TƯƠNG QUAN LỰC LƯƠNG
Trận Đống Đa ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (30-1-1789) là một trong những chiến công oanh liệt nhất của dân tộc Việt Nam trong lịch sử chống bọn bành trướng bá quyền phương Bắc. Nhân dịp xuân về, xin hãy cùng nhau ôn lại trang sử hào hùng của dân tộc trong mùa xuân xưa.
1.- LỰC LƯỢNG NHÀ THANH
Theo Cao Tông thực lục, cánh quân Lưỡng Quảng do tổng đốc Tôn Sĩ Nghị trực tiếp điều động là một vạn người (10,000). Số quân nầy chia thành hai khi đến Lạng Sơn. Hai ngàn (2,000) người ở lại Lạng Sơn, còn 8,000 người tiếp tục tiến đánh Thăng Long. (Cao Tông thực lục, bản dịch của Hồ Bạch Thảo, quyển thượng, New Jersey: 2004, tr. 47.)
Trong sách Thánh vũ ký, Ngụy Nguyên (bản dịch của Hoàng Xuân Hãn, trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn [hay Hoàng Xuân Hãn toàn tập], tập 2), trong chương “Càn Long chinh vũ An Nam ký” cũng chép lại như thế. Ngụy Nguyên (Wei Yuan, 1784-1857), tác giả cuối đời nhà Thanh viết Thánh vũ ký trình bày các vấn đề quân sự và ca ngợi các chiến công của nhà Thanh
Cũng theo Cao Tông thực lục, đề đốc Vân Nam là Ô Đại Kinh, ở phía tây, đem 5,000 quân qua đường Tuyên Quang (CTTL bản dịch, sđd. tr. 67). Như thế, theo chính sử Trung Hoa, tổng số quân Thanh cả hai cánh là 15,000 người. Tài liệu nầy không nhắc đến số quân do Sầm Nghi Đống ở Điền Châu lãnh đạo, mà các tài liệu Trung Hoa không cho biết đi khi nào và bao nhiêu quân. Ngoài ra, trong cuộc viễn chinh lần nầy của nhà Thanh, Tôn Vĩnh Thanh chỉ huy đoàn tiếp liệu chuyển vận lương thực cũng rất đông đảo, có thể khoảng 10,000 người.
Đáng chú ý là trước đó, trong cuộc viễn chinh ở phía tây tỉnh Tứ Xuyên (Trung Hoa) vào năm 1776, vua Càn Long nhà Thanh đã đưa tám vạn (80,000) quân để đánh hai bộ lạc chỉ có khoảng 150,000 dân. (Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc tập 2,Tp.HCM: Nxb.Văn Hóa,1997, tr. 198). Vua Thanh biết Đại Việt đông dân hơn nhiều, nên không thể chỉ gởi hơn một vạn quân (10,000) mà thôi.
Sách Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ 13, tóm tắt đại lược hịch của Tôn Sĩ Nghị, có viết rằng họ Tôn “điều động năm mươi vạn quân thẳng tới La thành [Thăng Long]…” (Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Hà Nội: bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch, Nxb. Văn Học, 1987, tr. 153.)
Năm mươi vạn nghĩa là 500,000 quân. Con số nầy lớn quá, do người Thanh tuyên truyền kể thêm, để binh sĩ hăng hái ra đi. Trong “Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa” của vua Quang Trung, do Ngô Thời Nhậm soạn có đoạn viết: “Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời thế làm việc cách mệnh, dùng binh lính bình định thiên hạ. Viên Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị các người, tài đong đấu ra, nghề mọn thêu may, không biết những điều chủ yếu trong việc dùng binh, vô cớ đem 29 vạn quân ra khỏi cửa quan, vượt núi trèo đèo, vào sâu hiểm địa, xua lũ dân vô tội các ngươi vào vòng mũi tên ngọn giáo. Đó đều là tội của viên Tổng đốc nhà các ngươi.” (Ngô Thời Nhậm, “Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa”, trong Hàn các anh hoa, trong sách Ngô Thời Nhậm tác phẩm, do Mai Quốc Liên cùng một số tác giả phiên dịch, Hà Nội: Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học, Nxb. Văn Học, 2001, tr. 190.)
Con số hai mươi chín vạn viết trên đây tuy do Ngô Thời Nhậm, người trong cuộc, đưa ra trong một văn thư có tính tuyên truyền, thì cũng chưa hẳn sát với thực tế. Có tài liệu thì viết rằng lực lượng quân Thanh xâm lăng Đại Việt lên khoảng hai mươi vạn tức 200,000 quân, (Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ, Đại Nam, Hoa Kỳ, tái bản không đề năm, tr. 159 và 185.)
Cả hai số liệu nầy về hai phía Việt cũng như Trung Hoa đều cần phải nghiên cứu lại. Theo tâm lý thông thường, do tinh thần yêu nước, sử liệu Trung Hoa thường hạ số liệu quân đội viễn chinh xuống, để khi chiến thắng thì chiến thắng có giá trị, vì đem ít người mà vẫn thắng trận, còn khi thất bại thì thất bại không đáng kể, vì đem ít quân nên mới thất bại. Điều nầy có thể thấy rõ trong Cao Tông thực lục, là bộ chính sử nhà Thanh, chép thời vua Càn Long.
Ngoài ra, lính Trung Hoa thường đem theo vợ con và nhiều trợ thủ. Trong “Tám điều quân luật” trước khi quân Thanh xuất chinh năm 1788, Tôn Sĩ Nghị đã thông báo như sau trong điều thứ 8: “Lần nầy hành quân xa xôi qua biên ải, triều đình thương đến binh lính, đã chu cấp rộng ra ngoài thể lệ, mỗi người lính được cấp một tên phu. Các viên coi quân cần hiểu dụ trước cho mọi người biết…”(HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tt. 152, 179.)
Như thế, nếu e ngại số liệu 200,000 quân Thanh bị thổi phồng thì chắc chắn số liệu của Cao Tông thực lục gồm 10,000 của Tôn Sĩ Nghị và 5,000 của Ô Đại Kinh vừa thiếu sót vừa bị giảm thiểu, và giảm thiểu đến mức độ nào thì không có cơ sở để xác minh, nhưng với dân số đông đúc của Lưỡng Quảng, thì chắc chắn đạo quân nầy phải đông hơn rất nhiều.
Nếu theo chính sử nhà Thanh, hai cánh quân của Tôn Sĩ Nghị và Ô Đại Kinh sang Đại Việt tối thiểu cộng lại là 15,000 người; và nếu mỗi quân nhân được quyền đem theo một người phu (điều thứ 8 của quân luật Tôn Sĩ Nghị), thì số người Thanh qua Đại Việt tối thiểu là 30,000. Cần chú ý là các tướng lãnh và sĩ quan Thanh chắc chắn mỗi người đem theo hơn một người phu. Ngoài ra, còn có đoàn quân tiếp liệu của Tôn Vĩnh Thanh. Đoàn nầy không thể dưới 10,000 người vì theo ý kiến của Tôn Sĩ Nghị và Tôn Vĩnh Thanh, nếu quân Thanh quyết định từ Thăng Long tiến vào đánh Quảng Nam thì phải cần đến mười vạn (100,000) phu trạm. (Cao Tông thực lục, bd. tr. 123.) Đoạn đường từ Nam Quan về Thăng Long dài khoảng 1/10 đoạn đường từ Thăng Long đến Quảng Nam, vậy số phu cũng phải khoảng một vạn (10,000) người. Ba số liệu nầy cộng lại đã được 40,000 người. Đây là con số tối thiểu, mà thực tế phải cao hơn nữa.
Có một điểm cần phải nhấn mạnh, là các bộ sử Việt cũng như Hoa trước đây, đều viết rằng quân Ô Đại Kinh từ Vân Nam vào Tuyên Quang, đến Phú Thọ và chưa đến Thăng Long cũng như chưa tham chiến.
Trong sách của mình, tác giả Hoa Bằng viết: “Thấy Nghị thua chạy, đạo binh Vân, Quý (Vân Nam, Quý Châu) vừa đến Sơn Tây, phải vội tìm đường tháo về.” (Hoa Bằng, sđd. tr. 197.) Trong sách Thánh vũ ký, Ngụy Nguyên viết: “Còn quân của Ô Đại Kinh tại Vân Nam thì chưa đến nơi.” ([Hoàng Xuân Hãn toàn tập], tr. 1343.)
Thật ra, theo những báo cáo của Ô Đại Kinh và Tôn Sĩ Nghị gởi về triều đình Trung Hoa được ghi lại trong Cao Tông thực lục, thì hai cánh quân nầy đã gặp nhau tại Thăng Long vào ngày 21-11, ngay sau khi Tôn Sĩ Nghị chiếm được Thăng Long (Cao Tông thực lục, bd. tt. 131, 136). Tiến quân chiếm đất từ biên giới phía tây đến tận Thăng Long thì rõ ràng đạo quân Vân Quý của Ô Đại Kinh đã tham gia chiến trường nước ta. Hơn nữa, khi phát thảo kế hoạch tấn công Nguyễn Huệ, Ô Đại Kinh được phân công tiếp tục tiến thẳng xuống đánh Quảng Nam (Cao Tông thực lục, bd. tr. 112.)
Nguồn tài liệu thứ ba về chiến tranh Việt Hoa năm 1789 do người Tây phương có mặt ở nước ta đưa ra. Các tài liệu nầy cũng đưa ra những con số khác nhau: Thứ nhất là nhật ký của Hội Truyền giáo ở Bắc Kỳ về những sự kiện ở trong địa phận Giáo hội Bắc Kỳ từ tháng 10-1788 đến tháng 7-1789. Liên quan đến số lượng quân Thanh, tài liệu nầy gồm hai phần: Thứ nhất, khi quân Thanh chưa đến, vào ngày 21-10-1788, có lời đồn rằng nhà Thanh gởi 300,000 quân thủy bộ sang giúp Lê Chiêu Thống. Thứ hai, Tôn Sĩ Nghị làm lễ phong vương cho Lê Chiêu Thống (19-12-1788), tức lúc đó quân Thanh đã vào đất Việt, tài liệu nầy cho biết số quân Thanh là 280,000 người (28 vạn), một nửa đóng trong thành phố, một nửa đóng ở bên kia sông. (Nhật ký của Giáo hội Thiên chúa giáo Bắc kỳ về những sự kiện đáng ghi nhớ xảy ra trong địa phận giáo hội từ tháng 10-1788 đến tháng 7-1789, do Đặng Phương Nghi dịch, tập san Sử Điạ số 9-10, Sài Gòn, 1968, trong bài “Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ”, tt. 213, 216.)
Nếu một nửa đóng trong thành phố, nghĩa là có 14 vạn quân Thanh trong thành Thăng Long, thì thành Thăng Long lúc đó có đủ sức chứa, chỗ ở và nuôi ăn hàng ngày cho quân Thanh không? Ngoài ra, theo tài liệu Trung Hoa, quân Thanh mất hết một nửa khi trở về nước, vậy mất hết khoảng 14 vạn (so với 28 vạn khi ra đi), vừa chết vừa mất tích, trốn chạy thì con số nầy có thích hợp trong một cuộc chiến bằng võ khí chưa tối tân? Tuy nhiên con số 28 vạn của tài liệu nầy gần với con số 29 vạn mà Ngô Thời Nhậm đã viết trong “Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa”.
Tài liệu Tây phương thứ hai do J. Barrow viết. Ông nầy đến nước ta năm 1792, ba năm sau chiến tranh. Trong hồi ký của mình, ông viết rằng số quân Thanh là 100,000 người. (Theo Phan Huy Lê, Tìm về cội nguồn tập 1, Hà Nội, Nxb. Thế Giới, 1999, tr. 674. Phan Huy Lê theo sách của J. Barrow, A Voyage to Cochinchina in the year 1792 and 1793, London: 1806, tr. 252.)
Tài liệu Tây phương thứ ba của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère (1764-1830) đến Đàng Ngoài khoảng năm 1790, viết trong hồi ký xuất bản ở Paris năm 1812 rằng quân Thanh sang Đại Việt khoảng 40,000 người và bị giết tại trận khoảng 20,000 người (Theo Phan Huy Lê, Tìm về cội nguồn tập 1, Hà Nội, Nxb. Thế Giới, 1999, tr. 674. Phan Huy Lê theo sách État actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des autres royaumes de Cambodge, Laos et Lac Tho par M. De la Bissachère, Paris, 1872, tt. 169-170.) Giáo sĩ De la Bissachère ở lại Đàng Ngoài cho đến năm 1798, nên có thể ông thu thập được nhiều nguồn tin và lượng định con số quân Thanh sang nước Việt. (Tiểu sử của giáo sĩ De la Bissachère theo http://archivesmep.mepasie.org/)
Trước khi dẫn quân qua Đại Việt, theo lệnh của Thanh Càn Long, Tôn Sĩ Nghị phát hịch kêu gọi người Hoa đang làm việc trong các xưởng mỏ (có sách gọi những người nầy là “xưởng dân”) ở nước Việt hưởng ứng chiến dịch tấn công của quân Thanh và “hứa cho ân thưởng và cho miễn thuế để họ giúp sức đánh giặc… Các dân đinh [người Hoa] ở các công xưởng bên An nam nhận được hịch văn phủ dụ của Tôn Sĩ Nghị và nghe tin thiên triều cấp cho lương thực thì đều vui mừng, hăng hái tình nguyện xung phong giết giặc.” (Phan Huy Lê trích dịch hịch “Phủ dụ đầu mục”, sđd. tr. 668.)
Lúc đó người Hoa tập trung nhiều ở các xưởng mỏ phía tây bắc và các thị trấn ven biển phía đông bắc. Số người nầy không nhiều, có thể làm nội ứng hay tình báo, lúc quân Thanh mới xâm nhập vào nước ta. Phía đông nam Thăng Long, nơi sẽ xảy ra chiến trận, ít người Hoa sinh sống.
Không có tài liệu nào đặc biệt về võ khí của quân Thanh. Trong “Tám điều quân luật”, Tôn Sĩ Nghị tự tin súng ống của quân Thanh hơn hẳn súng “phun lửa” của quân Tây Sơn (điều thứ 5), nhưng họ Tôn tỏ ra rất sợ tượng binh (voi trận) của quân Tây Sơn. Điều nầy chứng tỏ ông ta có nghiên cứu về quân đội Tây Sơn. Ông đã dạy cho lính Thanh cách đối phó với tượng trận (điều thứ 4). Quân Thanh có đoàn kỵ binh thiện chiến nhưng không có tượng binh vì không thể đưa voi trận từ Trung Hoa, vượt núi rừng biên giới để qua nước Việt.
2.- LỰC LƯỢNG NHÀ TÂY SƠN
Ngay sau lễ đăng quang ngày 25 tháng 11 năm mậu thân (22-12-1788), vua Quang Trung xuất quân cùng ngày hôm đó, lực lượng không được rõ. Ông đến Nghệ An ngày 29 tháng 11 (26-12-1788). Nhà vua dừng quân tại đây để tuyển thêm tân binh ở vùng Thanh Hoa (sau đổi thành Thanh Hóa năm 1841), Nghệ An và sắp đặt lại đội ngũ. Trong cuộc tuyển binh cấp tốc nầy, cứ ba suất đinh lấy một người. Theo Hoàng Lê nhất thống chí thì “… chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ.” (HLNTC, bd. tập 2, tr. 179.)
Theo Cương mục, “khi qua Nghệ An và Thanh Hoa, [Quang Trung] lấy thêm quân lính đến 8 vạn người…” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Hà Nội, bản dịch tập 2, 1998, tr. 845.) Theo Liệt truyện, tổng cộng số lính trước sau khoảng hơn mười vạn quân (100,000) và mấy trăm con voi chiến (Đại Nam chính biên liệt truyện, Huế: bản dịch của Nxb. Thuận Hóa, 1993, tr. 517.) Các số liệu nầy có thể đã được thổi phồng đôi chút, nhưng ở mức độ nào thì cũng không có cơ sở để xác minh. Cần chú ý là lúc đó dân số vùng từ Quảng Nam ra Thanh Hoa trong vùng cai trị của vua Quang Trung khoảng gần một triệu người (và riêng Bắc hà khoảng năm triệu rưỡi người). (Li Tana, Nguyễn Cochinchina, Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, New York: Cornell University, 1998, tr. 159.)
Vua Quang Trung chia quân làm hai hạng: hạng thiện chiến gồm lính Thuận Quảng (Thuận Hóa và Quảng Nam) đã được huấn luyện lâu ngày và tham dự nhiều chiến trận; hạng tân tuyển gồm tân binh Thanh Nghệ (Thanh Hoa và Nghệ An). Quân Thuận Quảng chia làm 4 doanh: tiền, hậu, tả, hữu, và dùng quân Thanh Nghệ làm trung quân.
Võ khí và sắc phục quân Tây Sơn được một tác giả đồng thời với sự kiện, mô tả lại trong Lê quý dật sử như sau: “Tây Sơn cho quân mặc áo màu, phần nhiều là màu đỏ tía, trên đỉnh nón mũ đính lông chiên đỏ, lại thường mặc áo gấm màu. Binh khí của họ thường dùng hỏa tiễn hỏa sào buộc trên đầu ngọn giáo, gọi là hỏa hổ [tức súng phun lửa]…” (Khuyết danh, Lê quý dật sử [chữ Nho], Phạm Văn Thắm dịch, Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội, 1987, tr. 77.) Trong Đại Nam quốc sử diễn ca, các tác giả Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái (thế kỷ 19, thời vua Tự Đức) đã tả sắc phục quân Tây Sơn như sau: “Mão mao, áo đỏ, chật đường kéo ra.” (câu 1830) (Mão mao: mũ lông.)
Điểm đặc biệt của quân đội Tây Sơn, được sách Thánh vũ ký của Ngụy Nguyên (Trung Hoa) ghi lại là “đại bác chở bằng voi mà xông vào trận”. (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2, sđd. tr. 1344.) Cần chú ý sách Thánh vũ ký là tài liệu Trung Hoa chứ không phải của người Việt để tự ca tụng mình.
Điều nầy có nghĩa là vua Quang Trung phối hợp giữa tượng binh và pháo binh, tạo thành hỏa lực yểm trợ bộ binh khi tấn công. Đội tượng binh ở Thăng Long của vua Lê và chúa Trịnh đã bị Nguyễn Huệ đưa về nam sau cuộc bắc tiến lần thứ nhất năm 1786. (Gabriel Devéria, Histoire des relations de la Chine avec l’Annam-ViệtNam, Paris: Ernest Lebroux, Éditeur, Librairie de la Société Asiatique de l’École des Langues Orientales Vivantes, 1880, tr. 17.) Theo sách Lê quý dật sử, đội tượng binh được vua Quang Trung đem từ Thuận Hóa ra Thăng Long chống quân Thanh. Lương thực hàng tháng của các thớt voi tùy theo trọng lượng từng thớt voi lớn nhỏ (Lê quý dật sử, sđd. tt. 87, 96.)
Các khẩu đại bác đã được di chuyển theo quân đội Tây Sơn cũng từ Thuận Hóa ra Bắc, vì tại Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã lập đội pháo binh mạnh mẽ. Theo Toàn thư, khi ra bắc năm 1593 để chúc mừng vua Lê trở về Thăng Long, Nguyễn Hoàng đã sử dụng những khẩu đại bác dẹp yên các cuộc nổi dậy sau năm 1593. (Ngô Sĩ Liên và nhiều tác giả, Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, 1998, bd. tập 3, tr. 185.) Sau thời Nguyễn Hoàng, các chúa Nguyễn đã tổ chức lò đúc súng tại Phường Đúc, làng Dương Xuân Thượng, Phú Xuân (gần Long Thọ, Huế ngày nay).
Không có tài liệu nào mô tả những khẩu đại bác thời Tây Sơn, nhưng dựa vào những khẩu đại bác thời nhà Nguyễn (sau thời Tây Sơn), còn sót rải các ở miền Nam, và có thể nhìn thấy trước tòa lãnh sự Pháp ở Đà Nẵng trước 1975 trên đường Bạch Đằng, thì những khẩu đại bác thời nầy nhỏ. Xin đừng so sánh với 9 khẩu thần công to lớn trưng bày trong thành nội Huế vì 9 khẩu đại bác nầy được đúc để trưng bày trước hoàng thành mà thôi. (Theo tin trong nước, ngày 29-6-2004, ngư dân Bình Thuận trục vớt được 3 tấn tiền cổ và một súng thần công dài khoảng 0,85 m. và đường kính nòng súng 0,075 m., nặng khoảng 300 Kg. [vnn-news.com, California 29-6-2004.])
Đại bác nhỏ như chúng ta thấy còn sót lại nầy mới dễ đặt trên lưng voi để ra trận như Thánh vũ ký mô tả. Cách sử dụng đại bác trên lưng voi phải chăng nhà Tây Sơn học được từ người Miến Điện và từ người Xiêm La (Thái Lan)? Chiến sĩ hai nước nầy chuyên sử dụng voi khi ra trận. Nhiều hình ảnh lưu lại cho thấy người Miến và người Xiêm đặt súng thần trên lưng voi, mũi súng hướng về đằng đuôi để khi bắn, voi bớt sợ. Cần chú ý là quân Tây Sơn đã đánh tan quân Xiêm La tại Rạch Gầm và Xoài Mút ở gần Mỹ Tho vào tháng 12 năm giáp thìn (1-1785) và bắt nhiều tù binh Xiêm La.
Dầu sao, chính hỏa lực của các khẩu đại pháo do lực lượng Tây Sơn đem từ Phú Xuân ra Thăng Long, đặt trên lưng voi đã giúp phá vỡ thành trì đồn Ngọc Hồi, đưa đến chiến thắng Đống Đa mùa xuân năm 1789, khiến cho quân Thanh phải sợ hãi nên Ngụy Nguyên mới nhắc lại trong Thánh vũ ký.
Trong tương quan lực lượng giữa hai bên, có một điểm không thể thiếu sót là việc tình báo chiến lược. Sau khi rút lui khỏi Thăng Long, chắc chắn đại tư mã Ngô Văn Sở để lại nhiều điệp viên theo dõi tình hình tiến quân của lực lượng Tôn Sĩ Nghị và báo cáo đầy đủ lại cho các chủ tướng Tây Sơn. Trong khi đó, ngược lại, quân Thanh không có đường dây tình báo, không có người len lõi vào hàng ngũ Tây Sơn, nên có thể nói là ít hiểu biết về quân đội Tây Sơn, cũng như không nắm vững các hoạt động chuyển quân của lực lượng vua Quang Trung. Chẳng những thế, quân Thanh lại còn kiêu căng, xem thường sức mạnh đối phương.
(Còn tiếp.)
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 6-2-2013)
Theo http://nguoivietboston.com/?p=14718
Gửi ý kiến của bạn