Thời hạn khởi kiện theo Luật TTHC nói chung là 1 năm tính từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định, hành vi hành chính, trong khi Pháp lệnh TTGQCVAHC quy định thời hiệu khởi kiện là 30 hoặc 45 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại.
Liên quan đến những hành vi hành chính, quyết định hành chính về quản lý đất đai bị khiếu nại trước ngày Luật TTHC có hiệu lực, Nghị quyết số 56/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội được ban hành để thi hành Luật TTHC đã quy định cụ thể tại Điều 3 như sau:
“Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực, người khiếu nại đã thực hiện việc khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ ngày 01 tháng 6 năm 2006 đến ngày Luật này có hiệu lực, nếu khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của Luật tố tụng hành chính.”
Trước đây, Pháp lệnh TTGQCVAHC liệt kê tại Điều 11- khoản 17 những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án, nhưng đã liệt kê không đầy đủ. Ví dụ: Khiếu kiện các quyết định, hành vi hành chính cưỡng chế thu hồi đất đã không được coi thuộc thẩm quyền của tòa án hành chính. Khi các cơ quan hành chính giải quyết hoặc thậm chí không giải quyết các khiếu nại của người dân, doanh nghiệp liên quan đến cưỡng chế thu hồi đất, người dân dù không đồng ý cũng không được khởi kiện tại tòa án. Số lượng khiếu nại về cưỡng chế thu hồi đất đã gia tăng trong thời gian qua, và việc giải quyết những khiếu nại này đã bế tắc cho đến khi Luật TTHC có hiệu lực, gây bức xúc trong nhân dân, và gây ảnh hưởng xấu trong xã hội. Luật TTHC đã khắc phục tình trạng trên, quy định hầu hết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính (trong đó cả trong lĩnh vực quản lý đất đai) thuộc thẩm quyền của tòa án (trừ một số trường hợp thuộc phạm vi bí mật Nhà nước). Đồng thời với Điều 3 của Nghị quyết số 56/2010/QH12 nêu trên đã tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp đã khiếu nại những quyết định hành chính, hành vi hành chính trong thời gian từ ngày 1/6/2006 – 30/6/2011.
Đáng tiếc, một quy định rất quan trọng như trên đã không được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thậm chí nhiều chuyên gia pháp lý, kể cả luật sư, cán bộ cơ quan nhà nước có thẩm quyền (bộ phận tiếp dân và thanh tra chính quyền các cấp, các cơ quan Tài nguyên và Môi trường, Tòa án các cấp), các phóng viên về mảng nội chính, các báo Pháp luật cũng chưa nắm rõ quy định này. Chỉ còn hơn 2 tháng nữa là hết thời hạn khởi kiện đối với những quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại trước ngày 1/7/2011. Sau ngày 30/6/2012, những người dân và doanh nghiệp liên quan nếu không thực hiện quyền khởi kiện trước hạn trên họ sẽ bị mất quyền và lợi ích hợp pháp trong những vụ việc liên quan, vì nhiều cơ quan có thẩm quyền và tòa án sẽ dựa vào quy định trên để từ chối giải quyết các đơn khiếu nại và khởi kiện của họ.
Về việc khởi kiện đối với những hành vi hành chính, quyết định hành chính loại này, ngày 29/07/2011, Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 01/2011/NQ-HĐTP “Hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 56/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính”, có quy định tại Điều 4: “Điều kiện thụ lý khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai quy định tại Điều 3 NQ số 56”
1 - Toà án chỉ thụ lý giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai (nội dung quản lý nhà nước về đất đai được quy định tại khoản 2 Điều 6 của Luật đất đai năm 2003) quy định tại Điều 3 NQ số 56 khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Việc khởi kiện được thực hiện trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực (ngày 01-7-2011);
b) Người khởi kiện đã thực hiện việc khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ ngày 01-6-2006 đến ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực (ngày 01-7-2011) mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng họ không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại và họ chưa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân hoặc đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân, nhưng Toà án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 41 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
2- Đối với trường hợp Tòa án đã ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án nêu tại điểm b khoản 1 Điều này và đương sự có đơn khởi kiện thì Tòa án căn cứ vào Điều 3 NQ số 56 để thụ lý giải quyết.
3- Khi thụ lý giải quyết các khiếu kiện quy định tại Điều 3 NQ số 56 và được hướng dẫn tại khoản 1 Điều này, ngoài việc yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ theo quy định tại Điều 72 của Luật tố tụng hành chính thì phải yêu cầu người khởi kiện cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc họ đã thực hiện việc khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ ngày 01-6-2006 đến ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực. Trường hợp người khởi kiện không thể cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc họ đã thực hiện việc khiếu nại thì Toà án yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại cung cấp cho mình tài liệu, chứng cứ về việc người khởi kiện đã thực hiện việc khiếu nại và hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có). Trường hợp cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thông báo là người khởi kiện chưa thực hiện việc khiếu nại thì Toà án không thụ lý giải quyết.
Như vậy, người dân và doanh nghiệp cần lưu ý đến thời hạn 30/6/2012, nếu họ không đồng ý với những quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai được ban hành trước ngày 1/7/2011. Họ cần chú ý, họ phải có bằng chứng đã khiếu nại những quyết định hành chính, hành vi hành chính này trong thời gian từ ngày 1/6/2006-1/7/2011. Bằng chứng được thể hiện như giấy báo phát của bưu điện, giấy biên nhận của cơ quan bị kiện, cơ quan tiếp dân hoặc thông báo của những cơ quan này về việc đã nhận khiếu nại, quyết định giải quyết khiếu nại…Trong trường hợp họ không lưu được những giấy tờ biên nhận này, sẽ khó khăn cho họ trong việc khởi kiện.
Chúng tôi đề nghị các phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giới luật sư, luật gia cần nhanh chóng phổ biến những nội dung Nghị quyết đã nêu trên của Quốc hội và Tòa án nhân dân tối cao, để người dân và doanh nghiệp biết được quyền khởi kiện của mình và không vì sự thiếu hiểu biết mất đi quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Mặt khác, chúng tôi kiến nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét đề nghị Quốc hội gia hạn thời hạn trên thêm 6 tháng, vì các cơ quan chức năng đã có thiếu sót không phổ biến rộng rãi quy định quan trọng này cho nhân dân. Nếu chỉ vì thiếu sót từ các cơ quan nhà nước, người dân và doanh nghiệp không biết quyền của mình, bị mất quyền khởi kiện, mất cơ hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, rõ ràng trách nhiệm thuộc về Nhà nước.
Luật sư Trần Vũ Hải
Theo blog Anhbasam
Gửi ý kiến của bạn