1 - Y CHÂU CA - VƯƠNG DUY
Thanh phong minh nguyệt khổ tương tư
Đãng tử tùng nhung thập tải dư
Chinh nhân khứ nhật ân cần chúc
Quy nhạn lai thì số phụ thư
VƯƠNG DUY
BÀI CA Y CHÂU
Gió mát trăng thanh dạ nhớ bầm
Người theo chinh chiến quá mười năm
Ra đi ngày ấy chàng căn dặn
Cánh nhạn quay về thư nhớ thăm...
N M T cảm dịch
Vương Duy ( 701-761 ), tự Ma Cật,người đa tài:thi sĩ, nhạc sĩ, hoạ sĩ, thư pháp, chánh khách, đỗ Tiến sĩ làm quan thời Thịnh Đường tới chức Thượng thư Hữu Thừa.
2 - Y CHÂU CA - LÝ THƯƠNG ẨN
Đả khởi hoàng oanh nhi
Mạc giáo chi thượng đề
Đề thời kinh thiếp mộng
Bất đắc đáo Liêu Tây
LÝ THƯƠNG ẨN
BÀI CA Y CHÂU
Dùm đuổi vàng anh bay
Chớ hót bên vườn cây
Làm thiếp tàn mộng đẹp
Theo chàng đến Liêu Tây...
N M T cảm dịch
Lý Thương Ẩn ( 812 - 858 ), đỗ Tiến Sĩ, làm chức Công Bộ Viên Ngoại Lang, thời Vãn Đường.
Thơ Ô. phong phú, phức tạp, nổi tiếng chùm thơ VÔ ĐỀ.
Riêng bài Y CHÂU có chỗ ghi là của Kim Xương Tự, hoặc của t/g khác và có tựa đề là Xuân Oán (?)
3 - Liên Cảm Y Châu Ca với Cuộc Chiến VN
Với 2 bài thơ trên, thuộc loại thơ Tả Nỗi Lòng vợ lính, rất ngắn. Tuy nhiên đã nói lên sự đau khổ vô vàn của chiến tranh gây cho biết bao chinh phụ...
Từ đây, liên cảm về cuộc nội chiến VN dai dẳng, gần 1/4 Thế kỷ.
Vậy thì sự khổ đau ngút ngàn đã đổ lên đầu cho biết bao chinh phụ, quả phụ, cô nhi...!!!
Chưa kể những Bà Mẹ Việt Nam cũng tơi tả rã rời từng khúc ruột từ Nam chí Bắc...
Và rồi hậu quả đến với núi sông không lường được...!!
Chung một niềm đau chinh phụ còn có ở:
- Trong "Quan San Nguyệt" thi nhân Lý Bạch:
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
.....................................
.....................................
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.
LB
" Xưa nay vào chiến địa
Mấy ai về an toàn..!!
............................................
............................................
Đương khi bên lầu vắng
Chinh phụ rầu... thở than..!! "
NMT dịch
- Trong Chinh Phụ Ngâm tg Tiên sinh ĐTC, qua bà Đoàn Thị Điểm diễn Nôm, cũng là tuyệt khúc ai oán não lòng của chinh phụ. Tiêu biểu;
" Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân
Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn
Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân
Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn
Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân
Tâm bất ly quân vị kiến quân "
ĐTC
" Giận thiếp thân lại không bằng mộng,
Được gần chàng bến Lũng, thành Quan.
Khi mơ những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không !
Duy có một tấm lòng chẳng dứt
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi
Lòng theo nhưng chẳng thấy người " ( !!! )
ĐTĐ
4 - Cảm Thán Hậu Quả Của Cuộc Chiến:
Niềm Đau Sau Cuộc Chiến
Trùng trùng thây chiến địa
Điệp điệp chuyện bi ai...!!
Người đi không trở lại
Khăn tang dài... sông Cửu
Ngậm ngùi... mây trắng bay...!!
Núi Sông dần vong bại:
Biển Đông hồn tê tái...
Nam Quan rừng oằn oại...
Bản Giốc suối khóc mãi...
Vịnh Bắc hờn không phai...
Dân Việt người có biết
Quốc Tổ Ngài có hay ?!
Tiên Rồng mờ... tương lai...!!
NMT
Câu Đối cuả người biên soạn:
" Đông Hải phỉ đồ tràn ngập biển
Nam dân ngư phủ khóc than trời "
" Thác Bản Giốc nước chảy lâm ly... thiên thu thù giặc Bắ́c
Ải Nam Quan rừng buồn héo hắ́t... vạn thuở nhớ trời Nam !! "
Nguyễn Minh Thanh biên soạn
GA, Muà Đông lưu lạc.. 2018
* Y Châu ca: là tên điệu khúc, do Tây Lương tiết độ sứ Cái Gia soạn và phổ biến.