Bình Xuyên, những kẻ tử thù của VM: “At dawn, Binh Xuyen terrorists led by Vietminh agents slipped past Japanese soldiers supposedly guarding the district. Smashing doors and windows, they broke into bedrooms and massacred one hundred and fifty French and Eurasian civilians…”
25. Nguyễn Long Thành Nam, Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc Tập San Đuốc Từ Bi xuất bản, California, 1991, tr.400-401 (nguồn: Pierre Darcourt, Bảy Viển, Le Maitre de Cholon - Hachette Paris, 1977, trang 303 và các trang sau): “Thể theo lời mời cũa chủ tịch Ủy ban Hành chánh Nam bộ, ngày 20-05-1948 BV rời Rừng Sát với hai đại đội võ trang thân tín nhứt, có cả trung liên và đại liên, từ Rừng Sác vượt sông Soái Rạp, băng qua quốc lộ 4, xuôi theo dòng kinh Dương Văn Dương đến căn cứ địa của Nam Bộ, tại làng Nhơn Hòa Lập để họp và nhận chức Khu trưởng Chiến khu 7. Ngày 25-05-1948, BV chánh thức giữ trách vụ Tư lịnh chiến khu 7. Ngày 28-05-1948, BV cùng hai nhân vật tín cẩn và toán cận vệ đến địa điểm họp.
Khai mạc phiên họp, NB giở giọng răn đe: “Bây giờ ta phải xét vấn đề tổ chức quân sự và lãnh thổ. Từ khi đồng chỉ Bảy Viễn nhận chức khu trưởng chiến khu 7, hẳn đống chí đã ý thức các vấn đề kỷ luật và trách nhiệm. Kể từ nay, đồng chí không còn là tư lịnh phó BX họp tác với kháng chiến, mà là một sĩ quan cao cấp của quân đội cách mạng. Có nghĩa là đồng chí phải tuân hành mệnh lệnh của Ủy ban Hành chánh Nam bộ và Ủy Viên Quân sự (tức NB). Chúng ta không thể chống giặc mà không thống nhất hệ thống chỉ huy. Mọi đặc điểm riêng không được tồn tại nữa”.
Phía Bảy Viễn, một vị trả lời: “Tổ chức BX không đợi đến khi Trung tướng Nguyễn Bình tới chiến trường Nam Bộ mới bắt đấu chiến đấu. Từ 30 tháng nay, chúng tôi đã đánh nhau với Pháp và đã có hơn 300 chiến sĩ hy sinh tại các mặt trận. Suốt 1.000 ngày chiến đấu, chúng tôi không hề được Cục quân nhu Việt Minh, Ủy Ban Hành chánh Nam Bộ, Quân ủy cung cấp bất cứ một thứ gì. Những đoàn quân chuyển vận võ khí từ Bắc vào chiến trường Nam Bộ đã đi ngang địa phận chúng tôi đóng quân, đã được chúng tôi bảo vệ, chuyên chở đến nơi đến chốn. Không một chiến sĩ BX nào được lãnh một xu lương bổng”.
Tướng NB lạnh lùng: “Các đồng chí đã có Maurice Thiên và người Tàu Chợ Lớn tiếp tế tiền bạc và nhu cầu rồi.”
Đại diện Bình Xuyên phản pháo: “Đúng! Chúng tôi phải thâu thuế trong khu vực chúng tôi kiểm soát cũng như các đồng chí thâu thuế trong khu vực các đồng chí kiểm soát.”.
Nguyễn Bình: “Vậy đồng chí còn than phiền điều gì ?”.
Đại diện Bình Xuyên: “Chúng tôi không than phiền mà chỉ nói rõ vấn đề. Chúng tôi tin tưởng nơi sự sáng suốt của đồng chí. Nhưng chúng tôi đã lầm và không hài lòng về cung cách đồng chí đối xử với chúng tôi. BX đã chiến đấu từ trước khi đồng chí vào tới Nam Bộ. Đồng chí không hề đề nghị giúp đở chúng tôi mà chỉ hạ lịnh bắt chúng tôi phải thi
hành.”
Nguyễn Bình cười gằn: “Các đồng chí có tuân hành lệnh của tôi đâu, đồng chí hiểu chứ? Đại diện Bình Xuyên: “Đồng chí nói sai rồi. Tất cả những nhiệm vụ mà đồng chí chỉ thị, chúng tôi đã thi hành trọn vẹn. Chúng tôi chỉ từ chối sự kiểm soát của những chánh trị viên mà đồng chí gởi tới. Đồng chí có hiểu tại sao không?
Chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ Phạm Ngọc Thuần: “Tôi muốn nghe đồng chí nói rõ”.
Đại diện Bình Xuyên: “Đây là sự thực. Chúng tôi nghĩ rằng các chánh trị viên không có gì để dạy dỗ chúng tôi. Chúng tôi đã ý thức cầm súng chiến đấu vì nền độc lập của Tổ Quốc. Chúng tôi không chiến đấu cho một chế độ đảng trị hay để củng cố uy quyền lãnh đạo đã nhẫn tâm tàn sát đồng đội một cách ác độc hơn là đối với quân thù”. (Chính trị viên hay Chính ủy là người đại diện cho “Đảng” trong đơn vị, có quyền hành trên cả Tư lịnh. Khi có tranh chấp giữa Chính ủy và Tư lịnh, ý kiến của Chính ủy có tánh cách quyết định).
NB đặt tay lên bá súng và gằn tiếng hỏi: “Đồng chí muốn ám chí ai?”
Đại diện Bình Xuyên: “Chính đồng chí Nguyễn Bình. Không ai khác.”
NB vội rút súng ra khỏi vỏ. Người chỉ huy đội cận vệ cũng lên cò cây tiểu liên Thompson, ngón tay đặt sẵn trên cò súng, chỉa thẳng vào NB, sẵn sàng nhả đạn.
Viên Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Nam bộ run giọng can gián: “Tất cả bình tỉnh lại. Chúng ta đều là anh em đồng chí. Đồng chí vừa phát biểu những điều kết tội, vậy đồng chí có thể chứng minh cho rõ trắng đen không?”
Bảy Viễn nhìn thẳng về phía Nguyễn Bình: “Nếu tôi phải kể hết mọi tội ác của đồng chí đối với các chiến sĩ quốc gia thì phải nói cả giờ mới hết. Tôi chỉ muốn nói đến một vụ: Tại sao đồng chí ám hại Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo?”
NB trả lời: “Đó là kẻ lúc nào cũng mưu tính diệt CS và cá nhân tôi nên phải bị tiêu diệt”.
BV gầm lên: “Nói láo. Đồng chí tự tin vì nghĩ rằng kẻ khuất mặt không thể nói lên sự thật. Nhưng còn tôi đây thì tôi phải nói. Tôi kết tội đồng chí đã hai lần âm mưu ám sát chính tôi.
NB phản công: “Không thể kết án vô bằng cớ. Tôi thách đồng chí trưng bằng cớ ra đây”.
BV cười gằn: “Đồng chí lầm rồi. Tôi đang có trong tay một bằng cớ còn hùng biện hơn cả nhơn chứng nữa. Đó là văn thư do chính đồng chí ký tên chỉ thị cho ban ám sát giết tôi”. BV rút trong túi ra một mảnh giấy đã lấy được trong người của tên sát thủ năm 1947 và đặt lên mặt bàn. NB mở mảnh giấy, mặt tái mét, giận run. Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Nam bộ cầm tờ giấy và chính ông ta cũng giận run, quay sang hỏi NB: “Có phải đây là chữ ký và con dấu của đồng chí không? NB quay mặt đi, nghiến răng: “Chính hắn đã nhiều lần mưu sát tôi, đoàn hộ vệ của tôi chết về tay hắn.”
Viên Chủ tịch nhỏ giọng: “Chuyện này quan trọng lắm, phải báo cáo về Trung ương. Yêu cầu các đồng chí chờ tôi”.
BV không trả lời, lặng lẽ cùng đoàn tùy tùng rời phòng họp. Trên lộ trình Đồng Tháp- Rừng Sát, đoàn quân BX bị phục kích trong đêm tối. Nhưng đã tiên liệu sự việc này nên
BV và đoàn tùy tùng đã dễ dàng thoát khỏi cuộc phục kích của Trung đoàn 306 do chính NB bố trí, về đến Rừng Sát không một tổn thất.”
26. LM Cao Văn Luận, sđd, tr.120
27. Minh Võ, Hồ Chí Minh - Nhận Định Tổng Hợp, Tủ sách Quê Hương, Virginia 2003, tr.686
28. Stanley Karnow, sđd, tr.146-147
29. Stanley Karnow, sđd, tr.152-153
30. Vũ Quốc Thúc, Thời Đại Của Tôi, Cuốn I – Nhìn Lại 100 Năm Lịch Sử, Bạn Văn Xuất
Bản, 2009, Pháp quốc, tr.186 (người viết: Theo một số tài liệu, quân của Leclerc vào Hà Nội ngày 19-05-1946. HCM bịp dân Hà Nội: ngày 19-05 là ngày sanh của ông ta; do đó, nhà nhà treo cờ “mừng sinh nhật Bác Hồ”. Ông ta lại bịp Leclerc: dân Hà Nội treo cờ để mừng quân đội Pháp trở lại Miền Bắc – đây là một trong bốn hung khí của HCM: bạo lực, bịp bợm, bịa đặt, bưng bít)
31. Vũ Quốc Thúc, sđd, tr.185
32. Hội nghị Đà Lạt ngày 21-03-1946 giữa Võ Nguyên Giáp và Messmer (VNG bị nghi là tay sai thực dân Pháp và bị mất tín nhiệm chỉ vì “cơ quan tổ chức của Đảng Cộng sản lục trong Thư Khố của Pháp, thấy một lá đơn của cậu học sinh VNG gửi quan Toàn Quyền Đông Dương xin học bổng du học, với những lời lẽ quỵ lụy không thể chấp nhận được đối với người cách mạng...” (Vũ Thư Hiên, “Đêm Giữa Ban Ngày” tr.350)
33. Vũ Quốc Thúc, sđd, tr.195-196:
- 17.02.1947: Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất thành lập ở Nam Kinh quy tụ một số đoàn thể chống Cộng như Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Quốc Gia Thanh Niên Đoàn, Cao Đài…
- 07.03.1947: Một phái đoàn của Mặt Trận yết kiến Cựu Hoàng ở Hồng Kông.
- 29.03.1947: Cựu Hoàng họp báo tuyên bố “Hồ Chí Minh không đủ khả năng đại diện nhân dân Việt Nam”.
- 12.08.1947: Biểu tình ở Huế mời Cựu Hoàng về chấp chánh.
- 01.09.1947: Biểu tình ở Sài Gòn mời Cựu Hoàng về chấp chánh.
34. Stanley Karnow, sđd, tr.175
35. Vũ Quốc Thúc, sđd, tr.195-204
36. Trần Nhu, “Tướng Đi Đêm - Tặng bà Bích Hà, phu nhân Đại tướng Võ Nguyên Giáp”.
(GS Trần Nhu dạy Sử Học tại Hà Nội, vượt biên từ Hải Phòng sang Hồng Kông và dịnh cư tại Hoa Kỳ vào năm 1981). Đối thoại giữa vợ chồng VNG:
- “Bà không biết việc này, chính cụ Hồ khi họp Bộ Chính Trị vào ngày mùng 7 tháng 9 năm 1958 bàn về vấn đề Trường Sa, Hoàng Sa, cụ nói: "Các đồng chí Trung Quốc đã giúp ta từ đầu đến cuối. Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là nhờ ở họ. Nay họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, sao có thể từ chối? Vả lại, mảnh đất hoang dã ấy chẳng có gì ngoài cứt chim..."
- “Đồ ngu, tôi ị vào mặt nó, nợ thì trả, còn đất đai sông núi tổ tiên ta đổ xương máu ra đề bảo vệ, gìn giữ. Không một cá nhân nào, một tập đoàn đảng phái nào có quyền sang nhượng cho nước ngoài. Sử ghi: "Năm 1470, tình hình biên giới Tầu-Việt có phần căng căng thẳng. Vua Lê Thánh Tông cho hội quân ở Lục Đầu Giang để biểu dương sức mạnh quân sự. Vua tuyên bố đanh thép: Thiên Nam vạn cổ hà sơn tại (Trời Nam ngàn năm núi sông vẫn còn). Đến năm 1473, trong lời dụ quan Thái Bảo Kiểm Dương với Lê Cảnh Huy được cử tiếp sứ Tầu. Vua còn tỏ ra cương quyết hơn nữa: "Các ngươi nên nhớ rằng, một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ. Các ngươi phải cương quyết tranh biện. Chớ có cho giặc lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc, trình bày rõ điều hơn lẽ gian. Nếu các ngươi dám đem một thước sông, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì phải tôi tru di…….Người Tầu đâu chỉ muốn một vài hòn đảo. Họ muốn cả nước ta…” – “Xin bà nói nhỏ, đủ nghe thôi. Nguy hiểm quá”.
(Bà Bích Hà tức Đặng Thị Bích Hà ái nữ của Đặng Thái Mai, hiệu trưởng trường Thăng Long, Hà Nội, đồng chí và bạn thân của VNG. “Tướng đi đêm” là một chương trong số 27 chương của cuốn tiểu thuyết lịch sử “Ngôi Sao Sáng Mafia”, viết về những hoạt động trong bóng tối của Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức trung ương Đảng, và guồng máy mật vụ do y điều khiển. Có thể là hư cấu, nhưng chắc chắn hư cấu bắt nguồn từ những sự kiện có thật xảy ra từ ngày HCM họp Chính trị bộ ngày 7 tháng 9 năm 1958)
37. Hoàng Văn Chí, Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, Quê Mẹ tái bản tại Paris 1983, tr.3
38. Mai Thanh Truyết, Trần Minh Xuân, Phan Văn Song, Từ Bauxite đến Uranium - Tiến Trình Đô Hộ Việt Nam Của Trung Cộng, Đại Gia Đình Nguyễn Ngọc Huy - Nguyễn Ngọc Huy Foundation - Mekong Tị Nạn, Newark, CA Newark 2009, tr.465-466
39. Mai Thanh Truyết, Trần Minh Xuân, Phan Văn Song, “Đụng đến hai chữ “kiêng cử” là đã thấy khó khăn, dù cho là kiêng thuốc lá, kiêng đồ ngọt, kiêng thịt cá, kiêng… “này nọ” v.v… Muốn qua được, nội lực quyết tâm chưa đủ, người kiêng phải cần đến hổ trợ tinh thần từ ngoài. Việc kiêng đồ Tàu của tôi trong thời gian qua, nội lực không tốn bao nhiêu mà ngoại lực để phấn khích tinh thần “bài đồ Tàu” thì lại được hổ trợ đầy đủ. Kem đánh răng của Tàu mang chất độc, thức ăn thú vật của Tàu mang chất độc, sữa cho trẻ con của Tàu mang chất độc, đồ chơi cho trẻ con của Tàu mang chất độc, bún gạo của Tàu mang chất độc, xì dầu của Tàu mang chất độc, áo quần giày dép của Tàu mang chất độc v.v… Danh sách hàng hóa Tàu mang chất độc càng dài thì ngoại lực hổ trợ sống “kiêng” càng mạnh… Vẫn biết ai cũng chỉ chết một lần nhưng chết vì Tàu thì dù chết rồi nhưng vẫn … ức lắm!” (sđd, tr.513)
40. Stéphane Courtois, Pourquoi? (một bài viết trong Le Livre Noir Du Communism, Édition Robert Laffont. S.A. Paris, 1997 (tr.817).
41. Stéphane Courtois, sđd, tr.816: “Qui n’est pas avec moi est contre moi. Qui est contre moi doit mourir”. Lénine đã ứng dụng câu này không những trong lãnh vực chánh trị mà còn trong cả xã hội nữa.
42. Bruno Bauer (1809-1882): Nhà thần học, triết gia, sử gia người Đức. Từ năm 1839 đến năm 1841 là Thầy, người bảo bọc và bạn thân thiết của Karl Marx (1818-1883). Đến năm 1841, hai người trở thành đối thủ của nhau (Wikipedia).
43. Sau khi Võ-nguyên-Giáp báo cáo xong vấn đề quân sự, HCM lên diễn đàn. Ông ta nói: “Các đồng chí vừa nghe báo cáo của đồng chí Giáp, các đồng chí thấy – và trước khi nghe cũng đã thấy – Quân đội ta từ chỗ yếu tiến đến chỗ mạnh, từ chỗ nhỏ tiến đến chỗ to, từ không thắng tiến đến thắng, từ thắng ít đến thắng nhiều, rồi từ thắng nhiều tiến đến thắng lợi hoàn toàn. Đó là vì đâu? Là vì trong chính trị, cũng như trong mọi mặt công tác khác, Đảng ta có một chủ nghĩa cách mạng nhất, sáng suốt nhất, đó là chủ nghĩa của ba ông kia kìa”. HCM vươn tay chỉ và hướng mặt về phía hình của Marx, Engels, Lenin. “Đó là nhờ chúng ta, toàn giai cấp lao động thế giới, toàn quân đội nhân dân thế giới có một ông Tổng tư lệnh là ông kia kìa.” HCM vươn tay chỉ và hướng mặt về phía hình của Staline. Đại hội vỗ tay và cùng đứng dậy hô lớn: “Đồng chí Staline muôn năm!” (Theo HỌC TẬP - Nội san Đảng Bộ Liên Khu Bốn, số 35 năm thứ tư Tháng 4, 1951, tr. 1-9)
44. Giết người vô tội là một tội ác. Nhưng giết một tên cuồng sát đã giết nhiều người hoặc sẽ giết nhiều người nếu nó không bị giết thì không phải là tội ác. Điều này có thể được xem là điều thiện: “sát nhứt miêu cứu vạn thử” (45). Trong chiến tranh, giết người để không bị người giết không phải là tội ác. Kẻ nào vâng lịnh ngoại bang phát động chiến tranh xâm lăng, tạo cảnh người giết người mới là kẻ đại gian, đại ác đáng bị Trời tru Đất diệt!
Cuộc chiến kết thúc còn tiếp tục giết người cũng là tội ác! Càng tàn ác hơn nữa, khi thảm sát đối phương không còn một tấc sắt trong tay.
45. Trong một cuộc phỏng vấn của Tạp chí Le Point, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma kể câu chuyện sau đây về tiền thân của Đức Phật (do Hoang Phong dịch): “Có một lần Ngài cùng với năm trăm người khác đang lênh đênh trên một chiếc ghe lớn. Trong số năm trăm người ấy có một tên sát nhân mưu đồ giết hết 499 người kia để cướp tiền bạc của họ. Vị tiền thân Đức Phật cố thuyết phục hắn nhưng vô ích. Ngài tự hỏi: "Vậy phải làm sao bây giờ ?
Nếu giết tên sát nhân sẽ cứu được 499 mạng người nhưng phải gánh chịu nghiệp ác; nếu không giết hắn, hắn sẽ giết hết anh chị em của mình trên chiếc ghe này". Sau cùng vị tiền thân quyết định giết tên sát nhân và chấp nhận gánh chịu nghiệp ác. Tuy nhiên hành động đó của vị tiền thân không những cứu được 499 mạng người mà còn giúp tên sát nhân tránh khỏi nghiệp hung dữ vì đã không giết hại những người vô tội. Hành động ấy tất nhiên cũng mang lại nghiệp lành!”