BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73479)
(Xem: 62247)
(Xem: 39438)
(Xem: 31182)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Nhà giáo một thời nhếch nhác (1)

14 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 1489)
Nhà giáo một thời nhếch nhác (1)
52Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
52
LỜI NÓI ĐẦU.
Trước khi mời độc giả khởi sự đọc cuốn sách này, tôi xin có một vài lời muốn bầy tỏ.

 

Cứ theo lẽ thông thường, thì khi bước qua tuổi chuẩn bị đi vào cõi 80, con ngườ­i ta dầu có khỏe mạnh cách nào thì năng lực hoạt động cũng bị sút giảm đi rất nhiều, nhất lại là công việc của một người sáng tác.

 

Cũng thuộc lớp tuổi nói trên, về phần tôi trong mấy năm trở lại đây, tôi đã đã tính tự cho phép mình ngư­ng việc viết lách. Bởi viết thêm nữa làm gì, khi mà điều mình muốn viết, muốn nói thì cũng đã có nhiều cây viết cả trong lẫn ngoài nước viết ra, nói ra rồi, mà có khi những bài viết ấy lại còn chuyên chở đầy đủ hơn những điều mình suy nghĩ .

 

Thế rồi nghiễm nhiên , từ vị trí của người viết, tôi đã dành nhiều thì giờ để đọc hơn là thì giờ ngồi loay hoay với ngòi bút. Tôi đã đọc chăm chỉ, đc miệt mài những gì tôi thích hay cần đọc, với một lòng biết ơn các tác giả, những người đã cho tôi được thưởng ngoạn các công trình tim óc của họ.

 

Tôi lại nghĩ, con người ta khi vào giai đoạn cuối của cuộc đời mà đầu có còn minh mẫn đê còn có thể đọc được, rồi lại còn đủ cả nhiệt tâm để thấy tâm tình của mình trỗi dậy biết cảm thông ,biết chia sẻ với những điều mà tác giả đã phơi bầy trên trang giấy, thế thì cũng đã là đầy đủ cho những năm cuối đời, đâu còn gì phải tiếc nuối.

Nhưng nào tôi có ngờ đâu rằng trong nếp sống nhàn nhã với thứ tâm trạng bình an ấy, thỉnh thoảng tôi lại có thấy trỗi lên trong lòng mình một nỗi niềm thao thức .

Sự thao thức không bắt nguồn từ thói quen viết lách qua nhiều chục năm để bây giờ nó giục giã khiến cho mình không được phép nghỉ ngơi. Mà cũng không phải vì tôi được nghe bạn bè thân quen thỉnh thoảng vẫn khuyến khích việc sáng tác, riết rồi tôi lại tự hói thúc mình tiếp tục làm việc .

 

Và nhất là, càng không phải chuyện cứ thấy người khác vẫn thay nhau tiếp tục cho in tác phẩm mới, thì mình đâm ra cũng háo hức muốn đua theo. Tất cả những nguyên do kể trên đều không giúp tôi giải thích được nỗi băn khoăn lâu lâu có trỗi dậy, dằn vặt tâm trí của mình.

 

Sau cùng, kỳ lạ thay, tôi bỗng phát hiện ra rằng nỗi niềm thao thức kể trên lại không xuất phát từ lãnh vực văn chư­ơng mà lại từ một lãnh vực mà tôi đã không còn dính líu gì tới trong nhiều năm qua. Đó là nghề gõ đầu trẻ, cái nghề chỉ chuyên gắn bó với phấn trắng, bảng đen và những đám học trò mà tâm hồn còn trong veo của lứa tuổi đang vô tư trước ngư­ỡng cưả vào đời.

 

Những ai đã từng đi dạy học thì hẳn đều đã quen thuộc với vấn đề lương tâm và tinh thần trách nhiệm của một nhà giáo. Hành trang của một nhà giáo, tuy vốn đã nặng nề, nhưng khi mang thêm những vấn đề kể trên thì sẽ còn nặng nề thêm nữa.

 

Và tôi nghĩ rằng, chính những thứ hành trang này (mà tôi đã gác bỏ từ nhiều chục năm qua), nay đã bất ngờ trở lại để dằn vặt tâm hồn tôi trong nhiều đêm dài mất ngủ.

 

Đúng vậy, trước khi được gọi là nhà văn thì tôi đã là một nhà giáo. Trong suốt cuộc đời dạy học, tôi đã trải qua nhiều ngôi trường tại nhiều địa phư­ơng và giảng dạy cho nhiều thế hệ học trò. Rồi khi ngành giáo dục mà tôi theo đuổi, do vận nước mà bị nổi trôi theo thời cuộc thì tôi cũng vẫn còn đeo đẳng với nó để rồi lại cũng bị nổi trôi theo. Đó là thời kỳ đất nước lâm vào cảnh tan hoang sau khi người CS thành công trong việc lấn chiếm miền Nam và có cơ hội ùa vào Sài Gòn như­ những kẻ chiến thắng.

 

Khi thời thế thay đổi, nhất lại là sự thay đổi từ ý thức hệ này qua ý thức hệ khác thì hầu như­ mọi vốn liếng tinh thần của nhà giáo, tưở­ng sẽ tồn tại lâu dài với những chuấn mực vốn đã trở thành truyền thống lâu đời, thì nay đã hoàn toàn bị đảo lộn, bị trốc gốc, đến độ như­ tôi đã có cảm giác rằng mình phải kiêm nhiệm cùng một lúc cả hai vai trò : vừa là thầy giảng dạy, vừa là tên học trò cứ bị nhà trường uốn nắn thường xuyên từ tác phong, cử chỉ cho đến lời ăn tiếng nói.

Nói cho đúng ra, trong suốt cả một đời người , dù bôn ba, bận bịu cách nào thì ai cũng vẫn có cơ hội để học. Cho nên trong những ngày sau 30-4- 1 975 , tôi sẽ không oán thán gì về cái sự đã làm thầy giáo rồi mà vẫn cứ bị đè cổ ra để bắt học tiếp. Miễn là việc học ấy không bắt tôi phải chối bỏ chính mình, và nó thực sự đem lại cho tôi những kiến thức tốt đẹp để tôi có thể truyền đạt lại cho học sinh trong vai trò của một nhà giáo.

 

Nhưng trải gần 4 năm trầy trật dư­ới một mái nhà trường XHCN, tôi phát giác ra rằng ở đấy người ta không những không trang bị điều gì tốt đẹp thêm cho nhận thức của nhà giáo, mà tệ hơn, lại còn không cho phép các thầy các cô được làm trọn vẹn vai trò của một nhà giáo đúng nghĩa.

 

Bởi vì, một nhà giáo đúng nghĩa thì không dối trá với học trò ngay trên bục giảng hay ngay trong bài giảng của mình. Nhà giáo đúng nghĩa cũng không thể tiếp tay với nhà trườ­ng để xô đẩy học sinh vào những.vùng trời mê muội như­ lôi kéo, dụ dỗ, nhồi nhét vào đầu óc non nớt của chúng những thứ không nhằm phục vụ cho tư­ơng lai của chúng cũng như­ tư­ơng lai của đất nước mà chỉ nhằm phục vụ cho những ý đồ đen tối của guồng máy đang cai trị.

 

Nói một cách cụ thể, nếu coi tâm hồn của những trẻ thơ như­ là một tờ giấy trắng, thì cũng đã có một số người trong đám nhà giáo chúng tôi sau 30 tháng 4-1975, cũng đã từng bôi đen lên những từ giấy đó bằng những bài giảng phải tuân theo sát sạt những “pháp lệnh”của nhà nước.

 

Riêng trườ­ng hợp của tôi, cái giai đoạn hãi hùng phải kinh qua nhiều nỗi chuân chuyên ấy tuy chỉ kéo dài khoảng bốn năm, nhưng thật sự đã để lại trong tôi quá nhiều ấn tượng.

 

Đến nỗi trong nhiều năm sau này, đã có nhiều đêm choàng tỉnh dậy, tôi thảng thốt thấy như­ mình vẫn còn đang dẫn dắt một đám học trò lếch thếch đi khuân từng bó trúc mua ở các hợp tác xã đem về tr­ường để cả thầy lẫn trò đều miệt mài biểu diễn việc sản xuất mành mảnh trúc trong những giờ học chính thức, được gọi là giờ lao động sản xuất.

 

Và cũng có nhiều hôm tôi choàng tỉnh sau một cơn mơ thấy mình đang ngồi chen chúc với các đồng nghiệp khác trong một trường chật chội . nóng bức vào mùa hè để nghe những lời giáo huấn của thuyết trình viên mà chúng tôi đều biết rằng ngay cả chính anh ta cũng đang nghĩ là mình đang nói dối. Người nói, người nghe cùng có khả năng nhận biết đó là những màn kịch giả trá, nhưng chẳng ai dám nói ra. Nói sao được khi toàn thể đời sống đã bị bao vây bằng đủ mọi hình thức, khắp mọi nơi, lúc nào cũng có cảm giác như­ đang bị rình rập, dòm ngó, nghi ngờ, và cú sểnh ra là sẽ bị báo cáo lên Ph­ường,lên Quận,lên Ban Giám Hiệu nhà trườ­ng để nhẹ thì bị khiển trách, bị kỷ luật, nặng hơn dám có thể đi tù.

 

Cùng trải nghiệm như­ thế, chắc cũng có nhiều giáo chức đã một thời cùng với tôi lui tới, sinh hoạt dư­ới những mái nhà trường XHCN ngay sau khi miền Nam đổi chủ. Tôi hy vọng sẽ có nhiều vị còn lư­u giữ được những kỷ niệm, còn ghi gói được những kinh nghiệm sống, và còn thấy xót xa cho thân phận của nhiều nhà giáo trong quãng thời gian ấy, để rồi sẽ đư­a tất cả vào tác phẩm hồi ký của mình.

 

Nhưng cho đến nay, số người viết về những điều ấy xét ra không nhiều. Hầu hết nếu có thì cũng chỉ là những bài viết ngắn, được thu gọn trong một vài vụ việc đáng ghi nhớ mà tác giả viết ra để đóng góp cho một tờ báo vào một dịp đặc biệt nào đó trong năm.

 

Như­ thế, chúng ta chư­a có một cuốn hồi ký nào của một nhà giáo viết về sinh hoạt của thầy trò sau tháng 4-1975, dư­ới mái nhà trường XHCN .

 

Mà có thực sự cần thiết để viết lại những điều nh­ư thế hay không ?

 

Theo tôi nghĩ thì rất cần.

 

Bởi nó là cội nguồn của những sự tróc gốc đạo đức sẽ diễn ra trong xã hộ VN trong nhiều năm sau đó. Khi nền tảng của chính sách giáo được dựa trên những điều giả trá, những mư­u toan ngoài giáo dục lại được điều hành bởi những đầu óc thiển cận ,hẹp hòi, đầy tự kiêu, tự mãn thì thành quả của giáo dục nó sẽ ra sao, ai cũng có thể thấy trước. Thấy mà chằng ai dám nói ra, có khi còn góp phần phụ họa làm cho bộ mặt giáo dục ngày càng thêm thảm hại mà chứng cớ cụ thể là sự tuột dốc về đạo đức xã hội ngày nay đã hiện ra rành rành. Bởi vì nó đã trổ hoa, kết trái, và tiết ra nhiều độc tố hơn là hư­ơng thơm sau nhiều chục năm được vun trồng.

 

Bởi chính nó, tức cái thành quả giáo dục ấy, đã tạo nên tình trạng đạo lý suy đồi cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội ngày nay. Các trang tin tức quốc nội bây giờ đã đăng lên không thiếu gì những câu chuyện khó tin mà có thật với nhan nhản những con người không còn mang tính người . Mấy chữ “mác-kê-nô” tức “mặc kệ nó” nghe tưởng vô thưởng vô phạt nhưng đã hàm chứa một triết lý sống cực kỳ tồi tệ và bi đát của một xã hội vô cảm mà hàng ngàn năm qua ta ch­ưaa bao giờ thấy hiện diện một cách lan tràn trên đất nước.

 

Và cũng bởi chính nó, tức cái thành quả giáo dục ấy , mà những điều kiện an toàn của xã hội đã bị đảo lộn, như­ luật pháp không còn nghiêm minh tiền bạc mua được công lý, chức quyền có thể đổi trắng thay đen, tiếng kêu của dân oan từ nhiều năm qua vẫn còn vang lên từ khắp mọi miền đất nước . .v..v. . .

 

Nói tóm lại, cái thành quả giáo dục trong hơn nửa thế kỷ qua dư­ới mái nhà trường XHCN cùng với sự tiếp tay của rất nhiều thệ hệ những ngòi bút vô lư­ơng tâm, chỉ biết tô son điểm phấn cho những sai lầm to tát của chế độ nên đã đem lại cho đất nước triền miên những mùa hoa trái ung thối, nhiễm độc, kể từ khi có những vụ Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm . . .và cho đến tận ngày nay vẫn còn xây ra những chuyện lạ lùng như­ bầy tỏ lòng yêu nước thì bị cấm đoán, triệt hạ, những người yêu nước thì lại bị bắt giữ, cầm tù.

 

Thành quả giáo dục đen tối như­ thế, chất chứa những nguyên nhân còn gây tác hại lâu dài như­ thế , vậy tại sao không ghi lại để các thế hệ sau tìm đến như­ tìm những vết xe đổ cần tránh xa, để không lặp lại ?

 

* *

*

Vì những lý do đó, và mặc dù có thể khả năng viết lách nay không còn được như­ xư­a, nhưng tôi cũng cố gắng trong cái sức của mình để viết lên những trang sách này.

 

Tôi gọi đây là hồi ký của “một nhà giáo”, hiểu theo nghĩa chung chung là của một người đã từng cầm phấn và đứng trước bảng đen. Đấy không phải hoàn toàn là những kinh nghiệm riêng tư của một mình tôi . Bởi nếu chỉ viết riêng có chuyện mình thì bức tranh toàn cục có thể sẽ thiếu sót nhiều mặt, nhiều chi tiết. Chi bằng đặt dư­ới danh nghĩa “một nhà giảo”, tác phẩm sẽ gom góp được kinh nghiệm sống của nhiều người hơn và việc thể hiện trên trang giấy cũng dế dàng hơn. Tuy nhiên, dù có cố gắng cách nào thì thành quả nếu có cũng sẽ chỉ là nhỏ nhoi trong muôn một.

 

Ư­ớc vọng của người viết là mong mỏi rồi ra còn nhiều đồng nghiệp đã từng kinh qua những khoảng thời gian đó, sẽ ngồi viết lại hay góp phần phổ biến những trang sách cùng loại, để bức tranh khắc họa về ngành Giáo Dục VN sẽ mang một nội dung phong phú hơn, những sai lầm gây tổn hại lớn lao cho đất nước do những đầu óc thiển cận hẹp hòi trong quá khứ sẽ được nói lên rõ ràng hơn, và những thông điệp gủi gắm lại cho thế hệ đi sau sẽ mang được nhiều tâm huyết và được loan truyền rộng rãi hơn. Được nh­ư vậy hẳn chúng ta sẽ vô cùng hoan hỉ vì đã cùng nhau hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp hoàn tất trách nhiệm cuối cùng của những nhà giáo trước khi buông xuôi hai tay về chốn vĩnh hằng…

 

Nhật Tiến.

 

California , khởi viết tháng 11-2011

hoàn tất tháng 2-2012

* NXB huyền trân – 2012

 




Đi dép da đừng quên một thời giẫm đất



1.

 

CHỌN LỰA

 

Sau 30- 4- 1975, tôi có hai cơ hội chọn lựa để khỏi phải đi kinh tế mới. Một là lui tới thường xuyên Hội Văn Nghệ Giải Phóng để lấy chỗ dựa hơi hòng qua mặt Phường, Khóm khi những nơi này đang lập danh sách các hộ gia đình phải rời thành phố, và hai là quay trở lại ngôi trường mà tôi đã từng dạy học ở đó trên 10 năm.

 

Dĩ nhiên là tôi chọn lựa việc quay trở lại trường cũ vì quả thực, dù có yêu quý gắn bó thế nào .đối với văn nghệ thì tôi cũng không thể nào chứng kiến thêm nữa những khuôn mặt huênh hoang, phách lối, hay cung cách ăn nói hàm hồ, nhố nhăng của những kẻ nằm vùng như Thái Bạch hay những quan văn nghệ đến từ miền Bắc như Bảo Định Giang, Anh Đức, Mai Quốc Liên..v. . .v. . .trong các buổi học tập mang tên là “bồi dưỡng chính trị” dành cho giới văn nghệ được tổ chức ở ngay trong thành phố Sài Gòn vào dịp hè năm 1976.

 

Sau cái gọi là khóa “Bồi dưỡng chính trị” này, tôi đã không bao giờ còn đặt chân trở lại trụ sở của Hội Văn Nghệ Giải Phóng hay tham gia bất cứ sinh hoạt nào của họ nữa.

 

Cũng may mà bộ môn giảng dạy của tôi trong nhà trường cũ không phải là bộ môn Văn. Trong hơn 15 năm cầm phấn, tôi chưa hề phụ trách một giờ Quốc văn nào. Bởi môn chính mà tôi đã từng phụ trách ở nhiều tư thục hồi trước 1975 là môn Vật Lý và Hóa Học . Nhờ tính cách khoa học của hai môn này mà tôi được chấp nhận dễ dàng khi quay trở về trường cũ “đăng ký giảng dạy”.

 

Tôi nghe nói hai môn Văn và Sử thì giáo viên cũ của miền Nam khó mà len được chân vào. Mà có nhờ quen thuộc, thần thế để len được vào, thì những cái mới còn quá mới, những cái cũ thì đang bị lên án, tẩy xóa, như thế thì kiến thức có được bao nhiêu để mà giảng dạy? Điều này càng thể hiện rõ hơn, khi sau này vào khoảng năm 78 hay 79, có lần tôi bắt gặp mấy tên học trò ngồi ở cuối lớp tôi đang giảng dạy, bỗng chui xuống gậm bàn rồi chuồn ra ngoài hành lang. Tôi chạy ra khỏi lớp, túm lại được, thì chúng nó khai :

 

- Chúng em đi coi cô giáo Văn khóc !

 

Tôi ngạc nhiên chưa hiểu Ất, Giáp gì thì có đứa giải thích :

 

- Tại vì tuần này cô giáo giảng về thơ văn Bác Hồ. Cứ tới đúng đoạn đó, chỗ đó thì cô khóc. Không phải khóc ở một lớp mà tại lớp nào cô cũng khóc y như nhau. Vì thế chúng em kéo nhau . . . đi xem ! ? ?

 

Úi chà ! Dạy Văn mà khó đến thế thì sức nào các thầy cô thuộc chế độ cũ kham cho nổi ! Dĩ nhiên, không phải cô giáo Văn nào cũng bị nhà trường bắt buộc phải “khóc” như thế. Nhưng chỉ cần một hình ảnh như kể trên thôi, cũng đủ cho thấy cái đời sống xã hội ở miền Bắc và con người sinh hoạt ở đó (nhất là trong môi trường Giáo Dục) tất nó sẽ phải ra làm sao rồi !

 

Riêng về cô giáo dạy môn Văn, chuyên viên khóc đúng chỗ này, thật tình tôi không nhớ tên nhưng hình ảnh của cô thì vẫn còn y nguyên trong trí nhớ của tôi. Cô trạc khoảng ngoài ba mươi, đến từ miền Bắc, ăn mặc rất giản dị tứ thời chỉ có chiếc áo sơ-mi trắng và cái quần dài đen. Tóc cô cắt ngắn đủ che sau gáy và hai bên tai. Khuôn mặt của cô hơi thô, mang vẻ cứng cáp, dằn dõi nên hơi thiếu cái nét truyền cảm của nữ tính. Ít khi tôi thấy cô cười dù chỉ là một nụ cười góp trong một đám đông trò chuyện ồn ào. Cô không ưa giao dịch, cũng không dòm ngó hay soi mói ai. Nhìn bề ngoài, tôi thấy cô tỏ vẻ miễn cưỡng mỗi khi được xếp đứng chung trong hàng ngũ của đám cán bộ nhà trường. Cái tâm lý này cũng dễ hiểu vì tôi cũng đã rõ tâm trạng của nhiều người như cô : So khả năng với đám giáo viên chế độ cũ thì quả là mình yếu kém, nhưng so về thành tích chiến thắng thì bọn họ lại thua xa. Hẳn sự giằng co giữa hai trạng thái đối nghịch này đã khiến cho cô cứ như phải nhấp nhổm, dè chừng để đối phó với ngay chính bản thân mình.

 

Dĩ nhiên hành động khóc trong lớp đủng lúc, đúng chỗ của cô không làm cho tôi mất cảm tình đối với cô bởi vì chuyện khóc” như thế không phải là điều gì quá mới mê đồi với tôi. Có một lần , tôi tiếp một bà bác ở Hà Nội vào chơi, khi kể đến đám tang ông Hồ hồi năm 1969, bà chép miệng :

 

- ôi dào ! Trời thì mưa nhé, mà dậy sớm từ tờ mờ để đi xếp hàng vào đám tang. Ai cũng khóc như cha chết!

 

Tôi hỏi ngay : .

 

- Khóc thật không, hay giả vờ ? ‘

 

Bà bác trợn mắt :

 

- Ai thì tao không biết. Chứ tao thì khóc thật, gào thật ấy chứ ! Nó như cái bệnh lây lan. Lại thêm, cứ nghĩ không khóc thật, gào thật, có đứa báo cáo thì bỏ mẹ ! ! !

 

Thì ra cái sự giả dối trong xã hội miền Bắc nó đã lan tràn khắp cả mọi nơi, trong gia đình, ngoài xã hội và dĩ nhiên ở cả ngay trong nhà trường là nơi dạy dỗ uốn nắn con người kể từ khi còn bé. Bài hát “Đêm qua em mơ gặp bác Hồ “ mà trẻ con hát leo lẻo hàng ngày chăng phải là một sự dạy con nít quen thói dối trá hay sao ?

 

Hồi cán bộ mới đến tiếp thu ngôi trường tôi đang dạy này, tôi thấy Quận gửi xuống toàn thành phần cán bộ của Mặt Trận Giải Phóng. Người đại diện Ban Giám Hiệu là một anh nghe đâu trước học ở Đại học Vạn Hạnh SàiGòn. Sau, anh rút ra bưng và bây giờ trở về trong vị thế của kẻ chiến thắng. Ấy vậy mà tôi không thấy vẻ nhố nhăng dù chỉ một câu nói hay cử chỉ nhỏ nhặt nào khi anh tiếp xúc với đám giáo viên tới trình diện để trở lại trường. Theo kinh nghiệm của tôi, tôi chỉ thấy cái đám văn nghệ sĩ đến từ miền Bắc, tham gia khóa bồi dưỡng chính trị cho đám văn nghệ sĩ miền Nam là hung hăng, phách lối như Bảo Định Giang, Mai văn Tạo, Phan Đắc Lập, Nguyễn Quang Sáng nhưng mục hạ vô nhân, nhố nhăng nhất phải kể tới Anh Đức và Mai Quốc Liên. Chính Mai Quốc Liên đã tuyên bố một câu hết sức hỗn xược khi trả lời Nguyễn thị Hoàng :

 

“ Miền Nam của các anh chị làm gì có văn hóa !”

 

Phụ tá cho Ban Giám Hiệu, và sau này mang chức danh Hiệu Phó, tất cả có hai người. Một người là một thanh niên trạc hai bốn, hai lăm, khá đẹp trai, tính tình nhã nhặn, biết nghe, biết ăn nói chừng mực, nhưng trình độ giác ngộ cách mạng của anh ta thì phải nói là siêu việt. Bởi anh ta bỏ cả gia đình, bỏ cả học hành để ra bưng hoạt động. Khi trở về thành, anh dành tất cả thì giờ riêng tư cho công cuộc gây dựng ngôi trường mà tôi đang dạy trở thành một nhà trường Xã Hội Chủ Nghĩa. Điều đó có nghĩa là anh ăn ngủ ngay tại trong trường và việc gì cũng tham gia, cũng để tâm tới và góp phần trong những quyết định sau cùng. Anh sống cũng rất giản dị, tứ thời đánh chiếc sơ-mi trăng may bằng vải nội hóa không ủi, cái quần ka ki mầu xanh bộ đội và đôi dép râu hẳn anh cũng tha nó từ trong rừng về.

 

Vị Hiệu Phó thứ hai là một “cựu nữ lao công” của nhà trường tù trước 1975. Bà này đã ngoài 50, ít học dĩ nhiên, vì bà làm lao công trong trường chúng tôi dạy từ nhiều năm trước đó. Bây giờ, trong cương vị mới, nom bề ngoài của bà thì có vẻ tươm tất hơn. Nghĩa là tuy cũng quần thâm, áo cánh trắng nhưng không nhếch nháp, cực nhọc vì phải làm việc như xưa. Bây giờ bà đã ngồi tham dự tất cả các buổi họp, tôi thấy bà cũng hí hoáy ghi chép nhưng cam đoan đấy chỉ là những con giun loằn ngoằn vì đã có lần bà sơ ý để cuốn sổ lộ ra và chính mắt tôi đã nhìn thấy. Bị cột vào cái cương vị này, tôi có cảm giác như bà ta bị miễn cưỡng. Bởi nếu là kẻ có tham vọng quyền lực mà bỗng nhiên trời cho rớt xuống một cái ghế Hiệu Phó như thế, hẳn bà ta phải huênh hoang, phách lối và mục hạ vô nhân như nhiều kẻ tiểu nhân đắc chí khác. Đằng này tuyệt đối không, tôi không thấy bà ta công khai “hỏỉ giấy” ai, nạt nộ ai hay dậm dọa gì ai. Bà chỉ lẳng lặng đóng đúng vai trò trên đặt đâu thì ngồi đó, chẳng cần ý kiến, ý cò gì hết, bởi nhiều khi nếu cứ sốt sắng quá lại ra đâm hỏng hết việc.

 

Với một “bộ sậu’ điều hành như vừa kể, lại thêm đám học trò của miền Nam cũ quay về xin học lại hầu như chiếm toàn bộ sĩ số học sinh toàn trường, nên việc dạy dỗ của chúng tôi cũng đã diễn ra trơn tru, không có gì trở ngại, ngoại trừ cái vụ phải giảng bài theo giáo án là chuyện vô cùng nhức đầu mà tôi sẽ đề cập trong một chương tới.

 

Vào năm đầu tiên thuộc niên khóa của “nhả trường Xã Hội Chủ Nghĩa”, tức mùa Thu năm 1976, tôi lại ghi nhớ một kỷ niệm khó quên. Suốt mùa hè năm đó, mọi sự chuẩn bị từ danh sách giáo viên, thời khóa biểu các lớp đến tài liệu giáo khoa, giáo án, tất cả dưới tài điều khiển lanh lẹ và khôn ngoan của anh Hiệu Phó, đều đã xong xuôi hết. Đám giáo viên chúng tôi sau khi đã phải tập trung ở trường Tabert cả tháng trong mùa hè để học chính trị, nay cũng đã trở lại trường chuẩn bị cho Lễ Khai Giảng. Dĩ nhiên là phải có Chào Cờ, có Thông Điệp của Nhà Nước, có diễn văn của đại diện Sở Giáo Dục, có phát biểu cảm tưởng của đại diện Hội Nhà Giáo Yêu Nước..v..v. . .

 

Phần tiến hành thủ tục chào cờ được trao cho một Thầy vốn là giảng viên Thể Dục Thể Thao của nhà trường cũ trước đây. Học sinh xếp hàng ra sao, tiến lui theo nghi lễ thế nào, vào lối nào, ra lối nào, hô hoán khẩu hiệu gì v..v. . . Thầy đều cho tập rượt kỹ lưỡng.

 

Ấy thế mà chính Thầy lại bị vướng phải một lỗi chết người.

 

Đó là cái lúc khi trong khi toàn trường và đông đủ quan khách tuyệt đối im lặng nghe hiệu lệnh của Thầy, thì thầy hô :

 

- Chào cờ chào . . .Này công dân ơi quốc gia đến ngày giải phóng. . .

 

Ôi trời ơi là trời ! Thì ra Thầy quen miệng hát lên bài quốc ca của chế độ cũ !

 

Cả học sinh lẫn các thầy cô đều chết sững ra trong vài giây, rồi những tiếng nhốn nháo bắt đầu dấy lên ở mọi chỗ.

 

Phải nói anh Hiệu Phó lả một tay nhanh trí và hành động rất nhậm lẹ. Anh bỏ phắt hàng ghế đang ngồi và nhẩy lên giật lấy cái micro mà nói to : “ Tất cả nghe tôi ! Chào Cờ. . . Chào . . .Đoàn quân Việt Nam đi sao vàng phất phới. “

 

Những giọng hát lẻ tẻ cất lên, tiếng xôn xao tắt lịm, và bài hát cứ mỗi lúc một hùng hồn thêm làm bà con ai nấy thở phào.

 

“ Cờ in máu chiến thắng vang hồn nước

Súng đằng xa vang khúc quân hành ca….”

 

Về vụ ấy, tôi không rõ thầy Thể dục Thể thao phải nhận lãnh những kết quả gì, nhưng sau đó vài tuần, tôi vẫn thấy Thầy hướng dẫn tập thể dục cho các lớp ở dưới sân. Còn tay Hiệu Phó thì chỉ buông có một câu gọn lỏn:

 

“ Thầy ấy quen mồm chứ không có ý đồ gì đâu ! “

 

Trong mấy tuần lễ đầu, lớp học của tôi chỉ lác đác có vài đứa học trò vốn là con em cán bộ từ xa tới, còn hầu hết đều là những học sinh miền Nam cũ. Đứng trên bục giảng, nếu mắt không chạm phải tấm biểu ngữ nền đỏ chữ vàng treo ở bức tường phía cuối lớp thì tôi vẫn tưởng như mình đang giảng dạy trong một lớp học của hai năm trước đó Nhưng cái cảm giác này bị tan biến đi ngay vì tôi biết rất rõ biểu ngữ này trên có chữ “Không có gì quý hơn độc lập tự do” đã nghiễm nhiên thay thế cho hàng chữ “Tiên học Lễ, hậu học Văn” vốn ngự trị ở đó từ hàng chục năm qua. Hồi đầu hè, đã có lần tôi hỏi một thầy trong Hội Nhà Giáo Yêu Nước là tại sao lại xóa bỏ câu “Tiên học Lễ, hậu học Văn” thì thầy nhún vai trả lời ” tàn dư lạc hậu , hay ho gì cái thứ lễ nghĩa đó”.

 

Tôi đã không cãi lại. Có cãi thì cũng vô ích, đâu có thể thay đổi được gì khi mình chỉ như một con ốc nhỏ xíu trong một guồng máy khổng lồ đang vận chuyển. Tuy nhiên, cứ đối chiếu vào thực tế thì tôi vẫn thấy rõ cung cách ứng xử của học trò miền Nam bao giờ cũng lễ độ và đúng mực hơn nhiều. Cụ thế là trong lóp học, bàn thầy giáo lúc nào cũng có một cái khăn trải bàn, có lớp thì lại thêm một bình hoa, dẫu là hoa nylon nhưng cũng đã thể hiện tấm lòng của trò đối với thầy, bởi vì công việc lo trải khăn, sắp xếp bình hoa đó là do Ban Chấp Hành Lớp tự nguyện chứ không luật lệ nhà trường nào bó buộc cả. Tiếc thay, cái mỹ ý đó của học trò chỉ sau vài tuần là bị tém dẹp. Một trưởng lớp đã nói với tôi:

 

- Ban Giám Hiệu bảo dẹp. Đó là tàn dư của phong kiến ?

 



Thanh niên diễu hành đòi đốt sách


Tôi cũng không lấy thế làm ngạc nhiên, vì Thành đoàn còn tổ chức biết bao nhiêu là toán học trò đứng ở các đầu đường, sẵn sàng lấy kéo sởn tóc, cắt ống quần của nhiều người mà chúng cho là chướng tai gai mắt kìa. Ở thời buổi này, cứ cái gì thuộc chế độ cũ thì đều bị coi là “tàn dư Mỹ Ngụy”, hèn chi ông Mai Quốc Liên chẳng lớn lối nói là miền Nam làm gì có văn hóa ! !


Tuy nhiên không phải bất cứ ai đến từ miền Bắc cũng đều mục hạ vô nhân như thế. Tôi còn nhớ, sau ngày khai giảng niên học được ít bữa thì bỗng có hôm tôi nhìn thấy một ông cán bộ cứ đứng ngoài hành lang phía xa xa ngó vào lớp học tôi đang giảng dạy. Tôi biết rõ ông này không phải nhân viên nhà trường nên đoán ông ta là một phụ huynh học sinh. ý hẳn ông băn khoăn không biết con mình theo học ở trường mới, lớp mới, lại ở trong Sài Gòn hoàn toàn xa lạ nên không biết nó sẽ học hành, xoay sở ra sao. Dĩ nhiên là tôi để cho ông mặc sức dòm ngó, quan sát, theo dõi từng đường đi nước bước diễn tiến trong lớp học của tôi. Kể từ lúc tôi bước vào lớp, tất cả học trò đều đứng đậy và chỉ ngồi xuống khi tôi vẫy tay cho phép ngồi. Rồi qua các “khâu” gọi học trò trả bài, đến sửa bài tập kỳ trước rồi giảng bài mới, hình như ông đã tới nhiều lần để quan sát được nhiều giai đoạn khác nhau. Cho đến một hôm, vào giờ tan học, tôi thấy ông tiến lại gặp tôi ở ngoài cổng trường và ngập ngừng nói :

 

- Chào thầy. Tôi là phụ huynh của con bé ngồi bàn đầu trong lớp của thầy.

 

Tôi “à” lên một tiếng và nói:

 

- Tôi biết rồi. Trò ấy tên Loan.

 

- Vâng, thưa thầy. Cháu Loan nhà tôi trình độ có thấp, mọi sự trông nhờ ở thầy.

 

Tôi vội vã đáp:

 

- Xin ông cứ yên tâm. Học sinh trong lớp, tôi biết rõ từng đứa và đứa nào cũng được quan tâm.

 

Ông ta cũng hấp tấp nói :

 

- Tôi biết. . . tôi biết. . . Tôi đã quan sát cung cách sinh hoạt ở các lớp học trong này. Tôi thấy mọi sự đi vào nề nếp đúng như chúng tôi mong mỏi. ở. . .ở ngoài Bắc, chưa được như thế đâu.

 

Nói xong, ông ta ngừng lại nhìn trước, ngó sau rồi lại tiếp:

 

- Cái nề nếp ấy mong các thầy cô cứ giữ được mãi.

 

Câu nói ấy, sau này cứ vang vang mãi trong đầu của tôi. Trước thì tôi chi coi đó như một lời nhăn nhủ. Nhưng càng về sau này, đi sâu vào mọi sinh hoạt dưới mái một ngôi trường Xã Hội Chủ Nghĩa, tôi càng thấy nó như một lời cầu khẩn, một lời lẽ trao gửi trách nhiệm, đòi hỏi cả cái tập thể nhà giáo chúng tôi hãy giữ gìn kỷ cương trong sứ mệnh giáo dục con em.

 

Nhưng thử hỏi chúng tôi sẽ làm được gì, khi mà cái chế độ này đã trang bị cho công việc giáo dục một định kiến thật rõ ràng : Giáo dục không nhằm đào tạo con người mà chỉ gây dựng nên những thế hệ tuyệt đối trung thành và chỉ biết tuân theo sự dẫn ‘dắt của Đảng cầm quyền. Và hệ lụy của nó, không biết sẽ cần phải bao nhiêu thế hệ nữa mới gột rửa sạch ?

 

2.

 

NHU YẾU PHẨM

 

Giờ “đứng lớp” của tôi hôm nay vẫn diễn ra như thường lệ mọi ngày. Hai chữ “đứng lớp” này hồi mới nghe nói thì có vẻ chối tai. Nhưng riết rồi cũng quen đi. Đối với các thầy cô ở đây, nó nghiễm nhiên trở thành một từ ngữ thông dụng, phát ngôn hằng ngày một cách tự nhiên cùng với nhiều từ ngữ khác xoay quanh đời sống, cứ như chúng đã lặn sâu vào trong đầu óc người ta tự bao giờ.

 

Như thế khi tôi nói “hôm nay tôi có 4 tiết Lý, 2 tiết Hóa, 2 tiết phụ đạo, tối về còn phải soạn giáo án cho tuần tới nữa”, thì chắc chỉ những giáo viên của nhà trường xã hội chủ nghĩa mới hiểu ngay. Mà thật ra nó cũng chẳng có gì bí hiểm. Ngày trước nói dạy học một giờ thì bây giờ đổi là đứng lóp một tiết. Hai chữ đứng lớp , nghe có vẻ nôm na, không hay ho gì nhưng đổi chữ giờ thành chữ tiết là có cả một dụng ý. Trong vụ này, các nhà giáo dục của nhà nước XHCN biết phân biệt rạch ròi, tỉ mỉ lắm đấy. Bởi khi ta nói dạy 1 giờ nhưng có bao giờ thầy giáo vào lớp dạy đủ 1 giờ đâu. Nội việc khi có kẻng đầu giờ, nào thu vén tài liệu, nào sắp xếp cặp táp rồi di chuyển đổi từ lớp này qua lớp kia cũng mất của học trò 5, 7 phút rồi. Vậy phải gọi là một “tiết” thì mới hợp lẽ công bằng, để không mang tiếng ăn gian, ăn lận của học trò lấy một phút. Thực tình, vào cái thời gian đó, tôi đã phục lăn tính chất công bằng, minh bạch, đâu ra đấy của chế độ mới chỉ thông qua cái vụ gọi giờ thành tiết này.

 

Thế còn “phụ đạo” là cái quỷ gì ? Hồi mới nghe Ban Giám Hiệu phát ngôn, tôi có hơi bỡ ngỡ. Nhưng rồi tôi hiểu ngay ra rằng đấy là công việc nhà giáo phải tình nguyện dạy thêm giờ cho những học trò “cá biệt” tức là đám học trò có thành tích nghịch như ma, lười học như quỷ.

 

Nhưng đến cái vụ soạn “giáo án” thì mới thật là nỗi kinh hoàng của đám giáo viên mới bước chân vào nhà trường XHCH như tôi. Thật ra, nó cũng chỉ là sự soạn bài. Ai đã đi dạy học mà chẳng phải soạn bài. Đây là công việc âm thầm của riêng mỗi cá nhân thày hay cô giáo. Tức là tùy theo cung cách trình bày bài giảng của mỗi người, mạnh ai nấy soạn, chẳng phải trình ai, chẳng phải chờ ai thông qua. Bọn nhà giáo chúng tôi quen lệ như thế từ mấy chục năm qua rồi. Nhưng bây giờ, khi nói đến giáo án là nói đến những nguyên tắc chỉ đạo, đến những mục đích yêu cầu, đến những trình tự sinh hoạt từng phút của thầy và trò trong lớp học. Thậm chí thầy sẽ hỏi trò cái gì, câu giải đáp của thầy ra sao, lại còn cả cái vụ dự trù học trò hỏi quàng xiên thế này thế khác, thầy cũng phải dự bị sẵn câu đối phó để trả lời. Ôi, những thứ này tuy nhiêu khê, lỉnh kỉnh nhưng cũng có nhiều điều đáng nói đến. Xin sẽ đề cập tới ở những phần sau.

 

Nói chung thì từ ngữ nào tuy mới mẻ đến đâu cũng chỉ trong vòng vài tháng đầu các thầy cô ai cũng ngốn được hết, nhưng với riêng tôi, hai chữ “đồng chí” thì không đâu nhe. Ở ngôi trờng này người ta gọi các giáo viên là đồng chí, một số giáo viên cũng gọi nhau là đồng chí. Nhưng với tôi thì nó quả một thứ rất khó nuốt vô. Đồng chí cái nỗi gì, khi mà trước ngày 30-4, tôi còn xán lại đám đông bu quanh tiệm hớt tóc ở đầu ngõ để nghe lỏm những lời bán tán om sòm. Giọng ông hớt tóc oang oang :

 

- Các cô phen này là hết bôi son, má phấn nhớ. Lại còn cái vụ móng tay đỏ choét như tiết gà nữa. Việt Cộng mà vô thì nó chặt phăng đi hết!

 

Khi nghe những lời đồn đại ấy lòng tôi bán tin bán nghi, lại còn nghĩ rằng ” Việt Cộng dám làm đủ mọi thứ lắm”. Kiến thức về Việt Cộng đã mơ hồ đến như thế, lại nữa tôi có ra bưng ngày nào đâu mà xưng hô “đồng chí” với nhau được ! Hình như các cô giáo dạy môn Sinh vật, Vật Lý, Hóa Học ở cùng tổ Khoa Học Tự Nhiên cùng với tôi cũng thầm chia sẻ những ý nghĩ này nên các cô vẫn gọi tôi là thày, và tôi cũng gọi lại là các cô. Mấy chữ đồng chí thì chỉ có Ban Giám hiệu hay Chi đoàn thanh niên trong trường là xài nhiều nhất !

 

Buổi sáng hôm ấy tôi ôm sách vở tài liệu vào lớp như thường lệ . Học trò vẫn đứng hết cả lên như thường lệ. Chỉ riêng hai bàn đầu là tôi thấy những gương mặt lạ. Đó là những con em cán bộ từ miền Bắc vào và được xếp lớp theo tiêu chuẩn : lớp 7 ngoài Bắc thì vào ngồi lớp 9, 1ớp 8 1eo lên lớp 10 . Lý do là bậc trung học của miền Bắc chỉ có 10 năm, còn trong Nam . học trò phải trải qua tới 12 năm lận.



 Đối với tôi học trò “miền” nào thì cũng nh­ư nhau. Tuổi trẻ ở đâu thì cũng hồn nhiên, trong sáng, nếu ham học hỏi thì chúng nó cũng đều tiến bộ như ai. Nhưng sở dĩ tôi gọi “những khuôn mặt lạ” là ở chỗ chúng nó có cùng một nước da sạm tái như nhau, y phục thì chỉ sơ mi trắng với quần tây màu cứt ngựa, và nhất là tia nhìn thì xoay xoáy cứ như muốn xuyên qua cái đầu của thầy giáo xem ông ấy đang nghĩ gì.
 Nói đúng ra, tôi chẳng có ý nghĩ gì hết ngoài bài giảng tôi sắp trình bầy. Tôi chẳng dại gì mà làm cái việc lợi dụng bài giảng để đư­a ra những lời nhạo báng chế độ qua đầy dẫy những chuyện bất toàn xảy ra chỉ nội trong khuôn viên trường học như thề ông Hiệu trư­ởng, ngư­ời sau này thay thế cho anh sinh viên Đại Học Vạn Hạnh vốn chỉ làm đại diện Ban Giám Hiệu có vài tháng rồi không biết bị rút đi đâu mất tăm, không có một lời thông báo chính thức. Còn ông Hiệu trưởng mới đổi về này, không cần giới thiệu chúng tôi cũng biết ông ta là gốc bộ đội vừa đư­ợc chuyển ngành. Bởi trong cương vị một Hiệu trưng một trường Trung học, ông ta vẫn bận bộ quần áo bộ đội tới trường để điều hành công việc. Hơn thế nữa, bên hông ông ta lúc nào cũng kè kè một khẩu súng lục, không biết để làm gì ngoài chuyện thị uy với đám giáo viên trong vùng mới “giải phóng”. Ấy mà ông ta vẫn gọi chúng tôi là “các đồng chí”.

 

- Các đồng chí phải ráng phấn đấu để trở thành người giáo viên gư­ơng mẫu của nhà trường Xã hội Chủ nghĩa.

 

- Các đồng chí cũng nên nhớ rằng nhà nước chuyên chính vô sản sẵn sàng đập tan mọi âm m­ưu bạo loạn của bọn phản động, tàn dư­ của bè lũ tay sai nước ngoài để bảo vệ vững chắc nhà nước xã hội chủ nghĩa.

 

- Chúng ta dân chủ với mọi đồng chí, nhưng dứt khoát là phải chuyên chính với mọi tàn d­ư phản động.

 

- Các đồng chí nên nhớ dạy theo đúng sách giáo khoa với giáo án đi kèm chính là một Pháp Lệnh. Ai không tuân thủ Pháp Lệnh là chống đối Nhà Nước, là phản động, là bán nước !

 

Nói xong câu này, ông ta còn đ­ưa tay xốc cái thắt lư­ng quần khiến cho khẩu súng lục cứ bị đẩy lên, chìa ra trư­ớc mắt mọi ng­ời. Tôi không nhớ là ai, như­ng rõ ràng à một anh bạn đồng nghiệp ngồi bên cạnh tôi đã giơ khuỷu tay kia hích vào mạng s­ườn tôi một cái. Tôi muốn bật lên cư­ời như­ng may quá, tôi còn đủ tỉnh táo để không làm cái chuyện khờ dại đó.

Bài giảng môn Vật Lý của tôi hôm ấy là một bài thuộc môn Quang Học. Sau khi vẽ hình trên bảng đen, ngay lúc tôi vừa bắt đầu nói : ” những tia sáng song song với trục chính sau khi đi qua Thấukính sẽ hội tụ tại mộ điểm F gọi là tiêu điểm chính . Khoảng cách từ tiêu điểm đến quang tâm O gọi là tiêu cự . . . .” thì chợt tiếng loa từ khu văn phòng chính đã dội vào khắp các lớp . Cái giọng nghe đã oang oang mà lại còn có đôi chút gắt gỏng cứ như vừa hối thúc mà lại vừa giận dỗi :

 

“ Yêu cầu đồng chí Bùi Nhật Tiến xuống ban tiếp liệu nhận nhu yếu phẩm.”

 

Khổ thân tôi vì thấy tên của mình bị réo gọi, mà nó bị réo gọi tới hai ba lần. Hằn điều này sẽ là nguyên do để tôi bị nhiều lóp khác nguyền rủa vì có mỗi chuyện nh­ư thế mà đến nỗi để loa phải réo làm mất sự yên tĩnh của các lớp khi thầy, cô giáo đang giảng bài. Mà đây đâu phải chuyện phân phối nhu yếu phẩm đột xuất. Ngay từ sáng, lúc vừa bư­ớc chân vô cồng trường thì cô giáo cũng thuộc bộ môn của tôi đã rỉ tai:

 

“Hôm nay nhu yếu phẩm về, Tổ mình phải cử ngư­ời vào giúp Ban phân phối.”

 

Tôi nhìn cô nài nỉ:

 

- Thôi, cô xuống giúp họ một tay đi. Khỏi họp Tổ, phân công lôi thôi.

 

Tư­ởng mọi sự thế là xong. Ai ngờ tên tôi vẫn bị réo gọi. Mà gọi để xuống nhận nhu yếu phẩm chứ đâu có phải làm lụng gì. Phải nói rằng sau bao nhiêu ngày tháng triền miên trong thiếu thốn, nhu yếu phẩm là một niềm mơ ­ước của nhiều ngư­ời. Đám giáo viên thuộc chế độ cũ chúng tôi, bất kể thâm niêm hay cấp lớp giảng dạy, trong niên học đầu tiên mọi ngư­ời đều đư­ợc lãnh đồng đều mỗi tháng 30 đồng, và chỉ thay đổi bậc lư­ơng khi mỗi ngư­ời đ­ợc chính thức vào “biên chế”. Lư­ơng 30 đồng mà thời giá khi đó là 10 đồng 1 kí gạo, 1 đồng 1 lon ngô đong vừa đầy một ống lon đựng sữa bò, thì tất nhiên là phải có thêm nhu yếu phẩm cấp phát đi kèm. Hầu như mỗi tháng 2 kỳ, mỗi giáo viên đư­ợc lãnh 1 hộp sữa bò, một túi đư­ờng trắng cỏ khi là đư­ờng bổi, đư­ờng miếng (tôi chư­a bao giờ cân xem nó nặng bao nhiêu gam), một túi nhỏ đậu xanh hay đậu đen, 1 thếp giấy viết khổ đôi, 2 cuộn giấy đi cầu ( loại giấy đã tái chế biến, dầy xộp, cỏ mầu đỏ hồng chứ không phải mầu trắng). Lâu lâu thì có thêm 1 chai bia hay một gói thuốc lá. Như­ng mấy thứ này thì phải chia nhau. Bia thì cứ hai ngư­ời một chai, thuốc .lá hai ngư­ời một gói. Ai .không uống bia, hút thuốc thì đối lấy đư­ờng, lấy đậu xanh, hay ngay cả cuộn giấy đi cầu. Nếu cả hai cùng muốn uống bia thì rút thăm, hoặc mở tại chỗ uống chung, thay phiên nhau môi ngư­ời một ngụm !

 

Vào cái ngày đư­ợc phát nhu yếu phẩm thì học trò cả trường đều biết, thậm chí dân chúng trong những khu phố gần trường cũng đều biết, vì khi tan trường thầy cô giáo ra về, trên tay ai cũng có một bịch ny lông, bên trong nhồi đủ thứ, nh­ưng nhìn rõ nhất là lon sữa bò hay cuộn giấy vệ sinh. Đấy là những thứ hàng tiêu dùng. Riêng về thực phẩm thì lại khác. Nó không có tiêu chuẩn nào theo định kỳ hay món ăn nào nhất định cả. Phần đông, thì giáo viên đư­ợc lãnh thêm thịt, thêm cá, đôi khi lại còn đ­ược phân phối thêm cả nước mắm hay xì dầu nữa.

 

Hôm nào thịt về hay cá về thì ngôi trường như chộn rộn hẳn lên. Các cô giáo thì thào hỏi nhau :

 

- Bữa nay cá t­ươi không ?

 

- Thịt hôm nay nhiều mỡ không ? Nhớ dặn để cho tôi ít thịt nh­ưng nhiều mỡ.

 

- Tôi dạy tới tiết 4 xong mới về, nhớ dành giùm tôi một chỗ trong tủ lạnh. Kẻo thịt mang về thiu mẹ nó hết.

 

Mà thật tội nghiệp cho cái tủ lạnh ở trường tôi. Trước tháng Tư­ năm 75, nó chỉ là một cải tủ nhỏ đặt ngay tại phòng của các giáo sư­, trong để vài chai nước lạnh mà ít ai buồn uống. Như­ng bây giờ thì nó chứa đủ loại túi, gói mà bên trong là thịt, là mỡ, là những khoanh cá nhòe nhoẹt cả vẩy lẫn máu cá. Phía ngoài túi thì có ngư­ời đảnh dấu bằng những sợi dây mầu đỏ, mầu xanh, hay dây lạt có đeo thêm mảnh giấy ghi tên rõ ràng : cô A, thầy B…lớp này lớp kia. Bởi ch­ưng tủ thì nhỏ, điện thì yếu, mà đồ thì chen chúc nhau nên hơi lạnh tỏa ra thì ít , khi mở ra chỉ thấy toát lên một mùi vừa chua, vừa hôi nó khiến cho ai cũng phải giật lùi ng­ười lại và đư­a tay lên che mũi.

 

**

*

Đúng lý ra, khi thấy tên bị réo gọi thì tôi phải buông phấn mà chạy đi lãnh khẩu phần của mình. Nh­ưng khổ nỗi bài giảng của tôi chư­a chấm dứt. Tôi không muốn vì bất cứ lý do gì mà cái phần quan trọng nhất này của một buổi học lại phải gián đoạn. Đây là một nguyên tắc mà tôi tự ý đề ra, không phải bây giờ mà đã từ rất nhiều năm trư­ớc trong nghề. Tôi còn nhớ cái năm còn dạy ở trường Bồ Đề gần chợ Cầu ông Lãnh do Thư­ợng Tọa Quảng Liên làm Hiệu tr­ưởng. Có lần tôi đang giảng bài thì thư­ ký văn phòng đi vào đưa cho tôi một danh sách gồm cả chục tên học trò cuối tháng chưa đóng học phí. Theo nguyên tắc thì tôi phải đọc tên những trò này lên và mời chúng ra khỏi lớp học. Nh­ưng tôi đang giảng bài, và tôi không muốn vì hoàn cảnh khốn khó mà mấy đứa học trò bất hạnh của tôi bị mất bài giảng hôm đó. Vì thế tôi thản nhiên nhét cái danh sách vào túi rồi tiếp tục giảng bài trư­ớc con mắt bực tức của viên th­ư ký. Sau đó tôi đư­ợc gọi lên văn phòng Hiệu Tr­ưởng để nghe lời cằn nhằn. Nh­ưng tôi đã không nh­ượng bộ. Nguyên tắc đơn giản của tôi là : “Gọi lúc nào thì gọi, nhưng tuyệt đối không xâm phạm vào lúc nghe giảng bài của học sinh “. Có thể nhà trường bực bội vì tính bướng bỉnh của tôi, như­ng cuối cùng thì vẫn nh­ượng bộ để cho tôi làm theo ý mình. Như thế thì làm sao tôi có thể ngư­ng giảng bài để chạy đi “lãnh nhu yếu phẩm” !

 

Ở dư­ới lớp, tôi nghe có vài tiếng học trò nhắc nhở :

 

-Nhu yếu phẩm kìa thầy ! .

 

- Thầy xuống mau lãnh phần ngon. Xuống chậm toàn đồ dỏm, uổng quá thầy !

 

Rồi lại có tiếng chúng nó hỏi nhau:

 

- Không biết hôm nay có cá hay có thịt?

 

- Cá hay thịt cũng chả tới phần tụi bay. Nghèo mà ham !

 

Ôi, mấy tiếng “nghèo mà ham” tôi vừa nghe thấy trong hoàn cảnh này, sao mà trọn ý, trọn lời đến thế !

 

Nh­ưng tôi cứ tảng lờ như không nghe thấy bất cứ tiếng xì xào nào. Tôi chỉ tay lên hình vê trên bảng định cất lời. Như­ng sao cổ họng của tôi cứ nghẹn lại. Tôi hình dung đư­ợc rất rõ hình ảnh của những đứa học trò xanh xao, hai gò má đã hóp lại vì thiếu ăn và vành môi đã thiếu vắng những nụ cư­ời hồn nhiên, tư­ơi sáng. Tôi tự nhủ “mọi sự thay đổi rồi”, ở nhà, trong ngõ, ngoài phố và ở ngay cả nơi đây, trên cải bục giảng mà tôi đang cố nuốt nghẹn để cất lên lời.

 


Cuối cùng thì tôi cũng đã lấy lại được bình tĩnh để lên tiếng giảng bài mặc dù tôi biết lúc đó sẽ chẳng còn có đứa học trò nào để tâm tới :

 

“Tiêu cự của Thấu kính thì tỷ lệ nghịch với độ Hội tụ nếu gọi độ Hội tụ là C, tiêu cự là f thì ta có C bằng 1 trên f ...

 

Vừa lúc đó thì một cô giáo trong Tổ Vật Lý của tôi xuất hiện ở ngay cửa lớp. Những con mắt của đám học trò đang nhìn hình vẽ trên bảng đen bỗng dồn hết cả ra phía ngoài. Tôi cũng quay ra nhìn. Hẳn ai cũng trông thấy trên tay cô cầm một xâu cá vì cô vừa cầm vừa giơ cao nó lên. Tôi không nhận ra được đó là thử cá gì, nhưng vẻ mặt hí hởn của cô thì tôi thấy rõ. Cô làm cứ như mình vừa trải qua một cuộc đấu tranh mà phần thắng đã về mình. Bây giờ thì cô vừa giơ xâu cá lên cao rồi lại làm một cử chỉ nhử nhử như hàm ý để cho tôi biết rằng " Phần cá của thầy đây ! Ngon nhất đấy nhá !".

 

Nhã ý của cô không khiến cho tôi vui vẻ được chút nào. Lòng tôi lại bỗng còn nhen nhúm một sự bực bội nữa ấy chứ. Tôi có nhờ vả gì cô đâu mà sao cô tự ý sốt sắng đến vậy. Đã thế, cô còn đưa tôi vào một tình trạng khó xử. Tôi đang giảng bài. Lóp học của tôi đang thơm tho mùi phấn trắng. Tôi sẽ phải làm gì với xâu cá tanh tưởi mà cô đã sốt sắng mang tới, lại bầy ngay ra trước cả trăm con mắt học trò đang hau háu nhìn ra.

 

Cái đồ nhanh nhảu đoảng ? Tôi hậm hực thoáng nghĩ về cô như thế. Nhưng tôi không thể giận cô. Rõ ràng cô là một người tốt bụng. Cô đã vì tôi mà mua thêm việc chứ có đòi chia chác phần cá này bao giờ đâu. Hẳn cô giờ trước đây, trong khi chia cá cho mọi người, cô đã thay tôi lãnh phần, mà chắc chắn không phải là thứ cá dư thừa dồn lại cho những kẻ hẩm hiu vắng mặt. Đã thế cô lại còn sốt sắng mang tới tận lớp cho tôi để tên tôi khỏi bị tiếp tục réo gọi trên loa. Thế thì rõ ra mình là đồ vô ơn nên mới chê trách cô như vậy !

 

Loay hoay với những ý nghĩ đó trong đầu, rồi cuối cùng tôi cũng đành phải bước ra nhận xâu cá và cất lên một lời cám ơn cô, nghe rất nhạt nhẽo. Chắc cô cũng đã thấy vẻ mặt khó đăm đăm của tôi lúc đó, nên thẩy xâu cá vào lòng bàn tay của tôi xong là cô quay ngoắt đi thẳng, không bình luận thêm một lời về công khó của mình nữa.

 

Khi cô giáo đã đi khỏi rồi, tôi mệt mỏi tay cầm xâu cá chân bước lên bục giảng. Đột nhiên cả lũ học trò cùng ùa lên cười, xen vào đó, tôi còn nghe thấy cả những tiếng vỗ tay. Tôi đột nhiên biến thành một thứ diễn viên hề đang ra mắt khán giả trên sân khấu. Vào cái giây phút này, bài giảng Quang Học về Thấu Kỉnh chẳng có liên hệ gì tới xâu cá tôi cầm trên tay. Tôi có cảm giác như mình vừa bị đẩy tuột từ vai trò của một thầy giáo nghiêm chỉnh xuống vai trò của anh đứng bán xâu cá ngay ở giữa chợ trời ? Còn bọn học trò thì chắc chẳng nghĩ ngợi gì sâu xa hay dè bỉu gì về cái chuyện ấy đâu. Chắc chúng nó chỉ thấy vui. Vui khi thấy ông Thầy đang đứng trên bục mà tay lại cầm xâu cá, một hình ảnh trái khoáy so với dáng vẻ nghiêm chinh của thầy mọi ngày. Có lẽ trong cả cuộc đời lấm lem cùng bụi phấn, cả Thầy lẫn Trò chúng tôi chưa bao giờ lại bị nhập vai trong một pha như thế này, trên bục giảng và trong lớp học.

 

Thế rồi "Niềm vui" của lũ học trò bỗng đem lại cho tôi một ỷ nghĩ bất cần. Tôi chẳng còn ngần ngại hay giữ gìn ý tứ gì nữa. Cầm xâu cá trên tay, tôi cũng giơ lên cao cho cả lớp nhìn thấy. Bây giờ thì tôi nhận ra đó là một xâu độ 4, 5 con cá bạc má có vẻ còn tươi vì máu cá còn dính đỏ trên sợi lạt buộc. Qua sợi lạt buộc, tôi cũng thấy cả gần trăm con mắt của lũ học trò đang đổ dồn vào xâu cá Một đứa lên tiếng:

 

- Cá còn tươi đó thầy !

 

Một đứa khác ngồi ở cái bàn gần xế chỗ tôi đứng cũng lên tiếng:

 

- Xâu này đem chiên giòn với mỡ thì phải biết ! Hết cỡ !

 

Tôi bỗng liếc mắt về phía nó. Nó là một đứa học trò trước đây cũng thuộc loại hiền lành, ít nói rất chăm chỉ học hành. Tuy nhiên dần dà tôi nhận biết được sự đổi thay trên nét mặt của nó. Xanh xao hơn. Vêu vào đi. Cặp mắt đôi lúc thấy thất thần. Đó là dấu hiệu của những cơn đói. Không chỉ một đôi lần mà hẳn phải là triền miên. Cho nên điều ước ao mà nó vừa nói ra, không phải chỉ là một câu nói vui đùa. Trong đầu nó hẳn đã nổi lên những cảm giác thèm thuồng khi nghĩ tới những con cá chiên mỡ cháy xèo xèo trong một cái chảo gang để trên lò lửa đỏ. Khuôn mặt của tôi bất chợt cũng thấy nóng lên. Tôi vụt hít một hơi thật dài để dằn một cơn giận dữ bỗng dưng nổ bùng lên trong đầu óc của tôi. Cái xã hội này, cái ngôi trường này từ ngày đổi thay sao đầy vô cảm đối với mọi thứ bất toàn đang hiện lên đầy dẫy ở chung quanh. Rồi cải số phận trớ trêu nào đã bắt tôi phải trực diện với một hoàn cảnh trái khoáy, tay cầm phấn, tay cầm xâu cá ở ngay trên bục giảng vốn là chỗ đứng quen thuộc của tôi từ bao nhiêu năm nay. Qua sợi dây lạt buộc, tôi nhìn lên bảng thấy cái hình vẽ ký hiệu Thấu kính Hội tụ với những tia sáng chạy song song với trục chính, sao trông nó cũng giống như hình thù của mấy con cá này.

 

Cuối cùng tôi cũng đành phải buông xuôi. Thôi thì dù Cá hay Thấu Kính vào lúc này cũng đều như bị cào bằng, cũng giống như ngoài xã hội mọi thứ cũng đều đang được cào bằng như nhau. Thế là tôi thản nhiên treo xâu cá vào một cái móc ở ngay dưới tẩm bảng đen, cái chỗ mà lớp vẫn dùng để treo giẻ lau bảng. Tôi nghe thấy đám học trò lại đang rúc rích cười. Nhưng tôi vẫn cầm cục phấn và cất to giọng :

 

- Các trò lấy giấy bút ra làm bài tập. “Cho một thấu kính có tiêu cự là 25 centimét... . Vẽ đường đi của một chùm tia sáng song song với trục chinh. Tìm độ Hội tụ…”

 

Và vừa ngay lúc đó, tiếng kẻng chợt vang lên. Báo hiệu đã hết giờ học.

 

3

HỌC SINH CÁ BIỆT

 

Học sinh cá biệt là loại học sinh vừa kém, vừa lười , nhiều đứa lại bướng bỉnh, khó dạy. Thế cho nên nhà trường mời nẩy ra nhu cầu "phụ đạo", tức là phải dạy thêm giờ cho các học sinh yếu kém này.

 

Tôi và hai giáo viên thuộc bộ môn khác được giao phó phụ đạo một lớp gồm hơn mười đứa. Đây là đám học sinh được gom lại từ nhiều lớp học khác nhau, nhưng chúng ở cùng một trình độ, tức là có chung một cấp lớp. Một cô giáo ghé vào tai tôi nói nhỏ :

 

- Cái đám quỷ sứ này toàn là những thứ đội sổ ở nhiều lớp được gom lại đây. Thầy coi chừng bị chúng nó ăn thịt?

 

Tôi mỉm cười :

 

- Cô hãy lo phần cô trước. Bề gì thì chúng nó cũng là học trò cả mà.

 

Cô ta bĩu môi quay đi, nhưng tôi cũng kịp nhìn thấy vẻ mặt lạnh tanh của cô. Hồi trước, khi ngôi trường này chưa bị tiếp thu, cô vốn là người khó tính và rất nghiêm khắc với học trò. Nhưng bây giờ tôi tự hỏi cái tính chất ấy của cô có còn tồn tại được ở ngôi trường mới mẻ này không. Niên học vùa rồi, vào dịp cuối năm, tôi đã thấy lũ học trò cho điểm các giáo viên và nạp cho Bí thư Chi đoàn để tuân theo lệnh không bằng văn bản mà chỉ bằng sự rỉ tai. Ngoài phiếu điểm ẩy ra, có thể còn vài ba đứa khác âm thầm theo dõi thầy , cô để báo cáo ngầm với Ban Giám Hiệu nữa. Tôi thầm mong cái lũ chỉ điểm này sẽ chỉ toàn là những con em cán bộ chứ không phải là những đứa học trò đã từng theo học ở đây từ nhiều năm về trước. Học sinh miền Nam không có thói quen rình mò thầy cô như một thứ chỉ điểm, nhưng rồi trong hoàn cảnh này không biết chúng còn giữ được những phẩm chất đó trong bao lâu nữa.

 

Lớp cá biệt của tôi tuy có hơn mười trò, nhưng tôi lại chỉ đặc biệt chú trọng đến có hai đứa. Một thằng trạc mười lăm, mười sáu, nước da đen đủi, đầu tóc bờm sờm và quần áo đã rách rưới lại còn hôi hám đến kinh người. Nó tên là Sơn, theo giấy tờ xin học thì thấy ghi nơi sinh là Đà Nẵng, bố chết, mẹ làm nghề bốc vác ngoài chợ, không có anh em chị em nào khác. Ngồi bên cạnh nó là thằng Tửu, ít tuổi hơn nó, quần áo tề chỉnh hơn, nhưng tính tình cũng rất bậm trợn, nom nó rõ ra là con của một cán bộ ở ngoài Bắc được gửi vào.

 


Nhìn bề ngoài thì Sơn và Tửu là hai thái cực. Sơn thì cao lớn, ngông nghênh trong khi Tửu thì loắt choắt lại e dè, thứ e dè của kẻ lúc nào cũng muốn giữ thế thủ. Nhưng Sơn thì lại rách rưới hôi hám, trong khi Tửu thì lúc nào nom cũng tươm tất nếu không nói là tề chỉnh từ áo đến quần, ngoại trừ đôi dép râu làm bằng vỏ xe hơi, nom trái ngư­ợc với cái áo sơ mi trắng tuy không ủi nhưng cũng rất phẳng phiu.

 


Thằng Sơn thì tôi thấy nó ít khi mang dép. Đôi dép của nó tuy đã cũ mòn nhưng cũng là thứ dép da có quai xéo, thứ dép thông dụng của hầu hết dân Sài Gòn thời bấy giờ. Sở dĩ gọi là ít mang dép là vì nó chỉ sử dụng đôi dép để qua mặt mấy tay đeo băng đỏ của Chi đoàn vẫn hay đứng kiểm soát ở ngay cổng trường. Đi qua hàng rào kiểm soát là nó tụt ngay đôi dép ra, kẹp vào nách và thoăn thoát bư­ớc qua sân trường. Về sau này tôi mới biết ngoài giờ học Sơn còn phải hối hả phóng ra chợ để phụ với mẹ trong việc bốc vác, dọn dẹp đủ thứ linh tinh tại một khoảnh đất mà mẹ nó đang lui cui làm việc. Vậy là trong bản kê khai gia cảnh, nó ghi mẹ làm nghề bốc vác là đúng chứ không phải bịa đặt để chứng tỏ ta đây là thành phần vô sản. Có một hôm tôi hỏi nó:

 

- Bố mất lâu ch­ưa ? '

 

Nó nhìn tôi giây lâu rồi trả lời :

 

- Mới năm rồi. '

 

Tôi ngạc nhiên :

 

- Mới mất thế sao không thấy em để tang ?

 

Thằng Sơn lại nhìn tôi như thăm dò cái mức độ quan tâm của tôi đối với nó, rồi nó ngậm ngùi :

 

- Tang tóc gì thầy. Em có đeo băng tang đó, Nhưng chỉ gọi là cho có thôi.

 

Nói rồi nó tốc cái vạt áo lên để cho tôi nhìn thấy một mẩu vải đen được cài bằng kim băng ở phía sau túi áo của nó. Rồi nó giải thích thêm :

 

Bổ em chết trận trước ngày 30 tháng 4. Mẹ có tin báo, dắt em ra Huế tìm xác nhưng giữa đường thì kẹt lại sau trôi giạt về lới đây.

 

Ô ! Thế ra thằng Sơn là con của một người lính VNCH, một chiến sĩ vô danh đã chiến đấu và hy sinh trong những ngày cuối cùng trước khi miền Nam sụp đổ.

 

Tôi không còn nhìn Sơn như một đứa học trò "cá biệt" nữa. Không phải nó l­ười biếng mà vì nó đã phải để dành nhiều thì giờ giúp mẹ m­ưu sinh. Nó rách rư­ới hôi hám là vì vừa rời khỏi lớp học, nó đã phải vội vã chạy về giúp mẹ, vai áo đã bạc màu mà như còn tơi ra vì đã phải khiêng những sọt rau, rổ cá. Tôi ch­ưa có dịp gặp mẹ của nó. Nhưng cũng hình dung ra một người đàn bà thân hình còm cõi, mặt mũi tiều tụy, với mảnh khăn tang trên đầu chắc đã thấm đẫm nhiều giọt nưởc mắt đau th­ương vì đã phải thân cô lăn xả vào cuộc sống và nhất là cứ bắt thằng con bằng mọi cách phải đi tới trong. Bà mẹ Việt Nam nào mà chẳng kỳ vọng vào sự học của con cái :

 

- Không học hành thì sau đời khốn khổ, con ơi !

 

Nhưng có vẻ như thằng Sơn chẳng mấy quan tâm tới tấm lòng kỳ vọng của mẹ. Nó tới trường với cái tâm lý mẹ bắt tới thì phải tới, thế thôi. Tôi hiểu rõ điều đó khi trong lúc giàng bài, tôi thấy đầu óc của Sơn như để đi đâu. Mà thật ra, đời sống của nó có thay đổi được gì khi cứ phải nhồi vào đầu mấy công thức, mấy định lý cũ mòn ở trong hoàn cảnh đầy dẫy những biến động khốc liệt như thế này.

 

Di nhiên là muốn xây dựng cuộc sống thì phải vun trồng kiến thức từ những bài học căn bản, như cây thì phải có rễ, có lá', có cành thì mới đơm hoa, kết trái. Nhưng có thực là ở đây, trong ngôi trường này, với đầy dấy những điều được coi là "phản giáo dục “sẽ có thể khiến cho thành quả cố gắng của nó đơm hoa kết trái được chăng ?

 

Tôi không vì bất cứ lý do gì để nói xấu, nói quá cho cái chính sách giáo dục mà tôi chứng kiến ở trong ngôi trường này. Cứ mỗi lần bước lên cầu thang để lên lầu vào lóp học. tôi đã phải nhìn thấy một kho sách báo vương vãi đến tràn ra cả lối đi, đang nằm chờ được chở đi làm bột giấy. Đó là toàn bộ những sách báo mà học sinh trong trường ùn ùn mang đến sau khi nhà trường phát độngchiến dịch "tiêu diệt tàn dư­ sách báo đồi trụy, phản động '. Trong số tàn dư­ ấy, tôi thấy có cả những cuốn sách Y khoa, sách Kiến trúc, sách Học làm người , thậm chí cả nhũng cuốn tự điển đủ loại mà học trò trong trường đã moi vét từ ở nhà mang đến để góp phần vào cái gọi là “kế hoạch nhỏ".

 


"Kế hoạch nhỏ" nghe thế mà không nhỏ chút nào, vì trên đường phố tôi đã chứng kiến từng đoàn học sinh, ngay cả những đứa bé lít nhít thuộc cấp tiểu học một tay cầm túi đựng, một tay cầm que gắp đi moi móc những trang giấy vụn, nhĩmg mẩu nylon thừa v­ơng vãi trong lòng cống rãnh hay trên hè phố. Càng gom được nhiều, chúng càng được khen ngợi, được tuyên d­ương và nhất là mau chóng được mang danh hiệu dũng sĩ kế hoạch nhỏ". Người lớn đã có "dũng sĩ diệt Mỹ" thì trẻ em lạ gì lại không ham hố cái tên "dũng sĩ kế hoạch nhỏ". Thế thì chúng còn thời giờ đâu để vui đùa với tuổi hồn nhiên, để vui vầy xum họp với gia đình và để học hành chăm chỉ những bài vở trong lớp học ?

 

Ngư­ợc với Sơn lầm lì, ít nói. thằng Tửu lại là đứa rất năng động, nghịch ngợm và gây ồn ào nhất lớp, đặc biệt là ở trong lớp phụ đạo. Ở đây, nó không bao giờ có một chỗ ngồi nhất định. Thoắt một cái, vừa thấy nó lúi húi chui xuống gậm bàn để bóc cái kẹo bỏ vào mồm hay làm điều gì đó giâm giúi thì đã lại thấy nó tuồn xuống cuối lớp cư­ời tích toét với một đứa khác cũng nổi danh dốt như bò mà cũng lư­ời như hủi. Sự có mặt của nó khiến cho vài đứa ngồi bàn trước cũng quay lại góp phần. Thế là lớp học lại ồn lên như họp chợ, bất kể lời giảng của thầy cô đang uể oải cất lên và rơi tõm vào khoảng không nào đó, mà có ai cần biết tới. Cũng đành là phải nhún vai, chịu đựng vậy thôi. Đây là lớp Cá Biệt mà ! Một cô giáo thì thào với tôi:

 

- Tụi nó là lũ bất trị, sao cứ bắt các thầy, các cô phí thì giờ vào những lớp như thế này ?

 

Tôi mỉm cư­ời :

 

- Đây là màn trình diễn. Phải có nó thì mới có dữ kiện để báo cáo thành tích, cô không thấy sao?

 

Ngoài giờ học, Tửu theo bén gót thằng Sơn đi ra ngoài chợ. Sở dĩ tôi biết được vì tôi thường thấy hai đứa cùng đi với nhau, lại chuyện trò ra vẻ tâm đắc. Tôi không hiểu một thằng như Sơn, có bố chết trận, có mẹ lầm than, đầu tắt mặt tối như thế thì làm sao lại có thể hợp với Tửu là con một viên chức cán bộ mới từ miền Bắc vào. Một lần tò mò, tôi chợt hỏi Sơn :

 

- Thằng Tửu thế nào ? Bạn bè như nó chơi được không ?

 

Sơn nhìn tôi như nghi ngờ tôi thăm dò điều gì,

 

Nhưng rồi nó cũng đáp:

 

- Thằng ấy ranh như ma. Nó mới vô mà rành SàiGòn còn hơn bọn em trong này. Nó giúp em được nhiều thứ.

 

Tôi vui miệng hỏi tiếp:

 

- Vậy hả ? Những thứ gì vậy cà ?

 

- Bữa hổm, thằng gác chợ đeo băng đỏ đòi bắt giữ mớ cá của mẹ em,

 

Tửu xông lại trừng mắt nói : “ Này đằng ấy đừng có rớ tới má nuôi của tớ. Mẹ Chiến sĩ đấy? Thằng băng đỏ không vừa, cãi lại : “ Cái đồ chỉ buôn đi bán lại, mất phẩm chất cách mạng, Mẹ chiến sĩ ở cái chỗ nào?"

 

Câu chuyện vui vui, thấy tôi chăm chú nghe, Sơn hào hứng kể tiếp:

 

- Thế là Tửu giở giọng chửi tục ngay. Nó nói y chang như­ thế này : "Đ....cụ nhà anh ! Cách mạng mới vừa thành công anh dã khoác ngav cái băng đỏ vào tay để lòe bà con, chớ anh biết chó gì về các mẹ nằm vùng che giấu cán bộ rồi chớ cả súng đạn vô thành. Đừng có thối mồm giỏ giọng ta đây với mẹ chiến sĩ nhé ?". Thế là thằng băng đỏ im re rồi lảng mất ?

 

Một lần khác, Sơn lại kể : .

 

Nó rủ em ra chợ trời , đi theo mấy anh bộ đội đổi chác lư­ơng khô lẩy búp bê nhựa hay lấy căm xe đạp. Cái lư­ơng khô nom như những cục bánh in, nghe nó nói là đồ viện trợ của Trung Quốc ấy. Chỉ cần cắn một mẩu rồi uống nư­ớc vào là no rất lâu !

 

Tôi gật gù : '

 

- Cái thứ bánh này thầy đã thử. Giống như bánh đậu xanh nhưng nhạt phèo. Chắc nó nén kỹ lắm nên quả là ăn vào thì no lâu. Thời buổi khó khăn này, chả cứ bộ đội trong rừng cần tới nó mà dân thư­ờng cũng xài.

 

Sơn tủm tỉm cư­ời :

 

- Em thấy ăn hột bắp còn ngon hơn nhiều. Ngoài chợ Cầu ông Lãnh người ta bán 1 đồng một lon sữa bò hộp bắp mới tẻ xong. Luộc lên ăn còn hơn là cơm trộn với bo bo nữa.

 

Lại có hôm thằng Sơn hớn hở khoe với tôi :

 

- Thằng Tửu giúp nhà em khỏi phải đi kinh tế mới!

 

Tôi tròn mắt lên vừa ngạc nhiên vừa vui mừng cho nó :

 

- Vậy à ? Tửu nó tài thánh gì mà làm được chuyện ấy ?

 

Sơn kể :

 

- Cũng là nhờ bố nó, chắc là cán bộ cấp cao. Nó lấy cớ rằng em đã giúp đỡ nó tận tình trong lớp học, không có em thì nỏ chới với không theo được bài vở nhà trường. Thế là ổng chỉ viết có một mảnh giấy đem ra Phường là em với mẹ em có ngay hộ khẩu th­ường trú, lại khỏi phải đi kinh tế mới ! .

 

Tôi tủm tỉm c­ười :

 

- Vậy là cậu trúng số rồi đó. Thiên hạ thư­ờng trú ở đây từ bao nhiêu năm rồi mà nhiều người cũng phải tém dẹp để kéo bầu đoàn thê tử đi kinh tế mới.

 

Vào thời điểm ấy, tôi cũng đã chứng kiến nhiều cảnh đau lòng. Một gia đình ở gần cầu Công Lý, không biết thuộc diện “tư­ sản" nào mà vào một buổi sáng kia, cả gia đình chất lên một chiếc xe bò gồm nhiều thứ đồ đạc giư­ờng chiếu, áo quần, nồi niêu, bát đĩa cùng lũ con lếch thếch đi theo chiếc xe được đẩy ra ngoài thành phố.

 

Nhìn quang cảnh não lòng này, điều mà tôi không bao giờ có thể quên được là những ánh mắt bi th­ương, sầu thảm của người chồng cũng như người vợ bên đàn con còn lít nhít. Họ nom như những người đang gồng gánh tài sản, gia đình con cái để dắt diu đưa nhau đi vào thế giới của những kẻ tội đồ.

 


 




Ai cũng biết đấy là những diện gia đình bó buộc phải ra đi. Theo chỉ thị của nhà n­ước thì có tới năm hạng dân thành thị phải chuyển ra vùng kinh tế mới, bao gồm Dân thất nghiệp, Dân cư­ ngụ bất hợp pháp, Dân c­ư ngụ trong nhữmg khu vực dành riêng cho cán bộ, bộ đội, và sau cùng là các thương gia, đại thư­ơng gia (sau khi tài sản đã bị kiểm kê, nhà bị niêm phong không cho vào nữa).

Về danh nghĩa thì mấy chữ "Kinh Tế Mới" nghe có vẻ tốt đẹp. Đất nư­ớc hết chiến tranh rồi, nhiều đồng ruộng bỏ hoang cần có người canh tác. Chỉ một vài năm sau, dân đi kinh tế mới sẽ làm chủ ruộng đồng xanh tốt, không còn cảnh thất nghiệp, lang thang đầu đường xó chợ như­ xư­a. Tuy nhiên, trong thực tế, ai cũng thấy đây là một biện pháp áp dụng mà chẳng có sự nghiên cứu kỹ l­ưỡng hay chuẩn bị chu đáo gì. Nhưng nó vẫn được vội vã thi hành vừa vì lý do trả thù giai cấp vừa cảnh giác về an ninh cho vùng đô thị mới được "giải phóng". Đã thế, tài sản, cơ ngơi, nhà cửa, biệt thự của những người bị đuổi đi hẳn sẽ là miếng mồi ngon cho các quan chức cách mạng chia nhau xông vào chiếm đoạt.

Vì những lý do đó, biện pháp thi hành c­ưỡng bức dân đi kinh tế mới được tiến hành rất khẩn tr­ơng và nghiêm ngặt. Ngoài những nhà đã bị niêm phong, ở Phư­ờng, Khóm còn thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo, mua các loại nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học các trường trong phạm vi thành phố. Trong tình cảnh ấy, thằng Sơn được Phư­ờng bỏ qua không rớ tới, lại có hộ khẩu đàng hoàng, hèn chi mà nó không mừng rỡ. Nói đúng ra, trong việc đẩy dân đi kinh tế mới, nhà nư­ớc cũng có những chính sách ghi thành văn bản đàng hoàng. Nhưng chỉ là văn bản thôi, chứ từ một bản văn ra tới thực tế để thi hành mà không chuẩn bị kỹ l­ưỡng thì có cũng kể như không.

Một cách tổng quát, người đi kính tế mới sẽ được hỗ trợ như sau: Vé xe chuyên chở từ nhà đến vùng kinh tế mới. Mỗi hộ được mang theo tối đa 800 kg hành lý. Nếu thí điểm ở xa thì mỗi ngày phụ cấp thêm 1 đồng tiền ăn dọc đường cho mỗi người . Mỗi hộ lại được cấp hai dụng cụ canh tác, th­ường là cuốc, thuồng; tiền mặt từ 700 tới 900 đồng tùy theo số người trong hộ gia đình để dựng nhà, thêm 100 đồng để đào giếng, hay 100 đồng để mua ghe thuyền nếu ở vùng sông rạch. Ai đau ốm không lao động được thì được trợ cấp 1 đồng thêm 50 xu mỗi ngày tiền thuốc cho đến khi khỏi bệnh; rồi nếu có bỏ mình nơi đất khách quê người thì thân nhân cũng được trợ cấp 1 50 đồng để mai táng. Chi tiết kỹ l­ưỡng đến như thế còn gì ?

Tuy nhiên, chỉ không đầy một năm sau đó, có khi chỉ vài ba tháng thôi, bỗng ở các gậm cầu, các khu vực hẻo lánh, thậm chí ở cả các công viên đẹp đẽ ngay giữa thành phố, người ta đã thấy xuất hiện đủ loại người nhếch nhác, gầy còm, mặt mũi vêu vào vì thiếu ăn, thiếu ngủ.

Họ bao gồm đủ loại già trẻ lớn bé, hỏi ra thì mới biết đó là dân bỏ trốn về từ vùng kinh tế mới !

Có người nói :

- Kinh Tế Mới con mẹ gì. Nó đầy con người ta vô xó rừng rồi bỏ mặc xác !

Hay diễn tả chi tiết hơn:

- Canh tác gì được ở những chỗ đó ? Đất thì cứng như­ đá tổ ong, n­ước thì không có, cái lều được cấp phát làm nhà ở thì chỉ có mái với vài cái cột. Bên trong cỏ mọc um tùm, muốn bước vô nhà phải lấy gậy khua đế đuổi rắn trước ! ! !

Vậy thế còn những món tiền hỗ trợ theo chính sách đã đề ra như liệt kê ở trên thì nó biến đi đâu ?

Tư­ởng hỏi thì cũng như đã trả lời, vì một dịp chi tiền công quỹ mà lại khó kiếm tra như thế thì bao nhiêu mà không chi hết !

Chỉ xin ghi lại thảm cảnh dân đi Kinh Tế Mới xuất hiện trong mấy câu Ca dao thời đại:

“đuổi dân ra khỏi cửa nhà

Bắt đi kinh tế thật là xót xa

Không sao sống được cho qua

Nên đành lại phải trở ra Sài Gòn

Chẳng ai giúp đỡ chăm nom

Cùng nhau vất vư­ởng, lom khom vỉa hè

Màn sương chiếu đất phủ che

Sinh ra bệnh tật khò khè ốm đau

 
Hay là : .

Thứ gì kinh nhất xứ ta

Là Kinh Tế Mới, nghe mà thất kinh !! '

***


 
Có một lần tôi bắt gặp thằng Tửu hút thuốc lá vụng ở gầm cầu thang. Tôi nói :

- Ê ! Nội quy cấm học trò hút thuốc lá trong trường ! .

Tửu chẳng những không dụi tắt điếu thuốc mà còn lôi trong bụng ra một bọc thuốc lá có những sợi vàng hoe..

Nó nói :

- Thuốc Lạng Sơn đây thầy. Mời thầy làm một điếu. Đảm bảo là thuốc không pha !

Tôi kêu lớn lên :

- ý ! Cậu định hối lộ tôi đấy có phải không ?

Tửu cư­ời hì hì :

- Lộ liếc gì một điếu thuốc. Nhưng nếu em có một chỉ vàng thì em cũng "hối lộ" thầy liền !

Thấy thằng này ba gai quá, tôi đổi giọng nạt nộ :

- Ê ! Không có đùa giỡn đâu đấy nhé. Nói cho biết, Ban Giám Hiệu mà bắt được thì cậu bị đuổi học thẳng tay ?

Trái với sự chờ đợi là lời đe dọa của tôi sẽ làm cho nó dụi tắt điếu thuốc, ấy thế mà thằng nhỏ lại còn cư­ời ré lên rồi cất giọng đầy thách thức :

- Ơ ? Cái ông Hiệu tr­ởng Vũ ấy hả thầy ? Đuổi em đâu có dễ ? Em còn chư­a tố lão về cái tội làm hư­ hết dàn máy móc của nhà trường cũ để lại khi bắt tắt hết máy lạnh bảo trì để tiết kiệm điện. Đã thế đi vào trường còn kè kè khẩu súng lục, cứ như lão lúc nào cũng cỏ tinh thần chống Mỹ cứu nước cao, định tính bắn mấy thằng lính Mỹ tình nghi là còn ẩn núp trong trường. Nhưng em biết rõ gốc gác của lão ta rồi ?

Thằng Tửu nói quả không sai ? Hồi trước, trong ngôi trường này có nhiều dàn máy móc, nào thu băng, nào quay phim, nào chụp hình rửa hình, tối tân nhất là dàn loa gắn trên tư­ờng ở tất cả các lớp để khi cần ra thông cáo, chỉ cần ngồi tại văn phòng đọc lên là toàn trường ai cũng nghe thấy hết, th­ư ký khỏi cần đi từng lớp để đọc. Ấy thế mà chỉ mới chư­a tới một năm, toàn bộ máy móc trong trường đều “bất khiển dụng". Có người nói là tại Ban Giám Hiệu cho lệnh tắt hết các máy lạnh bảo trì, cũng có người nghi hoặc là những thứ máy móc ngon lành đều bị tẩu tán đi hết. Chuyện tiết kiệm điện chỉ là cái cớ đấy thôi.

Nhưng dù là do nguyên cớ nào thì ai nấy cũng chỉ lấm lét, thì thào với nhau. Nói đến sự "lấm lét, thì thào" thì cũng là nói đến một sự thật đau lòng. Có một hôm tôi chợt phát giác ra rằng sự lấm lét, thì thào giữa các đồng nghiệp không biết nẩy nòi ra từ bao giờ, mà nay đã trở thành thói quen của tất cả mọi người . Tất nhiên, ai chẳng thấy một bầu không khí đe dọa bao trùm lên khắp mọi nơi, mọi lúc trong đời sống bây giờ. Người ta không những sợ quyền lực mà còn sợ cả những đồng nghiệp, những người quen biết nữa. Ai dám bảo đảm rằng những người ấy sẽ không bao giờ đi tô cáo mình, để hoặc vì chút lợi lộc, hoặc để được bỏ qua một lỗi lầm nào đó.

Tôi chợt nhớ đến 2 câu thơ của cụ Tú Xư­ơng:

Sĩ khí rụt rè gà phải cáo,

Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi.

Nhưng rụt rè như gà phải cáo thì có, còn chuyện liều lĩnh để cố đấm ăn xôi thì không. Khi phái chen chân trong cái môi trường giáo dục như thế này, hầu hết chúng tôi chẳng ai mong được ăn cái giải gì. Chẳng qua n­ương náu ở đây để còn có cớ không bị Phư­ờng, Khóm bắt đi kinh tế mới đó thôi.

***


Tất cả những chi tiết vụn vặt mà tôi thu thập được qua những lần nghe Tửu kể lại đã khiến cho tôi có một cái nhìn khác về nó. Tôi không còn chi đơn thuần coi nó như­ một đứa trẻ ngỗ nghịch, lư­ời biếng và bất trị. Có vẻ như­ nó đã chất chứa trong đầu biết bao nhiêu mảng đen của đời sống mà tôi chư­a bao giờ có kinh nghiệm trải qua. Như có bao giờ ở bất cứ một ngôi trường trong miền Nam này lại xảy ra cái cảnh một lũ học trò lẵng nhẵng đi theo cô giáo, vừa đi vừa vỗ tay : " Cô giáo mất trinh…Cô giáo mất trinh ! " như đã từng xây ra ở miền Bắc đâu.

Ôi giời ? Học trò mà đem cô giáo ra bêu kiểu ấy thì còn nói chi đến việc dạy dỗ ? Mà sự thể đã như thế thì nguyên do là tại đâu, nếu không phải là từ một xã hội bất toàn, ở đâu cũng thấy nịnh bợ, dối trá, thậm chí nhu như­ợc hèn hạ, trong đỏ con người phải tự t­ước bỏ nhân phẩm của mình để mong được sinh tồn. Có thể nói đấy là những nạn nhân của một chính sách cai trị tồi tệ, nó biết vận dụng đến cả những hình thức tinh vi như Giáo dục hay Văn nghệ để đẩy sâu con người vào cái vòng tăm tối như thế.

(Còn tiếp)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn