Nói đến tội ác của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt nam thì chắc chắn là ‘Trúc Nam Sơn không ghi hết tội, biển Đông Hải không rửa sạch mùi tanh hôi’ cho nên trong phạm vi bài tâm bút này, chúng tôi chỉ nêu lên những cái khốn nạn mà Hồ Chí Minh và thuộc hạ đã mang đến cho đất nước, cho dân tộc Việt nam kể từ khi Hồ Chí Minh thừa lệnh của đệ tam quốc tế, du nhập chủ nghĩa cộng sản về Việt nam để mang đến cho muôn dân Việt nam vô vàn những nỗi đau thương tang tóc.
Cái khốn nạn đầu tiên của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt nam đó là dự phần gây ra nạn đói, khiến cho hai triệu đồng bào bắc Việt chết đói trong tháng ba năm Ất Dậu 1945 bởi chính sách tiêu thổ kháng chiến, rồi không lâu sau đó cũng nhận lệnh từ ngoại bang, mà trực tiếp là từ Stalin và Mao Trạch Động, Hồ Chí Minh và thuộc hạ đã tiến hành cuộc cải cách ruộng đất bằng hình thức đấu tố, với chỉ tiêu mỗi làng xã phải tìm cho bằng được 5% địa chủ trên tổng số 3.500 làng xã của Miền Bắc lúc bấy giờ, gây ra cái chết oan khiên cho 50,000 nông dân bì hành quyết tại chổ, và hơn 250.000 người khác bị chết do bị giam hãm đến chết đói tại những nơi giam giữ khi thi hành án đấu tố vì bị quy là thành phần địa chủ cường hào ở nông thôn, mà điều ô nhục nhất trong lịch sử của đảng cộng sản Việt nam là trường hợp đấu tố và hành hình bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội, là mẹ nuôi của Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh, có con trai một là trung đoàn trưởng một trung đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam, khi mà chính phủ Hồ Chí Minh đã thừa nhận “má Năm là địa chủ kháng chiến, có công lao to lớn trong việc cứu đói đồng bào và chiến sỹ thoát khỏi nạn chết đói trong năm 1945 và ngay trong Tuần Lễ Vàng, gia đình bà cũng đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành lập.
Và một số trường hợp đấu tố khác trong cải cách ruộng đất để lại vết nhơ trong lịch sử của cộng sản Việt nam có thể nêu điển hình như: Trường hợp thiếu tướng Vương Thừa Vũ, tư lệnh Đại đoàn 308, nguyên tư lệnh mặt trận Hà Nội năm 1946, chủ tịch Ủy ban quân quản Hà Nội bị các cán bộ cải cách bắt ở ngoại thành Hà Nội vì có người đấu tố ông là "địa chủ, có xuất thân là tư sản, lập trường chính trị không rõ ràng".
Các cháu nội của cụ Phan Bội Châu, trong đó có một người là Trung đội trưởng, nhà nghèo, 3 sào đất cho 3 mẹ con, nhưng cũng bị quy là địa chủ bị đấu tố và hành quyết tại chổ.
Đặc biệt, cụ Phó bảng Đặng Văn Hướng, Bộ trưởng phụ trách Thanh - Nghệ - Tĩnh của Chính phủ bị đấu tố chết tại quê nhà Diễn Châu.
Theo bài diễn văn luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30 tháng Mười 1956, cuộc cải cách ruộng đất được thực hiện với phương châm "thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch"; phương châm này đi ngược lại với quy tắc cơ bản của pháp luật, và của lương tri nhân loại trong trường hợp này là "thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan".
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã nói về tình cảnh oan sai như sau, trong diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng 10 năm 1956 tại Hà Nội: “Qua cuộc Cải cách Ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình” [...] “Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hi sinh, có thể nói được chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được?”
Vậy đó, mà tại kì họp thứ ba của Quốc hội, để phát động chiến dịch, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh phát biểu: "Luật cải cách ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp tình, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ”: Thật là lường láo, tráo trở và vô liêm sỹ hết chổ nói, Còn sự khốn nạn nào hơn thế nữa không?
Rồi sau hiệp định Gieneva, 1954. Cộng sản Bắc Việt lại ngông cuồng xua quân xâm lược miền nam, gây ra cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn thật vô cùng đau thương và ô nhục. Với thủ đọan và cuồng vọng chính trị, vào dịp tết nguyên đán cổ truyền Mậu Thân 1968, Hồ Chí Minh và cộng sản Bắc Việt đã phản bội một thỏa hiệp song phương về một cuộc hưu chiến trong 72 giờ để cho đồng bào hai miền Nam-Bắc được vui Xuân đón tết, cộng quân Bắc Việt đã bất ngờ tiến hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt nổ ra vào đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968 (Ngày mồng một Tết Mậu Thân). Từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau các lực lượng vũ trang cộng quân Bắc Việt bất ngờ tiến công rộng khắp vào 6 thành phố lớn, 44 thị xã, hàng trăm quân lỵ, chiếm một số nơi. Hiệu lệnh mở màn cuộc tổng tấn công là bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh:
"Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta"
Để tăng tính bất ngờ, thời điểm cuộc tấn công diễn ra đúng vào giao thừa, thời điểm mà quân đội Việt Nam Cộng hòa lơi lỏng phòng bị, nhiều binh sỹ đang nghỉ về quê ăn Tết theo hiệp ước song phương về cuộc hưu chiến đó. Cùng với hàng chục ngàn ngôi nhà ở các đô thị, làng mạc khắp miền Nam bị tàn phá, với hơn 7.000 đồng bào Huế bị cộng quân tàn sát tập thể bằng các hình thức đập đầu, chôn sống, tất nhiên gieo gió ắt phải gặt bão: phía cộng quân Bắc Việt cũng có 113.295 giặc cộng phải đền tội trong chiến dịch này: Còn sự khốn nạn nào hơn thế nữa không?
Vẫn với cuồng vọng chính trị và phản bội những hiệp ước đã ký kết, vào mùa hè 1972, cộng quân Bắc Việt lại xua quân qua vùng phi quân sự Hiền Lương, Trung Lương, Bến Hải thuộc giới tuyến 17, vào ngày 30 tháng 3 năm 1972, đánh chiếm tỉnh Quảng Trị. Quân đội bắc Việt đã dùng đại pháo bắn trực diện vào đoàn người di tản, nghiền nát hơn 30.0000 thường dân vô tội đang di tản trên đoạn đường 9 km từ Thạch Hãn vào Mỹ Chánh, tất nhiên trong chiến dịch này phía cộng quân cũng có hơn 14.000 cán binh Bắc Việt đã phải đền tội: Còn sự khốn nạn nào hơn thế nữa không?
Sau Hiệp định Paris được ký kết ngày 27 tháng 01 năm 1973, với một trong những điều khoản quan trọng của hiệp định là Ngừng bắn trên toàn Việt Nam sẽ bắt đầu từ 27 tháng 1 năm 1973: với tất cả các đơn vị quân sự ở nguyên vị trí. Mọi tranh chấp về quyền kiểm soát lãnh thổ sẽ được giải quyết bởi uỷ ban quân sự liên hợp giữa hai lực lượng của Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ bù nhìn “Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam”. Trong vòng 60 ngày, sẽ có cuộc rút lui hoàn toàn của quân đội Mỹ và đồng minh cùng các nhân viên quân sự Mỹ ra khỏi Việt Nam Cộng hòa. Các bên không được tăng cường binh lính, nhân viên quân sự, vũ khí, đạn dược hoặc vật liệu chiến tranh vào Nam Việt Nam, trong trường hợp để thay thế thì phải theo nguyên tắc một-đổi-một. Hoa Kỳ sẽ không tiếp tục can thiệp quân sự vào "các vấn đề nội bộ" của Nam Việt Nam. Ấy vậy, trong khi quân đội Đồng Minh Hoa Kỳ và quân lực Việt nam cộng hòa nghiêm chỉnh chấp hành hiệp định, thì phía cộng quân Bắc Việt lại bội ước, ngang nhiên vi phạm trắng trợn Hiệp định, tăng cường du nhập các loại vũ khí sát thương của Nga cộng và Tàu cộng à các chiến khu ở Miền nam và liên tục mở các cuộc tấn công vào các đô thị Miền nam, giết hại hàng trăm ngàn đồng bào Miền nam và biến hàng triệu người khác thành nạn nhân của chiến cuộc. Mặc khác, cộng sản Bắc Việt còn huy động cả nhiều sư đoàn quân đội Bắc Hàn và quân đội Nhân Dân Giải Phóng Trung Cộng tham giâ vào cuộc chiến tranh xâm lược miền nam, sử dụng cả vũ khí và con người ngoại bang để giết hại đồng bào ruột thịt của mình, đồng thời, cộng sản Bắc Việt cũng cổ xúy cho Hải Quân Trung Cộng đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của tổ quốc, nơi quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang trấn giữ, để đến ngày hôm nay, Trung cộng tiếp tục cưỡng chiếm cả Quần đảo Tường Sa, bắn giết ngư phủ Việt nam khi họ đang khai thác tài nguyên biển ngay trên lãnh hải của mình, và chính quyền cộng sản Việt nam vẫn tiếp tục im lặng một cách đớn hèn: Còn sự khốn nạn nào hơn thế nữa không?
Đầu năm 1975, với vũ khí của Nga Sô và Trung Cộng, cùng với nhân lực của Mao Chủ Trạch Đông và Kim Nhật Thành, cộng quân Bắc Việt xua quân xâm lược toàn lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa, xóa tên một quốc gia trên bản đồ thế giới, mang đâu thơng chết chóc cho hàng triệu người, cùng với việc cưỡng chiếm hoàn toàn Miền Nam, cộng sản Bắc Việt đã nhuộm đỏ cả đất nước Việt Nam, biến dân tộc Việt nam trở thành một dân tộc man di mọi rợ, đưa đất nước Việt nam tụt hậu hàng thế kỷ so với các nước cùng Châu lục trong khu vực. Với chiêu bài gải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Cộng sản Việt Nam đã sát hại hàng triệu người dân Miền Nam trong các cuộc tấn công lấn đất giành dân đó. Nhưng vẫn chưa hết, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cộng sản Việt nam đã bắt đưa đi đày tại các trại tù cải tạo 1040.000 người bao gồm các sỹ quan hạ sỹ quan và quân cán chính của Quân Lực Việt Việt Nam Cộng Hòa, Chức Sắc các Tôn Giáo, lãnh tụ các đảng phải chính trị, các dân biểu của Việt Nam Cộng Hòa mà chúng gọi là “ngụy quân ngụy quyền”, trong số đó 95.000 người chết trong các trại tù cải tạo do ốm đau bệnh tật hoặc tra tấn nhục hình. Ngoài ra từ năm 1975 cho đến 1987, nhà cầm quyền cộng sản cũng đã tử hình 100.500 người vì các tội “phản động” và “bóc lột nhân dân” vì một số họ là chủ sở hữu của một số nhà máy xí nghiệp, hay một số cơ sở kỹ nghệ và thương mại ở Miền Nam.Với chính sách cai trị “chuyên chính” và trả thù một cách dã man đối với thân nhân những người bị quy tội “ngụy quyền bán nước” hay tư sản hút máu mũ của nhân dân” đã khiến hơn 3.000.000 người Việt nam, mà không ít là nhân sỹ trí thức đã vượt ngàn trùng sóng gió của đại dương để đi tìm tự do, và đã có hơn 1.500.000 người đã chết trên biển cả do bị bắn chết vì tội “phản quốc” hoặc vì bão tố hay rơi vào tay hải tặc: Một số liệu tổng quát là từ “Sau Ngày Hòa Bình Lập Lại” nhà cầm quyền cộng sản Việt nam đã trực tiếp và gián tiếp sát hại 1.750.000 người: Còn sự khốn nạn nào hơn thế nào chăng?
Cũng từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Lê Duẫn, Trường Chính và một số thuộc hạ trong bộ chính trị của cộng sản Việt nam, sau chuyến vào thăm và tiếp nhận chiến lợi phẩm là 16 tấn vàng từ Nha Phát Hành Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam, trở về Hà Nội, Lê Duẫn đã tuyên bố trước Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam rằng, để Hà Nội tiến kịp Sài gòn thì phải mất 30 năm nữa, nhưng để Sài gòn “thoái kịp” Hà Nội thì chỉ cần 3 năm thôi, nên đảng và nhà nước CSVN đã áp dụng biện pháp này thông qua các chiến dịch cải tạo tư sản, đổi tiền, tịch biên nhà cửa của các sỹ quan, binh sỹ của QLVNCH cũng như của các nhà tư sản, hạ phóng tầng lớp trí thức ở các đô thị Miền nam xuống các “vùng kinh tế mới” và chi viên cán bộ nòng cốt ở miền bắc XHCN cùng thân nhân của họ vào làm nòng cốt cán bộ và dân cư ở các đô thị Miền nam, và đúng vậy chỉ 3 năm Sau đó, tức là đến năm 1978, cả Miền Nam trở nên điêu tàn, dân chúng Sài gòn phải ăn khoai sắn, bo bo để tồn tại, đây là những loại “cao lương” của Bác và đảng mà trước năm 1975 đồng bào Miền nam chỉ dùng để nuôi gia súc. Điều đang chú ý trong khoản thời gian này nhiều nhà “tư sản” bị tịch biên nhà cửa, bị đưa đi cải tạo hoặc bị tử hình, trong khi tổng tài sản mà họ sở hữu lúc bấy giờ chỉ bằng (1/1.000.000) một phần triệu giá trị tài sản của các “đồng chí” Tư Sản Đỏ hiện nay như Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Phú Trọng, Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu. Vậy tại sao không gọi các “đồng chí” này là những tên tư sản bán nước hút máu nhân dân: Còn sự khốn nạn nào hơn thế này chăng?
Tưởng cũng cần nhắc lại rằng, trong cuộc chiến tranh xâm lược Miền nam từ 1960 cho đến 1975, cộng sản Bắc Việt đã sử dụng các chùa chiền, các cơ sở tôn giáo để trú ẩn, chúng cũng đã kích động một số trí thức ngông cuồng và xuẫn động ở miền nam thành lập các khối đối lập, như Tư Tưởng, Đồng Dao, Đối Diện, Đứng Dậy... để lên tiếng chống lại chính quyền Miền Nam với những tên trí thức ngông cuồng và xuẫn động “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” như Lê Văn Nuôi, Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm, Trương Thìn và một số trí thức ngây thơ chính trị mà hám danh khác như Huỳnh Tấn Phát, Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Tôn Thất Dương Kỵ , Tôn Thất Dương Tiềm, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Thuận An, Trần Vàng Sao, Lê Gành, Tràn Phá Nhạc, Võ Quê v.v…Còn một số khác thì khôn hơn, tuy thích Việt Cộng, nhưng không dám đi theo. Chúng vẫn ăn cơm quốc gia, nhưng lại chỉ trích chế độ miền Nam. Đó là bọn mang danh thành phần thứ ba như Trần Ngọc Liễng, Lý Qúy Chung, Nguyễn Hữu Chung, Lý Chánh Trung, Dương Văn Ba, Ngô Công Đức, Cộng sản bắc Việt đã sử dụng những tên “trí thức mù” này để xuống đường đấu tranh chống chính quyền Miền nam một cách vô cùng cực đoan, thế những sau khi cướp được chính quyền, thì nhà cầm quyền cộng sản Việt nam lại cấm tất cả các hoạt động tôn giáo, cấm tất cả các cuộc xuống đường của những người yêu nước thực sự, muốn nói lên tiếng nói yêu nước thương nòi của mình trước hiểm họa ngoại xâm, nhiều chức sắc của các tôn giáo vẫn tiếp tục bị bắt bớ, bị quản chế, bị giam cầm chỉ vì họ được gọi vào chức vụ và có đầy ân tứ để chấn hưng và phát triển đạo pháp của họ, như Đại Lão Hòa Thương Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Thích Mạnh Thác, Thích Tuệ Sỹ, Thích Không Tánh… như các Linh Mục Trần Đình Thủ, Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Văn Luân, Nguyễn Văn Lý, Ngô Quang Kiệt... Nhiều nhân sỹ trí thức, sinh viên học sinh, và thanh niên yêu nước vẫn tiếp tục bị theo dõi, bị sách nhiễu, bị bắt bớ giam cầm, như Anh Ba Sài Gòn Phan Thanh Hải, Kỹ Sư Đỗ Nam Hải, Bác Sỹ Nguyễn Đan Quế, Luật Sư Nguyễn Bắc Truyển, Bác Sỹ Phạm Hồng Sơn, Luật sư Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Lê Trần Luật, Lê Quốc Quân, Cù Huy Hà Vũ, Bùi Thị Minh Hằng, Phạm Thanh Nghiêng, Nhạc Sỹ Việt Khang Võ Minh Trí. Một số nhà Báo tự Do vì lòng yêu nước mà tiếp tục bị sách nhiễu bị theo dõi và bị đe dọa đến tính mạng, bằng những vụ tại nạn giao thông do cơ quan an ninh dàn dựng như Tiến Sỹ Nguyễn Xuân Diện, Người Buôn Gió Bùi Thanh Hiếu, Nguyễn Khắc Toàn, Huỳnh Ngọc Tuấn, Huỳnh Thục Vy, Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Đỗ Thị Minh Hạnh, Ta Phong Tần và đặc biệt là những sỹ phu như Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung và còn nhiều nhiều nữa… Thậm chí một số những người yêu nước này có thể đã bị thủ tiêu ngay trong nhà biệt giam như Blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải chỉ vì anh ta dám lên tiếng chống lại sự xâm lăng lãnh thổ, lãnh hải của nhà cầm quyền Tàu Cộng. Chuyện thật như đùa ở đất nước Việt nam cộng sản này ấy là yêu nước là có tội, thậm chí là một trọng tội: Còn sự khốn nạn nào hơn thế này nữa không?
Kính thưa quý vị,
Tất nhiên vẫn còn 1001 cái khốn nạn khác nữa trên đất nước Việt nam cộng sản này mà trong khuôn khổ của một bài tâm bút, chúng tôi không thể nào nêu lên đây một cách đầy đủ và trọn vẹn được. Tâm nguyện của chúng tôi là xin trình bày lại một phần nhỏ những đau thương của người dân Việt nam do Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam mang lại, với lòng mong muốn là người dân Việt Nam dù trong hay ngoài nước, dù là thế hệ hôm nay hay mai sau, sẽ không bao giờ quên được tội ác chống lại loài người cũng như tội ác diệt chủng của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt nam.
Cuối cùng, chúng tôi xin được nêu lên một tự vấn mà chính chúng tôi chưa tìm được lời giả đáp cho mình ấy là: ĐẤT NƯỚC ĐÃ BAO GIỜ KHỐN NẠN NHƯ THẾ NÀY CHĂNG?
Tháng Tư đen năm 2012
Nguyễn Thu Trâm
--
http://quynhtramvietnam.blogspot.com
Gửi ý kiến của bạn