Tôi cũng kể ông nghe, khi tướng Ân nói với tôi "Tôi không muốn một sĩ quan từ ở đơn vị khác xin về đây cướp cơm chim của các sĩ quan trong sư đoàn chúng tôi". Câu nói đã làm tôi mất kiên nhẫn và vượt qua sự chịu đựng của tôi. Tôi đã trả lời ông "Tôi quan niệm vào quân đội để phục vụ đất nước, bảo vệ dân chứ không phải phải vào quân đội để kiếm cơm. Vả lại tôi được điều ra đây là do lệnh điều động bổ sung cán bộ chỉ huy của Bộ TTM và ngược với nguyện vọng của tôi là muốn trở về phục vụ tại đơn vị cũ. Điều này trung tá Nam trưởng phòng 1 có thể xác nhận cho tôi." Đó là lý do khiến Tư lệnh không hài lòng. Trung tá Thịnh cười bảo tôi "Tao nghĩ chú mày chỉ là gà non háu đá! Ông tướng dặn dò điều ấy đâu có gì qúa đáng mà phải phản ứng?" Tôi cười buồn trả lời ông: "Có lẽ trung tá nói cũng đúng, tôi quá mẫn cảm và không hiểu rõ ý của ông ấy.
Dù sao câu chuyện cũng đã xẩy ra rồi. Tính tôi là vậy, trung tá còn nhớ lời Đại tá Trần ngọc Huyến chỉ huy trưởng trường Võ Bị trong một bài học Lãnh đạo chỉ huy tổ chức hàng tuần trước ngày chúng tôi ra trường không? Thầy Huyến khuyên chúng tôi muốn là một sĩ quan giỏi trước hết phải là một con người trong ý nghĩa đích thực của nó trước đã. Thành công tuy quan trọng nhưng không quan trọng bằng thành nhân. Muốn thành nhân phải đặt ra cho mình một lý tưởng mà noi theo. Lý tưởng giống như chiếc la bàn chỉ hướng cho mình đi suốt cuộc đời. Cái hướng chỉ đường đó được cụ thể hóa ra bằng một câu châm ngôn. Rồi ông nêu ra câu châm ngôn cho chính ông. Câu đó là "Thà sống cho người ta ganh ghét chứ không để cho chúng khinh". Trung tá Thịnh đứng lên khỏi ghế vỗ vai tôi "Chú mày còn lý tưởng lắm, hãy ráng sống với lý tưởng của mình đeo đuổi, nhưng cũng không nên quên ngộ biến tùng quyền." Tôi đã ghi nhớ lời dặn dò ân cần của ông trong buổi nói chuyện thân mật ấy mãi cho đến tận ngày hôm nay.
Tôi được ông cho theo Bộ chỉ huy trung đoàn để học làm quen trong lúc chờ giao nhiệm vụ. Cùng một đợt ra trình diện với tôi, các đại úy Thâm và Quân lần lượt nhận được lệnh bàn giao các chức vụ tiểu đoàn trưởng 1 và 4/44.
Đầu tháng 9 trung đoàn tổ chức cuộc hành quân vào mật khu Văn Lâm thuộc lãnh thổ Ninh Thuận, vùng giáp ranh với tỉnh Bình Thuận. BCH/TRĐ đóng ven quốc lộ 1 cách Cà Ná chừng 5 cây số. Tiểu đoàn 1/44 của thiếu tá Trương văn Anh là nỗ lực hành quân chính. Sau khi được xe GMC chở đến tuyến xuất phát, tiểu đoàn nhắm thẳng hướng đông là rặng núi Đá Bạc cao độ 644 mét chạy song song với Quốc lộ Một hướng ra biển. Cuộc hành quân kéo dài ba ngày không có đụng độ gì lớn ngoại trừ vài lần chạm súng lẻ tẻ với các toán du kích trong vùng. Buổi chiều ngày hành quân thứ tư, trong lúc BCH/TRĐ đang theo dõi diễn tiến thì sĩ quan truyền tin vào báo tướng Tư lịnh Sư đoàn ghé thăm. Sĩ quan ban ba lúc đó là trung úy Đặng trung Đức K19 chuẩn bị phần thuyết trình. Thiếu tá Nguyễn công Ba nguyên trước đó là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/44 đã bàn giao đơn vị đang chờ nhận nhiệm sở mới và tôi là người mới được bổ nhiệm về chờ quyết định đang xớ rớ không biết làm gì thì Tướng Ân bước vào lều chỉ huy. Sau khi trung tá Thịnh thuyết trình xong tình hình, tướng Ân quay qua nhìn thấy tôi, ông hỏi trung tá Thịnh "Ông này làm gì ở đây?" Trung tá thịnh trả lời "Thưa thiếu tướng, tôi đang cho đại úy Vũ đi theo làm quen với đơn vị để chờ bổ nhiệm". Tướng Ân ra lệnh "Làm quen thì đi theo đơn vị tác chiến chứ làm quen gì ở đây?! Cho ông ta ra ngay theo tiểu đoàn đang hành quân." Ngay sau đó, tướng tư lệnh cho phép dùng trực thăng chỉ huy của ông để đưa tôi ra ngay đơn vị đang trên đỉnh núi Đá Bạc. Quyết định khá bất ngờ khiến cho thiếu tá Anh tiểu đoàn trưởng phải cho dọn gấp một bãi đáp khẩn cấp để trực thăng hạ cánh.
Ngoài chiếc ba lô, thậm chí cả cây súng cá nhân tôi cũng chưa kịp lãnh, tôi đã trình diện thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 trong tình trạng như thế. Thiếu tá Anh tiếp tôi trong cái bắt tay đầy cảm thông. Và tôi được biết sau đó, trung tá trung đoàn trưởng ra lệnh miệng cho thiếu tá Anh bổ nhiệm tôi là tiểu đoàn phó tiểu đoàn này. Buổi tối trên núi cao đầu tiên trong cuộc hành quân leo núi của tôi là một đêm nhiều hoài niệm. Nằm nghe tiếng gió rì rào hoà trong tiếng sóng biển ào ào nghe rất lạ, khác hẳn với không khí yên ắng tịch mịch của những đêm miền đồng bằng mà tôi đã gắn bó trước đó rất lâu. Tôi buông lỏng hồn mình bay bổng vào khoảng không bao la đầy ắp sao đêm trên trời.
Hai
Sông Mao là một thị trấn nhỏ còn có tên nghe mỹ miều hơn: Quận Hải Ninh, hoặc quận Phan lý Chàm. Từ ngã ba Phan Lý nằm trên quốc lộ 1 đi vào hơn 3 cây số là quận lỵ. Dân số phần đông là thân nhân của những quân nhân thuộc Sư Đoàn Nùng từ miền bắc di cư vào trấn đóng trước đó mang theo. Sư đoàn này là tiền thân của sư đoàn 5 sau này. Ngoài khu ven chợ Sông Mao, thị trấn chỉ có những con đường nhỏ có những căn nhà trệt một hoặc hai lầu. Dân số không đông, đa phần là người Hoa vùng Móng Cáy.
Phía bắc đông bắc là ngọn núi Bèo cao độ 632m cây thưa vách đá dựng. Tây bắc là ngọn Cà Tăng thấp hơn, cao độ trung bình 600m. Nước từ trên các cao độ này theo đường thông thủy chảy vào Sông Mao theo hướng tây bắc đông nam. Mang tiếng là sông nhưng nước lúc nào cũng cạn lắm, giống như một con suối lớn thì đúng hơn.
Nói chung thị trấn có phong cách của một khu trại lính hơn là một thị trấn bình thường. Trên phố xá lính luôn nhiều hơn dân. Thị trấn luôn làm cho người ta quên đi nếp sống bình thường thoải mái đáng lẽ nên có của một nơi dựa lưng vào núi ngoảnh mặt ra biển như nơi đây.
Năm tôi ra trình diện đơn vị tình hình chiến sự nói chung không căng thẳng và gay cấn như thời gian trước đó khi tôi còn ở trong Nam. Quốc lộ 1 quãng đi qua Sông Mao chỉ có một đoạn là nguy hiểm, khúc Lương Sơn, nơi đó thuộc mật khu Lê Hồng Phong. Mật khu này nằm thu gọn trong vùng rừng cây rậm gồm nhiều bụi cây gai, loại cây thích hợp cho khí hậu sa mạc nằm ở phía nam quốc lộ, một mặt giới hạn bằng quốc lộ còn phía kia là bờ biển Phan Thiết. Nằm giữa mật khu là ngọn núi Tà Dôm không cao lắm. Trên đỉnh là một đồn do địa phương quân (ĐPQ) tiểu khu trấn đóng. Nơi đây BCH44/TRĐ đặt một toán truyền tin để chuyển tiếp thông tin từ Tiểu khu Phan Thiết với Sông Mao, đồng thời cũng dùng làm điểm trung chuyển truyền tin cho các đơn vị của Trung đoàn khi hành quân xa căn cứ.
Ngày 8 tháng 9, buổi sáng ngày hành quân cuối cùng sau một tuần lặn lội. Tiểu đoàn lục soát xong mục tiêu trên đỉnh Hòn Mai và được lệnh hạ sơn lục soát mục tiêu cuối cùng trên đồi nhỏ 358 ở hướng bắc. Cũng phải đến hơn sáu giờ chiều chúng tôi mới ra tới điểm tập trung nằm ngay tại khúc dẫy Trường sơn đâm ngang ra biển. Nơi đây quốc lộ 1 đổi hướng từ đông tây trở thành hướng chính bắc.
Nằm trên ghềnh đá sát bên tuyến đường sắt, lính của tiểu đoàn chia phiên nhau xuống tắm biển. Tôi tự nhủ thầm đây quả thật là một kỷ niệm khó quên trong đời lính. Thỉnh thoảng một chiếc xe hàng chở khách đi Ninh Thuận hoặc Nha Trang chạy ngang qua, hành khách trên xe dơ tay vẫy chào lính, lính đưa tay vẫy chào trở lại cười đùa…
Buổi chiều khoảng bẩy giờ, tôi được tin thiếu tá Anh cho biết tướng Ân Tư lệnh sư đoàn cùng phu nhân tử nạn trong một tai nạn máy bay khi đang bay hành quân trên vùng trời Đức Lập. Tôi nhớ lại mới đó không lâu, trong lần trình diện ông, ông chắc hẳn không mấy hài lòng về tôi, một tên đại úy vô danh tiểu tốt dám "có ý kiến " với ông, một điều tối kỵ với tính cách riêng của ông trong cung cách cư xử với thuộc cấp của mình. Đặc biệt là một tên lính mới được bổ sung đến, chưa lập được thành tích gì. Tôi tự nhủ thầm cầu mong ông bà được siêu thoát, đừng vướng bận gì với cõi ta bà đầy rẫy những trí trá lọc lừa này nữa. Những muộn phiền vì nhiệm vụ và công việc của một cấp chỉ huy có tinh thần trách nhiệm cao như ông nên được bỏ xuống để nghỉ ngơi. Suy cho cùng, làm thân phận một người lính lẽ sống chết là điều hiển nhiên chỉ có khác chăng là cách hy sinh thôi. Tôi vẫn nghĩ, một vị tướng chết trong khi thi hành nhiệm vụ luôn xứng đáng và đáng trân trọng hơn bất kỳ những kiểu ra đi nào khác. Bất giác tôi nhớ tới hai câu thơ cổ "Giai nhân tự cổ như danh tướng, bất hứa nhân gian kiến bạch đầu."
Buổi tối nằm trên ghềnh đá nghe tiếng sóng biển ì òm đập lên vách đá nghe thật thoải mái dễ chịu dễ ngủ. Thân thể mát mẻ, tâm hồn buông lỏng cùng đất trời, những âm thanh của tự nhiên như tiếng vỗ về giống tiếng hát của mẹ tôi khi tôi còn nhỏ. Giấc ngủ đến rất tự nhiên và ngọt ngào.
Đoàn xe đến đón chúng tôi trở lại Sông Mao vào sáng hôm sau. Khi chạy vào đến doanh trại của trung đoàn bụi cát mù trời. Tiếng lính tráng gọi nhau ơi ới, gia đình binh sĩ từ những trại gia binh kế cận cũng ùn ùn kéo tới đón chồng con thân nhân. Tôi xách ba lô vào phòng ngủ sĩ quan độc thân, quăng chiếc ba lô lên ghế bố nằm suy nghĩ vẩn vơ.
Kể từ ngày ra trường cho tới thời gian này tôi mới được hưởng cái thú đơn vị sau khi hành quân về, trở về doanh trại nghỉ ngơi! Nghĩ đến đơn vị cũ của tôi mà lòng lại thấy thương đồng đội vô cùng. Các đơn vị tôi phục vụ trước đó thuộc trung đoàn 11 thuộc Sư Đoàn 7 BB. Mang tiếng là có bộ tư lệnh (BTL) đóng tại Mỹ Tho và bộ chỉ huy trung đoàn (BCH/TRĐ) tại Phú Lâm nhưng chưa bao giờ tôi biết đến doanh trại là gì! Hành quân xong là kéo về một xóm hẻo lánh nào đó hoặc dọc theo quốc lộ để trú qua đêm. May mắn lắm, năm thì mười họa đôi khi về ghé nghỉ ở chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho một hai đêm. Còn phần lớn là trên các xóm bên đường dọc theo quốc lộ 4. Suốt cuộc đời người lính trong đơn vị cũ của tôi thực sự chẳng bao giò có được một thời gian nghỉ quân theo đúng nghĩa. Chỗ nào cũng là mặt trận, chỗ nào cũng có thể bị đánh lén hay pháo kích. Có những gia đình binh sĩ, hạ sĩ quan sống lay lất theo lính đi hành quân. Quân vừa tới vị trí dừng nghỉ là đã có gia đình vào thăm ở lại. Câu chuyện lính và gia đình đi theo ngay sau khi đơn vị dừng nghỉ quân từng là mối đau đầu của các cấp chỉ huy chúng tôi thời điểm ấy. Nhu cầu chiến trường qúa lớn, lực lượng tham chiến lúc nào cũng thiếu. Thành ra có lúc chúng tôi nói đùa với nhau chỉ có súng đạn có lúc được nghỉ còn lính thì chỉ được phép nghỉ khi cuộc sống dừng lại. Một cuộc nghỉ ngơi theo đúng nghĩa.
Đang mơ màng tôi choàng dậy khi nghe tiếng gọi tên. Tiếng Quân người bạn đồng khóa và cùng học chỉ huy tham mưu với tôi đi tới. Quân bảo; "Tao về nhận bàn giao tiểu đoàn 4." Mày muốn làm việc chung với tao chứ?" Tôi hững hờ, "Sao cũng được".
Sáng hôm sau Mai xuân Bê sĩ quan ban 1 TR/Đ tới tiểu đoàn chuẩn bị lễ bàn giao giữa thiếu tá Anh và Đại úy Quân đồng thời thông báo cho tôi biết trở về BCH/TRĐ nhận lệnh mới. Mai xuân Bê là anh chàng chuẩn úy tôi quen khi còn ở trung đoàn 11 cũ. Bê bảo " Anh được bổ sung qua tiểu đoàn 2 làm tiểu đoàn phó cho đại úy Lê văn Anh nhân tiện mời anh đi ăn sáng luôn với em". Chúng tôi vui vẻ kéo nhau ra quán Kỳ Hương, quán ăn ngon nhất của Sông Mao. Quán nổi tiếng với hai món đặc sản bồ câu quay và chân giò heo hầm. Bê cười hỏi tôi "Anh thấy tình hình sinh hoạt ngoài này ra sao?" Tôi ậm ừ "Bình yên hơn so với đơn vị cũ phải không?" Rôì thêm vào "Ở đây buồn qúa, một Thị trấn buồn hiu!" Cả hai cùng cười.
Đại úy Anh là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/44 tốt nghiệp khóa 8 Đà Lạt. Người gốc miền tây, tính tình xởi lởi dễ thân. Đại úy Anh bảo tôi "Cậu về làm việc với tôi là tôi vui rồi." Ông mời tôi về nhà ông tại khu cư xá gia đình sĩ quan ăn bữa cơm gia đình. Ông hỏi tôi "Sao đang ở vùng đồng bằng vui vẻ thế mà lại lặn lội ra nơi khỉ ho cò gáy này? " Tôi mỉm cười, "Đại úy cũng biết đấy, đời nhà binh nào ai cứ muốn là được đâu" Đại úy Anh nói với tôi "Ở nơi này có khi hành quân cả tuần chẳng thấy bóng một người! Chẳng bù cho vùng đồng bằng miền tây đi đâu cũng gặp dân gặp đồ ăn nước uống!" Chúng tôi ngồi ăn uống trò chuyện với nhau cho tới gần 9 giờ đêm mới ra về.
Về tiểu đoàn 2 chưa đầy ba ngày thì tôi lại nhận được lệnh bàn giao nhiệm vụ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/44 với đại úy Anh. Đại úy Anh được thuyên chuyển vể tiểu khu Định Tường- Nơi tôi từng làm việc và có biết bao kỷ niệm đời lính- Tôi nhủ thầm quả đất thật vần xoay kỳ lạ. Duy có điều tôi biết chắc khi nhận được lệnh thuyên chuyển này, đàn anh của tôi, đại úy Anh rất vui, khác hẳn tâm trạng của tôi khi cầm tở sự vụ lệnh trình diện đơn vị mới.
Tháng 10, tôi được lệnh đưa tiểu đoàn đi trình diện tiểu khu Phan Thiết để hành quân khu đông bắc vùng Thiện Giáo và Phú Hội, Phú Long. Những ngày hành quân tại đây cũng chỉ là những cuộc hành quân nhỏ phối hợp với lực lượng ĐPQ tìm lùng địch. Đơn vị địch đối đầu với chúng tôi là các đơn vị địch thuộc quân khu 6 của tướng cộng sản Nguyễn văn Ngà là tư lệnh. Hai tiểu đoàn cơ động chính là là các đơn vị 491 và 492. Đa phần hoạt động của các đơn vị này là tổ chức các cuộc phục kích trên quốc lộ 1, trên các khu vực tiếp giáp với mật khu lê Hồng Phong.
Cuối năm 1969 có những cuộc đụng độ cấp tiểu đoàn khi địch tổ chức phục kích các đoàn xe cơ giới của Hoa Kỳ khai quang mật khu Lê Hồng Phong. Từ đó, các đơn vị của trung đoàn 44 luân phiên nhau tăng cường hành quân phối hợp cùng tiểu đoàn 3 thuộc Lữ đoàn 506 Nhẩy dù của Hoa kỳ. Thay thế trung tá Thịnh, Trung đoàn trưởng 44, lúc này là trung tá Phạm Ngân cũng là người tôi biết khi ông còn là một tiểu đoàn trưởng của trung đoàn 10 Sư đoàn 7, thường tham gia hành quân chung với đơn vị cũ của tôi.
Sau trận đánh phục kích của cộng quân thất bại trên quốc lộ 1 khu gần Lương Sơn đã gây tổn thất lớn cho đơn vị địch, địch quân phân tán nhỏ để tránh giao chiến và hoạt động du kích. Cho đến khi mật khu Lê Hồng Phong bị chia ô khai quang thành từng giải rừng cách nhau 3, 4 trăm thước trông giống như một sân bóng tròn thì mưu đồ dùng mật khu Lê hồng Phong của địch để quấy rối không còn áp dụng được nữa.
Mãi đến tháng 4 năm 1970, địch mới tổ chức được một cuộc tấn công có tính quy mô. Lần này mục tiêu là Sông Mao. Đơn vị địch tham chiến là hai tiểu đoàn chủ lực 481 và 482 cùng đặc công. Chỉ có điều những tính toán của địch và kế hoạch tấn công không được nghiên cứu kỹ nên khi cuộc tấn công khởi động họ không xác định được chính xác mục tiêu chủ yếu thành ra các đơn vị dẫn đầu đi lạc lung tung bên ngoài bờ rào kẽm gai các doanh trại đơn vị của trung đoàn. Mớ đạp phải mìn claymore, mớ bùng nhùng trong giây kẽm gai khiến cho sau đợt pháo kích bằng 82 ly của họ không đủ để hỗ trợ cho các đơn vị đặc công và xung kích xâm nhập mục tiêu. Thậm chí sau này khi bắt được tù binh, qua cung từ, chúng tôi được biết họ muốn nhắm đánh vào BCH/TRĐ nhưng trên thực tế họ lại đi lộn vào khu vực của tiểu đoàn 2 chúng tôi!
Gần 1 giờ đêm họ mới khai hỏa, cho đến gần 3 giờ sáng thì biết chắc đã thất bại, địch cho lệnh rút quân. Sáu giờ sáng Tiểu đoàn 2 và 3/44 cùng đại đội trinh sát 44 được lệnh hành quân truy kích địch.Tám giờ sáng một hợp đoàn trực thăng thuộc phi đoàn 269 từ Nha Trang vào hỗ trợ hành quân theo yêu cầu của trung đoàn. Tiểu đoàn 2/44 được trực thăng vận thẳng vào chân núi Cà Tăng phía tây bắc lục soát dọc theo các đường thông thủy Sông Mao đi ngược về căn cứ. Đại đội 44 Trinh sát được thả vào chân núi Bèo ở hướng bắc lục soát về hướng nam. Tiểu đoàn 3 mở rộng vòng đai lục soát khu vực phi trường Sông mao. Từng toán nhỏ địch quân lần lượt lọt vào tầm hỏa lục của chúng tôi và các trực thăng võ trang bay truy đuổi trên đầu. Bốn giờ chiều cùng ngày, cuộc hành quân truy kích chấm dứt. Kết quả thiệt hại bên ta không đáng kể, đặc biệt là không có ai bị tử thương. Ngòai số xác chết địch bỏ lại ngòai vòng rào các doanh trại tiểu đoàn 2 và 3 trong cuộc truy kích chúng tôi còn tiêu diệt và bắt sống một số lượng tù binh và thương binh binh địch đáng kể. Đây là trận đánh quy mô tôi tham dự kể từ ngày về trình diện đơn vị này.
Từ giữa năm 1970 trở đi, khi trung đoàn phối hợp hành quân cùng đơn vị Hoa kỳ thuộc Lữ đoàn nhẩy dù 506 tăng phái cho tiểu khu Bình Thuận nhằm phá nát mật khu Lê Hồng phong, chúng tôi sử dụng chiến thuật mới. Thay vì như trước đây, cả tiểu đoàn tiến theo một trục và các mục tiêu được xác định rồi đánh số trên các phóng đồ hành quân thì bây giờ tiểu đoàn được giao phó cho một khu vực hành quân. Căn cứ theo tình hình, tiểu đoàn trưởng tùy theo địch tình khu vực và sáng kiến cá nhân, tự hoạch định mục tiêu cho đơn vị mình. Thực ra, chiến thuật này không mới mẻ gì, chỉ là áp dụng theo kiểu hành quân của các đơn vị Hoa kỳ đang làm thôi. Trước đây vì thiếu phương tiện yểm trợ và chuyển quân nên không thể áp dụng được.
Giờ đây, trong kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, các đơn vị không quân trực thăng tăng trưởng nhanh nên việc xin phương tiện tương đối dễ dàng hơn nhiều. Ngoài ra cũng phải nói thêm một điều, đó là lực lượng địch trong vùng sau các lần giao tranh trước đây, bị tổn thất lớn không bổ xung kịp nên tương đối yếu, phần vì thiếu lương thực và tiếp tế quân trang dụng, phần vì địa thế núi non hiểm trở không dễ dàng gì che dấu khi di chuyển trên các thung lũng hoặc các đụn cát vốn dĩ rất rộng của khu vực này. Những đụn cát trắng mênh mông đặc biệt từ khu vực giáp ranh giữa Phan Thiết và Phan Rang nằm chen giữa khu vực núi đá trọc ở phía bắc và một khoảng bãi cát rộng trên bờ biển phía nam. Nằm giữa là quốc lộ 1 chạy nối liền giữa những tỉnh lỵ duyên hải.
Tôi nhớ lại thời gian trước đây, trong vùng hành quân Đồng Tháp, cả đơn vị kéo nhau đi trong mưa trên trời đổ xuống và biển nước phèn mênh mông của đồng ruộng dưới chân, Giờ đây thì ngược lại. Dưới chân là cát trắng trắng đến lóa mắt, trên trời là nắng chói chang. Mồ hôi đầm đìa trên mặt, những hạt cát theo từng cơn lốc ùa vào đoàn quân đang di hành mù mịt. Cơ thể trở nên ngứa ngáy khó chịu vì mồ hôi hoà với cát trên người, trên mặt. Suy cho cùng, từng vùng chiến thuật có những đặc tính riêng cho mình, duy chỉ có một điều chung nhất đó là trên từng địa hình người lính đều có những vất vả khó nhọc như nhau.
Tháng 8, đơn vị tôi và tiểu đoàn 1/44 cùng đại đội 44 Trinh sát tham dự cuộc hành quân quy mô thứ hai. Lần này mục tiêu là khu tam giác giáp ranh 3 tỉnh Phan Thiết, Lâm Đồng và Đà Lạt. Nơi đây là nơi đặt Bộ chỉ huy của quân khu 6 cùng các cơ quan hành chánh thuộc các tỉnh kể trên của cộng sản.
Nắm vững tin tức tình báo về tổ chức lực lượng của địch đa phần là các đơn vị hậu cần và y tế nên kế hoạch hành quân cũng đổi khác. Thay vì tổ chức tìm và tiêu diệt địch theo theo cấp tiểu đoàn lục soát một cánh quân theo các mục tiêu được xác định sẵn từ trước. Lần này vì khu vực hành quân khá rộng và là vùng núi đồi xen lẫn nhau giữa các đồi thưa và vùng rừng rậm rạp nên tiểu đoàn được trực thăng vận xuống một khu trung tâm, từ đó thiết lập căn cứ hành quân rồi tung ra các lực lượng để lục soát truy quét. Chiến thuật này rất thích họp vì với phương thức này, vùng hành quân sẽ được lục soát kỹ càng hơn và gần như phủ khắp khu vực với chĩ hơn hai tiểu đoàn và một đại đội trinh sát trong khu vực hành quân trên một diện tích diện tích hơn 100 cây số vuông trong khoảng thời gian 10 ngày.
Có thể nói trong 10 ngày hành quân tại đây, phần lớn các cuộc đụng độ là tao ngộ chiến, trung đoàn 44 đã dọn dẹp phá hủy và tiêu diệt đa phần hậu cần của địch, một vùng ẩn trú cuả quân khu 6. Ngoài một số căn cứ chế biến thuốc men đông và tây y, bắt sống hoặc tiêu diệt một số cán bộ yểm trợ hậu cần, tịch thu đạn dược và lương thực, chúng tôi còn thu được nhiều tài liệu qúy giá về tổ chức và danh sách một số cơ sở nằm vùng của địch. Cuộc hành quân tuy không có những trận đánh tiêu hao nhân lực nhưng lại mang đến những hậu quả lâu dài cho khu vực vì địch quân mất đi chốn ẩn náu cố hữu. Từ đó giải thích được tình hình an ninh của các tiểu khu, thành thị liên hệ trong thời gian kế tiếp trở nên khả quan và an ninh hơn hẳn.
Cuộc hành quân chấm dứt sau gần hai tuần lục soát và phá hủy căn cứ địch. Các đơn vị tham gia hành quân bị tổn thất không đáng kể về nhân mạng. Các đơn vị được không vận từ vùng hành quân trở về căn cứ Sông Mao an toàn. Nhưng có lẽ cũng phải kể một hậu quả kỳ cục khi về đến hậu cứ, binh sĩ tham gia hành quân bị sốt rét cấp tính ác liệt. Cơn sốt đến rất nhanh, nhiệt độ tăng cao chuyển từ rét sang nóng rồi nóng cao độ, đặc biệt đối với những ai lười uống thuốc ngừa sốt rét thì chì vài tiếng đồng hồ là bịnh nhân tử vong. Chính căn bịnh ngặt nghèo này lại gây cho đơn vị hành quân nhiều tổn thất nhân mạng!
Ba
Đầu năm 71 tôi bàn giao lại đơn vị cho đại úy Phạm văn Cẩm, khóa 18 Đà lạt, để giữ chức vụ trung đoàn phó trung đoàn 44. Đây là khoảng thời gian được coi là "nhàn hạ" nhất trong đời binh nghiệp của tôi. Tôi làm việc giống như một công chức. Ngày nào không bay đổ quân, tôi vào văn phòng ngồi xem xét hồ sơ hoặc xuống trung tâm hành quân trung đoàn theo dõi tình hình địch bạn trong ngày.
Sau mỗi đợt hành quân các đơn vị trở về nghỉ ngơi, tụ họp nhau trong doanh trại, uống với nhau vài chai bia; nhậu với khô mực hoặc cua ghẹ, cá khô là những món hải sản sẵn có của Phan Thiết. Những thú vui chơi khác muốn có cũng chẳng thể tìm ra tại nơi đây. Mở mắt buổi sáng, luôn nhìn thấy mình bị núi non bao bọc. Những dẫy núi đá vách dựng thưa thớt cây luôn tạo nên cảm nhận trơ trọi và cằn cỗi. Băng qua phía nam của quốc lộ 1 là một giải đất pha cát hẹp rồi đi xuống tới biển. Chạy theo ven biển là xóm nhà gỗ của dân chài lẩn khuất trong những hàng dừa xanh. Nhiều khi chở vợ con chạy xuống Phan Rí cửa, ngồi trên bờ cát, nhìn ra xa biển khơi xanh biếc, tôi vẫn tự nói với mình "Giá mà đừng có chiến tranh…" Chiến tranh làm cho mọi thứ tự giá trị bị đảo lộn. Tàn ác lươn lẹo lên ngôi và được xưng tụng. Con người nhìn nhau qua khe nhắm tới thẳng đỉnh đầu ruồi của súng ống. Cuộc đời con người vốn đã ngắn, chiến tranh lại làm cho nó càng thêm ngắn.
Tình hình Sông Mao mỗi ngày một khá hơn lên, trong lúc tình hình cao nguyên ngày thêm tệ. Những trận đánh đẫm máu trên các căn cứ hành quân của các đơn vị bạn, sư đoàn 22 BB và các Lữ đoàn nhảy dù là lý do chúng tôi lần lượt dời Sông Mao trở lên cao nguyên vào giữa năm ấy. Bắt đầu là từng chiến đoàn gồm hai tiểu đoàn. Rôì kế tiếp là cả trung đoàn 44 di chuyển lên cao nguyên đang mịt mù khói lửa đạn bom. Từ giai đoạn đầu hành quân chung với Thiết đoàn 3 Kỵ binh tại An Khê do trung tá Trần Lý Hưng là thiết đoàn trưởng. Ở nơi đó tôi lại được làm quen với bao bạn mới, thiếu tá Nguyễn văn Đêm thiết đoàn phó, các chi đoàn trưởng, Lương, Huỳnh văn Mỹ…
Đầu tháng 3/1972, cả trung đoàn di chuyển đi Kontum tham dự cuộc phòng thủ để tạo nên một Kontum kiêu hùng ngày nào. Trong cuộc chiến đẫm máu ấy, tôi đã chia tay với các chiến hữu xuất sắc nhất của mình. Các tiểu đòan trưởng Đặng trung Đức, Võ anh Tài, Trần công Lâm, và bao nhiêu sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ ưu tú khác. Máu cuả đồng đội của tôi đã tô thắm mảnh đất quê hương điêu linh khốn khổ này để cho chúng tôi, những người lính sống sót trong cuộc chiến còn có dịp viết và nói về họ. Thời gian sẽ trôi qua rất nhanh nhưng hình ảnh các đồng đội của tôi sẽ còn mãi mãi trong tâm tư những người còn lại hôm nay và sẽ được biết tới và tri ân bởi các thế hệ con cháu kế tiếp.
Tháng 9/1972, sau nửa năm bầm dập đạn bom, tôi bàn giao lại chức vụ quyền trung đoàn trưởng trung đoàn 44 cho đại tá Võ Hữu Hạnh để trở về quân y viện trị thương. Đây là lần bị thương thứ ba trong đời lính của tôi.
Tháng 6/1974, khi trở ra lại trung đoàn cũ, nhận bàn giao trung đoàn từ trung tá Nguyễn Hữu Lữ, nhìn lại chiến trường, khói súng vẫn còn vây phủ mịt mù nhưng những người lính và các cán bộ chỉ huy nay gần như hoàn toàn mới. Tôi nhìn ra ai cũng lạ, chỉ còn mùi súng đạn và mìn bom là quen thuộc. Nguyên một dàn cán bộ chỉ huy từ trung đoàn phó xuống tới các đại đội trưởng và tiểu đoàn trưởng toàn là người từ các đơn vị khác chuyển về trừ vài ngưòi quen cũ, hai trong số đó là thiếu tá Phạm văn Cẩm, khóa 18 đàn em, là trung đoàn phó và đại úy Nguyễn văn Pho. Cẩm nguyên là tiểu đoàn phó và Pho là đại đội trưởng khi tôi còn là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/44. Hiện tại Pho là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn này.
Hậu cứ Sông Mao, nơi thị trấn buồn hiu hắt đó, giờ đây chỉ còn là những kỷ niệm nghĩ đến lại buồn. Không khí đìu hiu của thị trấn ngày nào khi tôi trên vai mang chiếc "sac" quân trang ra trình diện giờ đây đã biến đổi hẳn. Nơi đó tôi đã có dịp làm quen với biết bao chiến hữu thân thương của mình. Chỉ cần năm năm sau ngày đầu tiên đặt chân bước tới, cả đơn vị vẫn còn đó nhưng hầu như toàn bộ con người đã hoàn toàn đổi khác. Chiến tranh luôn làm mới các đơn vị tham chiến trên chiến trường. Chỉ có điều khác nhau về nhịp độ nhanh hay chậm. Thực tình tôi không thể ngờ được mức độ thay đổi lại xẩy ra nhanh chóng đến thế kể từ ngày đầu tiên tôi về đơn vị này.
Tháng 4/1982, trên chuyến tầu xuôi Nam sau cùng chở đoàn tù "cải tạo" từ miền Bắc về Nam, tôi đã cố gắng không ngủ để cố nhìn lại Sông Mao sau 10 năm xa cách. Khi đoàn tầu chạy ngang qua thị trấn, những dấu vết binh lửa một thời hầu như còn nguyên vẹn không đổi thay theo thời gian. Vẫn những dẫy doanh trại quân đội lợp tôn nay đã loang lổ xét rỉ hoặc trốc mái xiêu vẹo. Vẫn những vòng kẽm gai bị cỏ dại mọc phủ trùm. Một vài bóng người quần áo rách rưới đội nón mê mang quang gánh trên vai đi lại. Một hình ảnh thật buồn. Đoàn tàu chạy chầm chậm khi băng qua thị trấn. Hình ảnh một Sông Mao ngày nào mang dấu ấn của bao nhiêu kỷ niệm cứ ám ảnh tôi mãi trên suốt lộ trình còn lại trước khi đoàn tầu dừng hẳn gần trại Z30A đễ tôi tiếp tục cuộc sống ở đó thêm 6 năm nữa.
(Tháng Tư 2011)
Song Vũ