BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 76793)
(Xem: 63140)
(Xem: 40542)
(Xem: 32169)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Buddha’s Child, Nguyễn Cao Kỳ, Đứa Con Cầu Tự

24 Tháng Tám 200212:00 SA(Xem: 4571)
Buddha’s Child, Nguyễn Cao Kỳ, Đứa Con Cầu Tự
52Vote
41Vote
30Vote
20Vote
10Vote
4.73
Cựu Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ vừa cho trình làng "tác phẩm" thứ nhì của ông, Buddha’s Child, My Fight to Save Vietnam. Sách dày 372 trang, do nhà xuất bản St. Martin’s Press in tại New York. Bìa cứng, bao bìa in hình ông Kỳ, có lẽ chụp trong thập niên 60, thuở huy hoàng nhất của tác giả, khi ông còn nắm trọn quyền lực trên chính trường miền Nam.

Phải công nhân nội dung cuốn sách rất lôi cuốn, gần như một thứ tự truyện, với nhiều chi tiết khá hấp dẫn qua những chặng đời ông, từ lúc thân mẫu tác giả lên chùa Hương cầu xin Phật ban cho mình một mụn con trai, thời thơ ấu, giai đoạn đi kháng chiến, năm tháng quân ngũ, những trớ trêu của lịch sử Việt Nam sau cuộc đảo chánh tháng 11 năm 1963 đưa đẩy một người chiến sĩ với kinh nghiệm quản trị rất giới hạn, đi vào chính trường, nắm giữ chức vụ quan trọng nhất miền Nam trong hơn hai năm đầy sóng gió và thử thách.

Đây có thể coi như đoạn đời vinh quang nhất của tác giả, khi ông đã đạt tới tột đỉnh danh vọng: trong nước thì quyền hành không ai sánh bằng; ngoài nước thì tiếp xúc ngang ngửa với các nhà lãnh đạo tầm cỡ quốc tế.

Sau những thành tích ngoạn mục, dẹp loạn miền Trung, ổn định giá gạo (bằng cách mời bảy tay đầu nậu chuyên làm giá gạo vào văn phòng, bắt mỗi người ghi tên mình vào một mảnh giấy, bỏ vào mũ, chờ bốc thăm, và cho họ biết, trong vòng một tuần, nếu giá gạo không xuống, họ sẽ phải trở lại văn phòng ông để bốc thăm. Bốc trúng tên ai, chính ông sẽ xử bắn người đó), bài trừ tham nhũng, dẹp sòng bạc quy mô của tướng Phạm Văn Đổng, lập pháp trường cát xử tử Tạ Vinh, trực tiếp chỉ huy và điều động toàn thể quân đội trong trận Mậu Thân (khi ông Thiệu không có mặt ở Sài gòn, vì đã về Mỹ Tho ăn Tết) ..., đem lại ổn định và trật tự cho miền Nam.

Đem lại ổn định và trật tự cho miền Nam là thành tích khiến cho tác giả hãnh diện nhất.

Trong cuộc dẹp loạn miền Trung, theo tác giả kể lại, ông Kỳ nghe tướng Viên báo cáo là trung tướng tư lệnhThủy Quân Lục Chiến My,õ Lewis Walt, cố vấn trưởng quân đoàn I, đã dọa cho phi cơ F4 của Mỹ bắn hạ phi cơ Skyraiders của không quân Việt Nam nếu phi cơ Việt Nam bay lên để yểm trợ cho lực lượng trên bộ của tướng Viên.

Ông Kỳ đã ra lệnh cho tướng Viên đặt sáu khẩu bích kích pháo cỡ lớn nhất hướng vào bộ chỉ huy của tướng Walt, và nạp đạn sẵn sàng để tiêu diệt tổng hành dinh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, nếu phi cơ Mỹ dám đụng đến phi cơ Việt Nam.

Sau đó, ông Kỳ mời đại sứ Mỹ Cabot Lodge đến văn phòng gặp ông gấp. Được đại sứ Mỹ xác nhận hành động của viên tướng Mỹ chỉ là quyết định cá nhân, không phải chính sách của chính phủ Mỹ, ông Kỳ yêu cầu ông Lodge bảo cho tướng TQLC Mỹ biết đây là việc nội bộ của VNCH, và không muốn người Mỹ can dự vào.

Xong xuôi, ông Kỳ leo lên khu trục cơ A-37, bay thẳng ra Đà Nẵng.

Biết ông Kỳ đến, tướng Walt gọi điện thoại mời ông Kỳ sang tổng hành dinh TQLC. Ông Kỳcho phụ tá trả lời: Bận lắm.

Tướng Walt gọi lần thứ nhì. Lần này, ông xin được sang gặp ông Kỳ. Ông Kỳ cho phụ tá trả lời y như lúc nãy: Bận lắm. Không có thì giờ.

Khi gọi lần thứ ba, tướng Walt cho biết ông ta gọi ông Kỳ theo yêu cầu của Dean Rusk (ngoại trưởng Hoa Kỳ).

Lúc ấy, ông Kỳ mới bảo phụ tá: " Được rồi, bảo hắn qua."

Sau đây là nguyên văn lời kể của ông Kỳ. Đoạn văn này có thể coi như một trong những đoạn hào hứng nhất trích từ cuốn sách:

"....Khoảng ba mươi phút sau, Walt tới. Ông ta to lớn, gân guốc, mặc đồ rằn ri TQLC. Đi theo phía sau là một người Mỹ nhỏ con nói tiếng Việt rất sõi. Tôi đã xem phim quay cảnh người này, một viên chức tại lãnh sự quán Mỹ ở Huế, tham dự những cuộc biểu tình của Phật giáo chống chính phủ.

Khi họ bước vào văn phòng tạm của tôi, tôi vẫn ngồi yên trên ghế trong lúc họ giơ tay chào theo quân cách.

"- Ngồi xuống, " tôi nói. "Này ông tướng, ông muốn gì?"

Ông ta đáp:

"-Tôi muốn biết về các cuộc hành quân. Có những cuộc chuyển quân, và tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra. "

Tôi nhìn ông ta chăm chăm một lúc lâu:

"- Ông tướng ở trong quân đội bao nhiêu năm rồi?"

Tôi có thể thấy ông ta chưa chuẩn bị sẵn sàng cho câu tôi vừa hỏi.

"- Hai mươi ba năm," ông ta đáp.

Tôi nhìn ông ta một lúc lâu hơn:

"- Ông đã ở quân ngũ hơn hai mươi năm, vậy mà ông không có một chút ý niệm nào về hệ thống quân giai hết! Tại sao ông nghĩ rằng ông có quyền hỏi tôi về chuyện hành quân? Là tổng tư lệnh quân đội, có những lúc, nếu tôi muốn, tôi có thể cho thuộc cấp biết trước cả ba mươi ngày, những gì tôi sẽ làm. Mà có thể tôi sẽ đợi đến khi bắt đầu cuộc hành quân, mới cho họ biết. Hoặc có thể, cho họ biết sau. Tất cả đều do tôi thôi. Thuộc cấp không có quyền hỏi tôi. Hệ thống quân giai là thế đấy. Ông có biết ông đang nói chuyện với ai đây không?"

"-Có. Với thủ tướng."

"- Như vậy thì làm sao ông cho rằng ông có quyền hỏi tôi những chuyện đó?"

Câu hỏi của tôi treo lơ lửng nhiều giây đồng hồ trong căn phòng gắn máy lạnh của chỉ huy trưởng căn cứ. Những giọt mồ hôi rịn ra trên khuôn mặt tướng Walt.

Cuối cùng, ông ta trả lời:

"- Ồ, vì tôi cũng là cố vấn của tư lệnh quân đoàn I. Mọi sự ở đây đang yên ổn. Chẳng có vấn đề gì cả. Tại sao tự nhiên chính phủ cho chuyển quân?"

"- Này ông tướng, ông là cố vấn quân sự, lo vấn đề quân sự thôi. Còn đây là vấn đề chính trị, và việc nội bộ của Việt Nam! Ông không có quyền xía vào. Ông có hiểu điều đó không?"

Bây giờ thì khuôn mặt tướng Walt toát mồ hôi đầm đìa, ướt cả cổ áo.

Tôi tiếp tục:

"- Này ông tướng, tôi hiểu rằng ông đã đe dọa dùng quân lực Mỹ để đánh chúng tôi. Ông biết rằng tôi có thể dùng điện thoại này gọi ông Johnson, tổng tư lệnh của ông. Tôi mà gọi, thì bảo đảm là chỉ trong vòng năm phút, ông sẽ chuẩn bị khăn gói về nước thôi. Bây giờ ông đã nghe tôi rõ rồi, ông có thể về đi."

Walt đứng dậy, giơ tay chào, và rời văn phòng. Đoàn tuỳ tùng cuả ông ta theo sau..."

Trong sách có nhiều đoạn khá cảm động cho thấy khía cạnh rất dễ thương của ông Kỳ: Sau hơn 20 năm, ông vẫn nhớ đến Takahashi, người trung sĩ Nhật ông quen biết và thân thiết hồi còn nhỏ. Tác giả đã nhờ chính phủ Nhật tìm ông này, nhưng không thành công.

Chuyện tình đơn phương hơn năm mươi năm (và vẫn còn tiếp tục) của tác giả với Tường Vân, cô gái Hà nội; tình yêu hoàn toàn trong sạch hơn ba mươi năm của ông với Cẩm Vân, người thiếu nữ Nha Trang, cho đến khi nàng qua đời, đã được kể lại bằng giọng văn lãng mạn, chân thành, khiến người đọc xúc động.

Tác giả cũng kể lại những thành tích ngoại giao của ông, các cuộc nói chuyện tay đôi với tổng thống Mỹ Johnson và Nixon, các thủ tướng Úc, Thái Lan, Mã Lai..., những cuộc tiếp xúc với báo chí và dân chúng tại Úc, Mỹ...nơi ông Kỳ phô diễn ngoạn mục tài hùng biện và cá tính mạnh mẽ, hấp dẫn của ông.

Nhưng kể từ cuộc bầu cử tổng thống 1967, ngôi sao lãnh đạo Nguyễn Cao Kỳ bị lu mờ, sau khi tác giả, vì quá quân tử Tầu, vì tội nghiệp tướng Thiệu "sắp oà khóc" (trang 245) lúc biết hội đồng tướng lãnh quyết định cho ông Thiệu giải ngũ, đưa ông Viên lên làm quốc trưởng, và đề cử ông Kỳ đại diện quân đội ứng cử tổng thống.

Trong một tích tắc yếu lòng, vì thương hại đối thủ, ông Kỳ đã yêu cầu hội đồng quân lực hãy cho ông trở về không quân, và nhường cho ông Thiệu đại diện quân đội ra ứng cử tổng thống.

Quyết định nông nổi đó đã khiến ông Kỳ suốt đời ân hận!

Chương cuối cùng, người ta thấy một Nguyễn Cao Kỳ già dặn, chín chắn hơn, và chắc chắn, đã khôn ngoan hơn ba bốn chục năm xưa rất nhiều. Ông đưa ra một số tiên đoán về tình hình chính trị Việt Nam và thế giới. Một số tiên đoán của ông đã trúng phóc. Một số hãy còn chờ thời gian trả lời.

Nói chung, qua Buddha's Child, My Fight to Save Vietnam, người đọc có thể thấy lòng tha thiết của tác giả Nguyễn Cao Kỳ đối với đất nước. Ông lạc quan tin tưởng nơi thế hệ lãnh đạo Việt Nam trong tương lai. Những người này, theo ông, sẽ đưa quốc gia Việt Nam hướng về mô thức phát triển kinh tế của Âu Châu và Hoa Kỳ. Ông tin rằng một khi Việt Nam đi vào con đường kinh tế tư bản, dân chủ và một nền pháp trị sẽ đi tiếp theo sau.

*

* *

Ông Kỳ viết cuốn sách này chung với Marvin J. Wolf. Nhưng qua một số chi tiết, người đọc tự hỏi phải chăng ông Kỳ đã khoán trắng cho người Mỹ này, đến nỗi những chi tiết rất tầm thường, ông cũng bỏ qua, không để ý tới, chẳng chịu kiểm soát lại, thật đáng tiếc!

Trang 18, ông Kỳ cho biết khi về lại Hà nội, ông theo học trường Trung Học Bảo Hộ, còn gọi là Trường Bưởi (tác giả ghi là Lycée du Protectorate). Tên trường học này được nhắc lại hai lần trong trang 18, và còn ghi lại trong phần phụ lục, trang 357 nữa!

Trong tiếng Pháp, khi de cộng với le = du, thì danh từ phía sau phải là giống đực. Đây là luật sơ đẳng mà một học sinh lớp đệ thất phải thuộc lòng. Oâng Kỳ đỗ Tú Tài phần thứ nhất, sinh ngữ chính là Pháp văn, năm 1951. Tiếng Pháp của ông phải giỏi lắm (không giỏi, làm sao cặp bồ được với gái Pháp tưng bừng, thuở đi sang Tây học lái máy bay?), lẽ nào ông lại không biết trong tiếng Tây chỉ có chữ Protectorat mà thôi?

Trang 128, khi kể tên những người trong nội các, ông Kỳ cho biết ông Nguyễn Văn Trường nắm bộ giáo dục. Bác sĩ Trần Ngọc Ninh, một cộng sự viên cũ của ông Kỳ, nếu còn đang sống ở Orange County, hẳn là ngạc nhiên lắm, khi thấy ông Kỳ đã quên mình. Oâng Nguyễn Văn Trường không hề làm ủy viên giáo dục cho ông Kỳ. Oâng Trần Ngọc Ninh mới là Uûy viên giáo dục trong nội các chiến tranh của Nguyễn Cao Kỳ.

Phải đến chính phủ Trần Văn Hương, mới tới lượt ông Nguyễn Văn Trường nắm bộ giáo dục.

Trang 129, ông Kỳ cho biết bác sĩ Trần Văn Đôn phụ trách bộ ngọai giao!

Ở chính trường miền Nam trước 1975, không hề có một ông bác sĩ Trần Văn Đôn nào hết.

Trong ngành ngọai giao, người ta chỉ biết, và nhớ đến bác sĩ Trần Văn Đỗ, vị chính khách đã khóc năm xưa, khi hiệp định Genève được ký kết.

Trang 157, ông Kỳ nhắc đến bộ bình định và một ông ủy viên lạ hoắc tên là Lê Văn Tiến (?). Hay là ông muốn nói đến nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến, một trong những "quân sư" của ông?

Cũng xin nhắc để tác giả nhớ, thời nội các Nguyễn Cao Kỳ, chưa có bộ Bình Định Phát Triển. Lúc nắm quyền, ông đặt tên bộ ấy là Xây Dựng Nông Thôn. Bộ này đặt ở tòa nhà bốn tầng nằm phía sau quốc hội và khách sạn Caravelle. Có thể ông đã quên tên người cộng sự viên thân tín đứng đầu bộ XDNT, một trong những vị tướng nổi tiếng trong sạch của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng, dù ở phần giữa cuốn sách có đăng hình ông tướng này.

Trang 121, ông Kỳ kể lại chuyện thành lập phi đoàn Thần Phong. Rất tiếc, ông đã viết là thanh phong, hoặc đồng tác giả người Mỹ đã viết sai như thế, và ông Kỳ đã không xem lại bản thảo?

Trang 239, kể tên những ông tướng thân cận nhất của mình, tác giả đã viết sai tên hai tướng Nguyễn Bảo Trị và Nguyễn Viết Thanh. Riêng tướng Thanh, thì đã bị đổi tên thành ra Nguyễn Mạnh Thanh!

Một điều đáng tiếc nữa, là ngay trang đầu, trước phần mục lục, tác giả đã để cho người Mỹ ghi tên mình là Nguan Cao Ká, mà không buồn sửa. Phải chăng vì cẩu thả, không chịu đọc lại, hoặc vì ông Kỳ đã giao khoán cho người Mỹ lo tất cả?

Đại Học Tư Đầu Tiên Ở Việt Nam?

Theo lời kể trong cuốn sách, ông Kỳ có ba người chị và một em gái. Thân phụ ông là một nhà nho không gặp thời, không ra làm việc cho Pháp, chỉ dạy chữ Hán ở "một đại học tư" (a private college, trang 13, dòng 6 ).

Như vậy, không phải chờ đến thập niên 60, 70, lúc một loạt các đại học tư như Minh Đức, Hòa Hảo...được mở ở miền Nam, ngay từ thập niên 20, 30, theo ông Kỳ viết, đại học tư đã hiện diện ở miền Bắc Việt nam, và cụ thân sinh ông Kỳ đã là một trong những vị giáo sư đầu tiên dạy đại học?

Còn nếu thực sự cụ thân sinh ông Kỳ là một vị hương sư, hay một cụ đồ nho dạy học trò ngay tại nhà, hoặc tại làng xóm ở Sơn Tây, thì cứ việc nói thật như thế đi. Có một ông bố làm nghề dạy học thanh đạm là một điều đáng hãnh diện. Cớ chi phải khoác cho ông cụ một danh vị chưa hẳn là chính xác? Nếu đồng tác giả người Mỹ, vì không am hiểu văn hóa Việt nam, đã dùng chữ không đúng, thì với khả năng Anh ngữ xuất sắc của ông, (ông Kỳ đã hơn một lần, trong cuốn sách, tự hào về tài sử dụng tiếng Anh của mình hơn hẳn các ông Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Khánh, và những ông tướng khác trong nhóm tướng trẻ thời ấy) lẽ nào ông lại không phân biệt được sự khác nhau giữa schoolcollege ?

Đứa Con Cầu Tự Được Nuông Chiều Quá Mức?

Sau khi cả hai người con trai (anh của ông Kỳ) đều qua đời khi còn rất nhỏ, cụ thân sinh ông Kỳ chuẩn bị cưới vợ lẽ để có con trai nối dõi tông đường.

Trong tuyệt vọng, bà cụ thân mẫu của ông phải vội vàng đi chùa Hương, cầu xin Phật ban cho bà một mụns con trai.

Lời cầu xin của bà cụ đã được nhậm. Chín tháng sau, ông Kỳ chào đời. Có lẽ vì vậy mà trong cuốn tự truyện, ông Kỳ thường nhắc đi nhắc lại, với vẻ tự hào, rằng mình là con Phật, và luôn luôn được Phật che chở.

Là con trai duy nhất trong nhà, lại là con cầu tự, cậu bé Kỳ đã được cha mẹ và các chị nuông chiều hết sức. Cậu laø ông vua con trong nhà, muốn gì được nấy. Cậu bé được phép làm bất cứ điều gì mình ưa thích. Một sở thích rất kỳ lạ, nếu không muốn nói là quái đản, của cậu bé, ngay từ lúc mới chập chững biết đi: Đập chén đĩa. Hễ cậu đang khóc, muốn cho cậu nín, người nhà chỉ việc đem đến cho cậu cái đĩa, hay cái ly, để cậu đập xuống đất cho vỡ tan, là cậu thôi khóc, và cười ngay.

Phải chăng sự nuông chiều quá mức mà ông Kỳ được hưởng thời thơ ấu đã ảnh hưởng không ít tới cá tính, và hành động của ông lúc trưởng thành, nhất là khi đang giữ quyền cao chức trọng?

Một Vài Chuyện Tiêu Biểu

Y như cậu bé được nuông chiều thuở nhỏ, đến năm ông Kỳ 23 tuổi, lúc ông đã mang lon thiếu úy, được đi học lớp phi công ở Marrakech, ông vẫn còn can đảm ngửa tay nhận mỗi tháng 30 ngàn francs của bà cụ thân mẫu gửi sang, mặc dù chính phủ Pháp đã cấp cho các sinh viên sĩ quan không quân theo học khóa huấn luyện mỗi tháng 30 ngàn francs rồi!

Ít lâu sau, chuyển về một trường huấn luyện khác ở miền Nam nước Pháp, để dành được 200 ngàn francs, nhân dịp cuối tuần, ông Kỳ đi Paris, định tìm mua một chiếc xe hơi Citroen để lái chơi với các bạn Việt Nam đồng khóa.

Thay vì đợi tới thứ hai, làm thủ tục mua xe, tối thứ bảy, ông Kỳ đến chỗ ăn chơi quen thuộc (ông tự hào rằng đến mấy chỗ ăn chơi La Cave và The Lucky thường xuyên, và chi tiêu hào phóng đến nỗi đám bồi bàn ở đó đã gọi ông là "Hoàng Tử"!)

Thấy một nữ ca sĩ trẻ đẹp có tiếng hát thiên thần mới xuất hiện lần đầu trên bục trình diễn, ông Kỳ chạy đi mua một vòng đeo cổ nạm kim cương, kèm theo bó hoa vĩ đại 120 đóa hồng (!) tặng nàng.

(Lúc nào rỗi, các bạn ra tiệm bán hoa, xem thử một bó hồng 12 đóa to bằng nào, và nặng bao nhiêu nhé. Ở đây, tới 120 đóa hồng lận! Có lẽ người bán hoa đã phải kết 120 bông hoa hồng này lại thành hình tròn, và chất lên xe đẩy, hoặc khiêng tới?! Xin lỗi ông tác giả Mỹ Marvin J. Wolf một chút, đại ngôn vừa vừa thôi chứ?)

Khi nàng ca sĩ trở lại sân khấu với món quà tặng đắt giá trên cổ, ông Kỳ gọi rượu xâm banh đãi tất cả mọi người trong quán. Sau đó, ông dẫn nàng đến các nơi sang trọng, và đắt tiền hơn ở khu Montparnasse và Montmartre (hai nơi ăn chơi đàng điếm nhất Paris, chú thích của người viết).

Và lại tiếp tục mua thêm hoa, gọi xâm banh, ăn uống, đãi đằng cả những người chưa hề quen biết.

Nghĩ lại mà thương cho những bà mẹ Việt Nam làm lụng cực khổ, dành dụm, gửi tiền nuôi những thằng con đi học xa (vì lầm tưởng chúng thiếu thốn).

Các bà có ngờ đâu chúng nó ăn chơi đàng điếm, và phá của đến như vậy!

Thông thường, những đứa con cầu tự, khi còn ở nhà với cha mẹ, được nuông chiều, không ai dám nói hay làm gì trái ý chúng, nên khi ra đời, gặp những sự không vừa ý, nếu có quyền lực hoặc vũ khí trong tay, chúng có khuynh hướng thích đe dọa kẻ khác và bắt mọi người làm theo ý mình.

Ông Kỳ kể lại một lần đưa người tình ở Nha Trang vào môt ngôi giáo đưòng tại trung tâm thành phố, không phải để xem lễ hay cầu nguyện, mà chỉ để hai người tâm sự với nhau.

Có lẽ vì thấy chướng mắt, ông linh mục quản nhiệm lên tiếng cảnh cáo:

"- Đây là nhà thờ. Không phải là chỗ làm mấy chuyện đó."

Ông Kỳ trừng mắt nhìn ông linh mục, tay đặt lên báng súng lục bên hông, thách thức:

"-Rồi sao? Chúng tôi chỉ nói chuyên thôi, đâu có làm gì sai quấy. Bộ chỗ này không cho công chúng vào à?"

Dĩ nhiên, ông linh mục phải chịu nhượng bộ.

Chuyện ông Kỳ dọa bắn gian thương gạo, như đã kể ở trên, có thể là việc làm đúng đắn và cần thiết. Nhưng xem cách xử sự của tác giả đối với một cộng sự viên, như ông đã kể lại ở trang 214, người đọc không thể không cảm thấy bất nhẫn.

Khi cuộc nổi loạn ở miền Trung xảy ra, lúc nửa đêm, ông Kỳ sai tướng Viên và tướng Loan bay đi Đà nẵng dẹp loạn. Sau đó, khoảng một giờ sáng, ông gọi tổng ủy viên viễn thông Trương Văn Thuấn (?) lên văn phòng Tân Sơn Nhất, ra lệnh cho ông này, trong vòng một tiếng đồng hồ, phải cắt hết mọi liên lạc vô tuyến trong và ngoài nước.

Ông tổng ủy viên, có lẽ còn ngái ngủ, không biết ất giáp thế nào, vừa mở miệng hỏi, liền bị ông Kỳ nạt:

- " Hãy làm theo lệnh, kẻo tôi bắn ông bây giờ!"

Và ông Kỳ xua tay, đuổi ông cộng sự viên ra ngoài.

Chao ôi, chỉ vì chút miếng đỉnh chung mà người ta đành cam tâm chịu nhục đến thế sao!

Ông Kỳ có vẻ rất hãnh diện về chuyện ông vốn là phi công vận tải, chưa lái khu trục cơ bao giờ, mà chỉ vì muốn lấy le với cô bồ tiếp viên hàng không, ông đã dùng quyền tư lệnh không quân, ép buộc viên sĩ quan chỉ huy phi đội Skyraider phải cho ông mượn một chiếc, và chỉ dẫn sơ qua cho ông cách sử dụng.

Sau đó, ông Kỳ đã tống hết ga xăng, cất cánh, bay đi tìm chiếc máy bay DC-6 của Hàng Không Việt Nam, cặp sát bên cạnh ( theo ông Kỳ, hai cánh phi cơ chỉ cách nhau có vài inches!)

Ông cho biết đã bay cặp sát theo như thế khoảng mười phút, cho đến khi cô tiếp viên xinh đẹp chịu chường mặt ra khung cửa sổ phòng lái của chiếc DC-6, cho ông nhìn thấy, ông mới chịu quay trở về Tân Sơn Nhất. (Để xem nguyên văn, xin các bạn mở trang 117).

Một lần khác, sau đó khoảng hai ba tuần, ông Kỳ bay trực thăng đi công tác ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Chiều về, sợ trễ hẹn với cô tiếp viên, ông quyết định làm một cử chỉ ngoạn mục, a grand gesture!

Thay vì chờ đến khi về tới căn cứ, gọi điện thoại cho người đẹp, ông Kỳ quyết định cho chiếc trực thăng Huey của ông quần sát bên trên những ngọn cây quanh khu nhà nàng, đường Lê Lợi, giữa giờ tan sở, đường phố tràn ngập xe cộ đủ loại và khách bộ hành.

Chiếc chong chóng cực mạnh của trực thăng gây ra một cơn lốc cuốn tung mịt mù bụi, rác, và lá cây, khiến lưu thông tắc nghẽn!

Ông Kỳ cứ cho trực thăng quần vòng vòng như thế, cho đến khi cô tiếp viên bước ra khỏi nhà, nghe ông dặn dò mấy câu xong (người đọc tự hỏi, với tiếng động cơ rầm rầm nhức óc như thế, và ông Kỳ đang ở trên cao, chắc người đẹp phải có phép thần thông mới nghe thấy những gì ông dặn?), ông mới chịu bay về căn cứ!

Tướng Nguyễn Khánh, nhân vật số 1 thời đó, đã dùng ngôi sao chuẩn tướng, gắn cho ông Kỳ, để mua chuộc sự trung thành của ông (trong vòng không đầy sáu tháng, ông Kỳ nhảy vọt từ trung tá lên tướng!)

Do đó, tuy biết ông Kỳ có những hành động ngược ngạo (chứ không ngoạn mục, như ông tự hào đâu), vi phạm quân phong quân kỷ, và vô kỷ luật trầm trọng như thế, ông Khánh vẫn không dám nói gì.

Mấy tháng sau, ông Kỳ làm đám cưới với cô nữ tiếp viên hàng không, ông Khánh tặng ông Kỳ 1 triệu đồng VN. Tiền lương thủ tưóng của ông Khánh lúc ấy, theo ông Kỳ, chỉ có 50 ngàn đồng một tháng.

Người đọc tự hỏi ông Khánh lấy tiền ở đâu, của ai, để tặng (hay mua sự trung thành của) ông Kỳ? Nên nhớ, ông Khánh lật đổ ông Minh tháng giêng 1964. Đám cưới ông Kỳ và cô tiếp viên diễn ra vào tháng 4 năm đó. Chỉ trong vòng không đầy 3 tháng mà ông Khánh đã thủ đắc hàng triệu đồng như thế. Nếu đó là tài sản riêng của ông Khánh, chắc chắn nó đã tích lũy một cách bất chính. Còn nếu đó là công quỹ, ai cho phép ông ta dĩ công vi tư như thế??!!

Như đã nói ở trên, những đứa con cầu tự được nuông chiều quá mức, muốn gì được nấy, khi lớn lên, thấy cái gì mình ưa thích là làm đủ mọi cách để chiếm đoạt, dù đó đang là vật sở hữu của bạn bè, hay của đàn em mình.

Một thân hữu, trước sống ở Đà Lạt, kể cho người viết nghe: cô tiếp viên, mấy tháng trước đó, còn đang là tình nhân của một viên đại úy phi công. Viên đại úy này thường lên Đà Lạt chơi với cô ta.

Ông Kỳ cho biết, một khi đã quyết chí làm điều gì, ông nhất định làm cho bằng được. Khi ngỏ lời xin cưới cô tiếp viên, bà mẹ cô không bằng lòng, vì theo bà cụ, ông Kỳ mang tai tiếng nhiều quá.

Chúng ta hãy nghe ông đối đáp với bà mẹ vợ tương lai:

- "Tôi tử tế và lịch sự lắm, mới xin bà cho tôi cưới con gái bà, nhưng tôi có thể nói với bà rằng, dù bà bằng lòng hay không, tôi vẫn cứ cưới con bà như thường. Bà chẳng làm gì được đâu."

Một người con gái Việt Nam bình thường, nếu là con nhà có giáo dục, nghe người yêu nói với mẹ mình như thế, chắc chắn đã đoạn tuyệt, cho chàng trai đi chỗ khác chơi rồi!

Sự Trong Sạch của Nguyễn Cao Kỳ

Rất nhiều lần trong suốt cuốn sách, ông Kỳ nhắc đi nhắc lại mình là người trong sạch, không tham tiền, không tìm lợi riêng cho mình, không hề tham nhũng, không hề buôn lậu, thời gian ở không quân cũng như khi nắm quyền thủ tướng, và giữ chức phó tổng thống.

Trang 52, ông Kỳ viết: " Tướng Tỵ (Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Muu Trưởng QLVNCH thời tổng thống Diệm) biết tôi tuy nghèo, nhưng không ăn cắp của quân đôi, hay nhận tiền hối lộ để cho người dưới đặc ân và được thăng cấp, như nhiều sĩ quan đã làm."

Ở đây, có hai câu hỏi được đặt ra. Một là, căn cứ vào đâu, ông Kỳ biết tướng Tỵ nghĩ về ông như vậy. Đâu có phải việc tướng Tỵ tặng ông hai thùng sữa đặc mỗi tháng là đủ để xác nhận sự trong sạch của ông? Thuở ấy, ông thường đích thân lái máy bay, chở tướng Tỵ đi nơi này nơi kia. Cụ Tỵ có thưởng cho ông chút bổng lộc, tưởng cũng chỉ là chuyện thường tình?

Câu hỏi thứ nhì, ông tự nhận mình là người trong sạch, cũng được đi. Việc gì ông phải viết thêm rằng nhiều sĩ quan khác đã làm những chuyện đáng xấu hổ đó? Phải chăng ông viết khơi khơi như vậy để dìm người khác xuống và tự đưa mình lên? Ông có bằng chứng gì về các hành vi tham nhũng của những sĩ quan khác? Tên tuổi của họ là gì? Ông vốn được tiếng là người trực tính, dám nói, dám làm.

Thế sao lúc ấy, và ngay cả bây giờ, ông không chịu lên tiếng?

Cũng theo ông Kỳ, ông trong sạch đến nỗi trong những chuyến bay ra ngoại quốc, ông không hề mua gì cho riêng mình, dù là một xấp lụa Thái Lan. Ngay cả một điếu thuốc lá ngoại, ông cũng không hề mua.

Chỉ một lần, vào năm 1957, bay sang Singapore, ông có mua tặng thân mẫu một chiếc radio transistor nhỏ của Nhật.

Tuy nhiên, người đọc vẫn còn thắc mắc, trong thời ông Kỳ còn ở không quân, những ngày chỉ huy phi đoàn vận tải, và rồi căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, với số lương khiêm tốn của một sĩ quan, lại đã một vợ mấy con, hoàn toàn trong sạch như thế, ông Kỳ lấy tiền ở đâu để ông và thuộc cấp đi ăn, đi nhảy thường xuyên trong các hộp đêm thượng hạng của Sài gòn (như ông đã kể lại ở trang 66)? Và tiền ở đâu để chu cấp cho những cô tình nhân, và một vài phụ nữ đã có con với ông tá hào hoa (trang 119)?

Ngôn Ngữ và Tác Phong của Đứa Con Cầu Tự

Ông Kỳ rất tự hào về tài lái máy bay của mình. Ông đã từng tranh tài với phi công Mỹ, trong lúc say rượu, tại căn cứ Tân Sơn Nhất. Ông và viên phi công Mỹ, mỗi người uống 1/5 chai rượu Whiskey, trước khi mỗi người leo lên một chiếc phi cơ, và trong lúc rượu thấm dần dần, say đến nỗi không đứng nổi nữa, họ điều khiển phi cơ theo sự hướng dẫn của phi công huấn luyện viên ngồi bên cạnh.

Đáp xuống đất, phi công Mỹ và Việt đồng tài, đồng sức, lại rủ nhau đi uống rượu tiếp!

Tác giả kể lại, thuở tổng thống Ngô Đình Diệm còn sống, cụ Diệm có thói quen đi ngủ sớm lúc 9 giờ tối. Một đêm, ông Kỳ và một số thuộc cấp Việt và Mỹ, khoảng 25 người, chạy 5 hay 6 chiếc xe Jeep, lên trung tâm Sài gòn chơi. Trên đường từ hộp đêm về, khoảng 1 giờ khuya, chắc hẳn lúc đó cả nhóm đã có chút men trong bụng rồi, ông Kỳ cho đoàn xe ngừng lai ở trước Dinh Độc Lập. Ông Kỳ cho rằng cụ Diệm đi ngủ sớm như vậy thì chán chết, nên quyết định giúp vui cho cụ. Và các ông phi công bắt đầu cất giọng hát, cả nhạc Việt lẫn nhạc Mỹ, cho tổng thống nghe!

Kể cũng lạ, liên đoàn phòng vệ phủ tổng thống đi ngủ đâu hết rồi? Tại sao không một người nào dám ra, mời mấy ông say rượu đi chỗ khác chơi?

Như vậy mới biết ở nước ta, không phải chỉ hơn hai trăm năm trước, thời vua Lê chúa Trịnh, mới có loạn kiêu binh!

Vậy mà sáng hôm sau, khi đại tá Đỗ Mậu, giám đốc nha an ninh quân đội, gọi cho ông Kỳ, hỏi có phải đúng là nhóm của ông đã đánh thức tổng thống không, ông Kỳ đã trả lời:

-"Đúng là chúng tôi. Chúng tôi vui chơi với nhau. Thì đã sao?"

Một trung tá trả lời một đại tá với giọng điệu như vậy, mà không sao cả, quả ông Kỳ có được Phật bảo vệ thật!

Khi đã lên làm thủ tướng, một hôm ông Kỳ cùng ông Lãm, tư lệnh vùng 1, đi thị sát sư đoàn 2 do tướng Toàn chỉ huy, vì ông đọc báo thấy tin ông Toàn không cho lính đi hành quân, mà dùng họ để khai thác quế trong rừng ở Quảng Nam, và đem bán.

Theo ông Kỳ kể lại, tướng Toàn, một người cao lớn, vạm vỡ, trông rất oai vệ, đã run lập cập khi nhìn thấy tờ báo ông Kỳ đưa ra. Ông Toàn không dám chối, phải khai thật. Ông Toàn cho ông Kỳ biết sư đoàn cần tiền để gây quỹ xã hội, và để chuẩn bị tiệc mừng Tết.

Ông Kỳ hứa cấp tiền cho quỹ của sư đoàn, và cho riêng ông Toàn nữa, nhưng đã cảnh cáo ông ta: "Nếu ông còn tiếp tục dùng lính để khai thác quế, hay làm những chuyện tương tự, ông sẽ bị xử tử."

Được biết Quế Tướng Công đang cư ngụ ở vùng Orange County. Ai quen biết ông, xin nhờ ông xác nhận chuyện này.

Ộng Kỳ cho biết, trang 135, người Mỹ đã giúp chính phủ của ông xây dựng trường y khoa đầu tiên của Việt Nam!

Ở điểm này, thì tác giả lầm to. Trước khi ông Kỳ làm thủ tướng, đã có trường y khoa rồi. Muốn cho chính xác hơn, lẽ ra ông Kỳ nên viết rằng người Mỹ đã giúp xây một cơ sở hoàn toàn mới cho trường y khoa Việt Nam.

Có lẽ, đây là một lầm lỗi khác của đồng tác giả người Mỹ, mà ông Kỳ, vì không xem lại bản thảo, nên đã không sửa chữa.

Trong phiên họp nội các, ông Kỳ hỏi ông tổng ủy viên giáo dục vì sao miền Nam thiếu huấn luyện y tế. Được biết trường y khoa đã xây xong, nhưng chưa mở cửa cho sinh viên vào học vì có sự bất đồng ý kiến giữa ông tổng ủy viên giáo dục và ông viện trưởng viện đại học Sài gòn: Ông viện trưởng muốn theo đường lối, và hệ thống của Pháp, còn ông tổng ủy viên giáo dục và đa số giới y khoa muốn theo hệ thống của Mỹ.

Cũng theo ông Kỳ, vì ông viện trưởng (có thể là bác sĩ Trần Đình Đệ ?) rất có uy tín, lại còn là thầy cũ của ông tổng ủy viên giáo dục, nên vấn đề cứ dùng dằng, và trường y khoa vẫn cứ tiếp tục đóng cửa.

Ông Kỳ ra lệnh cho ông bác sĩ đứng đầu ngành giáo dục:

"...-Tôi muốn trường y khoa phải mở cửa để huấn luyện các bác sĩ mới. Trong vòng ba ngày, tôi sẽ đến đó, cắt băng khánh thành, chính thức mở cửa trường để đón nhận sinh viên mới. Nếu lúc tôi đến, trường vẫn chưa mở cửa nhận sinh viên vào học, tôi sẽ bắt cả ông lẫn ông viện trưởng vào lính, và nhất định sẽ đưa các ông ra chiến đấu ngoài tiền tuyến. Ông hiểu không?"

Được biết bác sĩ Trần Ngọc Ninh, tổng ủy viên giáo dục trong nội các Nguyễn Cao Kỳ cũng đang ở tại Orange County. Ước mong ông Ninh xác nhận có phải ông đã từng là học trò của ông viện trưởng viện đại học Sài gòn, và phải chăng ông đã từng bị đe dọa bị bắt vào lính, mặc dù thời đó, ông đã bước vào tuổi 45,46 !!??

Những Trục Trặc Khi Để Người Mỹ Viết Sách Chung

Ông Kỳ có thể không biết đồng tác giả người Mỹ đã chế ra lối viết mới. Thay vì Cà mau, ông ta viết Cahmau; tên phi công Nguyễn Văn Cử, người cùng Phạm Phú Quốc ném bom Dinh Độc Lâp, tháng 2, năm 1962, bị sửa thành Nguyễn Văn Cú ! Vịnh Cam Ranh được đổi thành Cam Rahn.

Tên tướng Nguyễn Bảo Trị đổi ra thành Nguyen Boa Tri; tướng Nguyễn Viết Thanh, tư lệnh vùng 4 chiến thuật biến thành Nguyễn Mạnh Thanh!

Ông tác giả Mỹ, có lẽ đã không tìm hiểu gì về địa lý Việt Nam, nên ở trang 55, ông ta cho biết Đà Nẵng cách Sài gòn có chừng 300 dặm (480 km)!

Trên thực tế, khoảng cách Sài gòn - Đà Nẵng là 740 km.

Chắc chắn đây là lỗi của ông Marvin J. Wolf, chứ phi công tài ba Nguyễn Cao Kỳ đâu có thể ước tính khoảng cách Sài gòn - Đà nẵng như thế được? Bởi vì nếu ông bay theo khoảng cách ước tính ấy, thì phi cơ sẽ đáp xuống gần Nha Trang, hay cùng lắm là đến trang trại Khánh Dương của ông mà thôi.

Ở đầu trang 151, một lần nữa, người đọc lại thấy hai ông Kỳ và Wolf rành địa lý Việt Nam như thế nào.

Tây Ninh ở miền Trung hay miền Nam nước Việt, hỏi một cậu học sinh lớp đệ thất, cậu ta sẽ trả lời cho bạn biết ngay.

Nhưng tác giả viết: tỉnh Tây Ninh, nơi nhiều người theo đạo Cao Đài, thuộc miền Trung nước Việt.

Đọc đến đoạn này, chắc các vị giáo sư sử địa như Phạm Cao Dương, Võ Thành Điểm...phải giật mình té ngửa?!

Bí Ẩn Về Cái Chết Của Sáu Ông Tá

Nhận lời mời của Bộ Chỉ Huy Biệt Khu Thủ Đô đến một trường trung học Tầu (tư thục Phước Đức) xem triển lãm chiến lợi phẩm tịch thu được của Việt Cộng trong trận Mậu Thân, ông Kỳ chuẩn bị tham dự vào buổi sáng hôm sau. Trong đêm hôm ấy, ông mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Ông thấy mình đang bay, thì phi cơ ông nhào xuống một cái giếng khổng lồ. Đầy kinh hãi, ông cảm thấy mình không thể nào ra khỏi miệng giếng. Chắc chắn phi cơ sẽ rớt, và ông sẽ chết. Ngay lúc ấy, ông Kỳ nghe thấy, từ phía sau ghế máy bay ông ngồi, có tiếng của đại tá Lưu Kim Cương, nguyên chỉ huy trưởng căn cứ Tân Sơn Nhất.

Trong giấc mơ, ông Kỳ ngạc nhiên, vì đại tá Cương đã tử trận, một tuần sau Tết Mậu Thân, vì trúng đạn B-40.

Ông Kỳ nghe cố chuẩn tướng Lưu Kim Cương nói: "Tôi sẽ đưa thiếu tướng lên". Rồi phi cơ bay lên khỏi miệng giếng. Khi đã lên cao, ông Cương chỉ cho ông Kỳ xem một trận đánh phía bên dưới, và nói: "Thiếu tướng thấy đám khói vàng kia chứ? Xin hãy cẩn thận. Đó là nơi chúng nó sẽ tấn công."

Ông Kỳ cho ông Cương biết khói vàng đánh dấu nơi có quân bạn và thắc mắc vì sao lại tấn công quân bạn. Ông Cương công nhận ông Kỳ nói đúng, nhưng dặn ông Kỳ hãy ghi nhớ lời mình dặn.

Rồi ông Cương chỉ cho ông Kỳ xem tấm hình bảyngười nằm chết co quắp dưới đất.

Sáng hôm sau, thức dậy, mồ hôi ướt đẫm, mệt lả người, ông Kỳ quyết định ở nhà.

10 giờ sáng, tin sét đánh! Sáu sĩ quan thân cận nhất của ông Kỳ đã bị rocket từ trực thăng Mỹ bắn chết.

Khi xem tấm hình chụp ít phút sau tai nạn thảm khốc này, ông Kỳ thấy đó chính là tấm hình cố chuẩn tướng Lưu Kim Cương đã cho ông xem. Điều khác biệt duy nhất là tấm ảnh trong giấc mơ có bảy người nằm chết, còn bức hình ở trường Phước Đức chỉ có sáu.

Ông Kỳ tin chắc rằng hồn ông Cương đã cứu ông thoát chết.

Sau vụ này, ông Kỳ nghe rất nhiều lời đồn ông Thiệu đứng đằng sau vụ thảm sát sáu ông tá.

Ông cũng nghe nói đại tá Trần Văn Hai, tổng giám đốc cảnh sát quốc gia, người thay thế tướng Loan, có mặt trên chiếc trực thăng bắn rocket vào nhóm sĩ quan thân cận của ông Kỳ.

Rất tiếc, cả ông Thiệu lẫn ông Hai đều đã ra người thiên cổ. Biết đến bao giờ, sự thật về cái chết của sáu ông tá mới được tiết lộ?

Ông Ngô Đình Nhu Chỉ Huy 80 Ngàn Quân?

Trang 71, khi viết về những chuyện xấu xa của chế độ Ngô Đình Diệm, tác giả đã sai lầm trầm trọng khi cho biết ông Nhu chỉ huy 80,000 quân lực lượng đặc biệt phòng vệ dinh tổng thống!

Với kiến thức quân sự của một binh nhì, người viết biết chắc chắn 80,000 quân thì phải cỡ 7 hoặc 8 sư đoàn. Thời ấy, đi ngang qua đường Thống Nhất, thấy doanh trại của Liên Đoàn Phòng Vệ Dinh Tổng Thống, ngoài số binh sĩ trú đóng trong Dinh Độc Lập, có lẽ chỉ trên dưới một đại đội, chỉ vỏn vẹn có hai dãy nhà ba tầng đối diện với rạp Thống Nhất và hãng Shell (sau cuộc đảo chính 1963, doanh trại này bị cắt làm đôi để con đường Đinh Tiên Hoàng nối vào đường Cường Để, biến thành đại học dược khoa và đại học văn khoa). Với cấp số của liên đoàn, và về sau, còn gọi là lữ đoàn, lực lượng phòng vệ tổng thống phủ nhiều lắm là ba bốn ngàn người.

Vậy mà tác giả đã cho phép tới 7 hay 8 sư đoàn trú đóng trong hai dãy nhà lầu ấy để bảo vệ Dinh Độc Lập!

Nếu đúng như tác giả nói, Dinh Độc Lập mà được 80,000 quân bảo vê, thì còn khuya mấy ông tướng già, tướng trẻ thời ấy mới lật đổ được cụ Diệm!

Thôi, cứ coi như đây lại là một lỗi lầm nữa của ông đồng tác giả Marvin J. Wolf.

Chứ thiếu tướng Kỳ, một thiên tài quân sự, nguyên tổng tư lệnh quân đội, làm sao không biết một liên đoàn có bao nhiêu quân!?

Ông Kỳ Đi Kháng Chiến?

Theo tác giả kể, thân phụ của ông, sau thời gian dạy học, vì bất mãn với chính sách cai trị của thực dân Pháp, đã bỏ vợ con ở lại, vào rừng gia nhập lực lượng du kích đánh Pháp.

Cuối năm 1944, thừa hưởng lòng yêu nước của thân phụ, cậu bé 14 tuổi Nguyễn Cao Kỳ, quyết định lên đường kháng chiến chống Pháp. Cậu lấy trộm khẩu Browning của anh rể mình (trung sĩ Takahashi tặng cho anh rể ông Kỳ khẩu súng này), và cùng hai người bạn nhỏ, tìm đường lên chiến khu Việt Bắc. Vì trời mưa bão, không thể thuê thuyền đi được, ba cậu thiếu niên phải chờ đợi, và bị gia đình nhờ cảnh binh tìm bắt lại.

Chiến tranh thứ nhì chấm dứt, gia đình ông Kỳ dọn về Hà nội. Ông theo học trường Bưởi được ít lâu, thì quân Pháp theo chân quân Anh và quân Tầu trở lại Việt Nam.

Căm phẫn, cậu thiếu niên 16 tuổi Nguyễn Cao Kỳ rời Hà nội, vào rừng gia nhập quân kháng chiến chống Pháp, giải phóng đất nước.

Trong hai năm tham gia kháng chiến, trải qua nhiều gian khổ, thiếu thốn, chứng kiến tận mắt sự chèn ép ngu xuẩn của những người tự vệ, du kích Việt Minh và cán bộ chỉ huy họ đối với trí thức thành thị, thanh niên Nguyễn Cao Kỳ dần dần thấy được bộ mặt thật của cộng sản.

Suốt thời gian ở chung với Việt Minh, tác giả không được cầm súng, chỉ lo việc tăng gia sản xuất, nấu ăn cho bộ đội, dọn dẹp; và sau đó, đi theo đoàn văn nghệ tuyên truyền.

Ở trang 21, tác giả cho biết ông đã đi hàng trăm, hàng ngàn dặm, từ vùng này sang vùng khác, thăm viếng hầu như khắp nước!?

Ở điểm này, người đọc thấy hơi khó tin. Có lẽ tác giả Marvin J. Wolf đã phóng đại hơi nhiều. Đi bộ, đi thuyền công tác hàng trăm dặm đã là nhiều rồi. Nói chi đến chuyện hàng ngàn dặm, nghĩa là từ ngoài Bắc vào đến tận trong Nam? Mà lại còn nói đi khắp nước nữa!

Có lẽ tác giả đã đi trong lúc mơ ngủ?

Sĩ Quan Bộ Binh Nguyễn Cao Kỳ

Trang 25, tác giả cho biết năm 1950, Bảo Đại ra lệnh tổng động viên.

Thực ra, phải đến 1951, chính phủ Nguyễn Văn Tâm mới ra lệnh tổng động viên. Lúc ấy, ông Kỳ vừa đậu xong bằng tú tài 1.

Ông theo học Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định. Trường này nằm ngay thành phố Nam Định, cách Hà nội 87 km. Cho nên, người đọc lấy làm lạ, khi thấy tác giả quên tên trường võ bị này, và lại còn mô tả trường ở gần Hà nội.

Ra trưòng với lon thiếu úy bộ binh, ông về phục vụ tại tiểu đoàn 20 Việt Nam, đóng đồn ở Mỹ Trạch, dưới quyền viên đại úy tiểu đoàn trưởng người Pháp. Trong lúc sĩ quan Pháp chỉ lo rượu chè, chết nhát, không dám ra khỏi đồn đi hành quân, thiếu úy trẻ Nguyễn Cao Kỳ ngày đêm dẫn quân đi kích. Có lần, ông bắt được một tù binh Việt Minh sau khi đuổi theo người này vào làng, và nhảy tới tịch thu súng, dẫn tù binh về đồn, dễ dàng y như phim cao bồi bắt mọi da đỏ!

Ở trang 30, chắc chắn đã có lầm lẫn về ngày tháng. Tác giả viết là năm 1951, ông đã đi hành quân.

Làm sao ông có thể hành quân vào năm 1951 được? Lúc ấy, ông còn đang học trong Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định. Phải tới 1952, ông mới ra trường.

Ông Kỳ (hay tác giả Marvin J. Wolf ?) cho biết ông theo học trường sĩ quan Nam Định trong 10 tháng.

Ông Kỳ đã nhớ lộn rồi. Trường khai giảng tháng 10 năm 1951. Ra trường tháng 6, 1952. Học có 8 tháng thôi.

Để Kết Luận

Viết về một người như cựu thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, một nhân vật đặc biệt mà ngôn ngữ và hành động thường là đầu đề cho những tranh luận gay gắt, không phải là một chuyện đơn giản. Người ta dễ đứng về một trong hai phía, hoặc là yêu mến thì trung thành với ông hết mình, hoặc là đã ghét thì ghét và chê tất cả những gì ông nói, ông làm.

Lại càng phức tạp hơn, khi viết về một cuốn sách mang rất nhiều tính tự truyện. Nếu đứng từ phía ái mộ ông, người ta dễ dàng chỉ lọc ra những chi tiết về những thành tích ngoạn mục, những đức tính tốt, việc làm trung hậu của tác giả, để ca tụng ông. Còn nếu vốn ghét cá nhân Nguyễn Cao Kỳ, người ta cũng có thể chỉ lựa các khuyết điểm, sai sót của tác phẩm, những điều không có thực, hoặc sai sự thực trong đó, để chê bai thậm tệ.

Là một con người, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ có cả tính tốt lẫn tính xấu, nhiều ưu điểm và cũng không thiếu những khuyết điểm mà ông đã bộc lộ qua tác phẩm mới nhất này.

Trong phần cuối cuốn sách, trang 360, ông đã "thú nhận nhũng sai lầm của tuổi tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm, những lầm lỗi bắt nguồn từ một tấm lòng ngây thơ, tin người..."

Theo tác giả, lầm lỗi lớn nhất của ông là đã để cho một người bất xứng ngồi vào địa vị lãnh đạo, dẫn đến sự thua trận của miền Nam.

Ông cầu mong những người đang sống kiếp lưu vong, những người còn ở lại quê hương, và cả những người thuở ấy (thập niên 60,70) chưa ra đời, hãy tha thứ cho ông.

Năm nay, thiếu tướng Kỳ đã bước vào tuổi 73. Với những lời chân thành ông vừa bộc lộ, người ta có thể thông cảm với ông nhiều hơn.

Chúng ta hãy chờ xem kết quả những lời tiên đoán của tác giả về tình hình đất nước, và trông đợi những đóng góp của ông cho một đất nước Việt Nam mới, không còn cộng sản.

Một đề nghị sau cùng, xin gửi đến tướng Kỳ: Ở trang 349, ông cho biết đã không hài lòng với cuốn sách Twenty Years and Twenty Days vì đám nhà báo Mỹ đã bịa đặt ra những điều miệng ông không hề nói, và dựng lên những chi tiết, những biến cố chưa hề xảy ra!

Ông cho biết, chính vì thế, mà ông đã quyết định viết cuốn sách này.

Người đọc e ngại, biết đâu, ngay cả trong cuốn sách này, người Mỹ cũng đã xen vào trong sách những điều ông không hề nói, và những biến cố chưa hề xảy ra?

Một vài chi tiết về những sai lầm (địa danh, ngày tháng, tên người, cách dùng chữ, thành phần nội các...) kể trên khiến người ta nghĩ lần này chưa hẳn đã khác lần trước đâu.

Lần sau, nếu ông định viết thêm một cuốn sách nữa, xin ông viết bằng tiếng Việt.

Được như vậy, ít nhất đồng bào của ông mới biết ông thực sự là tác giả của tác phẩm ấy.

Tháng 8, 2002

Vũ Trung Hiền
Ý kiến bạn đọc
03 Tháng Bảy 20248:28 SA
Khách
You wrote this 22 years ago but it's still a great review of this book. Thank you if you are still alive.
16 Tháng Tám 20117:00 SA
Khách
Tôi đã đọc bài viết của Vũ Trung Hiền giới thiệu cuốn sách CON CẦU TỰ của tác giả Nguyễn Cao Kỳ. Nay tôi muốn có được quyển sách ấy thì liên hệ ở đâu để mua ( bản tiếng Việt). Mong được sự hướng dẫn của quí anh chị.Xin cám ơn nhiều.
14 Tháng Tám 20117:00 SA
Khách
Cám ơn "Người Điểm Sách" Vũ Trung Hiền với những "Binh luận" cần thiết! Tôi chỉ đọc cho biết, còn phê bình hay chê-khen thì không dám có ý kiến! Tuy nhiên, một vài phát biểu của ông Kỳ khá "bất bình thường"! Nay ông Kỳ đã ra người thiên cổ, phê bình chỉ trích hay khen-chê cũng hoá thừa. Chúc hương hồn ông Kỳ sớm tiêu diêu nơi miền Lạc Cảnh!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn