BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73786)
(Xem: 62284)
(Xem: 39478)
(Xem: 31205)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Liên Quân Việt, Mỹ, Đại Hàn và Trận Chiến Ở Tây Bình Định

23 Tháng Bảy 201012:00 SA(Xem: 2278)
Liên Quân Việt, Mỹ, Đại Hàn và Trận Chiến Ở Tây Bình Định
52Vote
40Vote
34Vote
21Vote
10Vote
3.47
CUỘC HÀNH QUÂN ĐẦU NĂM 1966 VÀO MẬT KHU AN LẪO: thung lũng An Lão là một trong những căn cứ địa trọng yếu của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tại cao nguyên trung phần. Nằm về phía tây tỉnh Bình Định, An Lão có địa thế rất hiểm trở nhưng thuận lợi cho quân Cộng Sản trong phòng ngự. Tận dụng địa hình, họ đã xây dựng những điểm phòng thủ liên hoàn để chống trả các cuộc hành quân của các lực lượng bộ chiến Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), Hoa Kỳ, và Đại Hàn diễn ra trong thời gian từ 1965 đến 1971. Cũng chính từ An Lão, Cộng quân đã tung nhiều cuộc hành quân quấy rối vào 3 quận nằm về phía bắc tỉnh Bình Định.

Để chận đứng các hoạt động của quân Bắc Việt đang cố xâm nhập khu vực đồng bằng, ngày 25 tháng 1/1966, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 VNCH đã khởi động cuộc hành quân vào thung lũng An Lão và Bồng Sơn, để truy kích Sư Đoàn 3 Sao Vàng CSBV và 2 trung đoàn chủ lực của Cộng quân thuộc Mặt Trận B-5. Lực lượng tham dự cuộc hành quân gồm 2 trung đoàn thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh (BB) VNCH, 1 lữ đoàn Nhảy Dù VNCH, 2 trung đoàn bộ chiến của Sư Đoàn Không Kỵ Hoa Kỳ, 1 lữ đoàn thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Theo phân nhiệm, lực lượng bộ chiến VNCH truy kích 2 trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt, lực lượng Hoa Kỳ và Đại Hàn tảo thanh Cộng quân tại An Lão và phía Tây Bồng Sơn. Chỉ huy lực lượng VNCH trong cuộc hành quân này là Chuẩn Tướng Nguyễn Xuân Thịnh, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh (đến ngày 1 tháng 3/1965, tướng Thịnh bàn giao quyền tư lệnh sư đoàn cho Chuẩn Tướng Nguyễn Thanh Sằng).















Giao tranh ác liệt đã diễn ra từng ngày quanh khu vực Bồng Sơn, sau một tuần giao tranh, lực lượng Nhảy Dù và Sư Đoàn 22 BB đã loại ngoài vòng chiến 695 Cộng quân. Tại khu vực An Lão và phía Bồng Sơn, lực lượng đồng minh liên tục chạm địch trong hơn 40 ngày liền và kết thúc vào ngày 7 tháng 3/1966 với kết quả được ghi nhận như sau: 1,484 cán binh Cộng Sản bị hạ và 536 bị bắt tại trận, tịch thu 267 vũ khí.

Trong cuộc hành quân nói trên, Trung Đoàn 7 Không Kỵ Hoa Kỳ đã đụng độ mạnh với Cộng quân khi nỗ lực chính của trung đoàn này là Tiểu Đoàn 1/7 được trực thăng vận xuống bãi đáp Xung Phong (bãi đáp X-Ray). Sau khi thiết lập một căn cứ cho trung tâm hành quân gần làng Bồng Sơn, Trung Đoàn 7 Không Kỵ khai triển đội hình tiến quân vào thung lũng An Lão, và những trận giao tranh ác liệt đã xảy ra ra dưới thời tiết xấu, do đó các hoạt động yểm trợ của Không quân đã bị hạn chế.

Cuối cùng lực lượng Không Kỵ Hoa Kỳ đã làm chủ trận địa, gây tổn thất nặng cho đối phương. Đến tháng 3/1966, Sư Đoàn 3 Sao Vàng CSBV được bổ sung quân số và tung ra các cuộc tấn công quấy rối tại nhiều nơi trong tỉnh Bình Định. Để ngăn chận địch, tháng 5/1966, Sư Đoàn 22 BB và Sư Đoàn 1 Không Kỵ đã phối hợp tổ chức cuộc hành quân quy mô để tảo thanh các đơn vị thuộc Sư Đoàn 3 Sao Vàng. Khi chiến dịch mới được khai triển, Thiếu Tướng Kinnard tư lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ đã nghĩ ra một đội hình không vận thực nghiệm, thế nhưng khi sắp đến ngày thực hiện thì ông nhận được lệnh bàn giao quyền chỉ huy sư đoàn cho Thiếu Tướng Norton, người mà vào thời gian gần 1966, chỉ đảm nhiệm các chức vụ về tiếp vận như là Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận của Bộ Tư Lệnh Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam. Tướng Norton chỉ đủ thời gian tháo ba lô ra khi vị tân tư lệnh này nhận được các báo cáo dồn dập về các trận tấn công cường tập của Cộng quân vào trại Lực Lượng Đặc Biệt Vĩnh-Thạnh Tây.

TRẬN KỊCH CHIẾN Ở BÃI ĐÁP GẦN VĨNH THẠNH TÂY

Trước tình hình mới, liên quân Việt Mỹ tạm ngưng cuộc hành quân truy kích Sư Đoàn 3 Sao vàng để tập trung lực lượng tiếp cứu đơn vị trú phòng tại trại nói trên. Ngày 16 tháng 5/1966, Sư Đoàn 1 Không Kỵ đã đưa Trung Đoàn 8 vào trận chiến. Cuộc hành quân bắt đầu bằng một cuộc đổ quân của Đại Đội B, Tiểu Đoàn 2/8 xuống bãi đáp giữa đường lên ngọn núi cao nhất ở hướng đông của trại Vĩnh Thạnh Tây. Trong liên lạc vô tuyến, bãi đáp này được gọi là Landing Zone Hereford.

Sau khi leo trèo một cách khó khăn đến đường đỉnh dọc theo con đường mòn trong rừng rậm, trung đội đi đầu phát hiện được và đã tác xạ vào một toán gồm 6 cán binh Bắc Việt đang di chuyển trước họ cùng theo một con đường mòn. Một lúc sau, tiếng súng im. Sau đó thình lình, một loạt đạn liên thanh từ hướng đông bắn vào đội hình của trung đội gây tử thương cho 3 chiến binh. Sau đó Bắc quân cố khép chặt vòng vây quanh trung đội này.

Lúc đó, trung đội đành phải rút lui sau khi một tiểu đội tan rã bởi bị Bắc quân tấn công cạnh sườn. Sau một lúc, trung đội này bắt tay được với thành phần còn lại của đại đội. Mọi hy vọng lấy lại thế chủ động đã bị loại bỏ. Khi lực lượng Cộng quân ở cấp tiểu đoàn đè nặng áp lực tấn công và tổn thất của đại đội tăng lên, Đại Úy John D. Coleman vội vã tổ chức lại đơn vị trong chu vi phòng thủ hẹp và chờ quân tiếp cứu.

Cùng lúc đó, hai trực thăng võ trang của Tiểu Đoàn 2/20 Không Pháo tìm đường bay lên núi xuyên qua cơn mưa như thác đổ để cố gắng tìm ra vị trí đại đội đang ở giữa rừng già bị phủ kín ở khoảng cách 60 thước phía dưới. Được hướng dẫn bằng vô tuyến, cuối cùng họ tìm được mục tiêu và bắt đầu tác xạ hàng loạt hỏa tiễn 2.75 inch (khoảng 60 mm) bên ngoài rìa vòng đai phòng thủ của Đại Đội B đang sa sút tinh thần. Sự yểm trợ không-pháo của 2 trực thăng võ trang đã tạm phá vỡ tấn công của phía Bắc Việt, đồng thời tạo cơ hội để Đại Đội A thuộc Tiểu Đoàn 1/12 Không Kỵ lên đến đỉnh núi tiếp cứu Đại Đội bạn đang bị bao vây.















Sáng ngày hôm sau, quân Bắc Việt tiếp tục cuộc tấn công trên bộ sau một màn pháo kích bằng hỏa tiễn và đại bác không-giật. Trong hai giờ sau đó, hy vọng sống còn của hai đại đội Không Kỵ Hoa Kỳ rất mong manh cho đến khi một cánh quân tiếp ứng khác của Đại Đội C thuộc Tiểu Đoàn 1/12 Không Kỵ đến tăng viện. Lúc đó, các đơn vị Cộng Sản phải đoạn chiến và rút vào rừng già.

Cuộc giao tranh ác liệt tại bãi đáp nói trên đã gây tổn thất nặng cho hai đại đội Hoa Kỳ: 28 tử thương và gần 100 bị thương, tuy nhiên trận đánh này đã giúp cho bộ phận tình báo chiến trường liên quân Việt-Mỹ xác định được sự hiện diện của một lực lượng Cộng quân đáng kể mà tin tức tình báo kế tiếp cho biết đó là tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 2 CSBV, một trung đoàn mà Sư Đoàn 1 Không Kỵ đã có lần giao chiến trong cuộc hành quân White Wing (Cánh Trắng).

Trong vòng 3 tuần lễ kế tiếp, các đơn vị Không Kỵ đi sâu vào địa thế khó khăn nhất của Cao nguyên miền Trung, một khu vực có các đồi núi thẳng dốc ở cao độ 900 mét cách mặt biển. Để thực hiện cuộc đổ quân, các sĩ quan điều hành không-vận đã phải dựa vào những bãi đáp nhỏ để từng chiếc trực thăng đáp xuống xuyên qua các lỗ hổng rất hẹp giữa rừng già, hay sử dụng những thang dây Jacob thả từ các trực thăng CH-47 Chinook đang vần vũ trên không. Dù có một vài cuộc chạm súng rời rạc đã xảy ra, nhưng các cuộc hành quân trên bộ cuối cùng cũng đã kết thúc sau các nỗ lực kềm chế Cộng quân không đạt kết quả. Pháo binh Sư Đoàn 1 Không Kỵ sau đó đã pháo dữ dội vào các vị trí nghi ngờ có địch với mức độ từ 12 ngàn đến 13 ngàn quả mỗi ngày, trong khi không-lực cũng tiến hành các cuộc không kích, kể cả các cuộc oanh tạc của pháo đài B-52. Bao nhiêu cán binh Cộng Sản đã bị chết trong cơn bão lửa cũng không xác định được. Tuy nhiên, Trung Đoàn 2 này của Cộng quân đã không xuất hiện trên chiến trường trong nhiều tháng sau đó.

CHIẾN TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH: NHỮNG THÁNG CUỐI NĂM 1966

Chính nhờ chiến dịch nói trên, đã có một thời gian tình hình chiến sự tại phía tây và tây-bắc Bình Định tạm lắng khi Sư Đoàn 1 Không Kỵ được chia ra để tổ chức các cuộc hành quân trải rộng ra ở xa: hành quân Paul Revere vùng tỉnh Tây Ninh, hành quân Hawthorme tại Kontum, hành quân Nathan Hale tại Phú Yên. Bị tổn thất quá nhiều và đang thiếu phi cơ trực thăng, Sư Đoàn 1 Không Kỵ đã gặp trở ngại về tiếp vận khi hệ thống này đã bị căng ra quá mức.

Nhưng không phải chỉ có trở ngại trên mà tướng Norton (tư lệnh sư đoàn) và bộ tham mưu của ông phải đương đầu. Các đơn vị bộ chiến của sư đoàn đang thiếu hụt quân số trầm trọng, một phần vì các tổn thất chiến trận, phần khác vì cuộc luân chuyển 9,000 sĩ quan và binh sĩ về nước. Trước tháng 6/1996, các tiểu đoàn bộ chiến của Sư Đoàn 1 Không Kỵ có 900 chiến binh (theo bản cấp số). Nhưng thông thường các tiểu đoàn này chỉ tham chiến với khoảng 500 quân nhân, trong khi các đại đội khinh binh xuất trận chỉ có quân số bằng 2/3 cấp số lý thuyết.

Tháng 9/1966, Sư Đoàn 1 Không Kỵ trở về hậu cứ An Khê để phối hợp với Sư Đoàn 22 Bộ Binh tham dự một chiến dịch gọi là "Chiến Dịch Bình Định" trong tỉnh Bình Định. Tư lệnh Sư Đoàn 22 BB vào thời gian này là Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu, ông được đề cử thay thế Chuẩn Tướng Sằng vào ngày 23 tháng 6/1966, đây là lần thứ hai Đại Tá Hiếu được cử giữ chức tư lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh (lần thứ nhất là từ tháng 9/1964 đến tháng 10/1964). Đại Tá Hiếu được thăng chuẩn tướng vào năm 1967, tiếp tục giữ chức tư lệnh Sư Đoàn 22 BB đến ngày 11 tháng 8/1969. Tướng Hiếu tử nạn vào thượng tuần tháng 4/1975 khi ông là Thiếu Tướng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3.

Trở lại với chiến dịch Bình Định, trong cuộc hành quân ở phía tây-bắc Bình Định, Lữ Đoàn 1 và 2 Không Kỵ đã nới rộng vùng hoạt động để tảo thanh Cộng quân tại Kim Sơn và thung lũng Suối Cả. Các đơn vị của hai lữ đoàn nói trên đã phát hiện được nhiều hầm chứa vũ khí đạn dược cũng như một bệnh xá cấp trung đoàn và một công binh xưởng. Dù có một số vụ chạm súng không đáng kể, cuộc hành quân này đã buộc quân Cộng Sản phải tháo chạy về hướng đông phía khu đồng trống dọc duyên hải. Tại vùng này, 2 tiểu đoàn của Trung Đoàn 18 CSBV sau đó đã bị liên quân Việt-Mỹ tiêu diệt.

CUỘC HÀNH QUÂN HỖN HỢP CỦA 3 SƯ ĐOÀN VNCH, HOA KỲ VÀ ĐẠI HÀN TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH

Trong phần tài liệu trên, chúng tôi đã lược trình một số trận đánh tại An Lão, Vĩnh Thạnh thuộc tỉnh Bình Định giữa các trung đoàn của liên quân Việt-Mỹ-Hàn và các trung đoàn của Sư Đoàn 3 Sao Vàng CSBV trong 1966. Qua những trận giao tranh này, phía Bắc Việt đã bị tổn thất nặng. Đến cuối năm 1966, các đơn vị Cộng quân tại Bình Định đã được bổ sung quân số và tập trung về các căn cứ địa, mật khu ở phía tây tỉnh Bình Định. Đầu năm 1967, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH và Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đồng Minh đưa ra chiến dịch truy-lùng và tiêu-diệt tại những khu vực, địa bàn trọng điểm. Thực hiện kế hoạch nói trên, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đã khởi động cuộc hành quân hỗn hợp truy kích Cộng quân trên toàn tỉnh Bình Định. Đây là tỉnh lớn nhất ở khu vực Duyên hải trung nguyên, trung phần, gồm 12 quận với dân số gần 1 triệu người (tính đến cuối năm 1966), và cũng là nơi có nhiều đơn vị chủ lực Bắc Việt ẩn náu.

Để có đủ lực lượng truy lùng Cộng quân trên một vùng rộng lớn, 3 đại đơn vị Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ, và Đại Hàn đã được điều động tham chiến: Sư Đoàn 22 Bộ Binh của VNCH, Sư Đoàn Mãnh Hổ của Đại Hàn, và Sư Đoàn 1 Không Kỵ của Hoa Kỳ. Vào thời gian này, bản doanh Sư Đoàn 22 BB đóng tại Bà Gi, Sư Đoàn 1 Không Kỵ đặt hậu cứ tại An Khê, và Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn đặt bộ tư lệnh hành quân tại Văn Canh.

Trong cuộc hành quân này, vùng hoạt động của Sư Đoàn 22 Bộ binh là 4 quận phía Bắc tỉnh Bình Định: Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ, Phù Cát. Khu vực phía nam gồm ngoại vi thị xã Qui Nhơn, Tuy Phước, Phú Phong và Văn Cảnh là vùng hành quân của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Khu vực phía tây gồm An Khê, Vĩnh Thạnh, An Lão và Hoài Ân là vùng hành quân của Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ.

Theo kế hoạch của Bộ Tư Lệnh Liên Quân Việt, Mỹ, Đại Hàn tại Vùng 2 Chiến Thuật, thì Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ sẽ khởi động cuộc hành quân trong vùng trách nhiệm trước "ngày N" ba ngày, kế tiếp mới đến cuộc tiến quân của lực lượng VNCH và lực lượng Đại Hàn. Trong 3 ngày đầu của cuộc hành quân, với ưu thế về phương tiện trực thăng và hỏa lực không quân, Sư Đoàn 1 Không Kỵ đổ quân ngay khu vực trung tâm của Cộng quân tại quận Hoài Ân và Bình Thạnh, các đơn vị bộ chiến của sư đoàn này đã tỏ xông xáo cố tìm Cộng quân để triệt hạ thế nhưng đối phương đã tránh né tất cả các cuộc giao tranh với đơn vị Hoa Kỳ vì biết rõ Sư đoàn Không Kỵ có hỏa lực không yểm rất mạnh.

CÂU CHUYỆN GIỮA CHUẨN TƯỚNG NGUYỄN VĂN HIẾU VÀ THIẾU TƯỚNG JOHN NORTON JR. VỀ KẾ HOẠCH TẤN CÔNG

Vào ngày N-1, khi Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB chuẩn bị điều động các cánh quân thì đúng 11 giờ đêm ngày này, Thiếu Tướng John Norton Jr. (tư lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ) đáp trực thăng xuống Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB và vào gặp Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Hiếu (tư lệnh Sư Đoàn 22). Thiếu Tướng Norton yêu cầu tướng Hiếu hủy bỏ cuộc tấn công vào phía Tây quận Phù Mỹ, để phối hợp với Sư Đoàn 1 Không Kỵ tấn công vào An Lão, khu vực mà vị tư lệnh Hoa Kỳ tin rằng các đơn vị của Sư Đoàn 3 Sao Vàng CSBV đang tập trung quân. Tướng Hiếu cho sĩ quan tùy viên đi gọi Thiếu Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Sư Đoàn 22 Bộ Binh lúc bấy giờ. Theo lời kể của ông Trịnh Tiếu sau này, diễn tiến cuộc gặp gỡ đã được ghi lại như sau:

Tại văn phòng tư lệnh Sư Đoàn 22 BB, Thiếu Tá Trịnh Tiếu đã trình bày với 2 vị tướng là ông đã gặp một du kích Việt Cộng đang hoạt động ở vùng đồi núi phía tây quận Phù Mỹ, du kích này được Thiếu Tá Tiếu thu phục làm mật báo viên cho Phòng 2, ông đã tốn rất nhiều tiền bạc để nuôi gia đình của người đó. Ba ngày trước đó, mật báo viên này đã báo cho Thiếu Tá Tiếu biết có nhiều đơn vị của Sư Đoàn 3 Sao Vàng trú quân tại vùng ranh giới giữa quận Phù Mỹ và Hoài Ân. Theo phân tích và giải trình của Thiếu Tá Tiếu, khi đối chiếu với các tin tức trước do du kích này cung cấp thì nguồn tin mới nhận có thể tin được, và theo ước định của phòng 2 thì một vài trung đoàn của Sư Đoàn 3 Sao Vàng CSBV đang ém quân tại đây.















Sau khi nghe Thiếu Tá Tiếu trình bày, Thiếu Tướng Norton nói với tướng Hiếu: Hôm nay tôi đã cho một đại đội trinh sát trực thăng vận vào khu vực đó để tìm và tiêu diệt địch, nhưng không có cuộc đụng độ nào. Tôi biết việc điều động quân như vậy là sai vì đó là vùng hành quân của Sư Đoàn 22 BB VNCH, thế nhưng vì nóng lòng tiêu diệt địch mà tôi phải làm như thế. Thiếu Tướng Norton hỏi vị sĩ quan trưởng Phòng 2 Sư Đoàn 22 BB: Thiếu tá có tin chắc là có địch quân tại mục tiêu đó không? Không một chút do dự, Thiếu Tá Tiếu trả lời ngay: Cộng quân rất né tránh đụng độ với các đơn vị Hoa Kỳ vì địch sở hỏa lực của các ông. Tôi tin là Sư Đoàn 22 BB của chúng tôi sẽ đụng độ với Sư Đoàn 3 Sao Vàng tại mục tiêu này.

Tiếp theo sự xác định của Thiếu Tá Trịnh Tiếu, tướng Hiếu đã nhã nhặn nói với vị tư lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ rằng: theo kế hoạch đã thảo luận giữa 3 sư đoàn Việt Nam, Hoa Kỳ và Đại Hàn, Sư Đoàn 22 BB sẽ vào vùng hành quân ngày mai, không nên thay đổi kế hoạch quá sớm. Bắt tay tạm biệt Thiếu Tướng Norton, tướng Hiếu trở về văn phòng và gọi máy chỉ thị cho trung tá Bùi Trạch Dần (trung đoàn trưởng Trung Đoàn 41), chỉ sử dụng 2 tiểu đoàn bộ binh cùng Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn vào vùng hành quân thật sớm, và khi gần đến mục tiêu vào lúc 3 giờ chiều như dự tính thì phải đóng quân, cho binh sĩ dùng cơm và đào công sự tác chiến thật vững chắc.

TRẬN CHIẾN Ở TÂY PHÙ MỸ

Theo báo cáo của Phòng 2, khu vực hành quân của Trung Đoàn 41 là vùng xôi đậu nên có rất nhiều cơ sở nằm vùng của Việt Cộng, biết chắc thế nào các cơ sở này cũng báo cáo cho Cộng quân rõ về quân số tham chiến của Trung Đoàn 41, do đó tướng Hiếu đã vạch kế hoạch là cho Sư Đoàn 3 Sao Vàng thấy lực lượng hành quân của VNCH để đối phương điều quân ra đánh, khi cuộc giao tranh diễn ra, tướng Hiếu sẽ cho phản công bằng lực lượng thiết vận xa và bộ chiến. Một tiểu đoàn bộ binh trừ bị và một chi đoàn thiết vận xa đã được lệnh của tướng Hiếu phải ém quân thật kỹ, xa vùng hành quân khoảng 10 km không cho địch quân thấy.

Đúng như ước tính của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB, vào 2 giờ sáng ngày N, Trung Tá Bùi Trạch Dần báo cáo trên máy với tướng Hiếu là trung đoàn Cộng quân bắt đầu tấn công vào vị trí đóng quân của trung đoàn ông. Ngay khi đó, tướng Hiếu ra lệnh cho chi đoàn Thiết vận xa và tiểu đoàn bộ binh trừ bị tiến thật nhanh vào mục tiêu và bọc phía sau lưng địch quân, bao vây tiêu diệt, chận không cho địch quân rút lui.

Thiếu Tướng Norton được tin lực lượng Sư Đoàn 22 BB đụng độ với Cộng quân, ông liền ra lệnh cho trực thăng của Sư Đoàn 1 Không Kỵ bay vào trận địa thả trái sáng xuống để giúp đơn vị VNCH thấy rõ vị trí của địch quân, cùng lúc đó, pháo binh của hai sư đoàn VNCH và Hoa Kỳ hỏa tập liên tục để yểm trợ quân bạn. Hỏa châu từ trực thăng thả xuống quá nhiều nên ánh sáng tỏa ra thấy rõ hơn ban ngày. Trên trận địa, binh sĩ của Trung Đoàn 41 BB từ các hố cá nhân nổ súng bắn hạ Cộng quân rất chính xác. Ba mươi phút sau, tiểu đoàn bộ binh trừ bị và chi đoàn thiết vận xa có mặt tại mục tiêu, đồng loạt khai triển đội hình bao vây bọc hậu Cộng quân và tung các đợt tấn công mạnh từ phía sau. Đến 5 giờ sáng, Trung Đoàn 41 và lực lượng trừ bị tiếp ứng đã hoàn toàn làm chủ trận địa. Cộng quân rút lui để lại chiến trường trên 300 xác chết và một số lớn vũ khí.

Sáng ngày N, tướng Hiếu đã đáp xuống mặt trận để thị sát trận địa, khoảng 15 phút sau, Thiếu Tướng John Norton cũng đáp xuống khu vực hành quân của Trung Đoàn 41 BB, sau đó ông đã tìm gặp Thiếu Tá Trịnh Tiếu, khen ngợi vị sĩ quan này và Phòng 2 Sư Đoàn 22 BB về khả năng phân tích và thu thập tin tức rất chính xác. Tướng Norton cũng bày tỏ sự thán phục của cá nhân ông về kế hoạch dụ địch rất hiệu quả của Sư Đoàn 22 BB. Vị tư lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ đã nói với tướng Hiếu rằng muốn thắng địch phải có tin tức chính xác và Sư Đoàn 22 BB đã có một Phòng 2 rất giỏi.

Cũng cần ghi nhận rằng trước đó 3 tháng, một thành phần bộ chiến của Sư Đoàn 22 BB đã đụng độ ác liệt với 2 tiểu đoàn Cộng quân tại khu vực Phù Cát, trận kịch chiến kéo dài trong hai ngày đêm, cuối cùng Cộng quân bị đánh bật, để lại trận địa hơn 200 xác chết. Trở lại với cuộc hành quân của liên quân Việt, Mỹ, Đại Hàn, tại khu vực phía Nam, Sư Đoàn Mãnh Hổ Nam Hàn đã liên tiếp đụng độ Cộng quân, nhiều trận đánh cận chiến đã diễn ra ở khu vực Tuy Phước, Phú Phong, Văn Canh. Sau 24 ngày của cuộc hành quân, Sư đoàn Mãnh Hổ đã loại ngoài vòng chiến 158 Cộng quân.

Vương Hồng Anh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn