BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73512)
(Xem: 62250)
(Xem: 39444)
(Xem: 31185)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Một Kinh-nghiệm Lịch-sử Của Việt-nam : Từ Thực-dân Đến Cộng-sản

26 Tháng Mười Hai 201112:00 SA(Xem: 1586)
Một Kinh-nghiệm Lịch-sử Của Việt-nam : Từ Thực-dân Đến Cộng-sản
52Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
52
Một Kinh-nghiệm Lịch-sử Của Việt-nam
Hoàng-văn-Chí
From Colonialism To Communism
Bản dịch của Mạc-Định

CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

“Muốn chữa một tình trạng bất công thì vượt qua giới-hạn của công-bằng”.

Mao-Trạch-Đông. (Bá-cáo về vụ Nông-dân bạo động tại Hồ-Nam)

ĐẠI CƯƠNG VỀ CẢI-CÁCH RUỘNG-ĐẤT

Cộng-sản thực-hiện Cải-cách Ruộng-đất bằng hai chiến-dịch liên tiếp: chiến-dịch Giảm-tô vào những năm 1953 và 1954, và chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất đích thực vào những năm 1954 và 1956. Năm 1955, Cộng-sản tạm thời đình-chỉ Cải-cách Ruộng đất vì năm ấy có cuộc di-cư ào ạt của gần một triệu người từ Bắc vào Nam, trong thời gian 300 ngày do Hiệp-định Genève ấn-định để, theo nguyên-tắc, mọi người được tự do di-chuyển giữa hai miền. Nhà cầm quyền Bắc tạm ngừng đấu-tố vì họ sợ số người di-cư sẽ tăng thêm; nhưng sau khi chiếm đóng Hải-Phòng, hải-cảng cuối cùng mà người Bắc có thể thoát vào Nam được, họ tiếp tục đấu-tố trở lại. Có điều khác là lần này, khi thực hiện Cải-cách Ruộng-đất tại vùng đồng bằng sông Nhị Hà, họ muốn chóng xong nên dồn cả hai chiến-dịch Giảm Tô và Cải-cách Ruộng-đất đích thực làm một, thực-hiện toàn bộ chương-trình bằng một loạt đấu-tố duy nhất, tất nhiên là khủng-khiếp bằng hai những kỳ trước.

Cả hai chiến-dịch Giảm-tô và Cải-cách Ruộng-đất đích thực đều nhầm một mục-đích: tức là tiêu-diệt toàn bộ giai-cấp địa-chủ để tiến tới việc thành-lập chế-độ vô-sản chuyên-chính ở nông-thôn. Cả hai chiến-dịch đều áp-dụng một chiến-thuật duy-nhất, và chiến-dịch thứ nhất và thứ nhì chỉ khác nhau ở mức tàn bạo và ở các loại tài-sản tịch-thu của các địa-chủ. Nói một cách rõ hơn thi chiến dịch thứ nhất cốt tiêu-diệt sơ bộ những phần-tử “có máu mặt” ở nông-thôn mà cộng-sản gọi là những “phản động chính”, và tịch-thu tiền bạc, nữ-trang hoặc châu báu, tức là những “của nổi” mà họ dấu diếm hoặc giao cho quyến thuộc cất giữ. Chiến-dịch thứ hai nhầm vào những người “có đủ bát ăn”, mệnh-danh là “phản-động phụ”. Nhóm thứ hai này tương đối nghèo hơn nhóm thứ nhất, và nói chung chỉ có ruộng-nương nhà cửa, không có vàng bạc châu báu. Họ cũng là phần đông trong cái giới mà cộng-sản quy-định là “địa-chủ”. Chiến-dịch thứ hai, tức là Cải-cách Ruộng-đất đích-thực cũng là dịp để cộng-sản dựa theo “pháp-luật” tịch-thu toàn bộ ruộng-đất, nhà cửa, đồ-đạc của tất cả giai-cấp “địa-chủ”. Họ chỉ được phép ra khỏi nhà, cùng với vợ con với hai bàn tay trắng. Trong các chương sau, chúng tôi sẽ trình bày cách thức “đấu tố” và tịch thu tài-sản trong mỗi chiến-dịch.

Nơi đây, chúng tôi hãy giải-thích tại sao cộng-sản lại thấy cần-thiết phải tiêu-diệt giai-cấp địa-chủ bằng hai chiến-dịch liên-tiếp. Muốn có một ý-niệm rõ ràng hơn, chúng ta hãy lấy một tỉ-dụ sau đây :

Giả sử trong một làng nào đó có 25 gia-đình tạm gọi là A, B, C, D, vân vân… , theo thứ tự bản mẫu tự và theo giầu, nghèo. A giầu nhất và Z nghèo nhất. Lúc khởi đầu chiến-dịch Giảm-tô, Đảng dạy cho nông dân cách phân-định nhân-dân trong làng thành nhiều thành phần khác nhau, chiếu theo Bản Điều lệ Phân-định Thành phần Giai-cấp ở Nông-thôn1 mà họ phải học-tập kỹ lưỡng trong 10 hôm. Sau đó, họ phân-định dân làng đại khái theo thứ tự sau đây :

A, B, C: địa-chủ

D, E, F: phú nông

C H, I, J: trung nông cứng

K, L, M, N: trung nông vừa

O P, Q, R: trung nông yếu

S T, U, V: bần nông

X Y, Z: cố nông

Có hai Nghị-định ấn-định hai bản Điều-lệ Phân-định Thành-phần Giai-cấp ở Nông-thôn khác nhau. Một nghị-định số 239/B TTG, ký ngày 5-3-1953 và một nghị-định số 472 TTG ký ngày 1-3-55. Sở dĩ có sự thay đổi lại trong bản Điều-lệ trước, cộng-sản quyết-định tịch-thu toàn bộ ruộng-đất thuộc về tôn-giáo. Sau khi công-giáo ào ạt di-cư vào Nam cộng-sản thấy cần phải nới tay với nhà thờ công-giáo nên ban-bố một bản Điều-lệ khác, để lại cho mỗi nhà thờ một số ruộng-đất vừa cho những “người làm nghề tôn-giáo” tự canh-tác lấy.

Đồng thời cộng-sản cũng đề ra khẩu-hiệu: “Dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn-kết chặt chẽ với trung nông liên-hiệp với phú nông để tiêu-diệt địa-chủ”. Cộng-sản kêu gọi những người từ G đến Z thành lập một khối liên-minh hùng hậu để tiêu-điệt mấy kẻ bất-hạnh: A, B, C, bị quy là “địa-chủ”. Những phú nông D, E, F, kế sát với địa-chủ A, B, C, không được phép tham gia đấu-tranh, nhưng được hứa hẹn “yên thân” nếu chịu khó “ngoan ngoãn”, và đấy là tất cả ý-nghĩa của khẩu-hiệu “Liên-hiệp phú nông”

1. Những người được quy là “phú nông” hết đỗi mừng rỡ vì lẽ ranh giới giữa “địa-chủ” và “phú nông” quả là huyền-huyền ảo ảo, không một người nào có thể biết trước mình sẽ là địa-chủ hay phú nông. Trung nông được vinh dự đứng cùng hàng ngũ với bần cố nông (cũng gọi là thành phần bản bộ) cũng mừng rơn vì cảm thấy sẽ được an-toàn dưới chế-độ mới, mặc dầu không phải là “canh ta”. Để củng cố lập-trường, họ hăng hái đấu tranh chống mấy tên A, B, C. Họ muốn chứng minh với Đảng họ đứng hẳn về phe Đảng, phe bần cố nông.

Theo thường lệ, A sẽ bị bắn trước công chúng, B và sẽ bị án khổ sai, nặng nhẹ tùy trường hợp. Nhưng câu chuyện đến đấy chưa phải là hết. Khoảng một năm sau, Đảng lại phái một đội “cải-cách” thứ hai tới làng để phát động một cuộc khủng-bố thứ hai: đó là chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất đích-thực. Một đoàn cán-bộ mới tới làng, quan sát qua loa, rồi tuyên-bố rằng việc phân-định thành phần năm trước cả làng đã làm sai. Họ nói: “Các đồng-chí nông-dân không nắm vững các tiêu-chuẩn phân-định thành phần nên năm ngoái đã để quá nhiều địa-chủ lọt lưới”. Họ bắt nông-dân họp-tập lại bản Điều-lệ Phân-định Thành phần Giai-cấp ở Nông-thôn và thúc đẩy nông-dân phát-hiện thêm địa-chủ. Họ nói rằng theo sự tính toán rất khoa học của các đồng-chí cố-vấn Trung-quốc, đã điều tra rất cẩn-thận ở các làng (thực ra chỉ có một đoàn cố-vấn Tầu đi lướt qua các làng) thì lẽ ra số địa-chủ phải nhiều hơn gấp bội. Họ bắt nông-dân quy định thành-phần lại, và lần này tất cả những người D, E, F (trước đây là phú nông) và G, H, I, J (trước đây chỉ là trung nông cứng) đều trở thành địa-chủ, trong khi K, L, M, N (trung nông vừa) trở thành phú nông v.v… Như vậy tổng số địa-chủ mới “tìm ra” đông gấp 5 lần số địa-chủ phát hiện trong chiến-dịch Giảm-tô, năm trước. Theo lệnh của Trung-ương Đảng, con số tối-thiểu những án tử-hình cũng tăng từ 1lên 5 tại mỗi xã. Con số những người tự tử hoặc chết đói vì chính-sách “cô-lập địa-chủ” (sẽ giải-thích sau) cũng tăng theo. Tổng số nạn nhân của phong-trào Cải-cách Ruộng-đất tại Bắc Việt chưa hề được công bố, nhưng nếu tin lời ông Gérard Tongas, một giáo-sư Pháp ở lại Hà-Nội cho tới năm 1959 thì “kết quả của cuộc tàn sát kinh khủng này là một trăm ngàn người”.

2. Cho tới nay chưa một ai có thể ước lượng được số người chết trong hai chiến-dịch long trời lở đất này (đấy là đanh-từ chính-thức của Cộng-sản khi đề-cập đến Cải-cách Ruộng-đất), nhưng-theo lời những người vượt tuyến vào Saigon năm 1957 thì khắp các vùng nông-thôn Bắc Việt nhân dân mang toàn khăn trắng. Điều này rất dễ hiểu vì ngoài những người bị Tòa án Nhân-dân Đặc biệt lên án xử tử và hành-quyết công-khai còn vô số những người chết trong các trại giam và những người tự tử ngay sau khi bị quy là địa-chủ. Số người tự tử và chết trong các trại giam đã nhiềư, nhưng chưa thấm vào đâu với số bố mẹ, con cái địa-chủ chết đói vì chính sách bao vây kinh-tế. Đấy chẳng qua chỉ là kết quả thực-tế của phương châm: “Thà giết mười người vô tội còn hơn để thoát một kẻ thù”. Đấy là chính sách của Đảng Lao-động, áp dụng trong Cải-cảch Ruộng đất, mà luật-sư Nguyễn-mạnh-Tường đã lớn tiếng tố cáo trong bài diễn văn của ông, đọc trước Đại Hội Toàn Quốc của Mặt Trận Tổ Quốc, họp tại Hà-Nội hồi tháng 10 năm 1956.

Mỗi chiến-dịch. Giảm Tô và Cải-cách Ruộng-đất đích thực đều được thực-hiện bằng năm “đợt” liên-tiếp, theo một kỹ-thuật gọi là “Vết dầu loang”. Thể-thức như sau: Đợt thứ nhất khởi đầu tại một vài xã ở mỗi tỉnh. Nhưng xã này là những nơi quả có những địa chủ cường-hào trước đây vẫn bóc-lột nông-dân một cách quá quắt. Một đoàn cán-bộ đặc-biệt đã được huấn-luyện tại Trung-Cộng trực-tiếp lãnh-đạo chiến-dịch tại các xã này, gọi là thí điểm. Trong khi ấy, rất nhiều cán-bộ từ mọi nơi khác trong tỉnh được phái tới để quan-sát học-tập. Đợt thứ nhất chấm dứt thì những cán-bộ mới huấn-luyện này phát-động một “đợt” thứ hai tới các xã xung quanh, dưới sự hướng dẫn của các cán-bộ chuyên-môn Việt và các cố-vấn Trung Cộng. In hệt một vết dầu loang, phong trào khủng-bố lan dần ra toàn huyện rồi đến toàn tỉnh. Đến hết “đợt năm” thì chiến-dịch được hoàn tất trên toàn lãnh-thổ dưới quyền kiểm-soát của Cộng-sản trừ miền giáp giới với Lào, nơi có các bộ lạc Thái. Vì người Thái có liên-lạc mật thiết với người Lào nên cộng-sản muốn tránh không cho người Lào biết, sợ các “đồng-chí Pathet Lào” hoảng sợ. Cho đến 1958 Cộng-sản không thực-hiện một cải-cách nào qua trọng tại các miền này. Còn ở Quảng-trị, Cộng-sản cũng thực-hiện Cải-cách Ruộng-đất một cách ôn-hòa, lấy ruộng đất thừa của địa-chủ phân phát cho bần cố nông mà không chém giết ai cả. Sở dĩ không chém giết là để tránh sự ngờ vực của những người không cộng ở phía Nam vĩ tuyến. Theo lời Trường-Chinh thì: “Ở những miền đặc biệt, phải có chính-sách đặc-biệt”.

[1. Hồi mới phát động phong trào cộng-sản đưa ra khẩu hiệu "Cô-lập phú-nông" (về phương-diện chính-trị), nhưng vì cán-bộ lầm lộn với "cô lập kinh tế" nên bao-vây nhiều gia-đình phú-nông đến nỗi họ bị chết đói (sẽ nói về chính sách cô-lập kinh tế trong chương sau). Vì vậy nên cộng-sản phải đổi lại khẩu-hiệu thành "Liên hiệp phú-nông". Sự thực vẫn là gạt phú-nông ra ngoài cuộc tranh-đấu, không có gì là "liên-hiệp" cả.

2. Gérard Tongas, cuốn J'ai vécu dans l'Enfer Communiste du Nord Vietnam nhà xuất bản Les Nouvelles Editions Debress Paris 1960. Tr. 222.]

Một điểm nữa đáng nêu lên là chính-phủ làm bộ không dính dáng gì đến việc khủng-bố. Họ làm ra vẻ đấy là việc riêng của nông-dân, hoàn toàn do nông-dân chủ-chương để nâng cao “uy-tín chính-trị” của họ. Vì vậy nên có khẩu-hiệu: “Phóng tay phát-động quần-chúng đấu-tranh để thực-hiện Giảm Tô”, hoặc “Cải-cách Ruộng-đất” Đảng cũng phủ-nhận mọi trách-nhiệm. Đảng nói Đảng chỉ giúp ý-kiến cho nông-dân để họ biết cách đấu-tranh mà thôi. Còn quân-đội thì phái một vài tiểu-đoàn tới đóng các xã kế bên để đề phòng hễ “phản-động” có nổi dậy thì giúp đỡ nông dân một tay.

Và giờ đây, chúng ta hãy xem thể-thức thực-hiện chiến-dịch Giảm Tô tại một trong hàng vạn làng ở Bắc-Việt.

CHIẾN-DỊCH GIẢM-TÔ

Vài tháng sau cuộc “Đấu tranh Chính-trị” chấm dứt một đoàn cán bộ đã được huấn luyện tại Trung-quốc giả dạng làm nông-dân bí mật tới làng. Nhờ tổ đảng địa-phương mách mối họ làm quen với một vài cố nông túng bấn nhất trong làng, và xin cho ngụ cư trong nhà. Họ thực hành một chính sách gọi là “ba cùng”, nghĩa là cùng làm việc với chủ nhà (mà không lấy công), cùng ăn với chủ nhà (nhưng góp phần mình), và cùng ngủ một giường với chủ nhà. Nếu chủ nhà có vợ, như trường hợp thông thường, thì một nữ cán-bộ tới ngủ cùng với bà vợ, và một nam cán-bộ ngủ với ông chồng.

Họ ở như vậy trong ba tháng. Anh nông-dân rất hài lòng vì bỗng dưng có người giúp việc không công. Họ làm đủ mọi công việc, cày bừa hoặc gặt hái, tùy theo vụ. Họ quét nhà, trông trẻ, và trò chuyện luôn mồm. Họ tìm hiểu đời tư của chủ nhà, rất chăm chú nghe và tỏ vẻ thông cảm mỗi khi chủ nhân kể cho nghe một cảnh khổ cực của mình. Chẳng bao lâu người nông-dân chất phác coi họ là đồng tình đồng cảm với mình và có bao nhiêu tâm sự “to nhỏ” với họ cho kỳ hết. Họ chịu khó nghe và giảng cho anh thấy rõ nguyên nhân của mọi nỗi khổ của đời anh. Tỉ dụ trường hợp một anh nông-dân bị vợ bỏ, đi lấy chồng khác, thì cán-bộ giải-thích ngay rằng: “Giá anh không bị tên địa-chủ độc ác ấy bóc lột thì anh đâu đến nỗi túng thiếu. Anh đã sắm được cho chị ấy đủ thứ thì việc gì chị ấy lại nỡ bỏ anh !”. Tóm lại, theo cán-bộ thì mọi nỗi đau khổ mà nông-dân đã phải chịu đều xuất phát từ sự bóc lột tàn bạo của bọn địa-chủ lang sói.

Đấy chính là điều mà họ cố nhồi vào óc mấy anh bần cố nông đã chứa họ trong nhà. Sau đó họ bày vẽ cho nông-dân biết rằng chỉ có một phương pháp duy nhất để cải thiện đời sống của mình là tin theo chính sách của Đảng, đứng vùng lên tiêu diệt cho kỳ hết bọn địa-chủ cường hào ác bá trong làng. Công-tác tích-cực nhồi sọ này tiếp diễn mỗi ngày đến gần 18 giờ, cho tới khi người nông-dân trước kia hiền lành ngoan ngoãn, nay sẵn-sàng đứng dậy chống lại chủ đất của mình. Người nông-dân được giác ngộ gọi là cái “rễ”, và công-tác kể trên được gọi là “bắt rễ”. Tới giai đoạn này, người cán-bộ chấm dứt mọi hành vi xách động của mình trong làng, và từ đó chỉ ở miệt trong căn nhà mà anh đã “ba cùng”. Từ đấy cán-bộ chỉ hành động qua cái “rễ” của anh, mà anh cấp dưỡng tiền nong và dùng làm gián-điệp thường xuyên. Anh cổ động cái “rễ” mà ta tạm gọi là A đi kết nạp B, rồi đến lượt B đi kết nạp C, và cứ thế mãi. Công việc này gọi là “xâu chuỗi”, và B, C, D, v.v…, được gọi là “cốt-cán”. Phương pháp kết nạp này (mỗi rễ và mỗi cốt cán chỉ được phép giới thiệu một người mà thôi) nhằm phòng ngừa trường hợp vô tình két nạp một số lớn “phản động” và nhằm tránh những cạm bẫy mà địa chủ trong làng có thể giăng ra. “Rễ” còn giữ nhiệm vụ bí mật liên lạc với những cán-bộ khác, đang công-tác tại những xóm lân cận, để trao đổi và đối chiếu những tin tức do các cốt-cán cung cấp. Họ điều tra tỉ mỉ mọi chi tiết của đời sống trong làng, tình-trạng sở-hữu ruộng-đất và tài-sản, thái-độ chính trị, hoạt-động quá khứ, và ngay cả những cuộc tình duyên kín đáo nhất của từng người một (Việc điều tra những cuộc tình duyên này nhằm một mục-đích đặc biệt : người đàn bà nào thời còn là con gái, có “dính líu” với một địa-chủ nào, sẽ bị bắt buộc phải “tố” trước công chúng rằng chị đã bị người địa-chủ kia “hãm hiếp”). Sau vài ba tháng hoạt-động như vậy, người cán-bộ thu-thập được đầy đủ chi-tiết cần thiết về cái làng mà anh phụ trách, để đích thân báo-cáo trước một phiên họp bí-mật của Đoàn Cải-cách Ruộng-đất đóng trong tỉnh. Tại đây, sau khi tham khảo ý kiến của Đoàn, anh cán-bộ đề nghị qui định thành-phần cho tất cả dân làng, đặc-biệt là thành phần địa-chủ, và gán cho người nào những “tội” gì ?

Tới lúc đó Đội Cải-cách Ruộng-đất mới ra mắt công khai, Ủy-ban hành chính xã và chi-bộ Đảng ở xã tức thì bị giải tán. “Đội” đứng lên điều khiển mọi công việc trong làng, cắt cử một đội công-an mới gồm toàn nông-dân cốt án, và ra lệnh phong tỏa làng. Thường thường mỗi làng ở Bắc-Việt có một lũy tre xanh bao quanh, và có hai cổng. Họ đóng cổng lại, canh gác xuốt ngày đêm và không cho ai ra vào nếu không có giấy phép của Đội Cải-cách Ruộng-đất. Đội liên lạc với Đoàn bằng một đường giây điện-thoại mới dựng lên. Khách bộ hành hễ thấy hàng cột tre còn đang xanh mang giây điện-thoại là biết ngay trong làng nào đó ở phía đầu giây đang có đấu tố khủng khiếp. Người nào khôn hồn hãy tránh ngay đường giây ấy, nếu không, có thể bị tai bay vạ gió, nguy hiểm đến tính mạng không chừng. Chiến-dịch chính-thức mở đầu như vậy và được thực hiện làm sáu bước liên tiếp, mà bước cuối cùng là “phiên xử án”.

Bước 1: Phân-định Thành-phần

Nông-dân thuộc thành-phần bản-bộ, tức là bần cố nông, phải đi dự một lớp đặc-biệt để học cách phân-định thành phần tất cả dân làng. Những tài-liệu học tập gồm có bản Điều lệ Phân-định Thành-phần ở Nông-thôn, các văn-kiện về thể-thức áp-dụng bản điều-lệ này cùng những tiêu-chuẩn phân loại. Mỗi tỉnh có tiêu-chuẩn khác nhau mà báo-chí cộng-sản không hề nói đến. Thí dụ trong một tỉnh, những tiêu-chuẩn phân-định các loại trung nông như sau :

a) Trung nông cứng: Những trung nông có một con bò, một con heo và một đàn gà.

b) Trung nông vừa: Những trung nông có một con heo và một đàn gà.

c) Trung nông yếu: Những trung nông chỉ có một đàn gà hoặc không có gì hết.

Không những tiêu-chuẩn ở mỗi tỉnh một khác mà còn thay đổi mỗi đợt đấu tố một khác. Sau mười ngày tích-cực học-tập và “bình-nghị dân-chủ”, các học viên biểu-quyết một bản phân-định thành-phần mà thường thường là in hệt tài-liệu cán-bộ đã soạn thảo từ trước. Tất nhiên lúc đầu mỗi người một ý, nhưng sau khi thảo-luận mọi người đều chấp-thuận ý-kiến của cán-bộ. Điều này chẳng cógì lạ vì thực-tế chứng tỏ cán-bộ biết rõ về dân làng hơn hẳn người làng.

Bước 2 : Phân loại địa-chủ

Ngay sau khi Đội Cải-cách Ruộng-đất (thường gọi tắt là Đội Cải-cách, hoặc Đội) ra mắt công-khai, tức là mười ngày trước khi thành-lập danh-sách địa-chủ, những người sẽ bị quy là địa-chủ đã bị bắt ngay và nhà cửa của họ đã có “cốt-cán” canh gác suốt ngày đêm. Nhưng mỗi loại địa-chủ sẽ bị đối đãi một cách khác nhau.

Trên lý-thuyết và theo lời ông Trường-chinh tuyên-bố trong bản bá-cáo của ông thì có ba loại địa-chủ chính: địa-chủ việt-gian phản-động, cường-hào, gian ác, địa-chủ thường và địa-chủ kháng-chiến. Ngoài ra còn một loại nữa gọi là “nhân-sĩ tiến-bộ” dành riêng cho mấy ông cựu quan-lại hiện được cộng-sản trọng dụng, như các ông Hồ-đắc Điềm, Phan-kế-Toại, vân vân… Nhưng trên thực-tế loại thứ hai và thứ ba không hề có. Tất cả mọi địa-chủ, không trừ một ai, đều bị quy vào loại “địa-chủ việt-gian phản-động”. Như đã trình bày ở trên, tất cả các địa-chủ còn ở lại vùng kháng-chiến cho đến năm 1953, dù muốn dù không, đều có tham-gia ít nhiều vào công-cuộc kháng-chiến vi chính-sách của cộng-sản là tuyệt-đối không để một ai có thể ngồi không, không có “công-tác”. Thanh-niên và những người tráng-kiện thì gia-nhập quân-đội hoặc làm cán-bộ chính-quyền, ở xã, huyện, hoặc tỉnh. Những người tuổi tác thì tham-gia những tổ-chức bù-nhìn như “Phụ lão Cứu Quốc”, “Mặt trận LiênViệt” vân vân… Mọi người đã tham-gia kháng-chiến trong bảy năm trời nên tin tưởng rằng mình sẽ được xếp vào loại “địa-chủ kháng-chiến”, hoặc ít nhất cũng là “địa-chủ thường” vì sau khi tự xét, họ thấy họ chẳng hề phạm một tội gì đối với nông-dân. Đành rằng họ có “bóc lột” nông-dân bằng cách cho nông-dân thuê ruộng lấy tô nhưng họ lý-luận rằng đấy chẳng qua là tính-chất của chế-độ cũ, và từ ngày lên cầm chính quyền, cộng-sản cũng vẫn dung túng lối “bóc lột” đó trong bao nhiêu năm rồi. Nhưng đến khi chiến-dịch Cải-cách Ruộng đất lan đến làng họ, mọi người đều giật mình thấy mình bị xếp vào loại “việt-gian phản-động” và bị tố đủ thứ tội. Ngay cả những người tích-cực phục-vụ chính-quyền kháng chiến và đã được ông Hô-chí-minh tuyên-dương công trạng cũng bị tố cáo là đã cố tình “chui vào cơ-quan của Đảng và chính-phủ để phá-hoại Cách-mạng”. Không cần phải bằng cớ, chỉ cần một nông-dân nào đó nói rằng đã trông thấy địa-chủ vẫy tay ra hiệu cho máy bay Pháp là đủ để lên án địa-chủ đó là việt-gian, làm gián-điệp cho Pháp.

Loại địa-chủ này, cũng gọi là địa-chủ đầu xỏ, lại được chia thành ba hạng nặng nhẹ khác nhau: A, B và C. Cán-bộ không tuyên bố cho địa-chủ biết là họ bị xếp vào hạng này nhưng chỉ cần một chút thông minh cũng đoán biết ngay. Nếu đám biểu-tình hô “Đả đảo tên địa-chủ X, việt-gian phản-động cường-hào, gian-ác !” (4 danh-từ kèm theo chữ “địa-chủ”) thì có thể biết chắc X là địa-chủ hạng A. Nếu đám biểu-tình chỉ hô: “Đả đảo tên địa-chủ Y cường-hào gian-ác!” (2 danh-từ) thì chắc chắn Y là địa-chủ hạng B. Còn nếu họ chỉ hô: “Đả đảo tên Z địa chủ ngoan-cố !” (1 đanh-từ) thì Z thuộc hạng C. Mỗi hạng sẽ có một số-phận khác nhau.

Địa-chủ hạng A bị đưa đến một trại giam tạm-thời, thiết-lập tại một làng kế cận, và những người “nguy-hiểm” nhất trong cùng hạng có thể bị nhốt trong một cái cũi gỗ, in hệt cũi nhốt thú dữ.

Địa-chủ hạng B phải đi dự một lối cải-tạo đặc-biệt kéo dài trong ba bốn tuần, suốt ngày đêm không được ngủ. Mục-đích của lớp cải-tạo này là khủng-bố tinh-thần địa chủ để bắt cung khai những chỗ chôn dấu vàng bạc. Họ bị khủng-bố liên miên đến nỗi họ trở thành nửa tỉnh nửa điên và sẳn sàng thú nhận bất cứ điều gì cán-bộ bắt họ phải thú nhận. Họ phải viết thư về cho vợ con chỉ chỗ dấu vàng, bạc, bảo đào lên mang nộp cho nông-hội. Ngoài ra họ còn phải viết tờ kê khai tất cả những người còn nợ họ tiền nông. Họ khai ra người nào thì lập tức Đội Cải-cách bắt người ấy phải “trả” ngay cho Nông-hội. Vì địa-chủ mất tinh-thần, nhiều khi khai vu vơ nên có nhiều thương-gia tự-nhiên bị “vạ vịt”, mất sạch cơ-nghiệp dù không có liên-quan trực-tiếp đến Cải-cách Ruộng-đất.

Địa-chủ hạng C bị giữ trong một nhà nông-dân cùng làng, nhưng đêm đến lại bị công-an cầm kiếm đến điệu đi, chuyển từ nhà này sang nhà khác.

Một điều đáng chú ý là việc quy-định thành-phần lúc nào cũng chỉ có tính-cách tạm-thời, và địa-chủ hạng nào cũng có thể “kích” lên “hạ” xuống tùy theo thái-độ của đương-sự, hoặc “ngoan cố” hoặc ngoan ngoãn phục tòng. Vì cán-bộ có giao hẹn trước, rõ ràng như vậy, nên phần đông các địa-chủ tỏ ra khúm núm và sợ sệt. Nhưng vì Đảng đã ấn-định một số tử hình tối-thiểu cho mỗi xã nên dù tất cả địa-chủ có khúm núm bằng mấy cũng có một số không sao tránh khỏi án xử tử. Nhưng nói chung, khúm núm vẫn có lợi hơn là bướng bỉnh, và người dân Việt, đã từng biết phải khúm núm như thế nào đối với quan lại và thực-dân, nên sớm nhận thấy giờ đây họ còn phải khúm núm hơn nữa đối với “giai-cấp mới”.

Bước 3 : Tống-tiền công-khai

Sau khi chủ gia-đình bị bắt và điệu đi, cán-bộ Đội Cải-cách gọi vợ con địa-chủ đến và bảo cho biết phải lo trả ngay tức-khắc một số tiền gọi là “thoái tô”, hoặc nợ nông-dân. Trước đấy bốn năm năm, chính-quyền cộng-sản có ra một thông cáo buộc địa-chủ phải giảm tô 25 phần trăm. Hồi ấy, mới bắt đầu kháng-chiến, báo chí chưa phát hành rộng rãi nên nhiều người không biết, và sau khi ban hành bản thông-cáo, chính-quyền cũng bỏ bẵng hàng năm không đả động tới. Giờ đây, Nông-hội cho rằng tất cả địa-chủ đều không tuân luật và đòi gia-đình địa-chủ phải “thoái tô”, tức là trả ngay tức khắc số tô đã thu quá mức trong bốn năm năm. Sự thực thì đa số địa chủ đã giảm tô, hoặc tuân theo thông cáo hoặc sợ chế-độ mà phải tự ý giảm, nhưng vì họ quen thói luộm thuộm và tự xét ruộng-đất chẳng có là bao nên không nghĩ tới việc biên-lai, sổ sách. Dù sao đi nữa bây giờ có khiếu nại cũng vô ích và cũng không có quyền khiếu nại nên địa-chủ đều phải nhận “trả”. Số “thoái tô” phải mang nộp cho Nông-hội, một tổ-chức do Đội Cải-cách thành lập để núp sau ra lệnh.

Cán-bộ Cải-cách thường phán như sau: “Anh em nông-dân đã khai rằng mày đã thu một số tô quá mức là X tạ, Y ký và Z gam (con số rành mạch từng gam một). Anh em hẹn cho mày đến ngày… giờ… phút… phải trả cho kỳ đủ, nếu thiếu thì coi chừng!” Nói xong hắn đưa ra một mảnh giấy bắt vợ con địa-chủ phải ký nhận. Việc “đòi nợ” này còn một vài điểm đáng chú ý.

Theo cán-bộ thì “số nợ” được tính theo lời khai của mỗi tá-điền cộng lại, nhưng thực ra thì cán-bộ không hề để ý tới lời khai của ai cả, và cũng không hề làm tính cộng. Việc bắt tá-điền khai báo là chỉ cốt để có cớ “đòi nợ”. Còn số “nợ” là do cán-bộ ước định, căn cứ trên sự ước lượng về khả năng có thể trả được của mỗi địa-chủ : liệu chừng có bao nhiêu tiền mặt, nữ-trang, vân vân… và bao giờ cũng ấn-định một mức tối đa. Mục-đích của “thoái tô” là làm cho địa-chủ và gia-đình chỉ còn hai bàn tay trắng, trừ ruộng-đất, nhà cửa và đồ đạc trong nhà. Những thứ này không thể thoát đi đâu được và sẽ bị tịch thu trong chiến-dịch sau. Việc làm cho toàn thể giai-cấp địa-chủ chỉ còn hai bàn tay trắng, ông Trường Chinh gọi mọi cách “văn hoa” là “làm giảm uy-thế kinh-tế của địa-chủ”. Chủ tâm bần cùng hóa địa-chủ cho tới mức-độ cuối cùng biểu hiện trong việc tăng giảm số “nợ” tùy theo khả năng tột bực của “con nợ”. Nếu địa-chủ hoặc gia-đình địa-chủ trả hết số “nợ” trong thời-gian hạn-định thì thế nào cán-bộ cũng dở giọng nói: “Hôm nọ chúng tao tính lầm. Hôm nay tính lại thấy số nợ của mày thực sự là… (thường đưa ra một con số gấp đôi con số trước). Trái lại, nếu “con nợ” khôn khéo, đúng kỳ-hạn trả một phần rồi gãi đầu gãi tai, van nài xin khất một thời hạn nữa sẽ cố-gắng trả nốt, cứ mỗi kỳ lại trả thêm một chút, vừa trả vừa khất vừa nần nì để chứng tỏ cả thiện-chí lẫn sự bất-lực của mình, thì cán-bộ có thể bớt lần số nợ, mỗi chuyến giảm xuống một ít. Không phải vì cán-bộ thương tình nhưng vì Đảng muốn tỏ cho nhân dân biết quả thực đã có nhiều địa-chủ trả đủ số nợ, việc đòi nợ hợp tình hợp lý và con số nợ cũng đúng với khả năng địa-chủ. Nhưng nếu địa-chủ cứ ì ra, không trả gì hết hoặc chỉ trả một số không đáng kể hoặc vì không xoay đâu ra tiền, hoặc vì liều chết bướng bỉnh thì nhất thiết số “nợ” cũ đứng nguyên, không tăng không giảm. Trong trường-hợp ấy, đòi nợ không còn là vấn-đề nữa, và địa-chủ sẽ bị “kích” lên hạng trên, quy thêm nhiều tội và cuối cùng có thể bị bắn.

Trong khi địa-chủ phải chạy tiền trả nợ . hoặc bằng tiền mặt hoặc bằng vàng bạc. thì nhà cửa của họ bị niêm phong, không được bán chác một thứ gì. Tất cả từ nhà cửa, trâu bò cho đến đồ đạc trong nhà đều được coi là tài sản của nhân-dân. Những thức này sẽ bị tịch-thu sau, nên địa-chủ không được phép bán. Mục-đích của việc đòi “nợ” không phải là đòi cho đủ số tiền mà chính là lấy cho hết những thức địa-chủ có mà có thể giấu được . như tiền mặt, vàng bạc, v.v… Mỗi khi địa-chủ, hoặc vợ địa-chủ chậm trả thì Nông-hội phái một nhóm hội-viên (phần nhiều là bà con trong họ) đến thúc dục phải trả cho mau. Họ sẽ hỏi vặn những câu như: “Đôi vòng mày đeo hôm cưới đâu rồi?” (đám cưới có thể là 20 năm về trước), hoặc: “Mày bảo mày không có tiền, thế phần gia tài của bà ngoại mày để cho con mẹ mày tiêu đi đâu hết ?” (việc thừa hưởng gia tài có thể là 40, 50 năm trước).

Một cách “tống tiền” khác là bắt vợ địa-chủ lôi đi biểu diễn khắp làng, mỗi tay mang một bãi phân bò tươi, cổ đeo một tấm biển lớn đề “Tôi là địa-chủ ngoan cố”. Nếu bà ta có con mọn thì chắc chắn là hai mẹ con phải giữ ở hai nhà để con không được bú và mẹ bị căng sữa, trong một thời gian rất lâu. Nếu con đã lớn thì mỗi đứa cũng phải giữ ở một nơi và đứa nào cũng bị dọa nạt cho tới khi chúng cung khai đúng hoặc không đúng . những nơi cha mẹ chúng chôn dấu của cải. Trẻ con non gan nên thường khai lung tung. Mặc dầu, hễ chúng khai chỗ nào là cốt-cán lập tức đưa cuốc, bắt mẹ chúng phải đào chỗ ấy. Công việc “đào mỏ” này có thể kéo dài hàng tháng nên nền nhà địa-chủ gần như không còn chỗ nào không đào bới. Nhiều nông-dân, sau trận đấu tố, được lĩnh nhà địa-chủ để ở thường không có phương tiện để sửa sang lại nền nhà cho bằng phẳng.

Bước 4 : Tố Khổ

Trong khi địa-chủ bị “tống-tiền” một cách hợp-pháp thì nông-dân được triệu-tập đi học một lớp đặc-biệt về “Tội ác của giai-cấp địa-chủ”. Mục-đích của lớp học là giảng cho nông-dân hiểu địa-chủ đã phỉnh-phờ, cướp đoạt, bóc lột và áp-bức họ như thế nào. Học xong, mỗi người bắt buộc phải “kể khổ”, nghĩa là phải tố chủ ruộng của mình ít nhất là một tội đối với mình. Để ôn lại trí nhớ cho nông-dân, giảng-viên đọc một bản kê khai những “tội điển hình”, nói là đã thu-thập trong những lớp học trước. Kết quả là nhiều nông-dân trước kia vẫn từ-tốn đối với chủ ruộng, đứng lên gán cho chủ cũ một số tội ác nào đó trong số những tội ác mà giảng-viên đã đọc cho họ nghe.

Những người “tố khổ” có thể chia đại khái thành ba loại.

Loại thứ nhất gồm có những người mong có địa-vị trong chế-độ mới, hoặc ham được “quả thực” tức là của lấy của địa-chủ chia cho nông-dân. Họ tố hăng vì Đội Cải-cách có hứa rằng “ai tố nhiều sẽ được hưởng nhiều”“ai tích-cực đấu-tranh sẽ được kết nạp vào các tổ-chức của Đảng”.

Loại thứ hai gồm những người cầu an bảo mạng, họ tố để tỏ vẻ “dứt khoát lập-trường với giai-cấp địa-chủ” và đứng hẳn “về phe Đảng”. Những người “tố hăng” phần nhiều là những phần tử thành-tích bất hảo, trước kia có phạm một tội nào đó mà cán-bộ làm ngơ chưa hỏi đến. Những người tố “quấy quá” phần nhiều là con cái địa-chủ, cha mẹ cho phép tố để giữ lấy thân, tránh cho toàn gia khỏi bị tiêu-diệt. Đoạn văn sau đây, trích ở tờ Thời Mới, số 8 tháng 5, 1957, nói lên sự thông-đồng giữa bố mẹ và con cái về việc con cái “tố khổ” chính bố mẹ mình.

CỨ TỐ HĂNG và… Sau khi “Đội” (Cải-cách) rút, người con dâu đi kể lể với bà con hàng xóm rằng:

- Tôi nào có phải là hạng xấp mặt lên tố bố mẹ chồng. Khi “Đội” người ta phát-hiện (quy là địa-chủ) rồi, thì hai mẹ con thì thầm suốt đêm. Tôi định ra kêu với “Đội”, nhưng bà cháu cứ gàn đi: “Tao già bảy, tám mươi rồi, có lên địa-chủ thì cũng gần kề miệng lỗ. Mày mà kêu thì chả tránh khỏi tiếng liên quan, rồi thì cả hai mẹ con tay trắng. Mày cứ tố hăng vào để giữ lấy số ruộng mà cày...”

Loại thứ ba là những người tố chỉ vì sợ hãi. Tuy địa-chủ là mục-tiêu chính nhưng nhiều người dù không có ruộng-đất cũng có thể bị quy là địa-chủ, hoặc có liên-quan với địa-chủ, nếu cán-bộ xét thấy họ có “tư-tưởng địa-chủ”. Liên-quan là một danh từ rất mơ hồ, có nghĩa là quyến thuộc, bạn bè, hoặc chỉ là chỗ quen biết, lui tới. Đoạn văn sau đây trích ở tờ Nhân Dân, ngày 2 tháng 6 năm 1956, nói rõ dân-chúng sợ bị quy là liên-quan tới mức nào:

VỢ CHỒNG TÔI TỪ NAY THẬT HẾT LO

… Mọi người đang đứng quanh xem giỏ tép của anh Tý vừa đơm đó ở đồng về, nghe nói đến chuyện liên-quan đều quay lại. Bà Bền tiếp luôn: Bà con hàng xóm láng giềng ai còn lạ gì nhà tôi, mấy đời khổ cực, phiêu bạt ra giữa cánh đồng, vợ chồng già ngày đêm đơm đó kiếm ăn. Mong đợi mãi, Đội Cải-cách Ruộng-đất về làng, vợ chồng tôi được kết nạp vào Nông-hội. Thế rồi hôm họp xóm, ông Bền nhà tôi được cử làm đại-biểu đi dự đại-hội nông-dân xã. Chả biết đầu đuôi thế nào đang dự đại-hội, ông cụ nhà tôi bỏ về, trông như người mất hồn, mấy ngày đêm liền không ăn không ngủ. Tôi gặng mãi ông cụ chỉ nói: “Thế là khổ tao, bà mày tính thế nào chớ không thì nguy lắm”. Rồi có đến hàng tháng ông ấy không dám đi họp hành gì cả, cứ nằm lần thần bấm đốt ngón tay; nào là ” nhà ta một thằng rể, có họ hàng với địa-chủ nữa. Thế là liên-quan nhất định liên-quan rồi”.

Một người hỏi: “Thế bà có sợ liên-quan không ?”

Bà Bền cười: “Anh bảo ai không sợ mới thật là tài…”

… Đứng dậy ra đi, bà còn nói thêm một câu: “Vợ chồng nhà tôi từ nay mới thật hết sợ liên-quan.”
Một người mỉm cười nhìn theo bà nói: “Chả phải mình bà sợ, xóm tôi khối người lo sợ như thế !..”


Có ba loại liên-quan, mỗi loại được đối xử một cách khác nhau :

1.- Loại có “liên quan nặng” với địa-chủ, gồm những người “có tư-tưởng địa-chủ”, có thái-độ bênh-vực địa-chủ. Những người này sẽ bị đối xử in hệt địa-chủ, nghĩa là bị “cô lập”, bị đặt ra ngoài vòng pháp-luật, bị bao vây kinh-tế tức là bị quản thúc với vợ con ở ngay trong nhà của họ cho tới khi đói mà chết.

2. – Loại có “liên-quan vừa” gồm những người trước kia có nhiều “ân tình” với địa-chủ. Loại này sẽ bị cùng với gia-đình đưa đến một làng nào đó, đổi nhà, đổi cửa với một người nào khác cũng có “liên-quan vừa” với địa-chủ ở làng ấy và cũng bị đuổi khỏi làng.

3.- Loại có “liên-quan sơ” gồm những người bị nghi là chưa dứt khoát lập-trường đối với địa-chủ, không chịu đấu tố hăng. Loại này chỉ bị trục xuất ra khỏi Nông-hội. Sau khi giai-cấp địa-chủ bị tiêu-diệt thì chỉ có Nông-hội là nơi mà nông-dân có thể thuê trâu bò hoặc vay giống mạ khi thiếu. Trong một làng mà mọi người đều nghèo như nhau thì vận mạng của mọi người hoàn toàn nằm trong tay Nông-hội. Mặc dù những hình-phạt ghê gớm kể trên, nhiều nông dân vẫn gan dạ, nhất định không chịu “tố” những người cùng làng bị quy là địa-chủ. Họ bất chấp mọi sự cưỡng ép hoặc phỉnh phờ vì, dù ít học, họ cũng tiêm nhiễm ít nhiều luân thường đạo-lý, và ở Việt-nam cũng như ở khắp mọi nơi, tố cáo người khác vẫn bị coi là một việc đáng khinh. Hơn nữa các Phật tử đều tin ở thuyết “nhân quả” và sợ “quả báo” nếu vu oan giá họa cho kẻ khác. Trong phong trào Trăm Hoa Đua Nở, Phùng-Quán đã làm một bài thơ đả-kích chính sách bắt buộc nhân dân phải “nói điêu”. Bài thơ nhan-đề “Lời Mẹ Dặn” có mấy câu như sau:

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét.

Dù ai ngon ngọt nuông chìu

Cũng không nói yêu thành ghét.

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu.

(Báo Văn số 21, ngày 27-9-1957)

Vì bài thơ kể trên Phùng-Quán bị đưa lên mạn ngược “học-tập lao-động” cùng với nhiều văn-nghệ-sĩ khác trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Từ ngày ấy không ai biết số phận ông ra sao.

Bước 5 : Đấu Địa-Chủ

Sau khi lập xong danh sách tội ác của mỗi địa-chủ, những người được chỉ-định ra “đấu-trường” tố khổ công khai bắt đầu tập dượt vai trò của mình để có thể biểu diễn một cách trôi chảy, trước công chúng và trước người bị “đấu”. Đấu địa-chủ là “trò” then chốt của cả chiến-dịch, nên cần phải chuẩn-bị hết sức chu đáo. In hệt các diễn-viên phải tập đi tập lại vai trò của mình trước khi lên sân-khấu, những người đứng ra “đấu” cũng phải luyện-tập lời ăn tiếng nói bộ điệu của mình cho thật hoàn hảo để khán-giả có cảm-tưởng là mình chân thật và những tội mình buộc cho địa-chủ là có thực. Họ tập dượt về đêm, rất kín đáo, nhưng con cái nông dân thường có dịp thấy bố mẹ vừa xay lúa, dã gạo, vừa lắp đi lắp lại một câu để thuộc lòng. Đóng vai trò “đạo diễn” cán-bộ phụ-trách còn bày vẽ giáng-điệu và uốn nắn lời nói cho họ. Trong những buổi diễn thử, có một hình nộm bằng rơm đặt ở giữa nhà thay thế cho địa-chủ, để những người “đấu” tiến đến sát, đọc thử những lời họ sẽ phải đọc. Sau khi chuẩn-bị đầy đủ, Đội công-tác Cải-cách Rưộng-đất công bố ngày “đấu”.

Vì có ba hạng địa-chủ, A, B và C, nên cũng có ba loại đấu.

Địa-chủ hạng A bị đấu trong ba ngày liền, trước một đám đông từ một đến hai chục ngàn người, tức là dân một “liên xã”, một đơn vị hành-chính gồm từ mười đến mười lăm làng.

Địa-chủ hạng B bị đấu trước một đám đông một hai ngàn người, tức là tất cả dân trong một làng, liên tiếp trong hai ngày. Họ cũng bị gán những tội thường gán cho địa-chủ hạng A, nhưng tương-đối nhẹ hơn.

Địa-chủ hạng C chỉ bị “đấu lưng, nghĩa là “đấu vắng mặt”. Trong khi nông-dân tố cáo những tội ác của họ thì họ bị giữ ở một nơi khác, đến khi nào tố xong họ mới bị điệu ra trước cuộc họp để nghe đọc một bản tổng-kê các tội ác mà các tá-điền . chỉ có tá-điền của địa-chủ mới được dự cuộc đấu này . đã “tố” cho họ. Nghe xong, địa-chủ phải tuyêp-bố “nhận” hay “không nhận”. Nếu nhận, địa-chủ phải ký tên vào biên-bản buổi họp. Đảng giải-thích rằng sở dĩ có “đấu lưng” là tại Đảng muốn khoan-hồng đối với những “phản-động phụ”, những phần-tử mà Đảng còn hy-vọng cải hoán được. Vì còn hy-vọng họ sẽ cải hoán nên Đảng không muốn “cạn tầu ráo máng” đối với họï, làm họ mất mặt trước công chúng.

Thực ra thì chẳng phải vì vậy, mà vì một lý-do khác hẳn. Phần lớn những người bị quy là địa-chủ hạng C là những người buôn bán ở thành-thị nhưng có ít nhiều ruộng ở “quê cha đất tổ”, không cốt để thu lợi mà cốt để “đóng góp với làng nước”, khỏi mang tiếng là “bỏ làng”. Vì họ thường sống ở tỉnh thành, thỉnh thoảng mới về làng cúng giỗ và nhân thể thu tô, nên người làng không biết nhiều về đời tư của họ. Vì không có đụng chạm trực-tiếp nên việc “bịa” ra tội là một việc rất khó. Muốn cho “xuôi tai”, người “tố” phải nói rõ bị chủ ruộng đánh đập hoặc hiếp đáp trong dịp nào, ở đâu. Đảng biết rằng toàn là chuyện bịa nên sợ đứng trước mặt đương sụ người tố có thể ấp-úng, làm mất uy-tín “anh em nông-dân” và gián-tiếp mất uy-tín Đảng. Vì vậy nên Đảng tổ-chức “đấu lưng”, giấu địa-chủ đi một chỗ, để cho những người “bịa tội” được vững tâm hơn. Chỉ có tá-điền nói cho tá-điền nghe nên dù họ có ấp-úng, ngượng ngùng cũng chẳng sao. Thật vậy đã có một vài cuộc đấu phải bỏ dở vì địa-chủ, khi thấy nông-dân buộc tội một cách lố bịch quá, nhịn không nổi, phải phá lên cười.

Mỗi lần đấu một địa-chủ hạng A thì toàn thể nhân-dân trong xã phải bắt buộc đi dự, kể cả phú nông và các địa-chủ khác, mỗi nhà chỉ được một người lớn ở nhà để trông nom củi lửa và trẻ nhỏ. Người đi dự xếp hàng thành từng nhóm riêng. Trung nông và bần cố nông đứng theo “tổ nông hội”. Phú nông đứng riêng và đi riêng, nhưng địa chủ và con cái địa-chủ thì đứng lẫn với bần cố nông, mỗi người do một “tổ nông hội” canh chừng. Cứ năm người họ thành một nhóm, mang theo một bình nước uống và một điếu cầy vì một khi ngồi vào chỗ trong hội-trường thì không ai được phép đứng dậy, đi lại. Mỗi làng vác theo biểu ngữ và cờ quạt trẻ con đi đầu đánh trống ếch. Địa-chủ bị bắt đi giữa bần cố nông cũng phải vừa đi vừa hô khẩu hiệu như mọi người, thỉnh thoảng cũng dơ nắm tay hô “Đả đảo !”.

Mọi cuộc đấu đều tổ-chức ngoài trời, thường là sân banh, hay tốt hơn trên sườn đồi. Dân mỗi làng ngồi trong một khoảng đất có vạch vôi trắng làm giới hạn.

Khán đài bằng gỗ và tre, cao ba từng. Từng dưới có 14 “thư ký” ngồi, 13 người là bần cố nông chỉ ngồi làm vì, một người là trung nông, biết đọc biết viết, ngồi hí hoáy, có vẻ làm thư ký thực. Từng trên là chủ tọa đoàn gồm bảy bần cố nông, trong số có chủ-tịch nông-hội làm chủ-tọa cuộc họp và một phụ-nữ đóng vai công-an trưởng. (Tác-giả nhận thấy vai trò công-an trưởng bao giờ cũng do phụ-nữ đóng, trong năm cuộc đấu tác-giả có dịp tham dự. Tác-giả có cảm-tưởng Đảng dành vai trò này, có tính cách hống hách, cho phụ-nữ để đề cao uy quyền chính-trị của phụ-nữ trước công chúng). Người đàn-bà này chỉ huy tự-vệ xã, và cứ năm phút một lại hò hét, ra lệnh cho người bị đấu đứng trước khán đài phải quỳ xuống, đứng lên, dơ tay lên trời, khoanh tay trước ngực, giang tay ra hai bên, v.v… Trên tầng cao nhất của khán-đài treo ba bức ảnh khổng lồ, Hồ-chí-Minh ở giữa, Malenkov bên phải và Mao-Trạch-Đông bên trái, trên mỗi chân dung lãnh-tụ có cờ mỗi nước. Hai bên khán-đài là những biểu-ngữ rất lớn mang những khẩu-hiệu như “Phóng tay phát-động quần-chúng đấu-tranh giảm tô (hoặc đấu-tranh Cải-cách Ruộng-đất)”, và “Đả đảo tên địa-chủ… việt-gian, phản-động, cường-hào, gian-ác”.

Trong thời-kỳ kháng-chiến chống Pháp mọi cuộc họp đều phải tổ-chức về đêm để tránh máy bay oanh-tạc. Những cuộc đấu tố giữa trời đều đốt sáng bằng đuốc, lửa khói cao ngất từng mây, tạo nên một quang cảnh quái đản, một cảnh tượng trong ác mộng. Người tham dự có cảm-tưởng chứng-kiến một cảnh quỷ-sứ đương hành hạ những vong hồn rơi xuống địa-ngục.

Khán-đài soi sáng bằng đèn điện. Đôi khi có máy phát điện nhỏ nhưng thường là di-na-mô xe đạp. Bốn năm chiếc xe đạp buộc phía sau khán-đài, mỗi chiếc có người đạp luôn chân. Cán-bộ Đội Cải-cách Ruộng-đất nấp phía sau khán-đài để nhắc và ra lệnh cho chủ-tọa đoàn. Đôi khi có cố-vấn Tầu mặc quần áo Việt cùng ngồi với họ. Chủ-tịch chủ-tọa đoàn khai-mạc hội-nghị và tuyên-bố lý-do cuộc họp. Sau đó là một bài thuyết trình về ý-nghĩa và sự cần-thiết của cuộc đấu-tranh chống địa-chủ; đại-khái là vai trò chính-yếu của nông-dân trong kháng-chiến, tính cách bội-phản của giai-cấp địa-chủ, v.v… Sau đó người đàn bà giữ chức công-an trưởng ra lệnh cho tự-vệ xã lôi tên địa-chủ việt-gian, phản-động, cường-hào, gian-ác ra để “anh chị em nông-dân hỏi tội”. Tức thì hàng vạn người đồng-thanh hô: “Đả đảo thằng việt-gian, phản-động, cường-hào, gian-ác (tên họ người địa-chủ bị lôi ra)”. Nạn nhân không được đi bằng hai chân, mà phải bò bằng tay và đầu gối từ ngoài hội trường vào đến trước khán-đài. Phía trước khán đài đắp hai ụ đất cách nhau chừng một thước, mỗi ụ cao độ một thước (để khán-giả trông rõ) và rộng chừng một thước vuông.

Địa-chủ bước lên một ụ, và ụ đối diện để cho những người đấu lên đứng. Nếu người bị đấu là một linh mục gia-tô giáo, hoặc một hòa-thượng phật-giáo thì cán bộ bắt phải cởi áo ngoài ra (áo tu-sĩ hoặc áo nhà chùa). Cộng-sản thanh-minh rằng đương-sự bị đấu với tư-cách cá nhân là địa-chủ, không dính dáng gì về tôn-giáo nên không cho mặc áo tôn-giáo, nhưng sự-thực thì cộng-sản cố ý tránh quang cảnh một cuộc khủng-bố tôn-giáo công-khai và quá lộ liễu.

Chủ-tịch chủ-tọa đoàn gọi “anh chị em nông-dân” lên “kể tội”. Tức thì, hàng trăm cánh tay giơ lên, nhưng liếc qua vào tờ giấy trước mặt, y gọi một tên. Người được chọn nhảy lên đài, chỉ tay vào mặt địa-chủ, hỏi:

“Mày có nhớ tao là ai không ?”,

và chẳng đợi câu trả lời, hắn tiếp luôn:

“tao là. . . ở làng. . . đã đi ở (hoặc làm ruộng cho mày trong. . . năm”.

Bao giờ người lên đấu cũng bắt đầu như vậy, hỏi “bâng quơ” một câu “mày có nhớ tao là ai không” rồi tự xưng danh, tóm tắt “tiểu-sử” của mình. Cán-bộ bắt họ làm như vậy để công chúng biết qua loa về quan-hệ giữa người đấu và người bị đấu. Người ngồi xem nhớ lại những buổi diễn tuồng tầu, mỗi khi một vai mới ra bao giờ cũng xưng danh: “Mỗ đây tên tự là… ” Sau đó người đấu tuôn ra một tràng những tội ác, kể lể nào là bị cướp trâu, cướp bò, đánh đập, nhét phân vào mồm, hiếp vợ, giết con, rủ vào hội “việt-gian”, vẫy tay cho máy bay Pháp, v.v… Điều đáng chú ý là người đứng lên đấu thường dùng đủ danh từ tục tĩu; hình như cán-bộ xui họ chửi rủa địa-chủ bằng những câu tục tĩu nhất, một là để “hạ uy-tín” địa-chủ xuống tận đất đen, hai là để làm ra vẻ tự nhiên, dùng những lời ăn tiếng nói “một trăm phần trăm nông dân”. Người bị đấu không được phép trả lời, hoặc phản-ứng. Họ chỉ được phép nói “có” hay “không”. Nhưng hễ họ nói không thì tức khắc toàn thể đám đông gầm lên như sấm: “Đả đảo thằng… ngoan cố”. Trong khi ấy, cứ chừng năm phút một, người bị đấu lại được chị công-an trưởng ra lệnh quỳ xuống, đứng lên, giơ tay lên, giang tay ra, và cứ như thế mãi. Mỗi người được phép tố địa-chủ trong 15 phút, và sau bốn người tố, nghĩa là vào khoảng một giờ đồng-hồ, thì người địa-chủ bị điệu đến trước “thư-ký đoàn” ký nhận vào một biên bản. Trong khi đấu, người thư-ký hý hoáy giả vờ biên chép, nhưng kỳ thực bản tội ác mà địa-chủ phải ký nhận đã đánh máy sẵn từ trước.

Địa-chủ hạng A bị đấu như vậy trong ba đêm liền. Đêm đầu họ bị đấu về các “món nợ mồ hôi”, tức là những tội bóc lột nông-dân, như cướp trâu, cướp bò, cho vay nặng lãi, v.v… Đêm thứ hai dành cho những “món nợ hạnh-phúc” nghĩa là những người lên đấu kể tội địa-chủ đã hiếp vợ mình (nếu là đàn ông) hoặc đã hiếp chính mình (nếu nguời đấu là đàn-bà). Đêm thứ ba dành cho những “món nợ máu”. Địa chủ bị tố nào là giết vợ, giết con nông-dân, ra hiệu cho máy bay Pháp bắn chết dân làng. Đêm thứ ba cũng là đêm tố cáo địa-chủ về các tội có tính cách chính-trị, đại khái như rủ rê người này người nọ vào tổ-chức phản-động, dò thám tin tức quân sự, nói với người này người kia rằng Pháp sẽ cho mình làm tỉnh-trưởng, huyện trưởng, v.v… Nếu người bị đấu cứ khăng khăng chối “không” thì những người lên đấu ngày hôm sau sẽ tố những tội càng ngày càng nặng cho đến, cuối cùng, sẽ phải đưa ra tòa án nhân-dân đặc-biệt, kết án tử-hình và xử bắn. Trái lại, nếu người bị đấu tỏ vẻ ngoan ngoãn, bị tố bất cứ tội gì cũng cứ nhận và ký vào biên bản thì thường thường không bị tố những tội quá nặng. Nhưng dù tất cả địa-chủ có khôn-ngoan đến đâu thì cũng có một số không thể nào thoát chết, vì Đảng đã ấn-định một số tối thiểu phải chịu tử-hình tại mỗi xã. Đúng ra thì Đảng chỉ ấn-định một số tối thiểu nhưng nếu có nhiều người “ngoan-cố” thì số tử-hình có thể tăng thêm.

Thực ra thì Đảng không muốn vượt qua con số tối thiểu, vì phương châm của Đảng là “sát nhất nhân, vạn nhân cụ”. Hơn nữa, nếu nhiều địa-chủ nhất định không chịu nhận tội, thì người đi dự có thể có cảm tưởng là tất cả đều là bịa đặt, đều là nói điêu. Trái lại nếu địa-chủ nào cũng ngoan ngoãn nhận hết “tội ác” thì cảm tưởng sẽ là “anh chị em nông-dân chất phác, bao giờ cũng nói thật”. Vì uy-tín của nông-dân và của Đảng, nên Đảng chỉ cần địa-chủ nhận tội và sẽ nới tay, không xử bắn quá mức ấn-định. Trong đợt đầu, nhiều địa-chủ không hiểu nguyên tắc đó nên cứ khăng khăng chối. Kết quả là đa số bị xử tử. Tuy nhiên cái chết của họ đã là bài học cho những người sau. Dần dần mọi người đều hiểu rằng tất cả chỉ là một tấn bi-hài kịch. Người đấu cũng như người bị đấu chỉ là diễn viên của một tấn tuồng do Đảng bày đặt ra và bắt mỗi người phải đóng một vai, không ai được phép trái ý Đảng.

Địa-chủ ở mọi nơi đều bị tố những tội ác cùng một kiểu. Những tội điển hình là: treo cổ nông dân lên cây, nhốt nông dân vào cũi chó, bắt nông-dân liếm đờm, ăn phân (chỉ khác nhau ở thứ phân: bò, gà, người v.v..), đốt nhà nông-dân, dìm trẻ con xuống ao cho chết (bất cứ trước kia có đứa trẻ nào chết đuối thì bây giờ cũng là chết do địa-chủ dìm), bỏ thuốc độc xuống giếng, phá các cuộc họp của nông-dân, giết người (bất cứ ai chết bệnh cũng tố là do địa-chủ giết), hãm hiếp, v.v… Đoạn văn sau đây trích ở tờ Nhân Dân, cơ quan chính thức của Đảng, xuất bản ngày 2 tháng 2, 1956 kê khai những tội tương tự:

Ở xã Nghĩa-khê, thuộc tỉnh Bắc-Ninh, bọn địa-chủ tổ-chức mấy em thiếu nhi đi ăn cắp tài-liệu, ném đá vào các cuộc họp của nông-dân. Ở Liễu-Sơn, chúng dùng một em thiếu-nhi đi đốt nhà khổ chủ, nhưng bà con nông-dân kịp ngăn được; Thâm độc hơn, ở Liễu-Hà, chúng cho mấy em thiếu-nhi ăn bánh chưng có thuốc độc, làm mấy em bị ngộ độc suýt chết. Ở Vân-Trường chúng dụ dỗ em Sửu, 13 tuổi, rủ hai em gái nữa nhẩy xuống giếng tự tử để gây hoang mang trong thôn xóm. Ở Đức-Phong (Hà-Tỉnh) chúng mua bài tu-lơ-khơ (bài Trung-Cộng mang sang) cho các em mãi chơi, bỏ trâu ăn lúa để phá hoại mùa màng.

Điều đáng chú ý là địa-chủ càng đạo-đức bao nhiêu, như thể linh-mục, hòa-thượng, và nhất là các nhà nho, thì càng bị quy nhiều “tội” hiếp-dâm bấy nhiêu. Nói chung thì hễ địa-chủ có vẻ đạo mạo (râu dài, trán sói, mục kỉnh) thì thế nào cũng bị quy những tội loạn luân. Trong rất nhiều trường hợp chính con gái địa-chủ lên trước khán-đài tố rằng chính bố mình đã hiếp mình. Người trong cuộc mới biết có sự thông đồng giữa bố con; biết là bố thế nào cũng chết, người con gái đành tâm phải tố như vậy để -theo lời cán bộ- được quy là trung nông, và như vậy có hy-vọng sống yên nuôi lũ em dại. Cũng theo kiểu ấy, địa-chủ càng có thành tích yêu nước bao nhiêu thì lại càng bị tố nhiều tội phản quốc bấy nhiêu. Vì tố không cần bằng cớ, nên từ cố kiếp nào, bất cứ trong làng có người nào chết cũng có thể tố là đã bị địa chủ giết. Bác-sĩ Nguyễn-đình-Phát, chủ đồn-điền ở Phủ-Quỳ, Nghệ-An và đại-biểu Quốc Hội Việt Minh, đã bị tố là đã giết 35 người, vì bấy nhiêu người đã chết vì bệnh sốt rét trong đồn-điền của ông ta. Trong một buổi đấu tố cụ Cử Lê-trọng-Nhị, làng Cổ-Định, tỉnh Thanh-hóa, một lãnh tụ phong-trào Văn Thân năm 1907-8 đã từng bị đầy ra Côn đảo trong chín năm, một mụ đàn bà trong làng chỉ vào mặt cụ và tố: “Mày có biết thằng con tao không phải là con bố nó, mà chính là con mày? Trong khi chồng tao đi vắng, mày hiếp-dâm tao rồi tao sinh ra nó”. Cụ Cử Nhị năm ấy 75 tuổi, mụ đàn bà vào khoảng 60 và người con mụ chừng 40. Người làng làm tính nhẫm và nhớ lại, hồi mụ này sinh người con, cụ Cử Nhị còn đang nằm trong xà-lim Côn đảo, cách xa hai nghìn cây số.

Có nhiều địa-chủ tỏ ra rất bình-tĩnh suốt mấy buổi đấu tố. Một bà già ở Nghệ-An chẳng nói “có” mà cũng chẳng nói “không” hỏi câu nào bà ta cũng chỉ nhắc đi nhắc lại: “Xin anh em một viên đạn!” Ở Thanh-Hóa một người lên đấu bắt đầu bằng câu thường lệ: “Mày có nhớ tao là ai không?” Địa-chủ nghiễm nhiên trả lời: “Có chứ ! Mày là thằng… Năm ngoái mày ăn cắp của tao con gà”. Chủ-tọa buổi đấu ra lệnh bế mạc cuộc họp tức khắc. Một tuần sau, tổ-chức đấu lại, địa-chủ tỏ vẻ ngoan ngoãn hơn trước và tên “trộm gà” không thấy lên đấu nữa. Trong ba ngày đấu tố, người bị đấu được ăn uống đầy đủ. Bữa cơm có thể có thịt gà, thịt bò và nhiều thứ béo bổ khác, chè tầu, cà-phê. Địa-chủ được tẩm bổ có lẽ là để có đủ sức chịu đựng ba ngày hoặc ba đêm đấu tố ngoài trời, đứng lên quỳ xuống luôn luôn mà không bị ngất xỉu. Sau ba ngày đấu-tố, địa-chủ bị đưa đi trại giam chờ ngày tòa án nhân-dân đặc-biệt xét xử?

Trong khoảng thời gian đấu-tố, mỗi tỉnh xuất bản một tờ báo địa-phương lấy tên là “Lá Rừng” (ngụ ý tội ác của địa-chủ nhiều như lá rừng) để tường thuật những vụ đấu tố trong toàn tỉnh. Tất cả công chức trong tỉnh đều phải đi “tham quan” nghĩa là về các làng có đấu tố để quan-sát chính-sách Cải-cách Ruộng-đất. Đảng muốn họ đi sát với “anh em nông-dân” để am-tường nỗi khổ của anh em nông-dân và công-nhận chính-sách tiêu-diệt giai cấp địa-chủ của Đảng là “hợp tính hợp lý”. Họ cũng “ba cùng” với nông-dân, nhưng chỉ được quan-sát, không được phát biểu ý kiến. Tuy-nhiên việc có mặt của họ cũng có phần lợi cho địa-chủ. Vì muốn tỏ cho họ thấy chính-sách của Đảng rất đúng, nên cán-bộ cố gắng thận trọng hơn nên do đó, địa-chủ cũng được nới tay hơn. Một phần nào những người tới tham quan cũng là “thần bảo mạng của họ”.

Bước 6 : Xử án địa-chủ

Vài ngày sau cuộc đấu, một tòa án nhân dân đặc-biệt tới xã xử những người bị tố. Mỗi huyện thành lập một tòa án gồm toàn bần cố nông không có mảy may kiến-thức về luật-pháp và án lệ. Tòa gồm có một chánh án, vài thẩm phán và một công-cáo ủy-viên nhưng không hề có người biện hộ cho bị cáo. Tòa xử theo “biên bản cuộc đấu” và không cho bị cáo tự bào chữa. Bồi thẩm đoàn cũng gồm toàn nôngd ân đã làm chủ-tịch đoàn trong cuộc đấu tố. Án có thể từ năm năm khổ sai đến tử hình, kèm theo thu một phần hoặc toàn bộ tài-sản. Tịch-thu tài-sản chỉ là một việc “lấy lệ”, vì dù tòa không tuyên án tịch-thu thì sau này, tới chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất đích thực, toàn-bộ tài sản của mỗi địa-chủ cũng sẽ bị tịch-thu.

Những người bị kêu án tử-hình bị bắn ngay sau khi tuyên án và hố chôn đã đào sẵn, trước khi tòa nhóm họp. Hồi đầu, những người bị xử tử hình được phép tuyên-bố vài lời trước khi bị bắn, nhưng sau khi một người, trước khi chết, hô to: “Hồ-chí-Minh muôn năm! Đảng Lao-động muôn năm !” thì thủ tục “tư-sản” này bị bãi bỏ. Từ đó về sau, hể tòa tuyên án tử-hình thì tức khắc một cán-bộ đứng sau nạn nhân, nhanh tay nhét giẻ vào miệng và lôi đi. Một điều đáng thương cho những người bị hành-quyết là những tự-vệ xã cầm súng bắn phần nhiều mới cầm súng lần đầu, nên bắn trật bậy trật bạ. Nhiều nạn nhân bị lôi đi chôn chưa chết hẳn. Mồ chôn địa chủ bao giờ cũng san phẳng và cấy cỏ lên trên. Những cuộc xử bắn địa-chủ bao giờ cũng tổ chức thành biểu-tình. Công-chúng vỗ tay hoan-hô khi nạn nhân ngã gục dưới lằn đạn. Người tham dự đấu tố không khỏi liên tưởng đến cảnh mèo vồ chuột, mèo vờn đi vờn lại con chuột chán chê rồi mới cắn chết. Cộng-sản đối với địa-chủ cũng in hệt như vậy. Mang địa-chủ ra đấu-tố chán chê trong ba ngày liền, rồi vài hôm sau mới mang địa-chủ ra bắn. Họ làm như vậy hình như nhằm hai mục-đích: thỏa mãn bản năng tàn ác của một số cuồng tín và gieo khiếp đảm vào trong tâm hồn toàn thể nhân-dân.

Cảì-cách Ruộng-đất còn một hình-thức khác cần phải nói tới là chính sách “cô-lập địa-chủ”. Số người chết vì chính-sách này còn đông gấp mười số người bị Tòa án Nhân-dân Đặc-biệt kêu án tử-hình.

Chính-sách “Cô-lập địa-chủ”

Hễ bị quy là địa-chủ thì tức khắc bị toàn thể dân làng coi như con chó ghẻ. Không ai được chào hỏi hoặc trò chuyện, trẻ con được phép, hoặc nói đúng hơn được khuyến khích ném đá, nếu chúng thấy địa-chủ ra đường hoặc đứng trước sân. Trong hơn một năm trời, từ ngày bắt đầu chiến-dịch thứ nhất đến ngày kết thúc chiến-dịch thứ hai, địa-chủ và gia-đình không được phép ra khỏi ngõ, trừ khi bị gọi ra ủy-ban có việc. Vì chính-sách “cô-lập” này, phần lớn gia-đình địa-chủ bị chết đói, trẻ con và người già chết trước, người lớn chết sau. Mục-đích của chính-sách vô cùng kinh khủng này là nhằm tiêu-diệt cho kỳ tuyệt giống “bóc lột” ở nông-thôn. Như đã nói ở phần trên, không hề có thống-kê về số người bị chết đói vì chính-sách “cô-lập địa-chủ” nhưng có thể ước đoán rằng đa số thành-phần giai-cấp “địa-chủ” đã bị chết như vậy. Trong bài diễn văn đọc trước Đại-hội Toàn quốc của Mặt-trận Tổ-quốc, luật-sư Nguyễn-mạnh-Tường đã nói:

“Trong khi đập tan giai-cấp địa-chủ, ta không phân-biệt đối xử, ta để cho chết chóc thê thảm những người hoặc già cả, hoặc thơ ấu mà ta không chủ trương tiêu-diệt”.

Cũng về mục này Nguyễn-hữu-Đang, Bộ-trưởng bộ Văn-hóa trong chính-phủ Việt-minh đầu tiên, đã viết trong báo Nhân-Văn như sau:

“Trong Cải-cách Ruộng-đất, những việc bắt người, giam người, tra hỏi (dùng nhục hình dã man), xử tử, xử bắn, tịch-thu tài-sản hết sức bừa bãi, bậy bạ, cũng như việc bao vây làm cho chết đói những thiếu-nhi vô tội trong các gia-đình địa-chủ, hoặc chính là nông-dân bị quy sai thành-phần”.

Quả thực ông Hồ đã chủ tâm diệt chủng giai-cấp địa-chủ không khác Đức Quốc-xã diệt chủng người Do-Thái. Nhưng nếu so sánh, chúng ta có thể nói Hitler và Eichmann đường hoàng hơn ông Hồ và ông Mao, vì khi họ ra lệnh lùa người Do-Thái vào phòng hơi ngạt, họ ngang nhiên nhận lãnh trách-nhiệm về quyết-định của họ trước công-luận và trước lịch sử. Trái lại, ông Hồ và ông Mao muốn ban cho giai-cấp địa-chủ một cái “chết tự nhiên”, không ai mang tiếng giết họ, bắt họ phải “bất đắc kỳ tử”. Ngay cả sau Cải-cách Ruộng-đất, nếu ốm đau, địa-chủ và thân-thuộc cũng không được chữa chạy thuốc men, trong khi người Do-Thái dưới chế-độ Quốc-xã vẫn có bác-sĩ Do-Thái trông nom. Tình trạng này đã được luật-sư Nguyễn-mạnh-Tường tóm tắt như sau:

“Khi đưa tới bệnh-viện, một bệnh nhân cấp cứu, vấn-đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh-nhân thuộc thành-phần giai-cấp nào? Chữa cho địa-chủ thì “mất lập-trường”. Để nó chết mới chứng minh mình có “lập-trường giai-cấp”.

Những địa-chủ còn sống sót tới phong-trào Sửa Sai. – sau phong-trào hạ bệ Stalin ở Nga – là nhờ được hàng xóm mủi lòng giúp đỡ bằng cách, tối đến, ném cơm và thuốc men qua hàng rào để cứu họ và gia-đình khỏi chết.

CẢI-CÁCH RUỘNG-ĐẤT ĐÍCH THỰC

Mặc dù mức tàn-bạo đã quá sức tưởng tượng, chiến-dịch Giảm Tô chỉ mới là màn khai mào, tương đối ôn hòa đối với chiến-dịch kế-tiếp mệnh danh là Cải-cách Ruộng-đất đích-thực. Như đã nói ở trên, Giảm Tô chỉ nhầm thanh toán một thiểu số địa-chủ, những người giầu nhất, và theo quan-điểm mác-xít, cũng là phản-động nhất. Tiêu-diệt bọn “đầu sỏ” này chỉ là một hành-động “sơ khởi” mở đường cho một cuộc quét sạch, tại nông-thôn, mọi tiềm-lực chống-đối chính-sách mà Đảng sắp ban hành: tập-thể-hóa nông-nghiệp và thiết lập nền vô-sản chuyên chính.

Cả hai chiến-dịch đều thực-hiện theo chính-sách “vết dầu loang”. Ở làng nào cũng vậy, vào khoảng một năm sau chiến-dịch Giảm Tô, thì đến chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất. Sở dĩ có một năm xả hơi là vì cần phải chỉnh-đốn lại làng mạc, cả về kinh-tế lẫn về hành-chính. Trong suốt mấy tháng Giảm-Tô, nông-dân đã mất quá nhiều thì giờ đi họp hành, biểu-tình, đấu-tố nên sao lãng công việc đồng áng. Thực vậy, làng nào mới qua chiến-dịch Giảm Tô cũng tương tự như mới qua một trận bão, ràu dậu đổ nát, nhà cửa siêu vẹo chó, lợn và cả trâu bò đi lang thang không người chăn giắt. Bị thất đởm trong chiến-dịch vừa qua, không mấy ai có bụng dạ làm ăn. Đã bao đời, họ chịu khó đầu tắt mặt tối để mong có ngày “mát mặt” và bóp chắt để có ít nhiều để lại cho con cháu. Nhưng nay, bỗng nhiên họ nhận thấy hễ có của ăn của để hơn người là đắc tội, nên họ như rời rã chân tay không muốn làm lụng làm gì cho vừa tốn sức vừa nguy hại đến bản thân. Để đả phá thái-độ uể oải của nông-dân, Đảng bèn đề ra chính-sách “Thi đua xã-hội chủ-nghĩa”; nhưng cải tạo tư tưởng cho nông-dân không phải là việc dễ dàng, một sớm một chiều mà thực-hiện được. Ít nhất cũng phải một năm Đảng mới làm cho nông-dân hiểu rằng dưới chế-độ mới họ còn phải cặm cụi nhiều hơn trước. Đảng đốc thúc nông dân sửa nhà sửa cửa, đào kênh đắp đường, chống lụt, chống hạn, cứ liên miên như vậy cho đến ngày họ cảm thấy nếp sống tập-thể đã thay thế cho nếp sống riêng rẽ và từ nay họ chỉ cần tuân theo chỉ thị của Nông-hội, không cần có sáng kiến cá-nhân. Năm xả hơi cũng là năm cải-tổ lại ủy ban hành-chính và chi-bộ xã vì cả hai đều đã bị giải-tán lúc chiến-dịch Giảm-Tô mới bắt đầu. Tất cả các cán-bộ và đảng-viên cũ, dù trước kia có tích-cực và có thành-tích bằng mấy cũng bị gạt ra ngoài, nếu họ có ít nhiều liên quan với giai-cấp địa-chủ. Lần này ủy-ban và chi-bộ gồm toàn bần-cố nông đã có thành-tích trong cuộc đấu-tranh vừa qua, dù có mù chữ cũng không sao. Vì điều kiện kết-nạp vào Tổ Đảng mới phải là không có mảy may liên-hệ với địa-chủ, nên đa-số đảng-viên cũ bị bỏ rơi và những phần tử được kết nạp phần lớn đều là cốt cán và những người đã “đấu hăng” trong chiến-dịch vừa qua. Vì có phân biệt “mới” “cũ” nên tất nhiên có xung-đột giữa hai loại đảngvi ên, và kết quả là các “đảng-viên mới” có quyền bính trong tay và nhân dịp chiến-dịch Cải-cách Ruộngđất, quy hầu hết các “đảng-viên cũ” là địa-chủ và bắt tống-giam. Vô số đảng-viên cũ bị quy là địa-chủ việt-gian phản-động cường-hào gian ác và bị xử bắn, con số những người còn bị giam, chưa kịp mang ra bắn, và được thoát chết nhân dịp sửa sai lên tới 12 ngàn người (con số do báo Nhân Dân công nhận).

Những người này tuy nhiên Sửa Sai mà thoát chết, nhưng khi được tha về cũng đã mất cửa, mất nhà, có khi mất cả vợ. Chúng tôi sẽ trở lại vấn-đề này trong Chương 16, khi bàn về chiến-dịch Sửa Sai. Một câu hỏi cần được đặt ra là : Tại sao các đảng-viên cũ còn đang được kính-nể trong chiến-dịch thứ nhất lại bị bạc-đãi trong chiến-dịch thứ hai? Việc Đảng trở mặt đối với họ hình như có những lý do như sau:

1. Cải-Cách Ruộng-đất là một cuộc thanh-trừng đại-quy-mô, trong toàn-quốc, thực-hiện ngay trong hàng ngũ Đảng. Các đảng-viên cũng phải thanh-trừng như “quần chúng” không Đảng, và Đảng đã ủy-thác cho bần cố nông thực hiện cuộc thanh-trừng này. Sở dĩ kỳ trước đảng-viên được yên thân và kỳ này đảng-viên mới bị là tại Đảng có một chiến-lược đặc-biệt: quần-chúng trước, đảng-viên sau: bẻ đũa không bẻ cả nắm.

2. Hầu hết các đảng-viên cũ đều thuộc thành-phần phú-nông địa-chủ, nên đến lúc Đảng cần “vô-sản hóa” hàng ngũ, họ bị loại trừ và quy là địa-chủ thì cũng chẳng có gì là lạ.

3. Sở dỉ có sự xung-đột giữa đảng-viên cũ và đảng viên mới là tại trong mười năm đảng-viên cũ cầm quyền ở nông thôn họ đã trở thành một giai-cấp mới. Họ nói họ có lập trường vô-sản nhưng thực sự thì họ vẫn kỳ-thị vô-sản miệng vẫn nói “Anh chị em nông-dân” nhưng trong thâm tâm vẫn coi bần cố nông là “dân ngu khu đen”. Có thể nói rằng hình phạt họ phải chịu trong chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất chỉ là hậu quả của thái-độ hống hách của họ trong mười năm qua (1945-55).

4. Vì trong chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất, Đảng đã ấn-định cho mỗi xã một con số tối thiểu địa-chủ bị tù đày và bị tử-hình cao quá mức, năm lần nhiều hơn trong chiến dịch Giảm Tô, nên nếu lần này đảng-viên cũ vẫn được ngoại lệ thì không kiếm đâu cho đủ số người mang đi xử tử hoặc cho vào tù. Vì những lý do kể trên nên thế tất phải xảy ra cuộc xung đột giữa hai loại đảng-viên, giữa đảng-viên cũ mà đa số thuộc thành-phần phú-nông địa-chủ, gia nhập Đảng không phải vì quyền lợi giai-cấp mà chỉ vì bị hấp-dẫn bởi lý thuyết mác-xít hoặc tham vọng nào khác, và những đảng-viên mới gồm bần cố nông và một số bất lương du-đảng. Bọn đảng-viên mới này không có tham vọng gì hơn là lôi tuột tất cả mọi thành-phần xã-hội xuống ngang mức với mình.

Sự xung-đột giữa mới và cũ cũng là điều mà Đảng muốn vì Đảng quan-niệm có xung-đột, thanh-trừng mới hữu-hiệu, mới có điều kiện để chuyển từ thế “phản đế” sang thế “phản phong”. Chứng cớ là mặc dù vô số đảng-viên kỳ cựu bị tù đày hoặc hành quyết mà Đảng không hề can-thiệp. Mãi đến khi chiến-dịch kết-thúc, ông Võ-nguyên-Giáp mới thay mặt Đảng, tuyên bố việc chém giết tràn lan là một việc đại sai lầm.

Cũng in hệt Giảm Tô, Cải-cách Ruộng-đất cũng bắt đầu bằng một cuộc quy-định thành-phần, lần nầy là quy định lại, . rồi đến đấu tố và sau đó là xử án và xử bắn. Thủ-đoạn reo rắc khủng-khiếp cũng in hệt chiến dịch trước, chỉ khác ở một điểm là lần này số nạn nhân đông hơn gấp bội. Mỗi xã tối thiểu phải xử tử năm mạng. Số người tự vẫn có phần tăng nhiều hơn vì lẽ những người mới bị “vạch mặt” (phát-hiện là địa-chủ) không chịu nỗi nhục vì trước đây một năm, họ còn “tố hăng” những người bị quy là địa-chủ trong chiến-dịch trước. Số người chết đói vì “cô lập” cũng tăng nhiều hơn vì những phú-nông hoặc trung-nông mới lên chức địa-chủ không có đủ điều-kiện tinh-thần và vật-chất để sống qua thời kỳ cô lập bằng các địa-chủ chính cống. Về tâm-lý, các địa-chủ chính-cống đã chuẩn-bị tinh-thần để chịu “búa rìu” của thời đại. Về vật-chất họ cũng có nhiều thuận lợi. Nhiều gia-đình địa-chủ có con cái kèm theo nghề khác mà theo luật Cải-cách Ruộng-đất không đụng chạm tới, như công-nghệ hoặc buôn bán. Họ lại còn có bà con, bạn bè làm cán-bộ bí mật giúp đỡ. Trái lại, những địa-chủ mới, trước kia là phú-nông, trung-nông, đều là những người chỉ biết trồng cây cuốc đất và suốt đời không ra khỏi làng. Sở dĩ họ “có đủ bát ăn” hơn người khác là chỉ tại họ suốt đời thực-hiện phương-châm “làm rốn ăn ít”. Ngày nay, bỗng dưng bị quy là địa-chủ, họ không có chỗ sở cậy nên không tránh khỏi chết đói trong thời gian cô lập.

Về truất-hữu tài sản thì hai chiến dịch chỉ khác nhau ở một điểm: Trong chiến-dịch Giảm Tô tịch-thu tài-sản chỉ là một hình phạt của tòa án nên chỉ có địa-chủ “đầu xỏ” mới bị tịch-thu hoặc một phần, hoặc toàn bộ tài-sản. Trong Cải-cách Ruộng-đất, toàn bộ tài-sản của tất cả mọi địa-chủ đều bị trưng thu nghĩa là xung công mà không được trả tiền, trên thực-tế, không khác tịch-thu gì hết.

Trưng thu tài-sản

Trong chiến-dịch đầu, chỉ có địa-chủ “đầu xỏ” mới bị xử án và bị tòa tuyên-án tịch-thu một phần hoặc toàn bộ tài-sản. Đấy là một hình-phạt để trị tội những địa-chủ việt gian phản động. Nhưng địa-chủ không bị ra tòa, hoặc có ra tòa nhưng tòa không tuyên án tịch-thu tài-sản thì vẫn giữ quyền sở-hữu nhà cửa ruộng nương của mình. Nhưng đấy chỉ là trên lý-thuyết. Thực tế thì ngay từ hồi mới phát-động chiến-dịch, tất cả đồ đạc trong nhà họ đã bị ghi vào biên-bản. Họ không được phép bán bất cứ thứ gì, dù nhỏ nhặt nhất, và hễ mất mát hoặc hư hỏng, họ sẽ phải chịu trách-nhiệm. Từ ngày ấy trở đi, một thửa vườn của địa-chủ chẳng hạn, vẫn là tài-sản hợp-pháp của địa-chủ nhưng trái cây trong vườn đã bị coi là của “nhân-dân” rồi. Có nhiều địa-chủ bị đánh đập thậm tệ cũng chỉ vì, như ông A-dam và bà Ê-va, họ không cưỡng lại được sự cám dỗ của những “trái cấm” trước mắt họ. Biện-pháp phi-lý nà cũng áp-dụng cho cả lúa ruộng. Trên lý-thuyết, ruộng vẫn còn là của tư hữu của địa-chủ, nhưng tá-điền phải nộp cho Nông-hội. Tình-trạng rắc rối này kéo dài trong một năm cho đến phát-động chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất, chính-quyền mới tuyên bố tịch-thu, trưng mua tất cả ruộng-đất “thừa” của địa-chủ. Theo một đạo-luật (Sắc-lệnh số 197 SL, ban hành ngày 19 tháng 12 năm 1953. Chương 2, Điều 4) thì chỉ có ruộng-đất, trâu bò và nông cụ thừa mới bị xung công, còn tất cả mọi thứ khác đều không đụng đến. Nhưng trên thực-tế thì địa-chủ và gia-đình bị đuổi ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng. Cũng theo sắclệnh này, có ba loại truất hữu khác nhau:

1. Tịch-thu ruộng-đất và tài-sản của “thực-dân, đế-quốc và việt gian phản động”. Đối với thực-dân đế-quốc thì tịch-thu toàn bộ, còn đối với việt-gian phản-động thì tịch thu nhiều ít tùy theo tội trạng.

2. Trưng dụng phần tài-sản của việt-gian phản-động còn lại, sau khi đã tịch-thu một phần. Trưng dụng cũng là lấy không trả tiền, chỉ khác tịch-thu ở chỗ không cần phải đưa ra tòa.

3. Trưng mua tài sản của những địa-chủ không phản-động. Theo sắc-lệnh thì trưng mua nghĩa là truất hữu có bồi-thường. Người bị truất hữu sẽ được trả bằng quốc-trái. Giá ruộng ấn-định bằng số một năm hoa lợi và chính-phủ hứa sau mười năm sẽ trả, và chịu lãi cho người bị truất hữu mỗi năm 1 phân rưỡi. Chính-phủ tỏ vẻ rất sòng-phẳng và pháp-luật rất minh bạch, nhưng trên thực tế thì chẳng địa-chủ nào được “trưng mua” cả vì một lẽ rất giản dị: không có địa-chủ không phản-động. Vì vậy nên biện-pháp trưng mua chỉ có trên giấy tờ. Trên thực-tế, tất cả tài-sản của mọi địa-chủ đều bị trưng-thu, nếu không bị tịch-thu.

Mãi đến chiến-dịch Sửa Sai mới có một số địa-chủ được tha khỏi tù, được hạ xuống làm “địa-chủ thường” hoặc “địa-chủ kháng-chiến” có khi xuống thành trung nông và ngay cả bần-nông. Họ được hoàn lại tài-sản, nhưng thực-sự thì họ chỉ được lấy lại một phần ruộng nương và nhà cửa. Nói là nhà cửa, nhưng chỉ còn mái nhà và mấy hàng cột, vì trước khi giao trả cho họ và dọn đi nơi khác, những bần cố nông được phép chiếm cứ nhà cửa của họ đã tháo cánh cửa và vách ván làm củi đun. Cây cối trong vườn cũng bị chặt mang đi bán và trâu bò cũng bị đánh què làm thịt. Đồ đạc phân chia cho bần cố nông thì bần cố nông đã bán đi bán lại qua tay nhiều người không còn tìm thấy tung tích. Có thể có một số “nhân sĩ tiến bộ” như ông Phan-Kế-Toại và ông Hồ-Đắc-Điềm được trưng mưa tài-sản và được giao-tờ quốc trái bồi-thường, nhưng tới nay đã đủ 10 năm mà chưa nghe nói -hoặc đăng trên báo chí Hà Nội- là đã có ai được lĩnh tiền bồi-thường cùng với số lãi 15 phần trăm trong 10 năm. Có điều chắc là nếu chính-quyền Bắc Việt làm ngơ thì chẳng có ai to gan dám mở miệng đòi, vì nếu đòi tiền bồi-thường ruộng-đất tức là còn “óc địa-chủ”; và như vậy tất nhiên không đáng được chức “nhân sĩ tiến bộ” hoặc bất cứ thành-phần nào khác ngoài thành-phần địa-chủ. Như thông cảm lẫn nhau, cả Đảng lẫn người mất ruộng đều làm ngơ Sắc lệnh số 197 SL, không đả động gì đến cả vốn lẫn lãi.

Như vậy là trên thực-tế cả ba hình-thức truất hữu: tịch-thu, trưng-thu và trưng-mua đều giống hệt nhau. Không kể những ông “nhân sĩ tiến bộ” chỉ mất ruộng không, nhưng được yên trên Việt Bắc còn mọi loại địa-chủ đều bị đuổi ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng và vài mảnh áo rách. Cũng như mọi hành-vi khác của Đảng, việc truất hữu tài-sản của địa-chủ cũng được cử-hành với hình thức rất uy nghi. Sau đây là một bài báo tả cảnh buổi tịch-thu tài-sản đăng trong báo Cứu Quốc sồ 2741, ngày 1 tháng 1 năm 1956:

Nông-dân thôn Thượng rùng rùng kéo đến nhà tên Phong (địa-chủ). Cờ phơi phới. Tiếng trống thiếu-nhi rồn rập. Những tiếng hô khẩu-hiệu “Đả đảo” và “Hoan hô” không ngớt.

Giữa sân lù lù một đống cày cuốc, ô-doa, liềm hái, thúng mủng cho tới nồi ba mươi, nồi mười, mâm đồng, chậu thau… hàng dẫy. Quanh sân những cây hải-đường, cây mẫu-đơn rực rỡ. Đồng-chí cốt-cán gọi vợ tên Phong ra. Đồng-chí nhân danh Nông-hội tuyên-bố tịch-thu toàn bộ tài sản của nó.

Tiếng đấu-tranh của nông-dân mỗi lúc càng gay gắt, như không thể chấm dứt. Quanh đó đồng-bào đứng hàng trong, hàng ngoài. Đồng-chí cốt-cán tuyên-bố, vạch rõ cho con mẹ địa chủ thấy đời nó, đời cha, đời ông nó không lao-động, chuyên bóc lột, chiếm đoạt, mới có những của này.

Của này là của nông-dân… Con mẹ địa-chủ mặt tái mét. Cả người nó run run. Đồng-chí rõng rạc tuyên-bố xóa bỏ hẳn tất cả quyền chiếm-hữu gồm 24 mẫu ruộng và toàn-bộ tài-sản của nó. Tiếng vỗ tay ran lên “Hồ Chủ-tịch muôn năm!”, “Hoan-nghênh chính-sách tịch-thu, trưng-thu, trưng mua của Đảng và của Chính-phủ!”

Hàng đoàn thanh-niên nam nữ quẩy những gánh thóc từ nhà ngang qua sân. Hai con trâu cũng vừa dắt ra. Tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô vang dậy. Bà con thu xếp quẩy đồ đi. Khiêng, vác, gánh lũ lượt. Trống ếch các thiếu-nhi càng ròn rã.

Triển lãm đồ dùng của địa-chủ

Sau lễ tịch-thu, một số vật-dụng riêng của địa-chủ được mang ra triển-lãm trước khi chia cho nông-dân. Để làm nổi bật mức-sống “xa hoa” của địa-chủ, đồng thời cũng triển lãm cả vật-dụng của bần cố nông. Một bên phòng triển-lãm bày nào là áo gấm, mũ tây, can, giầy tây, điếu khách, ống nhổ, anbom ảnh (trong an-bom nhiều khi có cả ảnh cán-bộ), còn một bên là váy đụp, áo rách, vài chiếc nồi đất để nói lên sự nghèo nàn của nông-dân. Đôi khi có cả hai mâm cơm. Mâm của địa-chủ thì nào là gà, cá, heo quay, rượu đế, còn mâm cơm của nông-dân thì chỉ có cơm hẩm, cà thâm và một bát tương nặng mùi. Năm 1954, sau khi Cộng-sản tiếp thu Hà-Nội được vài tuần, họ có tổ-chức một cuộc triển-lãm như vậy tại Vườn hoa Hàng Đậu, ở giữa thủ-đô. Mục-đích tất nhiên là để chứng minh cho dân thành-thị thấy việc đánh đổ giai-cấp địa-chủ là một việc “hợp tình hợp lý”, để lôi cuốn họ theo cách mạng vô-sản. Nhưng chẳng bao lâu cuộc triển-lãm bị dẹp ngay vì dư-luận của những người đi xem cho rằng nếu đó là mức sống của địa-chủ nông-thôn (áo gấm đã bạc mầu, mũ tây “phở”) thì hãy còn thấp hơn mức sống của một công-nhân Hà-Nội. Sự thực thì bất cứ ở một nước chậm tiến nào cũng có sự khác-biệt rất lớn giữa thành-thị và nông-thôn. Thành-thị đã âu-hóa ít nhiều, còn nông-thôn vẫn ở nguyên tình trạng cổ sơ.

(1) Tên Phong có lẽ bị đi tù, hoặc xử tử rồi.

(2) album

Việtnam đã trải qua chín mười năm chiến-tranh, nên sự chênh-lệch giữa thành-thị và nông-thôn ở Việt-Nam lại càng rõ rệt hơn đâu hết. Các vùng Việt Minh kiểm soát bị cắt đứt liên-lạc với thế-giới bên ngoài, phải chịu bom đạn hàng ngày, còn vùng Pháp kiểm-soát thì đầy ngập hàng-hóa Pháp, hoặc hàng-hóa do Hoa-kỳ viện-trợ. Quân-đội viễn-chinh Pháp cũng tiêu xài nhiều nên mức sống ở Hà-Nội trong thời-kỳ Pháp chiếm đóng cao hơn mức sống ở vùng Việt Minh rất nhiều. Vì thiếu mọi tiện-nghi nên dân-chúng trong vùng kháng-chiến lui dần về nếp sống trung-cổ. Địa-chủ trong vùng kháng-chiến, tuy có khá hơn nông dân, nhưng thực quả không có gì khiến dân Hà-Nội phải thèm thuồng. Nhưng mặc dù họ đã bị bần cùng hóa sau chín năm kháng-chiến, địa-chủ vẫn là “giai-cấp bóc-lột”, vẫn bị quy là “tay sai của thực-dân” và vẫn bị tịch-thu tất cả những thứ họ hiện có để chia cho nông-dân nghèo hơn.

Phân chia ruộng đất và tài-sản của địa-chủ

Muốn đánh giá đúng mức kết-quả của Cải-cách Ruộng-đất, hai yếu tố cần phải nắm vững. Một là tổng-số ruộng đất bị tịch thu và tổng-số nạn nhân của cuộc tịch-thu, hai là tổng số người được phân phát của tịch-thu và trung bình mỗi người được bao nhiêu. Nhưng việc khó khăn là khó tìm ra mấy con số này. Nhà cầm quyền Bắc-Việt chưa bao giờ công-bố tổng-số địa-chủ bị truất-hữu tài-sản. Có lẽ vì họ sợ nếu họ công-bố con số địa-chủ lên báo-chương thì người đọc sẽ giật mình thấy quá nhiều người đã bị quy là địa-chủ, tỷ lệ những “kẻ thù của nhân-dân” lên quá cao.

Còn về ruộng-đất phân chia cho nông-dân thì không nhất thiết là ruộng-đất của địa-chủ, vì thực ra trong số đó có cả công-điền mà nông-đân vẫn thay phiên cày cấy. Cộng-sản góp cả công-điền lẫn với ruộng-đất truất-hữu của địa-chủ mang chia đều cho nông-dân, và sau này lại gộp lại làm tài-sản tập-thể của hợp-tác-xã. Không có con số nào nói rõ trong số ruộng-đất chia cho nông-dân, bao nhiêu là truất-hữu của địa chủ và bao nhiêu trước kia vốn là công-điền. Tuy nhiên, nên đọc cuốn Xã-thôn Việt-nam do nhà xuất bản Sự Thực ở Hà-Nội xuất bản, chúng ta cũng thấy rõ ở Bắc-kỳ 20 phần trăm tổng số canh điền là ruộng công, và ở Trung-kỳ, tỷ-lệ ruộng công lên đến 25 phần trăm. Đoạn văn sau đây trích trong cuốn Xã-thôn Việt-nam nói rõ về vấn-đề công-điền :

Ở một vài nơi công-điền chiếm một tỷ-lệ rất cao. Thí dụ ở Xuân-trường (Nam-Định) 77,5 phần trăm đất đai cày cấy trong huyện là ruộng công. Nhưng ở nơi khác thì tỷ-lệ ruộng công ít hơn : huyện Tiền-Hải (tĩnh Thái-Bình) 59 phần trăm, phủ Khoái-Châu (tỉnh Hưng Yên) 42,5 phần trăm, phủ Lý-Nhân (tỉnh Hà-Nam) 46 phần trăm… Ở Quảng-trị chẳng hạn, công-điền nhiều hơn tư-điền,và ở huyện Triệu-Phong toàn thể ruộng đất trồng trọt đều là công-điền. Ở huyện này, mỗi nông-dân được chia trung bình mỗi người chừng ba mẫu.(1)

Công-điền ở Việt-Nam có truyền-thống lâu dài và có lẽ di-tích của chế-độ cộng-sản nguyên-thủy. Ngày nay Cộng-sản mang công-điền gộp với ruộng-đất truất-hữu của địa-chủ, chia cho nông-dân để chứng-minh lợi-ích của Cải-cách Ruộng-đất. Thành-thực mà nói thì một nửa lợi-ích đó là của cộng-sản nguyên-thủy để lại ; chỉ có một nửa là của cộng sản mác-xít mà thôi.

Trong cuốn Xã-thôn Việt-nam, tác-giả là Nguyễn-hồng-Phong có công nhận rằng (trang 69) ở Bắc-Kỳ có 240.000 mẫu tây công-điền và ở Trung-kỳ có 200.000 mẫu tây. Vì lãnh thổ Bắc Việt hiện nay gồm có Bắc-kỳ và một phần nửa Trung-kỳ nên chúng ta có thể tạm coi tổng-số công điền thuộc Bắc-việt là 240.000 mẫu tây, cộng với 200.000 mẫu tây chia đôi, tức là 340.000 mẫu tây tất cả. (1)-(Nguyễn-hồng-phong: Xã Thôn Việt-nam, Hà-Nội, 1959.)

Chính-phủ Bắc Việt hình như muốn tránh, không tiết-lộ tổng-số ruộng đất tịch-thu của địa-chủ mà trái lại, chỉ công-bố một vài con số tản mác, ở một số địa-phương. Một phần khác, sau khi đã tịch-thu và chia rồi lại “sửa sai” và trả lại ruộng-đất cho những người bị “quy nhầm là địa-chủ”, do đó không thể biết được những con số chính xác về truất hữu ruộng đất của địa-chủ và phân chia cho dân nghèo. Tác giả chỉ thấy một tài-liệu tổng-quát, nhưng quá sơ sài. Đấy là một bài do một chuyên-viên Nga V. P. Karamichev viết trong tờ EKONIMIKA SEL’KOGO KHOZYAISTVA (Chăn nuôi và kinh-tế Nông-thôn), tập V 1957, trong đó có những con số tổng-kê như sau:

Cải cách Ruộng-đất (ở Bắc Việt) đã tịch-thu 702.000 mẫu tây ruộng đất, 1.846.000 nông cụ, 107.000 gia-súc và 22.000 tấn thực-phẩm. Tất cả đem chia cho 1.500.000 gia-đình công-nhân và bần cố nông.

Ông Karamichev không nói rõ trong 702.000 mẫu tây ruộng đất tịch-thu, có bao nhiêu mẫu là của “thực-dân đế-quốc” tức là đồn-điền chè và cà-phê mà chủ là Pháp kiều đã bỏ hoang từ 1945, và cũng trong số ấy có bao nhiêu công-điền, phải chăng đã có một nửa, tức là 340.000 mẫu tây như chúng ta đã ước lượng ở trên. Tuy nhiên, nếu cứ căn cứ vào những con số của nhà chuyên-viên Nga, chúng ta có thể ước lượng mỗi gia-đình được hưởng vào khoảng 4.000 thước vuông (đất và ruộng), một nông-cụ và 1 phần 13 của một gia-súc. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng dưới đề-mục “nông-cụ” có cả những vật như thúng mủng, nồi-niêu, mâm đồng, chậu thau, v.v… như đã tả trong báo Cứu Quốc số 2741 (đã trích ở trên). Còn “gia-súc” cũng gồm cả chó, mèo, dê, lẫn trâu bò. Một mặt khác, nếu đem con số tổng kê của ông Karamichev so với những con số cục bộ của mỗi vài địa-phương chúng ta thấy những con số của ông Karamichev có vẻ lạc quan hơn nhiều. Tỷ-dụ như theo bản thông-cáo của ủy-ban Cải-cách Ruộng-đất nói về vùng ngoại-ô Hà-Nội là vùng trù phú nhất Bắc Việt thì:

Nông-dân lao-động đã tịch-thu, trưng-thu và trưng mua trong tay giai-cấp địa-chủ 20.482 mẫu (ta) ruộng, 511 trâu bò, 6156 nông cụ các loại, 1.032 nhà cửa và 346.903 cân lương-thực. Nông-dân lao-động đã bắt địa-chủ thoái tô được 155.069 cân thóc và 6.429.950 đồng.1 Tất cả tài sản đó đã chia cho 24,690 gia-đình nông-dân và nhân-dân lao-động gồm có 98.113 nhân-khẩu. Đổ đồng mỗi cố-nông được 2 sào 9 thước, mỗi bần-nông được 2 sào 8 thước và mỗi trung-nông được 2 Sào 13 thước.

Phân-tích những con số trên đây chúng ta thấy ngoài mảnh đất, mỗi “nhân khẩu” chỉ nhận được 1 phần 17 “nông cụ”, 1 phần 95 cái nhà, 1 phần 192 gia-súc, hơn 5 cân thực-phẩm và 65 đồng (Bạc Việt cũ, tương đương với ođ,50 VNCH).

Nếu nghiên cứu kỹ-lưỡng văn-kiện trên, chúng ta có thể đạt tới những kết luận như sau:

Theo Sắc-lệnh Cải-cách Ruộng-đất (Mục 2, chương 1 và 2) thì chỉ có “việt-gian phản-động” mới bị tịch-thu nhà-cửa. Như thế ngụ-ý là số 1.032 “nhà cửa” ghi trong bản thông-cáo là của 1.032 “việt-gian phản-động”. Mang con số này so với con số 24.690 gia-đình nông-dân và nhân-dân lao-động, ta thấy tỷ-lệ “việt-gian phản-động” lên tới 4 phần trăm dân số ngoại-thành Hà-Nội. Như vậy có nghĩa là toàn thể giai- cấp địa-chủ đã bị quy là việt-gian phản-động và đã bị tịch-thu nhà cửa và cũng có nghĩa là cộng-sản coi 4 phần trăm nhân-dân là “kẻ thù của nhân dân”.

1. Từ trước tới nay Bắc-việt có tất cả ba thứ tiền. Thời kỳ đầu là “Bạc Tài-chính”. Từ 1950 trở đi là “Bạc Ngân hàng” mỗi đồng ăn 100 đồng tài-chính. Cách đây mấy năm, đơn vị chính thức là “Đồng bạc nặng” mỗi đồng ăn 1000 đồng Ngân hàng. Tiền nói trên là tiền “Ngân-hàng”.

2. Nếu ta đem số gia-súc, nông cụ, thực-phẩm cùng với số ruộng đất tịch-thu chia cho số địa-chủ thì trung-bình mỗi địa-chủ chỉ có 7.000 thước vuông đất, nửa con gia-súc, 6 nông cụ, 500 cân thực-phẩm, 6.500 đồng Bạc Việt cũ, tương đương với 50đ VNCH. Như vậy khó mà bảo họ là đại-phú được.

3. Việc trung-nông được 2 sào 13 thước, trong khi cố và bần nông chỉ được 2 sào 9 thước và 2 sào 8 thước (kể ra cũng xuýt-xoát cả) chứng tỏ những danh từ “bần”, “cố” và “trung” không có liên-hệ gì trực-tiếp với mức sống vật chất của họ cả. Thực ra cả ba loại này đều nghèo ngang nhau, và đáng lý phải được xếp tất cả vào loại “bần nông”, nhưng vì các trung-nông thực-sự đã bị quy là phú nông hoặc địa-chủ cả rồi, nên cũng phải “lấy đại” một số bần-nông để “phong chức” lên trung-nông.

4. Nếu đem tổng số thực-phẩm và tiền thu được chia cho số nhân khẩu thì mỗi nhân khẩu chỉ nhận được 5 cân thực-phẩm (gồm cả lúa lẫn ngô khoai) và 65 đồng Bạc Việt cũ. Cho rằng đổ đồng người lớn và trẻ con mỗi ngày ăn hết 250 gam lương thực thì số tiền và thực-phẩm được chi cũng chỉ đủ nuôi sống họ trong 20 ngày là cùng. Nhưng đó mới chỉ là trên lý thuyết. Thực-tế có hơi khác, vì Nông hội đã xử-dụng một phần lớn “quả thực” (tài-sản tịch thu của địa-chủ) vào việc này nọ, kể cả việc cấp-dưỡng cán-bộ trong sáu tháng và cuộc liên-hoan “mừng thắng lợi chống phong-kiến”. Tại một làng mà chúng tôi lưu lại trong thời kỳ “long trời lở đất” này, một bần nông nhận được chừng 2 cân rưỡi lúa, còn một trung-nông được một số tiền vừa đủ để mua một gói thuốc lá nội hóa. Thực vậy, có nhiều người đã bị phê-bình là đã hoang-phí đem cả số “quả thực” mua quà cho con. Đấy là phần thưởng của sáu tháng trời1 liên-tiếp học-tập, thảo luận, biểu tình, tuần-hành với nửa triệu người thiệt mạng. Kết luận là ngoài 4.000 thước vuông ruộng đất, số “quả thực” mỗi gia-đình nông-dân nhận được thật không đáng kể.

Ruộng-đất ở đồng-bằng Bắc Việt, và nhất là ở ngoại thành Hà-Nội giá rất đắt, và cho mỗi nông-dân bằng ấy ruộng đất quả là một thành-tích. Tất nhiên, người được ruộng rất đỗi vui mừng, nhưng chẳng bao lâu những gì xảy ra sẽ dội cho họ một gáo “nước lạnh”. Với số ruộng đất mới được chia, cộng vào số họ vốn có, làm số lợi tức của họ tăng lên, và vì thuế nông-nghiệp tính theo lối lũy-tiến, nên hễ ruộng-đất của họ gấp đôi thì số thuế họ phải đóng có thể lên gấp ba. Một phần khác những ruộng-đất của địa-chủ trước kia bị “bình” một sản-lượng quá cao, với dụng ý là khánh-kiệt giai-cấp địa-chủ cho nhanh, bây giờ đem chia cho dân nghèo, thì dân nghèo . trước kia đã bình con số sản-lượng ấy . bây giờ phải nhận về phần mình. Rút cục họ sẽ phải đóng cho chính-phủ một số thuế nông-nghiệp không kém số tô trước kia đóng cho địa-chủ.

Vài tháng sau khi chia ruộng, toàn thể ruộng-đất của nông-dân lại bị tập-thể hóa. Họ không còn có ruộng đất riêng, mà phải làm việc đầu tắt mặt tối cho hợp-tác-xã mới lĩnh được mỗi ngày 10 điểm, tức là 1 ký rưỡi gạo. Trong số 20 điểm mà hai vợ chồng nông-dân kiếm được mỗi ngày, họ phải nhượng 2 điểm cho một bà già trong xóm giữ giùm con, và một điểm cho một người khác đi chợ giúp. Chế độ “ăn tiêu bằng điểm” vẫn còn hiện hành và có lẽ sẽ kéo dài cho tới ngày thiết-lập chế-độ công-xã. Như mọi hành-động khác, việc phân phát ruộng đất cho dân nghèo ở Bắc-việt được thực-hiện với rất nhiều nghi-thức : biểu-tình, tuần-hành, diễn-văn, phát-biểu ý-kiến, khẩu-hiệu biểu-ngữ, cờ quạt, trống ếch, v.v… Mỗi nông-dân nhận được một “địa-bạ” và một biển gỗ, ghi rõ tên họ để cắm vào giữa ruộng. Tất nhiên là có sự tranh giành, người tranh thủa nọ người đòi mảnh kia vì tốt xấu, xa gần nhưng chung quy rồi cũng đâu vào đấy, vì được ruộng mà phải đóng thuế ngang với tô thì cũng không ai hào hứng lắm. Nhưng việc phân phát nhà cửa, gia-súc và nhất là đồ đạc của địa-chủ lại là một chuyện khác.

1. Tính thời-gian cả hai chiến dịch, trong 2 năm liên tiếp.

2. Đã nói ở Chương 6

Trong nhiều trường hợp, cán-bộ Đảng không thể nào làm hài lòng mọi người và tránh những cuộc xung đột “nẩy lửa”. Bài sau đây trích ở báo Nhân Dân số 807, ngày 20-5-1956 tường-thuật một cách linh-động một trường-hợp đã xảy ra.

 

CÁI TỦ ĐỨNG

Cuộc họp chia của đấu-tranh được ở xóm Đ. M. bắt đầu từ sáng sớm đến chiều, rồi lại từ chập tối đến nửa đêm vẫn chưa xong. Đến giờ ăn, mọi người chạy về ăn vội vàng rồi lại đến họp ngay. Cả trẻ con cũng theo bố mẹ kéo đến nơi, đêm khuya chúng mệt, ngủ la liệt trên mấy tấm phản. Trâu bò, nông cụ, nhà cửa đã chia ổn thỏa rồi, chỉ còn những tài-sản khác là gay go. Của ít người nhiều, việc phát động tư-tưởng lại làm kém, nên bà con có rất nhiều thắc mắc. Người nào cũng thiếu thốn, cái gì cũng có nhiều người xin, việc bàn bạc cứ giằng co mãi không xong. Gây gỗ nhất là việc chia cái tủ đứng. Bà Trụ và bà Du đều là bần cố nông thiếu thốn như nhau. Bà nào cũng viện hết lý của mình ra yêu cầu được chia cái tủ đứng. Nhưng lý của ai cũng phải cả, nên rốt cuộc chẳng ai nhường ai. Cuối cùng bà Trụ nói:

- Suốt từ đầu hôm đến giờ, tôi đã nói với bà hết nước hết cái mà bà khăng khăng một mực. Thật chưa thấy ai tham như bà.

Bà Du đỏ mặt tía tai:

- Bà bảo tôi tham, thế dễ nhà bà chê của đấy phỏng? Nhà bà có buồng, có khóa, bà còn muốn cái tủ nữa mới vừa!

Bà Trụ đứng phắt dậy:

- Nói với bà cũng bằng thừa.

Bà Du cũng đứng lên:

- Muốn gì thì muốn, tôi cũng phải được cái tủ ấy. Họp mấy ngày nữa tôi cũng không nhường cho bà.

Nói đoạn hai bà cùng bỏ ra về. Sau buổi đó, cán-bộ họp với cốt-cán thảo-luận kế-hoạch và giao cho cốt-cán đi phát-động tư-tưởng hai bà.

Chị Bảo tìm đến bà Trụ trước. Vừa thấy mặt chị, bà nói chặn:

- Chị đến đả-thông tôi có phải không? Mấy thì mấy tôi cũng không thông. Nhưng mụ Du thì tôi không nhường.

Chị Bảo cười:

- Làm gì mà bà nóng như lửa thế? Thì ai đã dám bảo bà nhường? Nhường nhịn là do thương yêu lẫn nhau, có ai bắt ai phải nhường ai bao giờ?

Bà Trụ nói:

- Tôi mười mấy năm trời đi ở với con Xoè khổ sở với nó biết là bao. Bây giờ của đấu-tranh được nhiều, tôi có dám tranh giành thứ gì đâu? Chị xem từ hôm qua tôi đã được cái gì chưa? thấy ai thiếu hơn là tôi nhường ngay. Duy cái tủ này thì tôi nghĩ nhà tôi ở lẻ ngoài đồng, tối lại đi họp luôn, có cái gì để chỉ sợ nhỡ ra mất mát, nên đi họp mà bụng cứ thấp thỏm. Giá được cái tủ, có gì đi đâu thật là yên tâm.
Chị Bảo nói:


- Hôm qua ai cũng nhận thấy bà rất có tinh-thần nhường nhịn, thấy ai thiếu hơn mình, bà vui lòng nhường ngay. Nhưng đến lượt cái tủ này thì quả là gay go. Nhà bà ở lẻ, bà lại đi vắng luôn, kể bà nói cũng phải.

Bà Trụ thấy chị Bảo đồng ý, như cởi tấm lòng:

- Đấy chị xem, nhà trống huếch trống hoác thế này, có gì mất biết kêu ai?

Chị Bảo mỉm cười:

- Khốn nỗi của ít người nhiều, giá có hai cái tủ chia cho hai bà thì tốt bao nhiêu. Vì chỉ có một nên mới rầy rà. Bà Du cũng một mực đòi lấy, chẳng hiểu nhà bà ấy thế nào? Nhà bà Du ở đầu làng, có ba gian nhà rách nát, cửa ngõ chẳng có. Bà Trụ biết vậy, nhưng nói ra sợ chị Bảo so sánh, nên trả lời!

- Hai vợ chồng khỏe như voi, không chịu làm thì đến chết nhà cũng đến thế mà thôi. Tôi nghĩ, đi ở cho nhà con Xòe, hơn chục năm trời, ngày nào cũng thấy nó mở ra khóa vào cái tủ ấy. Lúc nào tôi cũng cầu sao ngày sau được cái tủ như vậy Nay nhờ ơn Đảng lãnh-đạo, đấu-tranh thắng-lợi mà tôi không được cái tủ ấy thật tôi không vui lòng.

Chị Bảo thủng thỉnh nói chuyện:

- Vẫn hay là bà (đi) ở nhà nó, ngày ngày trông thấy và ao ước cái tủ ấy. Kể bây giờ được thì rất tốt. Nhưng bà nghĩ lại xem: Cái tủ ấy là mồ-hôi nước mắt của nông-dân, còn đâu là của con Xoè? Nông-dân đòi lại được ruộng-đất, nhà cửa và các tài-sản của bọn địa-chủ cướp đoạt là do đoàn-kết đấu-tranh. Riêng từng người thì đấu tranh làm sao thắng-lợi? Nếu ai cũng nghĩ mình (đi) ở nhà địa-chủ nào, mình phải được chia của nhà địa-chủ ấy thì còn nói gì là đoàn-kết dấu-tranh và nhường nhịn lẫn nhau?

… Tối hôm ấy bà Trụ bắn tin cho bà Du biết là bà đồng ý nhường cái tủ.

Chúng tôi trích gần nguyên-văn bài “Cái Tủ Đứng” đăng trên mặt tờ báo Nhân-Dân vì chúng tôi thấy bài ấy diễn tả một hình ảnh trung thực của một khía cạnh quan trọng của Cải cách Ruộng-đất. Bài báo bộc-lộ một yếu-tố tâm-lý rất thông thường của quần-chúng nông thôn mà cũng là một yếu tố khiến họ ủng-hộ Cộng-sản. Chỉ có Cộng-sản, chủ trương lấy của nhà giầu chia cho nhà nghèo, mới mang lại cho họ niềm hy-vọng sẽ có ngay tức khắc những thứ họ từng mơ ước lâu ngày. Chỉ một cái tủ đứng cũ kỹ chẳng hạn cũng đủ làm cho họ say mê và xả thân tranh-đấu cho cộng-sản.

(1) Hễ gọi bằng “ông bà” thì là nông-dân. Hễ gọi bằng “thằng” hoặc “con” thì tức là địa-chủ.

SỬA SAI

Chương-trình Cải-cách Ruộng-đất vừa thực-hiện xong (năm 1956) và ngay sau khi thiết lập chế-độ vô-sản chuyên-chính ở nông-thôn thì đột nhiên Đảng Lao-động tuyên-bố là đã phạm nhiều sai lầm nghiêm-trọng trong hai chiến-dịch vừa qua. Đảng cũng hứa hẹn sẽ sửa chữa những sai lầm mà, theo lời Đảng đã làm cho “uy tín của Đảng và đời sống của nhân dân bị tổn-thương rất nặng nề”. Vì vậy nên Đảng phát-động ngay một chiến-dịch “Sửa Sai”, bắt đầu bằng việc “tự ý rút lui” của ông Trường-Chinh, tổng-bí-thư Đảng và ông Hồ-Viết-Thắng, thứ-trưởng phụ-trách Cải-cách Ruộng-đất.

Tạm thời làm phát-ngôn viên cho Đảng, ông Võ-Nguyên-Giáp đọc trước hội-nghị thứ 10 của Trưng-ương Đảng một bản kê khai những “sai lầm”. Ông Võ-Nguyên-Giáp thú-nhận bảy sai lầm chính như sau: (nguyên văn)

1. Coi nhẹ yêu-cầu toàn diện của nhiệm-vụ cách-mạng, coi nhẹ yêu-cầu mở rộng mặt trận chống phong-kiến và mặt trận dân tộc thống-nhất. Vì vậy mà trong khi thực-hiện nhiệm-vụ phản phong đã coi nhẹ, thậm chí có nơi cán-bộ đã phủ-nhận những thành-tích của cuộc đấu-tranh phản-đế, tách rời Cải cách Ruộng-đất với kháng-chiến và cách-mạng, thậm chí có nơi làm cho đối lập nhau.

2. Coi nhẹ đoàn-kết với trung nông, không thực-hiện chính-sách liên-hiệp phú nông, thậm chí đả kích phú nông, coi phú nông như địa-chủ.

3. Đả kích tràn lan, không thi-hành sách-lược phân hóa, không chiếu-cố gia-đình địa-chủ có công với cách-mạng gia-đình địa-chủ có con em đi bộ-đội hoặc làm cán-bộ, không chiếu-cố địa-chủ kháng-chiến và phân-biệt đối đãi con cái địa-chủ.

4. Không chú-trọng đề-phòng lệch-lạc, không nhấn mạnh phải thận-trọng, tránh xử-trí oan những người ngay, do đó mà đi đến mở rộng diện đả-kỉch, đánh địch tràn lan, dùng những biện-pháp trấn áp một cách phổ-biến.

5. Trong khi thực-hiện Cải-cách Ruộng-đất ở nơi có nhiều đồng-bào tôn-giáo thì làm sai chính-sách tôn-trọng tự-do tín-ngưỡng, tự-do thờ cúng của nhân dân.

6. Trong khi thực-hiện chính-sách Cải-cách Ruộng đất ở vùng thiểu-số thì đả-kích quá rộng vào từng lớp trên: không coi trọng, thậm chí xâm-phạm đến phong-tục tập-quán của địa-phương.

7. Trong công-tác chỉnh-đốn tổ-chức (Đảng) thì không nắm vững tiêu-chuẩn chính-trị, mà lại phạm vào chủ-nghĩa thành-phần. Không chú-trọng phương-châm lấy giáo-dục làm chính mà đơn-thuần dùng biện-pháp tổ-chức : kỹ-luật, xử-trí, giải-tán các tổ-chức, thậm chí dùng phương-pháp truy bức (tra-tấn) để làm công-tác chỉnh đốn… (Nhân Dân số 970, xuất bản ở Hà-Nội ngày 31/10/1956).

Nghĩa là trước kia càng chống Pháp hăng hái bao nhiêu thì bây giờ càng bị khủng bố bấy nhiêu.

Khi thấy bản thú-nhận sai lầm kể trên và được tin Trường-Chinh và Hồ-viết-Thắng bị “hạ bệ”, nhiều quan sát viên ngoại-quốc tin rằng quả có “sai lầm” và thế tất chính-quyền Hà-Nội sẽ thực tình sửa chữa. Có người quan-niệm phong-trào Cải-cách Ruộng-đất của Cộng-sản đã hoàn toàn thất-bại. Sự thực thì khác hẳn vì chiến-dịch Sửa Sai chỉ là một tấn tuồng diễn tiếp sau những tấn tuồng khác. Sửa Sai là một chiến-dịch, một bộ-phận của chương trình Cải-cách Ruộng-đất. Như vậy có nghĩa là định tâm Sửa Sai đã có từ trước khi phát-động phong-trào Cải-cách Ruộng-đất. Các đọc giả chắc còn nhớ, ngay từ đầu, năm 1953, Cộng-sản đã phát-động một chiến-dịch gọi là “Đấu-tranh Chính-trị” (trình-bày ở Chương 7) để dọn đường cho chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất, nghĩa là để chuyển dần từ một trạng-thái bình-thường đến một trạng-thái khủng-bố. Bây giờ là lúc cộng-sản làm ngược lại. Sau ba năm khủng-khiếp, Cộng-sản muốn bình-thường hóa tình-hình trở lại. Vì vậy nên mới có chiến-dịch Sửa Sai. Tất nhiên là Đảng sẽ mất ít nhiều uy-tín, nhưng Đảng cho rằng đấy là một việc không thể tránh được.

Hồi ông Mao và các lý-thuyết gia Trung-cộng vạch ra chiến-thuật Cải-cách Ruộng-đất, họ đã cố-tình khủng-bố quá mức vì họ cho rằng có khủng-bố quá mức mới chắc chắn thành công. Họ dự-tính sẽ làm cho quần-chúng quên sự quá mức đó bằng một phong-trào Sửa Sai. Bằng cớ là ngay từ năm 1926, Mao-Trạch-Đông đã viết: “Muốn chữa một tình-trạng bất-công thì phải vượt quá mức của sự công bằng”. Chấp nhận ý kiến của ông Mao, ông Hồ giải thích về chính-sách căn-bản của Cải-cách Ruộng-đất, trong một khóa chỉnh-huấn, như sau: “Nếu muốn uốn thẳng một cái que cong thì phải bẻ nó quá về phía bên kia và giữ như vậy một lúc lâu. Khi buông tay, cái que sẽ từ từ thẳng trở lại”.

Cả ông Hồ lẫn ông Mao đều đoán được trước là thế nào dân chúng cũng phản-đối Cải-cách Ruộng-đất theo kiểu của hai ông, vì muốn đề-phòng mọi phản-ứng chống đối nên hai ông đã chủ-trương khủng-bố quá mức. Muốn hiểu tại sao hai ông lại chủ-trương như vậy, chúng ta cần hiểu rõ mục-đích tối hậu, nhưng dấu kín, của Cải-cách Ruộng-đất.

Trước tiên, Cải-cách Ruộng-đất không phải chỉ nhằm tịch thu ruộng-đất của địa-chủ để phân phát cho dân nghèo, vì nếu mục-đích chỉ có vậy thì chính-quyền cộng-sản chỉ việc ký một đạo sắc lệnh là xong. Trước Cải-cách Rưộng-đất đã có rất nhiều địa-chủ tình-nguyện “hiến điền”, nhưng chính-phủ từ-chối không nhận, hoặc trong nhiều trường-hợp, đã nhận rồi lại hoàn lại, nói rằng chính-phủ “không muốn một công-dân nào bỗng dưng bị hao hụt lợi-tức thường xuyên của mình”. Sự thực thì Cộng-sản muốn bắt địa-chủ cứ ở thành-phần địa-chủ cho đến ngày “đền tội”. Cộng-sản không cần và không muốn địa-chủ hiến-điền vì, toàn quyền trong tay, lúc nào Cộng-sản muốn tịch-thu cũng được. Cải-cách Ruộng-đất có những động-cơ thầm kín như sau:

Tịch-thu và phân-chia ruộng-đất chỉ là giai-đoạn chuyển-tiếp, mà tập-thể-hóa ruộng-đất mới là mục-đích tối-hậu. Muốn bắt buộc toàn thể nông-dân phải cam chịu số phận, sống dưới chế-độ tập-thể, các lãnh-tụ Cộng-sản thấy cần phải tiêu-diệt tận gốc “tư-tưởng tư-hữu tài-sản” từ mấy ngàn năm đã chôn sâu trong tiềm thức của mọi người, dù là bần cố nông.uốn đạt tới kết-quả, họ áp-dụng câu cách ngôn : “sát nhất nhân, vạn nhân cụ”. Áp dụng vào Cải-cách Ruộng-đất, câu cách ngôn trên có thể đổi thành : “Giết một số địa-chủ để không còn một ai muốn sở-hữu ruộng-đất”. Chính vì vậy mà cộng-sản ấn-định cho mỗi xã một số tử hình nhất định, ngay cả ở những xã mà toàn thể ruộng-đất là công-điền. Quả nhiên mọi người mất hồn mất vía ngay tức khắc. Hồi ấy nhân dân miền Bắc đặt ngay câu phương ngôn, truyền khẩu từ người nọ sang người kia: “Gạo chợ, nước sông, ốm nằm nhà thương, chết chôn nghĩa-địa”. Như vậy có nghĩa là những ai khôn hồn thì từ nay tuyệt-đối không nên có của tư-hữu, vì có của tức là mang họa.

1. Mao-Trạch-Đông: “Bá-cáo về cuộc Nông-dân bạo-động tại Hồ-Nam” trong Mao-Trạch-Đông Tuyển-tập, nhà xuất bản Lawrence and Wishart, Luân-đôn, 1954-56.

2. Đảng bắt nông-dân phải đấu tố và chém giết địa-chủ để làm bàn tay nông-dân phải dính máu. Một khi tay đẫm máu thì không thể rửa sạch và dù muốn dù không chỉ còn một cách là đi với Đảng cho đến cùng. Vì không thể nào liên-kết với chủ cũ để chống lại chủ mới, người nông-dân đành phải chấp nhận bất cứ số-phận nào mà Đảng đã dành cho. Sau khi tàn sát một số người lên tới 5 phần trăm dân số Bắc-Việt, người nông-dân miền Bắc có cảm-giác tội lỗi. Cái cảm-giác ấy được Cộng-sản đề cao là “tinh-thần của anh chị em nông-dân làm chủ lấy vận-mệnh của mình”.

3. Về phương-diện chính-trị, Cải-cách Ruộng-đất đánh dấu một bước ngoặc từ lập-trường phản-đế sang lập-trường phản-phong, hay nói một cách khác, từ kháng-chiến chống thực dân Pháp sang chém giết địa-chủ người Việt. Vì mục-tiêu đáu tranh đột nhiên thay đổi nên Đảng thấy cần-thiết phải thanh-trừng tất cả các phần-tử quốc-gia trong hàng-ngũ kháng-chiến, và ngay cả những đảng-viên mà Đảng nghi ngờ không hoàn toàn chính-thống. Đảng cho rằng một cuộc thanh-trừng triệt-để không thể nào thực-hiện được bằng cách ủy-thác cho cấp trên nhiệm-vụ chọn lọc và khai trừ cấp dưới. Vì đầu óc bè phái hãy còn ăn sâu nên, nếu dùng phương-pháp kể trên, sẽ có rất nhiều người “lọt lưới”. Theo nhận-thức của Đảng thì thanh-trừng phải thực-hiện từ dưới lên trên, nghĩa là phải bắt đầu từ cấp-xã “phóng tay” cho bần-cố-nông trong xã thanh trừng “phản-động” vì chỉ có người cùng làng mới biết rõ thái-độ chính-trị của mỗi người trong làng, Đảng nói: “Nhân-dân rất sáng suốt”, và trong nhân-dân, “chỉ có bần-cố-nông là đáng tin cậy hơn cả”. Lập-luận này đưa thẳng tới chủ-trương “phóng tay phát-động quần-chúng đấu-tranh”. Đảng thừa biết rằng nếu phóng tay thì quần chúng sẽ đấu tố bừa bãi, nhưng suy đi tính lại, Đảng cho rằng thà bừa bãi một chút mà “tiệt nọc” còn hơn thận-trọng mà kết quả hời hợt. Theo Luật-sư Nguyễn-mạnh-Tường thì nguyên-tắc thiêng-liêng của Cải-cách Ruộng đất là “Thà chết mười người oan còn hơn để sót một địch”.

Đảng biết trước hể “phóng tay” thì thế tất phải có “Sai lầm”, nhưng Đảng vẫn nhắm mắt làm ngơ để mặc cho “sai lầm” tiếp diễn. Hàng vạn người bị giết oan, bị tù đày, hoặc bị bao vây cho cho đến chết đói, mà Đảng chẳng hề dơ một ngón tay nhỏ cứu vớt lấy một người. Theo luật-pháp nước Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa thì người bị lên án tử-hình có quyền ký đơn xin Hồ chủ-tịch ân xá, nhưng thực-tế, ông Hồ không hề ân xá lấy một người gọi là, ngay cả những đảng-viên trung-kiên trước khi bị bắn hô to: “Hồ-Chí-Minh muôn năm!” Tháng 3 năm 1936, ông Hồ có ra lệnh tạm đình-chỉ mọi vụ hành-quyết, nhưng đấy là hậu-quả xa xôi của phong-trào “Hạ bệ Stalin” phát-xuất từ Moscou, nhân kỳ Đại-hội lần thứ 20 của Đảng cộng-sản Liên-xô. Những người may mắn thoát chết, vì bản án xử tử chưa kịp thi hành, và sau này được trả lại tự-do không hề chịu ơn ông Hồ, mà một cách gián-tiếp, họ đã chịu ơn Khrushchev. Muốn thấy rõ Cộng-sản đã chủ-tâm “đả kích tràn lan” chúng ta còn một cách là mang bản thú-nhận sai lầm của Võ-nguyên-Giáp đối chiếu với bản bá-cáo của Trường-Chinh đã nói tới trong Chương 12 của cuốn sách này. Một điểm nổi bật là những điều mà Giáp gọi là “sai lầm” đều là những điểm then chốt Trường-Chinh đã nêu lên và hứa sẽ tôn-trọng trong khi thực-hiện Cải-cách Ruộng-đất. Sự thực thì Đảng đã hứa hẹn, nhưng Đảng “quên” không giữ lời hứa, cho đến khi “sai lầm” đã xảy ra rồi, Đảng mới nhận là “xơ xuất”. Theo tỉ-dụ các que của ông Hồ thì Trường-Chinh chính cái tay uốn ngược que, và Giáp là cái tay buông cái que cho nó thẳng trở lại. Sửa sai tức là bình thường hóa lại đời sống, không khác buông tay để cho que đứng thẳng trở lại.

Biện-pháp đầu tiên của Sửa sai là tha hết địa chủ và đảng-viên ra khỏi nhà tù hoặc trại giam. Tổng số những người được tha chưa hề được tiết lộ, nhưng theo lời ông Võ-nguyên-Giáp, trong số người được tha có 12 ngàn đảng-viên. Tất nhiên trong khi bị giam, đảng-viên cộng-sản là những người đau khổ nhất. Ngô-đức-Mậu (cháu nhà cách mệnh Ngô-đức-Kế), một đảng-viên cộng-sản kỳ-cựu đã từng sống nhiều năm trong ngục Lao-Bảo hồi Pháp thuộc, đã tả nỗi đau khổ trong ngục-thất cộng-sản như sau:

…Những lúc bị giam giữ trong buồng riêng cô quạnh, rét mướt, đau khổ, những anh em thường an ủi nhau: củng-cố lòng tin để chịu đựng ngược đãi, củng cố lòng tin để sống… vì ở tù đế-quốc và ở tù hiện nay (cộng-sản) nó khác nhau xa. Ở tù đế quốc bị hành hạ bằng thể xác nhưng tinh thần lành mạnh được an ủi, khoan khoái… Còn ở đây (tù cộng-sản thì sao ? Chúng tôi bị dày xéo cả thể chất lẫn tinh thần. Chung quanh chúng tôi, ai nấy đều cho chúng tôi là địch, là kẻ bán nướchại dân, thì bảo họ đồng tình với chúng tôi sao được…

Cũng trong bài ấy Ngô-đức-Mậu còn than vãn là đã bị chính các đồng-chí cộng-sản của ông tra tấn, không cho ông tự bào chữa:

…Những việc mà một số anh em cán-bộ ở Hà-Tĩnh dựng đứng lên, hoặc lật ngược lại những thành tích đã qua của tôi (từ thời Đông-Dương Cộng-sản Đảng) để truy-bức tôi suốt ngày đêm, để buộc tôi phải nhận những việc tôi chưa hề làm, mà cũng chưa bao giờ nghĩ tới… Cuộc truy bức càng ngày càng nặng, nó vượt ra ngoài khuôn khổ của một cuộc đấu-tranh về nguyên-tắc. Tôi ỳ ra mãi cũng không được. Nhiều ý nghĩ khác (tự tử chẳng hạn) lại nảy nở ra và xoay quanh trong đầu óc tối như chong chóng. (NHÂN DÂN 30 tháng 10, 1956)

Đảng giải-thích cho các tù nhân biết là chỉ vì sai lầm mà không may họ bị vào tù, và Đảng hứa không bao lâu nữa họ sẽ được trả lại tự do. Tuy nhiên trước khi được ra về, họ phải ở lại nhà tù một tháng để học lớp “Sửa soạn ra về”. Dưới sự chỉ dẫn của một đại diện Đảng, họ phải học-tập, nghiên cứu những vấn-đề phức-tạp như bản thú nhận sai lầm của ông Võ-nguyên-Giáp, bài nói về thái-độ tự-phê-bình của Đảng, chủ-nghĩa Mác-xít không bao giờ sai và “thái-độ đứng đắn đối với những người đã tố sai”. Đảng hứa sẽ hồi phục công quyền và hoàn lại tất cả tài-sản mà Đảng đã tịch-thu của họ. Đảng khuyên họ nên quên những nỗi đau khổ vừa qua, củng cố lại lòng tin nơi Đảng và tiếp-tục phục-vụ Đảng một cách trung-thành như đã phục-vụ từ trước. Điều cần nhất là tuyệt-đối không được trả thù những người đã vu oan giá họa cho mình.

Các ủy-ban xã được lệnh cử phái-đoàn đến tận nhà tù đón rước những người bị giam và đưa họ về quê quán. Dĩ-nhiên là họ vui mừng khôn xiết khi họ đặt chân tới làng cũ và gặp lại vợ con. Tờ Nhân Dân đã kể trường-hợp của Tân, một trong số những người cùng cảnh-ngộ:

Gia-đình đồng-chí xưa nay là trung-nông. Từ đời ông, đời cha, đến đời đồng-chí (Tân) vẫn cày sâu, cuốc bẫm. Đồng-chí tham-gia cách-mạng từ những ngày đầu tổng-khởi-nghĩa. Năm 1947, xã đồng-chí bị địch chiếm đóng cũng là năm đồng-chí được rèn luyện, thử thách nhiều và được kết nạp vào Đảng. Làm bí-thư chi-bộ và chủ-tịch xã, đồng-chí đã lãnh-đạo nhân-dân anh dũng đánh giặc. Bao nhiêu lần xã bị địch càn quét đồng-chí phải nằm hầm nhịn đói, có lần phải bật ra vùng du-kích, nhưng rồi vẫn tìm cách trở về xây dựng lại cơ sở tiếp-tục chiến-đấu cho đến ngày kháng chiến thắng lợi. Sau ngày hòa-bình lập lại, thi hành chỉ-thị của cấp trên, đồng-chí đã chuẩn-bị cho cuộc đấu-tranh chống phong-kiến (Cải-cách Ruộng-đất). Nhưng chẳng những đồng-chí không được tham-gia cuộc đấu-tranh ấy mà trái lại, đã bị quy là địa-chủ cường-hào gian ác phản-động đầu sỏ và bị đánh đổ (đấu-tố) một cách quyết-liệt. Thật là đau xót! Mỗi lần nghĩ tới không sao nén nổi phẫn uất.

Nhân dịp Sửa Sai, Tân được tha về, và, Đồng-chí (Tân) lẩm nhẩm tính: “Ngót tám tháng bị giam cầm, chờ duyệt án tử hình, hơn một tháng được trả tự do”. Thấm thoát đã xa nhà chín tháng. Mai về gặp lại vợ con, họ hàng, làng xóm. Đồng-chí hồi hộp nghĩ tới những phút sẽ được gần lại vợ, gần lại con, những hơi thở, những bàn tay ấm áp… Đồng-chí chưa lên nhà ông Lễ (anh Tân) vội, lại rẽ vào gian bếp lụp xụp nơi ở của vợ con đồng-chí sau ngày tất cả tài-sản của gia-đình đồng-chí bị tịch-thu. Đồng-chí phải khom người mới bước được vào trong bếp. Bồ hóng chằng chịt trên nóc, trên vách. Một chiếc chõng ọp-ẹp kê chật cả nửa bếp. Em gái đồng-chí chạy vào, khóc lóc:

- Sung sướng chưa anh ơi! Trong khi anh đi tù, người ta bắt chị và các cháu phải sống chui sống rúc thế này!

Đồng chí thấy đau lòng trước cảnh sống khổ cực của vợ con trong những ngày qua. Đồng-chí cố trấn tĩnh, xua tay bảo em gái, mà chính cũng là nói với lòng mình:

- Khóc lóc, oán hận chẳng có ích gì mà chỉ gây cho mình thêm đau khổ.

Rồi đồng-chí đi ra thẳng lên nhà ông Lễ.

Nhà ông Lễ tối hôm ấy đông vui hơn cả ngày cưới anh Bái, con trai ông… Hết ấm nước này đến ấm nước khác, câu chuyện đi sâu vào tình cảm gia-đình, họ mạc, xóm giềng.

Bà con nhắc lại những chuyện sai lầm trong Cải-cách Ruộng-đất, những chuyện buộc lòng phải đấu, tố nhau, dứt tình dứt nghĩa. Lòng ai nấy xót xa. Không khí nhiều lúc trầm trầm lặng xuống. (NHÂN DÂN, 14 tháng 11, 1956)

Sau khi tha địa-chủ “oan” ra khỏi tù thì biện-pháp thứ hai là hoàn lại những tài-sản đã tịch-thu của họ, nếu còn có để hoàn lại. Đồ đạc bàn ghế thì dĩ-nhiên chẳng còn vì sau khi phân phát cho bần cố nông họ đã bán tống bán táng đi từ đời nào rồi. Những thức được trả lại phần nhiều chỉ là nhà cửa, vườn tược, nhưng tất cả đều điêu tàn vì những bần cố nông được thụ hưởng không đủ phương-tiện chăm nom. Và như chúng tôi đã kể ở trên, rào rậu và vách gỗ đã bị rỡ làm củi đun, con trâu bò đã bị làm thịt mang ra chợ bán.

Nhưng mặc dầu của cải hoàn lại chẳng còn được là bao, những người được trả lại cũng hết sức hoan hỷ. Ý nghĩ sẽ được trở về nơi chôn rau cắt rốn và sống dưới mái nhà tổ-tiên xây cất cũng đủ làm cho họ vui lòng. Chỉ có những bần cố nông được ở trong nhà của địa-chủ trong mấy năm, bây giờ phải cuốn gói đi chỗ khác mới thật là đau lòng, thứ ba là trả lại vợ cho những người đã bị “tịch thu” mất vợ. Có trường-hợp người vợ tự ý bỏ vì sợ bị “liên-hệ”, hoặc vì hai bên thông-gia đã “tố” nhau nên gây thù oán. Nhưng trường-hợp thông thường là người vợ còn trẻ và duyên dáng, nên một đảng-viên “mới” nào đó ép phải lấy hắn trong khi chồng phải đi tù. Một số đông những phụ-nữ bất hạnh này đã sống với chồng mới tới hai ba năm nên khi chồng cũ tha về thì đã có con với chồng mới, thành ra vấn-đề hoàn lại cho chồng cũ là một vấn-đề nan giải. Vấn-đề này đã được giải-quyết bằng một Thông-tư của Bộ Tư-Pháp ban hành ngày 19 tháng 4 năm 1957. Vì bản Thông-tư này quả là “vô tiền khoáng hậu” và nói lên sự nghiêm-trọng của tình-trạng lúc bấy giờ nên chúng tôi xin cứ nguyên văn lai cảo để cho các bạn đọc có dịp nhàn lãm.

BỘ-TƯ-PHÁP VIỆT-NAM DÂN-CHỦ CỘNG-HÒA

Độc-lập . Tự-do . Hạnh-phúc

THÔNG-TƯ VỀ VIỆC GlẢI-QUYẾT NHỮNG VỤ

VỢ CHỒNG BỎ NHAU TRONG GIẢM TÔ VÀ CẢI-CÁCH RUỘNG-ĐẤT

Gần đây trong Giảm Tô, Cải-cách Ruộng-đất có những việc vợ chồng bỏ nhau do những nguyên nhân chính như sau đây:

Bản thân hoặc gia-đình một bên lên thành phần, hoặc bị kích lên thành phần hay bị quy sai là phản động.

Có sự đấu tố giữa vợ chồng, đấu tố bà con gia-đình của nhau.

Những trường hợp bỏ nhau vì liên quan, vì đấu tố, v.v… xẩy ra ở nhiều nơi đã phần nào làm thương tổn đến đoàn kết nông thôn. Vấn-đề này là do sai lầm chung trong Giảm Tô và Cải-cách Ruộng-đất. Vì vậy, cần quan niệm rằng việc giải quyết loại việc này là một công tác nằm trong công tác sửa sai chung. Vì vậy

Bộ đề ra chủ trương như sau :

a) Đối với vợ chồng bỏ nhau đã có con hoặc chưa có con, nhưng vợ chưa lấy chồng khác, chồng chưa lấy vợ khác, thì phương châm là kiên trì giải quyết tư tưởng cho hai bên thông cảm nhau là do sai lầm chung mà vợ chồng bỏ nhau, vậy nên về đoàn tụ với nhau như cũ, nhất là khi hai bên đã có con còn bé.

b) Đối với những vợ chồng bỏ nhau mà một bên đã lấy người khác rồi, có hai trường hợp:

Nếu vợ đã đi lấy chồng mới mà chưa có con, nay vợ muốn trở về với chồng cũ và chồng cũ muốn đoàn tụ thì cho đoàn tụ và giải quyết cho người chồng mới thông. Nếu người vợ một mực ở với chồng mới dù chưa có con với người này thì nên giải thích cho người chồng cũ thỏa thuận ly hôn với người vợ. Trường hợp người vợ đã có con với chồng cũ, nhất là khi con còn bé thì cẩn thận trong việc cho ly hôn. Trường hợp chồng đã lấy vợ mới, có con hay chưa có con, nay muốn về với vợ cũ nhưng vợ cũ không muốn trở lại thì cần cho ly dị; trường hợp vợ cũ còn muốn trở lại với chồng thì nên căn cứ vào tình cảm của ba người đối với nhau và tùy tập quán địa-phương mà giải quyết cho ổn thỏa.

c) Trường hợp hai bên đều lấy vợ lấy chồng khác rồi thì nên cho họ ly hôn để họ chính thức lập gia-đình mới.

1. Nên chú ý, Bộ Tư-Pháp còn tỏ ý thiên vị đối với chồng mới.

2. Điều này có nghĩa là nếu không phải là công-giáo thì cho phép lấy hai vợ.

d) Trường hợp đa thê, nhân vì đầu tố mà vợ lẽ bỏ chồng thì nói chung nên giải quyết cho ly hôn, nhưng có trường hợp vì sinh kế, vì con cái hay vì tình cảm, người vợ lẽ muốn đoàn tụ thì giải quyết cho đoàn tụ.

Hà-Nội, ngày 19 tháng 4, năm 1956

K. T. Bộ-Truởng Bộ Tư-Pháp

Thứ-Truởng TRẦN-CÔNG-TƯỜNG

(Trích Hà-Nội Hàng Ngày, ngày 16 tháng 6, 1957)

Chính quyền Cộng-sản không hề công-bố con số những cặp vợ chồng bị chia rẽ vì Cải-cách Ruộng-đất nhưng việc cần thiết phải giải-quyết vấn đề bằng một thông-tư đặc biệt của Bộ Tư-Pháp cũng đủ cho ta thấy tầm quan trọng của vấn-đề và ước-đoán một con số khá lớn lao. Bản Thông-tư không nói đến trường hợp những người vợ góa, vì chồng bị xử tử, và sau đó bị cán-bộ ức-hiếp phải lấy, cũng không nói tới trường hợp con gái địa-chủ bị ép lấy bần cố nông, vì đối với Đảng, đấy chẳng phải là một sai lầm. Một điều đáng chú ý là trong mấy năm liền, Đảng không hề chú ý tới sự đau khổ và nhục nhã mà những phụ nữ kể trên phải chịu đựng. Nó chứng tỏ thái-độ thực-sự của Cộng-sản đối với phụ-nữ và vạch trần sự giả dối trong những lời tuyên-bố đường mật của Cộng-sản về vấn-đề phụ-nữ. In hệt ruộng-đất, nhà cửa, đồ đạc phụ-nữ cũng chỉ là một thứ tài-sản mà Đảng tự cho mình quyền phân phối theo ý muốn.

Các lãnh-tụ Đảng yên trí rằng bấy nhiêu biện pháp phóng thích khỏi trại giam, hồi-phục danh-dự những đảng viên bị giết oan, trả lại tài sản và vợ bị tịch thu . là đủ xoa dịu lòng uất hận của nhân-dân đối với Đảng và bình-thường hóa lại đời sống. Đảng cũng tin tưởng ở thế lực của Đảng có thể ngăn chặn mọi cuộc chống đối và, một phần khác, Đảng tin rằng dân-chúng bị khủng-bố nên đã mất hết tinh-thần, không bao giờ dám nổi loạn. Nhưng các lãnh-tụ Cộng-sản không để ý tới mấy yếu-tố khác, đã gây nên mấy cuộc khởi loạn sau này. Trở lại hình ảnh cái que tre, chúng ta có thể nói khi Đảng thả tay thì que tre bật ngay trở lại với một sức mạnh mà Đảng không dự tính đúng mức. Nông dân ở nhiều nơi và trí thức ở thủ-đô nổi dậy chống lại chế-độ.

CON ĐƯỜNG THẲNG TỚI CỘNG-SẢN CHỦ-NGHĨA

Đè bẹp xong cuộc bạo-động của nông-dân Nghệ-An và phong-trào trí-thức chống-đối ở Hà-Nội, Đảng Lao-Động bèn “tái hồi” chính-sách cũ để tiến tới Cộng-sản chủ-nghĩa. Đảng tổ-chức hợp-tác-xã nông-nghiệp trên toàn-thể lãnh-thổ Bắc-Việt, buộc nông-dân phải sinh-hoạt và sản-xuất tập-thể nghĩa là làm việc cho “đoàn-thể” là chính-yếu mà cho gia-đình và bản-thân là thứ yếu. Mỗi sáng, hễ nghe tiếng “kẻng” đúng 6 giờ là họ phải ra đồng làm việc dưới sự điều-khiển của cán-bộ, 11 giờ về ăn cơm trưa và học-tập chính-trị, 1 giờ lại ra đồng làm việc đến 6 giờ chiều. Tối đến phải đi họp để nhận phần việc ngày hôm sau. Mỗi ngày, nếu làm tốt và đủ 10 giờ, mỗi người được ban 10 điểm, mỗi điểm ăn 150 gam gạo. Nếu làm kém hoặc không đủ giờ, tất nhiên, sẽ được ít điểm hơn.

Đến vụ, sau khi gặt, hợp-tác-xã chia số thu-hoạch thành 4 phần. Phần thứ nhất để đóng thuế, phần thứ hai để “làm nghĩa vụ”, tức là bán cho chính-phủ bốn lần rẻ hơn giá thông thường ở “thị-trường tự-do”, phần thứ ba để trả nợ cho Ngân-hàng và các cơ-quan khác, phần thứ tư chia cho xã-viên theo tổng-số điểm mỗi người đã nhận được trong toàn vụ.

Chính-phủ và Đảng hết sức khuyến-khích nông dân “thâm canh”, nhưng dù vậy, sản-xuất theo đơn-vị diện-tích vẫn rất thấp. Lý-do chính là tại làm việc theo chế-độ “công nhật”, nên người làm không thấy trách-nhiệm trong công việc làm mà chỉ “cơm chúa múa tối ngày”. Vì họ không chịu khó canh nước giữ bờ, nên hễ hết mưa là hết nước và chẳng bao lâu lại phải huy-động đi “chống hạn”. Các lãnh-tụ Trung-Cộng và Việt-Cộng hiện vấp phải một khó khăn mà các nước cộng-sản khác không gặp ; lúa là một cốc loại mọc dưới nước, đòi hỏi rất nhiều công chăm sóc, một loại cây rất “tiểu tư sản” không chịu uốn mình theo nếp sống tập-thể dễ dàng như lúa mì hoặc các loại cây thực phẩm khác. Vì sản xuất kém nên Bắc Việt luôn luôn thiếu lương-thực trong 10 năm nay. Bài báo sau đây, trong vô số những bài tương tự, chứng tỏ tình trạng thiếu ăn “kinh niên” ở Bắc Việt :

“…Tình hình lương-thực tỉnh ta có khó khăn. Miền núi tuy không bị thiên tai nặng nề như một số huyện đồng bằng, nhưng do sản-xuất kém nên vụ mùa năm nay (1964) nhiều nơi thu hoạch thấp hơn năm 1963… Lương-thực miền núi vốn khẩn-trương, nay càng khẩn-trương hơn. Cán-bộ và bà con nông-dân các hợp-tác-xã trong tỉnh hãy tham-gia góp ý-kiến, bàn bạc cụ thể, tranh cãi cho ra lẽ, tìm cách giải-quyết nạn đói giáp hạt sắp tới”. (MIỀN TÂY NGHỆ-AN số 380, ngày 1 tháng Giêng, 1965)

Bàn về lý-do tại sao sản-xuất mỗi ngày một kém, tác-giả bài báo đưa ra giải-thích như sau:

“Nông-dân bỏ sản-xuất trước mắt để đi làm việc khác kiếm tiền mua gạo. Một số bà con trong các hợp-tác-xã chỉ nghĩ đến việc kiếm tiền, và cho rằng họ có tiền là có gạo, không tích-cực sản-xuất, trồng ngô khoai, sắn và các thứ rau mầu. Ruộng-đất tốt bỏ hoang hóa, cây trồng không chăm bón, thời-vụ không đảm bảo, làm tập-thể cho hợp-tác-xã thì ít, làm riêng cho mình thì nhiều…” (Cũng số báo kể trên)

Trong liên tiếp mười năm nay, vì thiếu, nên lương thực luôn luôn bị hạn chế. Theo thể-lệ hiện hành, mỗi nhân-khẩu được mua mỗi tháng 13kg500 lương-thực, trong số chỉ có 8kg gạo còn ngoài ra là ngô, khoai, sắn. Chính quyền hô hào tăng-gia sản-xuất bằng cách trồng các loại cây lương-thực “ngắn ngày”, như bầu-bí rau muống cạn xung quanh các công-sở, trường học, trại lính, nhưng vì diện-tích ít ỏi nên thu thập chẳng được là bao.

Theo lời ông Lê-Duẩn trong bài “Xây-dựng tư-tưởng làm chủ tập-thể trên lập-truờng giai-cấp vô-sản” trong báo Học-Tập số tháng 6, 1965 thì giá một ký thóc ở thị-truờng tự-do là 0đ.80, và giá bán cho chính-phủ là 0đ.20

Một biện-pháp quyết liệt khác đã được thi hành; trong hai năm gần đây, chính-quyền Bắc-việt đã đưa, mỗi năm, 25 ngàn gia-đình nông-dân miền đồng bằng sông Nhị-Hà lên miền thượng-du khai khẩn đất hoang và tìm cách tự-túc để giảm bớt miệng ăn ở miền xuôi. Chương-trình di-dân này còn nhằm hai mục đích khác: “việt-hóa và kiểm-soát dân-tộc thiểu-số” cùng thiết-lập căn-cứ kinh-tế để chuẩn bị một cuộc trường kỳ kháng chiến nếu Bắc-Việt bị tấn-công. Nói về tương lai lâu dài của đất nước thì đấy là một cố-gắng rất đáng khen, nhưng vì miền Bắc không đủ phường-tiện tiệt trừ bệnh sốt-rét nên công cuộc hiện đương gặp nhiều khó khăn.

Để giải-quyết nạn thiếu ăn, chính-quyền Bắt-Việt đã nghĩ đến giải-quyết nhập cảng lương-thực từ bên ngoài, nhưng ngặt vì xuất cảng ít nên không có ngoại-tệ để nhập-cảng đủ số lương-thực cần dùng. Có bao nhiêu ngoại-tệ thu được hoặc được “các nước bạn” viện-trợ đều phải dùng vào việc mua sắm máy móc để thiết bị cho nền công-nghệ phôi-thai. Suốt trong 10 năm nay, và ngay cả trong những năm “được mùa viện trợ” của các nước bạn, cán cân xuất-nhập của Bắc-Việt vẫn bị chênh-lệch, xuất ít nhập nhiều. Bản thống-kê sau đây do Bộ Ngoại-thương và Tổng-cục Thống-kê Bắc-Việt có thể cho chúng ta một khái niệm đại-cương về vấn-đề kể trên.

ĐƠN-VỊ 1.000.000 RÚP CŨ
















































































NămXuất Nhập HụtTỷ-lệ
Xuất Nhập
195527,3294,4-267,19,2%
195681,7314,2 -232,2 26%
1957163,8398-234,241,1%
1958204,6253,2-48,6 80,8%
1959269,2417,9-148,764,4%
1960319,6511,6-19262,4%
 1961[1]319,6617,1297,555,9%
1962   60,4%
1963   59,1%
1964   74,1%

(Trích tạp-chí Nghiên-cứu Kinh-tế xuất-bản tại Hà-Nội tháng 12, 1964.

Bài “Bàn về thăng-bằng xuất nhập khẩu hiện nay “của Lưu-văn-Đạt, tr. 46.)

Điểm đáng chú ý là từ 1962 trở đi bản thống-kê không ghi những con số xuất nhập cảng mà chỉ công-bố tỷ-lệ chênh lệch giữa xuất và nhập. Nên nhớ rằng cũng vào khoảng thời gian này (1960) cuộc xung-đột bùng nổ giữa Nga-sô và Trung-cộng, và đối với cuộc xung-đột này, Bắc-Việt luôn luôn giữ thái-độ “trung-lập”. Một vài dấu hiệu cho phép một số quan sát viên nhận định rằng chính vì thái-độ “nước đôi” ấy mà Nga coi Bắc-Việt là thân Tàu, và Tàu coi Bắc-Việt là thân Nga, với kết quả là cả hai nước đàn anh đều đình-chỉ không viện-trợ cho Bắc-Việt bắt đầu từ 1961. Không những cắt đứt viện-trợ mà khối. Riêng năm 1961, trong tài-liệu ghi con số “rúp mới” nhưng chúng tôi tính cả sang “rúp cũ” cho đồng loại. Mỗi rúp mới ăn 4,444 rúp cũ.

Cộng-sản Âu-châu còn từ chối không bán đồ phụ-tùng và mua hàng hóa của Bắc-Việt. Trước kia Bắc-Việt vẫn mua len mang về phân phát cho hàng vạn phụ nữ đan áo để bán sang Đông Âu nhưng từ 1961 trở đi hầu hết những người sống về nghề đan đều bị thất nghiệp. Chúng ta có thể ước đoán rằng sở dĩ bản thống-kê kể trên không ghi rõ những con số xuất nhập cảng từ 1961 trở đi là tại những con số ấy đã xuống quá thấp. Tuy nhiên cũng trong bài báo ấy, tác-giả có thu nhận như sau:

“Chúng ta đã xử-dụng gần hết số tiền viện-trợ không phải hoàn lại do các nước xã-hội chủ-nghĩa anh em giúp ta trong những năm trước. Từ đây hình-thức viện-trợ chủ-yếu là hình-thức cho vay dài hạn, có vay có trả, có đi có lại. Nếu khả năng xuất-khẩu không theo kịp yêu cầu nhập khẩu thì chúng ta bắt buộc phải hạn-chế số nhu cầu về nhập khẩu”. Lưu-văn-Đạt “Bàn về thăng bằng xuất nhập khẩu hiện nay” Nghiên Cứu Kinh Tế, Hà-Nội, tháng 12, 1964.

Từ ngày chiến tranh lan rộng ra Bắc-Việt, thái-độ của Nga-Xô và Trung-Cộng đối với nước “em út” có thay đổi, tuy-nhiên, cũng chưa ai biết hai nước kể trên đã giúp Bắc-Việt những gì, về phương-diện kinh-tế. Chúng ta có thể nói từ 1960 đến 1964, Bắc-Việt không khác một đứa con trong gia-đình mà cả bố lẫn mẹ, sau khi ly-dị, không nhìn ngó đến. Nếu nhớ lại lời ông Hồ khuyến cáo học-sinh lớp chỉnh-huấn, khuyên họ không nên “ngồi giữa hai chiếc ghế”, thì có thể nói rằng chính ông Hồ đã bị ngã vì ông đã ngồi giữa hai ghế Nga và Tàu.

Năm 1963, theo lời Giáo-sư P. J. Honey, Bắc-Việt có dạm đổi một số hàng tiểu-công-nghệ để lấy bột mì của Úc-châu nhưng Úc-châu chê hàng xấu không đổi. Sau đây, Bắc-Việt có đổi cho Trung-cộng một số hoa quả “nhiệt-đới” và cây thuốc để mua lại của Trung-cộng một số bột mì Trung Cộng đã mua của Ca-na-đa. Bắc-Việt cũng xuất cảng một số “thực-phẩm xa-xỉ” như lợn, gà (mỗi em học sinh phải nuôi và bán cho chính-phủ mỗi năm hai con gà) để nhập cảng một số “lượng-thực căn bản” nhưng kết quả chẳng được là bao. Vì nông-thôn không cung-cấp đủ thực-phẩm nên công nhân và dân thành-thị, nói chung, cũng bị thiếu thốn.

Tờ Thời Mới xuất bản ở Hà-Nội ngày 7 tháng 7, 1961 nói về nạn thiếu gạo ở thành-thị như sau:

“Mỗi lần họ (công-nhân xưởng máy dệt) đi mua gạo, họ phải nghỉ việc nửa ngày. Nhiều khi số người xếp hàng đông quá, họ phải nghỉ việc nhiều buổi mới mua được xuất gạo”.

Tháng 4, 1965, tờ Nghiên-cứu Kinh-tế còn viết như sau:

 “Hãy còn tình-trạng phải xếp hàng chờ đợi, người tiêu dùng phải đi nhiều nơi, nhiều chỗ mới mua được đủ những mặt hàng thực-phẩm khác nhau cần cho việc nấu ăn hàng ngày”.

Lê-Đông “Bàn về Vấn-đề Thực-phẩm cho các Thành-phố” (Nghiên-cứu Kinh-tế số 26, tháng 4, 1965).

Từ ngày bắt bắt đầu “thành-lập xã-hội chủ-nghĩa” Cộng-sản Bắc-Việt cố gắng xây-dựng một nền kỹ-nghệ, vừa để “chưng” với nhân-dân đấy là “xã-hội chủ-nghĩa”, vừa nuôi hy-vọng sản xuất hàng-hóa công-nghệ, mang xuất cảng để đổi lấy vật-liệu và lương thực. Hiện nay đã có tất cả hơn một ngàn công-xưởng lớn nhỏ, nhưng vì thiếu chuyên viên, vì cán-bộ ưa sản-xuất nhanh và nhiều để lấy thành tích, nên hàng-hóa do Bắc-Việt chế-tạo không đúng tiêu chuẩn quốc-tế, vừa xấu vừa đắt, không thể nào cạnh tranh nổi với sản-phẩm công nghệ của Nhật-Bản hiện tràn ngập thị-trường Đông-Nam-Á.

Mặc dù những khó khăn kể trên, Bắc-Việt vẫn hướng theo con đường mà 40 năm về trước ông Hồ hình dung là “con đường tiến tới thắng-lợi cuối cùng, tới chủ-nghĩa xã hội và chủ-nghĩa cộng-sản”, con đường mà ông nhìn rõ vì có “mặt trời” của chủ-nghĩa Mác-Lênin soi sáng.

Vì quyết tâm đi theo con đường kể trên và bắt buộc mọi người đều phải tiến bước theo hướng “mặt trời Mác-Lênin” nên Đảng Lao-động bắt toàn-thể giới công-thương kể cả phu xích-lô, người làm nghề chữa xe-đạp và những người buôn thúng bán mẹt phải thành lập hợp-tác-xã để sinh hoạt tập-thể. Nhiều người phải bỏ nghề cũ để nhập đoàn đi “phát-triển văn-hóa và kinh-tế” trên thượng du, mỗi đoàn có một số đảng-viên Đảng Lao-động đi theo kiềm soát. Một số đã tự vẫn, còn đa số hiện làm việc và sinh-hoạt theo kiểu “cu-ly” đồn điền thưở trước.

Nói về sự thay đổi lề lối sinh-hoạt cũng nên nhắc tới số phận những người mà cộng-sản mệnh danh là “tư-sản đân-tộc”. Họ là những người trước kia có một xưởng máy con con, dùng dăm bảy người thợ và học việc. Hồi mới về tiếp-thu Hà-Nội, Cộng-sản đề cao họ “bạn của nhân dân” và hứa tôn-trọng hình-thức kinh-doanh của họ. Nhưng Cộng-sản chỉ giữ lời cho đến ngày chiếm cứ Hải-phòng, cửa bể cuối cùng để di-cư vào Nam. Sau đó chính-quyền Bắc-Việt buộc các xí-nghiệp tư-nhân phải đổi thành công-tư hợp-doanh, nghĩa là tự đặt mình dưới sự kiểm-soát của chính-phủ. Nếu họ không chịu, chính phủ sẽ không cung-cấp nguyên-vật-liệu. Những chủ cũ được tiếp-tục điều khiển xưởng máy với chức-vụ giám-đốc, nhưng dưới sự giám-sát chặt chẽ của cán-bộ Đảng. Tình trạng “nửa nạc nửa mỡ” này được duy-trì trong hai năm (1957-59). Nhưng từ 1959 trở đi, khi bước sang giai đoạn “Xây-dựng Xã-hội Chủ-nghĩa”, Đảng cử đảng-viên là giám-đốc và bắt các “tư-sản dân-tộc” phải “cải-tạo theo chủ-nghĩa xã-hội”, nghĩa là phải làm việc bằng tay chân công-nhân, nặng nhọc hơn công-nhân, trong khi vẫn bị khinh rẻ là “giai-cấp bóc lột”. Tư-sản dân-tộc khác địa-chủ ở điểm không bị đấu tố và tù đày, nhưng cả hai đều từ địa vị “bạn của cách mạng, của nhân dân” bước xuống thành phần “kẻ-thù của giai-cấp”. Theo tờ Học-Tập, cơ quan lý luận của Đảng Lao-Động, thì kiếp sống của “tư-sản dân tộc” đã làm mủi lòng một số đảng-viên phụ-trách kiểm-soát họ. Tờ Học-Tập viết :

“Có một số cán-bộ phụ-trách xí-nghiệp công-tư hợp doanh quả quyết rằng những người tư sản đang làm việc ở xí nghiệp do các đồng-chí đó phụ trách đã tiến-bộ một trăm phần trăm, và việc cải-tạo xã-hội chủ nghĩa đối với họ “không còn thành vấn-đề nữa”. Thế rồi các đồng-chí đó hối hả đòi “thay đổi thành-phần (thăng chức làm công-nhân) cho các nhà tư-sản… Rất rõ ràng là nếu những người làm công-tác cải-tạo giai cấp tư-sản dân-tộc không chịu đi vào nghiên-cứu “cuộc sống nội-tâm” của những nhà tư-sản, chỉ mới nhìn thấy những vết dầu mỡ loang trên tấm áo và thậm chí những chai tay của các nhà tư-sản mà đã vội tính chuyện thay đổi thành-phần cho họ, thì những người (cán-bộ) đó sẽ rất dễ bị lóa mắt bởi những hiện-tượng bề ngoài mà không nắm được bản-chất vấn-đề, do đó sẽ không thể nào làm tròn trách-nhiệm trước Đảng và giai-cấp”. (Học Tập, tháng 3, 1965).

Giới tư-sản dân-tộc Bắc-Việt đã chịu lam lủ trong 7 năm nay, nhưng lời tuyên-bố kể trên chứng tỏ con đường “cải tạo” của họ còn dài, và hiện nay họ chưa có mảy may hy vọng “lên chức” công-nhân.

Hiện nay Bắc-Việt đã hoàn thành công-cuộc tập-thể-hóa nông-nghiệp và công-nghiệp, nhưng có một điểm đáng chú ý Bắc-Việt chưa thành-lập “nhân-dân công-xã”. Từ trước Bắc-Việt vẫn theo sát chính-sách của Trung-Cộng. Tất cả mọi phong-trào do Trung-Cộng đề xướng đều được thi hành tại Bắc-Việt chừng hai năm sau bắt đầu từ Thuế Nông-nghiệp đến Cải-cách Ruộng-đất, rồi đến tổ-đổi công, hợp-tác-xã… nhưng Trung-cộng đã thực-hiện “nhân-dân công-xã” từ bảy tám năm nay mà cho tới nay Bắc-Việt vẫn cứ đứng nguyên trong giai-đoạn “hợp-tác-xã”. Có thể Bắc-Việt đã nghe lời khuyên can của Nga-Xô mà không tiến tới “nhân-dân công-xã”, mà cũng có thể Bắc-Việt chưa muốn thực-hiện một chế độ hoàn toàn cộng-sản trong khi chưa “giải-phóng” được miền Nam. Nhưng vì áp-lực của Tàu mỗi ngày một mạnh nên rồi ra, rất có thể, Bắc-Việt sẽ trở lại bắt-chước Trung-Cộng và đi theo từng bước chân một.

Việt-Nam là một tiểu quốc, nhưng đã anh-dũng thoát khỏi nạn Hán-hóa sau một nghìn năm đô-hộ và, trong lịch-sử hiện-đại, đã chiến-thắng thực-dân một cách vẻ vang nhất thế giới, nhưng cũng vì một nghìn năm đô hộ thực-sự, và hai nghìn năm “đô-hộ văn-hóa” nên các lãnh-tụ Việt-Nam lúc nào cũng sẵn sàng nhập-cảng những lý-thuyết từ bên ngoài yên-trí rằng hể hợp với người là hợp với ta. Kết quả của việc vay mượn lý-thuyết đã hiển hiện trước mắt: hai mươi năm chịu đựng chiến-tranh và tàn-phá trong khi toàn thế giới lo việc xây-dựng.

Chúng tôi không muốn bàn đến cái hay và cái dở của ông Hồ, vì mặc-dù đã già nua, sự nghiệp của ông vẫn chưa kết thúc; nhưng nếu có người hỏi chúng tôi “Giá không có ông Hồ thì số phận của Việt-Nam hiện nay như thế nào?”, chúng tôi xin trả lời: Vì tất cả các thuộc-địa cũ đều độc-lập thì không lẽ chỉ riêng Việt-Nam, vì không có ông Hồ, mà không được độc-lập. Vấn-đề có hay không có cộng-sản lãnh-đạo không liên-quan đến vấn-đề thu hồi độc-lập quốc-gia, vì nhiều nước không có cộng-sản cầm chính-quyền mà cũng vẫn thu hồi được độc-lập. Trái lại, nếu chúng ta điểm qua tất cả các cựu thuộc-địa, chúng ta chỉ thấy có hai nước bị chiến tranh tàn phá nhiều nhất, bị chia cắt lãnh-thổ, bị từ chối không được vào Liên-Hiệp-Quốc. Hai nước ấy là Việt-Nam và Triều-Tiên, cũng là hai nước có cộng-sản nắm chính-quyền. Do đó chúng ta có thể kết-luận: Chẳng phải vì có cộng-sản lãnh đạo mới có độc-lập, mà chính vì có cộng-sản lãnh-đạo nên mới thành “thí-điểm” để hai khối thử sức và thử tài, để xem ai là cọp thực và ai là cọp giấy. Một là ông Hồ đã quên câu tục-ngữ Việt-Nam “Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết”, hai là ông Hồ tự coi mình là “trâu” và dân-chúng Việt-Nam là “muỗi”. Mặt trời Mác-Lê của ông Hồ quả là một mặt trời rất chói lọi, nhưng hình như vì chói lọi quá nên đã làm cháy da chảy thịt toàn-thể dân-tộc Việt-Nam từ Bắc chí Nam.

Còn nếu có người hỏi chúng tôi “thành-phần nào trong xã-hội Việt-Nam bị ‘mặt trời’ của ông Hồ đốt cháy nhiều nhất?“, chúng tôi xin thưa: thành-phần trung-lưu, thường được mệnh danh là tiểu-tư-sản, thành-phần xuất thân của đa-số trí-thức và văn-nghệ-sĩ Việt-Nam. Nếu có bạn đọc nào chưa công nhận đấy là sự-thực khách-quan, chúng tôi xin đề nghị bạn ấy đọc lại những tài-liệu liên quan đến “trung-nông” và văn-nghệ-sĩ chúng tôi đã trích hầu các bạn trong báo chí Bắc-Việt.

Còn câu hỏi “Phải hy sinh bao nhiêu xương máu nữa thì sẽ lên tới thiên-đường cộng-sản và thiên-đường ấy huy hoàng lộng lẫy như thế nào?” thì chúng tôi không dám trả lời vì đấy thuộc về sự nhận-thức của mỗi người. Chúng tôi chỉ cống-hiến những tài-liệu khách quan để xây dựng nhận-thức ấy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn