Chuyện cà phê vỉa hè kể rằng:
Một sáng nọ tại bãi biển Đồ Sơn, người ta thấy hai ông già vừa tắm biển với mấy em chân dài, xinh như… tiên nữ “Pờ lay boi”, vừa chơi trò nắm tay “Oản tù tì”, ai thua thì phải cõng.
Hai ông cứ thay phiên nhau (giả vờ) thua để cõng nhau làm trò mua vui cho mấy em.
Mấy tiên nữ nhìn cảnh hai anh già râu tóc bạc phết, de dẻ nhăn nheo, bụng phệ, cõng nhau đi lụm khụm thì bưng miệng cười nắc nẻ, rung cả đào, cả lê.
Anh già tóc bạc đang nằm trên lưng anh chàng có hàng râu mép thấy mấy em cười toe toét, thân hình gợi cảm quá cỡ thợ mộc, bèn hứng … tình lên, đố các em:
- Tớ đố mấy … cháu, các … anh đang chơi trò gì đây. Em nào nói đúng tớ thưởng cho một đĩa nhạc có tên là “Thiên duyên tình mộng”. Mách nước một chút cho các cháu nhá! Ca dao, tục ngữ ta có nói đấy!
Mấy em gái nghe nói “đố chơi có thưởng” lại thưởng cho một “Thiên duyên tình mộng” thì mê tít thò lò, bởi đã nghe em Bảo Yến rú bài này lên môt cách “quằn quại đê mê” trên giường, y như “thú đau thương của loài ngựa hoang” nên đua nhau tìm câu trả lời. Tiếc thay mấy em đâu có học biết ca dao tục ngữ bao giờ đâu mà mò. Mấy em vừa nghĩ, vừa lầm bầm trong miệng:
- Bố khỉ cái lão già này! Phải chi lão đố về Lê văn Tám, Anh hùng Núp, Nguyễn văn Trỗi … thì hay biết mấy.
- Chúng em chả biết ca dao, ca búa gì đâu. Ông anh đố “hắc” quá!
- Trò gì nhẩy? Chúng em chịu thôi! Các anh đố cứ như mấy ông cụ!
- Thua à! Lười thế! Động não lên chứ! Lần này thì…anh giải. Lần sau thì phải cố lên đấy! Anh còn khối trò!
Các em bu quanh hai “cụ anh” vừa kéo, vừa níu, vừa ỏng ẹo nũng nịu:
- Ừ! Anh cứ giải cho chúng em đi! Lần sau chúng em cố để bù!
- Nhé! Đấy nhé! Phải bù đấy nhé! Đấy là trò: “Gậy ông đập lưng ông”.
- Thế là thế nào! Sao lại là trò “gậy ông đập lưng ông”?
- Thế mấy em không thấy “cái gậy” của anh đang đập lên lưng của thằng cha này là gì!
Mấy cô tiên nữ hiểu ra, cười rú lên, đấm thùm thụp liên hồi lên lưng hai anh già. Một cô rất “thơ ngây” hỏi ngớ ngẫn:
- Nhưng… nhưng em đâu có thấy cây gậy nào đâu?
Các cô lại phá lên cười sằng sặc. Môt cô có đôi mắt dài, cái lưng thon, cái eo nhỏ, (trường mi, tiểu yêu) tướng “trường xà quyển địa” xác nhận:
- Tối qua tớ có nắm thử cây gậy của anh ấy rồi. Còn cứng tốt lắm. Tớ có hỏi bí quyết, anh ấy nói là ở hải ngoại, anh ấy thường xuyên chống gậy chớ không có chống cộng nên vẫn còn “gin”.
Cả bọn lại rú lên cười. Anh râu mép thấy anh đầu bạc được điểm với mấy em quá cũng chẳng chịu thua, máu bốc đồng sôi lên, ra câu đố:
- Bây giờ anh đố các em. Hai anh đang ngồi mí các em trên bãi biển này, tục ngữ có câu gì để diễn tả. Em nào giải được anh cho đi một suất sang đảo Phú Quí tham quan sân “Gôn”.
Các em nhao nhao lên:
- Thèm vào! Đây chả thèm “Gôn” với Gậy”. Bảo lãnh đi Mỹ chơi một chuyến thì mới là tay ngon cơ!
- Ừ ! Thì Mỹ Tho hay Mỹ Thuận gì cũng được! Cứ giải đi! Nếu đúng thì “Trăm điều hãy cứ trông vào tay ta”!
Đa số các kiều nữ chân càng dài thì óc càng ngắn, cứ nghĩ mãi vẫn không ra, để hy vọng xuất ngoại một chuyến. Trong khi các em vờ vịt suy nghĩ thì anh râu mép với anh tóc bạc cứ tha hồ mà ngắm núi, ngắm đồi, ngắm khe, ngắm suối. Hồi lâu các em vẫn tịt, cuối cùng chịu thua.
Anh râu mép đắc ý, cười híp mắt, vừa chỉ tay xuống giữa hai ngón cẳng cái vừa giải đáp:
- Cái thế ngồi trên cát của hai anh đây tục ngữ nó gọi là “Đất lành chim đậu”.
Lần này thì các cô đã khôn ra, biết là đố mẹo, bèn “liên hệ” nhanh giữa “cái gậy” của anh đầu bạc và “con chim” của anh râu mép nên hiểu ngay. Cả bọn lại ôm bụng cười bò ra. Thừa dịp, mấy em cười tít mắt “không thấy tổ cuốc, tổ cò”, hai anh cụ quơ tay phát vào mông, vào đùi các em loạn xạ làm cho các em vừa la oai oái, vừa thích chí cười toáng lên.
Mặt trời lên cao dần, người đi tắm biển mỗi lúc thêm đông, thấy đám tiên nữ và hai cụ ông đang diễn trò “Tiên Dung và Chữ Đồng Tử”, nói cười vang rân nên lò dò đến xem để biết là tài tử xi la ma nào.
Hóa ra không phải tài tử đóng phim mà là hai anh “Việt Kiều yêu nước” từ Mỹ về xây dựng quê hương.
Một anh là đại nhạc sĩ họ Phạm. Một anh là tướng quân họ Nguyễn.
Hai anh này bây giờ giống như hai hồn ma đang vật vờ, vất vưởng không nơi nương tựa, tình cờ gặp nhau bèn rủ nhau kiếm nơi du hí và tâm sự lòng thòng.
Anh nhạc sĩ họ Phạm lắm tài mà cũng lắm tật. Nhất là cái tật anh ta thích “yêu”. Yêu bất kể “quân thần phụ tử”. Yêu tất tần tật. Từ hoa bướm tới thơ nhạc, nhất là người đẹp, đều yêu hết. Đôi khi anh “yêu” ghê quá, mãnh liệt quá, cái dục tính nó nhổm dậy bò ra khỏi lằn ranh của luân thường đạo lý. Nghệ sĩ mà! Nhưng đến người đẹp “Vô Thượng sư” thì anh yêu cả người lẫn tiền.
Năm nay anh cũng đã hơn tám bó rồi mà sức chơi vẫn còn khỏe lắm. Tình yêu trong tim anh vẫn còn rực lửa. Anh chống gậy (giả vờ) về lại quê nhà để tiếp tục yêu và giúp đỡ các em bé tuổi đôi mươi khỏi phải bị đưa sang Hàn quốc, Sin Ga Po làm nô lệ tình dục.
Mấy mươi năm ở Mỹ, coi bộ yêu khó quá. Mó vào các em nhí thì bị vác chiếu ra tòa. Còn mấy em đượi đứng đường thì hãi quá.
Mới đây, nhìn tấm hình một anh chàng họa sĩ đầu hói chuyên ké bóng anh nhạc sĩ TCS, ngồi trong quán bar, đang ôm một em nhí có bầu ba tháng với mình, đăng trên báo VC, anh nhạc sĩ thấy phê quá, nên quyết định giả từ “Thị trấn giữa đường” về quê để được “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”.
Ta về ta tắm ao ta. Vừa rẻ vừa ngon.
Ba chục năm sống lưu vong ở Mỹ, nhạc anh được hát thả giàn. In ấn, xuất bản, thu băng, thu dĩa…thả giàn. Anh đến đâu cũng được đồng bào hoan nghênh nhiệt liệt. Tưởng đâu, đời anh, tên tuổi anh theo thời gian mà đậm thêm nét son trong lịch sử, chí ít ra là trong bộ môn âm nhạc.
Ngờ đâu vào một ngày không đẹp trời lắm, anh bỏ hết tất cả những gì đang có, anh chống gậy về quê để an hưởng tuổi già, để vớt vát những ngày trống bỏi còn lại.
Thôi thì cũng chúc phúc cho anh. Còn lại bao nhiêu cái răng thì ráng mà gặm bấy nhiêu cỏ non.
Ai có dè, về đến nhà, anh lại dở chứng (cái chứng này lát nữa có người sẽ nói sau) Nếu anh cứ tà tà gặm cỏ non, gặm từ sáng tới chiều, gặm cho tới tàn canh gió lạnh đi chăng nữa thì chẳng ai lý tới làm gì cho mất thì giờ, tốn hao giấy mực. Đàng này, anh lại muốn lấy điểm với Đảng và Nhà nước ta, sưng sưng tuyên bố một câu rất thối:
"Tôi chống gậy chớ không chống cộng".
Tuyên bố xong, còn phụ đề Việt ngữ thêm bên cạnh là “cái bọn hải ngoại lâu nay chống cộng hung hăng con bọ xít rất ư là bát nháo, ấm ớ hội tề”. Cái sự lấy điểm rất “máu” này chỉ làm cho VC cười mũi vì họ biết tỏng cái “thằng sớm đánh tối đầu”, nhưng họ cũng biết dùng cái câu tuyên bố đó như “giáo Tàu đâm Chệt” để âu yếm gửi tặng lại “đồng bào hải ngoại khúc ruột ngàn dậm” như một tô canh gân gà khó nuốt.
Ngoài ra, anh còn hăm he: - Từ nay cấm có đứa nào hát chùa nhạc cuả ông. Nếu không nghe “nhời, ông kiện cho bỏ bú! Sau khi bán được mươi bài cho Công ty Văn Hóa Phương Nam.
Nghe nói bà con bên Cali rất nhiều kẻ ngậm đắng, không ít người nuốt cay. Người thì khóc rống lên thương xót cho thần tượng khôn ba năm dại một giờ. Kẻ thì giơ tay đấm ngực, chửi rủa vì đã tiếc công, tiếc của nuôi “hắn ta” mập thây bao nhiêu năm nay, bi giờ “hắn ta” phản bội.
Mặc, trò đời như phù vân trên trời, như ba đào dưới biển. Đường ta, ta cứ đi. Ruộng ta, ta cứ cầy. Nhạc sĩ họ Phạm cứ dung giăng dung dẻ lên sân khấu trong những đêm “Ngày trở về” cười hề hề cầu tài.
Nhưng chuyện đời đâu có phải bằng phẳng dễ ăn cả. Mặc dù Phạm nhạc sĩ đã đi một đường trình diễn lã lướt làm đẹp Nghị quyết 36 của Đảng, nhưng (lại nhưng) vẫn có những thằng ghen ăn, tức ở, ở trong nước, gai mắt trước cảnh khán thính giả vỗ tay bôm bốp chào đón “cái thằng chạy lại”, còn mình đứng một đống lù lù ở trước mặt mà chẳng ma nào rớ tới, bèn xử dụng “văn hóa bốc ném” tấn công ào ạt nhạc sĩ họ Phạm ta.
Quả thối nặng ký nhất có tên “Không thể tung hô” được ném ra ngày 13/3/2006, bởi một “đồng chí nhạc sĩ” Nguyễn Lưu nào đó, đăng trên báo Đầu Tư, quyết ăn thua đủ với “đồng chí Phạm”.
Ý chừng thấy chưa đủ sức công phá, nhạc sĩ Lưu lôi thêm anh chàng “nhà văn Chu Lai” vào cuộc, cho nổ trước một quả dọn đường.
Nhà văn Chu Lai tâm đắc khoe:
“ Tạp chí Thế giới Mới số mới nhất có đăng một bài viết, với nội dung gói gọn: “Một người từng bỏ kháng chiến đi theo thực dân Pháp, khi Pháp rút lui theo Ngô đình Diệm và khi ngụy quyền sụp đổ lại chạy qua Mỹ. Vả tại đó đã viết hàng loạt bài kêu gọi chống cộng, với giọng điệu “sặc mùi” hiếu chiến. Nay thấy Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, lại xin trở về! Hà cớ gì phải tung hô, xưng tụng như thế!”
Tiếp theo tiền pháo, đồng chí Nguyễn Lưu hậu xung bằng súng cối, tên lửa, A.K, lựu đạn chày, dao găm, mã tấu… trong một bài viết rất dài và rất dại. Xin trích vài câu ngắn:
“ - “Không thể tung hô” – Có thể nói, một trong những niềm tự hào, tự tôn của dân tộc Việt Nam là triết lý “đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại”. Tuy nhiên không đánh “kẻ chạy lại” cần được hiểu thêm rằng, kẻ chạy lại là ai, và “không đánh” có nhất thiết đúng nghĩa với việc xem người ấy là thần tượng, là nhân vật tiêu biểu để đón rước trọng thể…? Tôi muốn nói đến trường hợp nhạc sĩ Phạm Duy, người mới được xưng tụng sau đên nhạc “Ngày trở về. (diễn ra tại Nhà hát Hòa Bình, T.P HCM)(Rất đúng bài bản! Chính sách Đảng trước sau như một, không bao giờ thay đổi. Chỉ có bổ sung!. NV)
Quả bom sau khi văng miểng tanh bành, anh chàng họ Lưu này phùng mang trợn mắt hô to khẩu hiệu:
“Ai muốn coi Phạm Duy là thần tượng, tùy ý, còn tôi, trước sau xin nói không!
Tiếc thay, trong bài viết rất dài và dại đó, họ Lưu không đánh trúng được yếu huyệt của lão họ Phạm mà lại để hở sườn lộ ra nhiều sơ hở, được tóm trong hai điểm chính::
- Làm lộ bí mật quốc gia, lộ ý đồ bên trong của Nghị quyết 36, kêu gọi hoà hợp hòa giải dân tộc. (Không phải ai cũng được hòa. Còn phải xét lại từng người)
- Hung hăng con bọ xít chống Phạm Duy, bị mất trí khôn, lòi ra cái ngu dốt mãn tính chuyên chụp mũ. (Lấy bài “Mùa thu chết” làm trọng điểm để xoáy sâu, đánh phá bị ép phê ngược)
Vì hai cái ngu này, nhạc sĩ ghen ăn tức ở Nguyễn Lưu bị bà Giám Đốc Công Ty Văn Hóa Phương Nam, người bảo kê cho Phạm Duy, ăn miếng trả đòn bằng quả bom nặng ký hơn, vạch ra rất nhiều điều ngu dốt, bậy bạ của hắn ta, làm hắn ta và anh nhà văn Chu Lai tịt ngòi, im thin thít.
Buồn cười và thú vị nhất là cái Bà Văn Hóa Phương Nam biết xài cái chiêu “Gậy ông đập lưng ông” như hai anh đầu bạc và râu kẽm chơi ở bãi biển Đồ Sơn. Nghĩa là bà cứ dùng cái chiêu “Hòa hợp hòa giải dân tộc” của Đảng và Nhà nước ta đang hô hào ra đánh lại, khiến cho đối phương không dám ho he, nhúc nhích.
Cãi lại cái Nghị quyết của Đảng e mà có tù mọt gông à?
Xin trích vài hàng:
“Đường lối đổi mới của Đảng trong hai thập niên qua đã mang lại những thành tựu to lớn đầy sức thuyết phục. Chủ trương đại đoàn kết theo tinh thần Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị đang thổi môt luồng sinh khí mới, động viên tinh thần yêu nước của tất cả mọi người Việt Nam không phân biệt tôn giáo, chính kiến trong cũng như ngoài nước để cùng hướng tới mục tiêu”dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
(…) Nhiều người bỏ nước ra đi, nay lần lượt trở về góp phần xây dựng đất nước dưới hình thức này, hình thức khác. Ông Nguyễn cao Kỳ, Phó tổng thống Chính quyền Sài Gòn cũ đã trở về. Đó là những minh chứng hùng hồn cho tính đúng đắn của chủ trương đại đoàn kết.
Đối với những kẻ thù xâm lược, chúng ta cũng đang xếp lại quá khứ để cùng hướng tới tương lai, nhưng đọc bài báo của nhạc sĩ Nguyễn Lưu, nhiều người hẵn băn khoăn tự hỏi tại sao việc “xếp lại quá khứ” đối với một bộ phận người Việt lại khó khăn đến thế? Khép lại quá khứ hoàn toàn không đồng nghĩa với việc “bỏ quên tất cả” như ông Nguyễn Lưu nói. Và cũng không thể xếp lại quá khứ theo kiểu lôi hết “ngọn nguồn” của một người để phơi bày trên mặt báo như ông Nguyễn Lưu đã làm! Dù nhắm tới một đối tượng cụ thể là nhạc sĩ Phạm Duy, nhưng khi ông Nguyễn Lưu (dẫn lời nhà văn Chu Lai) nói rằng “ Nay, thấy Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, lại xin trở về” chắc chắn sẽ làm những người đã hoặc đang có ý định trở về chạnh lòng và cảm thấy bị xúc phạm. Đó là lời nói kiêu ngạo, vô trách nhiệm, gây mất lòng tin vào đường lối chủ trương của Đảng.”…
(Chuyện ông Lưu với bà Phương Nam choảng nhau trên báo chí y như chuyện thường ngày ở chợ. Ai muốn biết rõ thì đọc thêm ở báo Thế giới Mới và Đầu Tư VN)
Chuyện ì xèo trên cứ râm ran kéo dài trên báo trong nước vì nhiều ý kiến của độc giả và khán giả, kẻ khen, người chê cũng lắm, làm buồn lòng nhạc sĩ nhà ta không ít.
Nhạc sĩ nhà ta không “ke” với bọn hải ngoại, bởi nhạc sĩ đã “vẫy tay chào nhau” rồi. Những tưởng về quê xênh sang, ai ai cũng “hoan hỉ” chào đón, đi đâu cũng có lọng vàng che như thiền sư Nhất Hạnh.
Ai ngờ! Thiệt chán mớ đời cho thế thái nhân tình!
Nhạc sĩ nhà ta buồn lắm. Bèn đi hoang, ca bài “Trầu Cau”: Ôi ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu! Và tình cờ lại gặp tướng quân râu kẽm cũng đang đi vật vờ.
Cả hai bèn rủ nhau ra Đồ Sơn kiếm mấy em chân dài tâm sự.
Đây nói về tướng quân họ Nguyễn.
Tướng quân họ Nguyễn từ lúc hô hào chiến hữu ở lại chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, rồi lẻn trốn thoát thân một mình, nên khi qua Mỹ, nghĩ lại, rất ân hận và xấu hổ về hành động “không can đảm” của mình. Vì vậy, tướng quân muốn làm một điều gì đó để lương tâm và danh dự đêm đêm không còn nhe răng ra cắn rứt nữa.
May quá! Đúng lúc Nhà nước ta đang “phát động chiến dịch hòa hợp hòa giải dân tộc” cần người làm cu mồi. Tướng quân thấy cơ hội và giờ phút “lịch sử” đã điểm, bèn xông ra nắm lấy.
Cộng đồng người Việt và các anh em chiến hữu, nhất là binh chủng Không Quân, ngăn cản và phản đối kịch liệt.
Nhưng tướng quân cố đấm ăn xôi, kệ thây đám hải ngoại “hiểu lầm” khổ nhục kế của mình, để xả thân về nước, hy vọng đem miệng lưỡi Tô Tần thuyết phục Hoàng Đế, Tể Tướng và bầy tôi ở Bắc Bộ phủ nên rũ lòng nhân, xét lại chính sách nhất quán mà thương tình cho đám lưu vong, hơn ba triệu người, đang sống khổ, sống sở rất thảm thương, lang thang khắp nơi trên địa cầu. Nên mở lượng hải hà, mở rộng lòng nhân đạo y như sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, dang rộng vòng tay thân ái đón những “khúc ruột ngàn dặm” trở về với quê hương, chùm khế ngọt.
Suốt mấy năm liền, Nguyễn tướng quân, bôn ba hết Nam đến Bắc, đi mòn dép, nói mỏi miệng mà quan lớn, quan nhỏ chẳng ai nghe. Áo hồ cừu khi đi còn mới cắt chỉ bây giờ rách te tua như cái tổ đỉa. Lúc ra đi bằng xe tứ mã, giờ về lếch thếch lội bộ thật không giống con giáp nào.
Nghĩ giận mình học nghề du thuyết chưa thông bèn trở về Mỹ, đóng cửa, ngó mặt vào tường, đọc sách “Làm thế nào xóa bỏ một chế độ” của nhóm đồng tác giả Sịa. Sách dày ngàn trang. Nghiền ngẫm liền trong sáu tháng, không ăn, chỉ uống. Mất hết hơn trăm chai X.O Remy Martin mới “ngộ” ra được một chữ TIỀN.
Từ đó, tướng quân thông hiểu hết mọi lẽ trên đời. Bí kíp dấu kín trong bụng, mong một ngày công thành danh toại. Một hôm ngứa miệng chịu không nổi, tướng quân đem khoe với bà vợ (mới cuỗm được), về cái triết lý “tiền”. Bà vợ nghe xong, hứ một tiếng rồi bỉu môi:
- Tưởng dài lưng đọc sách nửa năm, uống hết cả tiệm rượu, ngẫm ra được cái gì hay ho, mới mẻ, chớ “tiền” thì tôi đây là mụ nhà quê cũng biết thừa đi rồi. Há chẳng nghe ông bà mình vẫn nói: “Vai mang túi bạc kè kè, nói quấy nói quá thiên hạ vẫn nghe ào ào” là gì!
Tướng quân khoái chí, xoè tay năm ngón, đánh đét vào mông vợ một cái rõ kêu, rồi cười hì hì:
- Ấy! Rõ là mụ đàn bà nhà quê đái không qua ngọn cỏ! Chỉ biết một mà không biết hai! Cái bí quyết là ở chổ “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn. Đồng tiền đi sau là đồng tiền dại”. Biết chửa?
Sau đó, Nguyễn tướng quân đi chiêu dụ một số nhà tài phiệt Mỹ bằng cách đưa ra một kế hoạch ít vốn mà nhiều lời trong tương lai, nếu đổ tiền đầu tư ở Việt nam một nước có rất nhiều khế ngọt, để làm mồi nhữ.
Đám tài phiệt Mỹ hể nghe ở đâu có hơi đồng thì mê. Chúng họp nhau lại, đem máy “vi tính” ra nghiên kíu. Máy cho ra kết quả: Tâm lý cái bọn giàu “nẫy” (tức giàu thình lình nhờ cướp và tham những) hay có thói học làm sang kiểu trưởng giả, rất thích đua đòi kiểu ông kẹ là đánh Gôn cho bằng dân Mỹ.
Thế là, Nguyễn tướng quân dẫn bầy đoàn doanh nhân Mỹ mang kè kè túi đôla xanh bên hông về nước ký kết xây dựng sân Gôn.
Vừa được “đông bạc”, vừa được có nơi chơi khỏi phải sang Hồng Kông, Sing Ga Po xa xôi tốn kém, dĩ nhiên Nhà nước ta ô kê cái rụp.
Lần này, Nguyễn tướng quân đạt được kết quả mỹ mãn. Phải dùng tới khẩu hiệu của “Bác” mới diễn tả hết cái sự “vĩ mô” của kết quả thu về: “Thành công, thành công, đại thành công”. “Thắng lợi, thắng lợi, đại thắng lợi”. Khắp toàn cõi giang sơn gấm vóc Việt Nam, từ đất liền ra tới hải đảo, đâu đâu cũng có những sân “Gôn” mọc lên rất “hoành tráng”.
Từ nay tướng quân không thèm ngồi xe tứ mã nữa. Tướng quân ngự trên chiếc xe do ba ngàn con trâu. Thật là hách.
Ngoài sự thắng lợi về tiền bạc rủng rỉnh trong túi, lên xe xuống ngựa, yến tiệc linh đình, ba ngày tiểu yến, bảy ngày đại yến với các quan trong Triều Bắc Bộ phủ ra, Nguyễn tướng quân thừa lúc, đem miệng lưỡi Tô Tần ra thuyết, đem cái lợi vô cùng to lớn của sự “hòa hợp hòa giải dân tộc” ra giải bày cùng đám quan chức lớn nhỏ trong Triều. Đang lúc ngà ngà hơi men, các quan nghe Nguyễn tướng quân thuyết rất hấp dẫn vì có mùi (tiền):
- Các quan anh thử nghĩ xem! Mỗi năm, chúng nó (NVHN) gửi sơ sơ về cho thân nhân mà ta đã có một số ngoại tệ 4 tỷ đô la, bằng 1/3 tổng số lợi tức cả nước thu nhập. Các quan anh chả làm gì sất mà được ngồi mát ăn bát vàng. Nếu các quan anh chịu khó một chút, một chút thôi, chìa tay ra bắt tay chúng nó rồi nói vài lời an ủi “rằng thì là”…lập tức chúng nó mũi lòng (dám có đứa cảm động quá, khóc sụt sịt nữa đấy) mà quên hết quá khứ ngay. Lúc ấy, cứ tưởng tượng ra cái cảnh ba triệu rưỡi người của cái đám tị nạn, lưu vong xô đẩy, chen lấn, đạp lên nhau, xéo lên nhau mà trở về để được hái khế. E rằng thế giới không cung cấp đủ “tàu há mồm” để chở chúng về nữa đấy.
Các quan lớn Bắc Bộ phủ nghe đến đó, ngồi đực ra, há hốc mồm, mắt cứ tròn xoe nhìn chòng chọc vào bộ râu kẽm của Nguyễn tướng quân, trong đầu hiện ra hình ảnh đô la xanh chảy về thành dòng như nước sông Hồng mùa lũ lụt. Hồi lâu mới có anh lên tiếng:
- Đồng chí nói nghe thì dễ ăn đấy! Nhưng Đảng ta đã ra Nghị quyết 36 cả mấy năm nay chẳng chiêu dụ được ma nào cả, thì làm sao bi giờ?
- Cái Nghị quyết 36 của các quan anh nó ấm ớ hội tề lắm, chả có tác dụng gì! Tại sao? Các quan anh cứ làm như cha cố người ta không bằng. Các anh phải vạch rõ cái gốc vấn đề là tại làm sao người ta bỏ nước ra đi. Từ cái gốc ấy, các quan anh mới khều được cái tâm lý yêu nước, thương nòi trong lòng người ta. Lúc ấy mới kêu gọi được chứ. Trong lúc người ta đang ở trên đất nước tự do, nhân quyền, nhân phẩm, quyền lợi người ta được hiến pháp, luật pháp nước sở tại bảo đảm chắc chắn thì các quan anh lại ra Nghị quyết này nọ, nhảy chồm chồm vào đòi quyền bảo vệ khúc ruột ngàn dặm. Thế là thế nào? Người ta đâu cần các quan anh bảo vệ? Trong khi cái đám người các quan anh xuất khẩu đi lao nô khắp nơi bị bọn chủ chà đạp ức hiếp, kêu cứu lên tận trời xanh, thì các quan anh lại làm ngơ.
- Nhưng nhỡ bọn “đĩ điếm, phản quốc” ấy kéo về đông quá lợi dụng chính sách khoan hồng, hòa hợp của ta rồi tổ chức “diễn tiến hòa bình” đòi tự do dân chủ thì sao?
- Ấy! Lúc đó thì lũ chúng như cá nằm trong chậu, chim nằm trong lồng rồi! Các quan anh cứ tha hồ muốn chém, muốn chặt lúc nào mà chả được. Đấy, như cái đám tranh đấu đòi tự do với mấy ông sư, ông cha trong nước, các quan anh hàng ngày hết bắt giam người này, bỏ tù người nọ, có ai dám hó hé không nào? Nước ta là nước độc lập có chủ quyền, được thế giới công nhận, thì còn sợ gì ai?
- Rất là chí lý! Nhưng ta phải làm gì chúng mới chịu tin là ta có thành tâm thiện chí ?
- Muốn chúng tin thì trước tiên ta phải hòa giải với người chết đã, bằng cách trả lại Nghĩa trang Quân đội ở Biên Hòa cho thân nhân họ và nhất là Ta bỏ ra chút ít tiền tượng trưng để trùng tu lại một số mồ mã lâu nay bị ta đập phá lấy đá về xây chuồng heo. Ta làm được việc này thì sau đó mà tha hồ hốt đô la.
- Được! Thế là “quyết” nhé! Cứ thế mà làm!
Sau bữa nhậu rất “hồ hởi phấn khởi” đầy “ấn tượng” và “bức xúc” đó, mấy trăm tờ báo, mấy chục đài phát thanh, phát hình Nhà nước đua nhau đưa tin về cái “quyết” rất “nhân bản” rất “đậm đà bản sắc dân tộc” đó.
Các đài phát thanh ngoại quốc đua nhau phỏng vấn Nguyễn tướng quân về cái vụ Nghĩa trang Quân đội. Thính giả nghe đài cũng “phấn khởi” theo những câu trả lời rất “hồ hởi” của Nguyễn tướng quân.
Nguyễn tướng quân đã lập công lớn trong việc “xin được” Nhà nước ta chịu xìa bàn tay từ trên cao xuống, để bắt tay với đám lưu vong trong “chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc”.
Bấy giờ nhiều người mới hiểu ra, mới thầm khen tướng quân đã chịu nhiều khổ nhục, dấn thân vào hang cọp để thuần hóa cọp.
Cạnh đó, người xem truyền hình cũng nhận ra được những cái nhếch mép cười khinh mạn của tướng quân để ngầm trả lời cho cái đám se sẻ không hiểu được chí lớn của chim bằng, khi xử dụng khổ nhục kế.
Chẳng bao lâu, chừng nửa năm sau cái “quyết” lịch sử trong bửa nhậu tràn trề rượu X.O đó, ngày 27 tháng 11 năm 2006, một Quyết định do Tể tướng Dũng ký, ban hành nói về cái nghĩa trang đó.
Nội dung: Đồng ý chuyển mục đích xử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc phòng quản lý sang xử dụng vào mục đích dân sự để phát triễn kinh tế, xã hội tỉnh Bình Dương. Giao Chủ tịch Ủy Ban Nhân dân tỉnh Bình Dương chỉ đạo việc quản lý khu nghĩa địa Bình An bình thường như các nghĩa địa khác theo qui định của pháp luật.
- Ối giời ơi! Bố mẹ ơi! Cái Quyết định như thế có giết tôi không chứ!
Thôi rồi! Bao nhiêu công lao du thuyết của Nguyễn tướng quân trôi theo dòng nước bạc. Hôm ấy, chúng hứa với mình là sẽ trả lại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cho thân nhân tử sĩ QLVNCH. Bây giờ chúng lại lươn lẹo nói chuyển sang mục đích dân sự để cho tỉnh Bình Dương sử dụng phát triễn kinh tế. Ăn làm sao, nói làm sao với cái đám chim se sẻ hôm trước ta nhếch mép cười khinh bạc. Các quan anh thâm quá, đã đá giò lái ta cú này quá đau.
Thế mới thấm cái câu “Việt cộng nói dzậy mà không phải dzậy”.
Tướng quân buồn tình cho cái sự đời “như cái lá đa”, đi cà lơ thất thơ, miệng lẩm nhẩm hát mấy câu huê tình cho với nổi u uất trong lòng thì gặp anh đầu bạc. Hai anh rũ nhau tìm nơi để giải tỏa nỗi niềm.
Bây giờ thì trời nắng gắt lắm rồi, hai anh với bầy tiên nữ tìm bóng mát nơi mấy tảng đá để ngồi uống nước giải khát. Mấy em bu vào bá vai, bá cổ, cạ ngực, cạ mông xin tiền “bo”.
Ngẫm nghĩ cái cảnh lỡ làng hiện tại, đi chẳng nở, ở không xong, tưởng đâu “đất (sẽ) lành chim đậu” nào dè lại bị cảnh “gậy ông đập lưng ông” hai anh rầu thúi ruột, chợt biết ra rằng mình chỉ là tài hèn, sức mọn, con én không làm nổi mùa xuân, dù mùa xuân ảo, mà không biết phải làm sao.
Tức cảnh sinh tình, hai anh lại đố:
- Câu đố cuối cùng, em nào giải cũng được, thưởng hết. Mỗi em một vé. - Như hai anh đang ngồi với mấy em đây, tục ngữ nói thế nào?
Cả đám tiên nữ chân dài lần này thông minh hẵn, tranh nhau nói:
- Ngó cái mặt bí xị của hai anh, chúng em biết ngay là hai anh đang ở trong cảnh “trứng chọi đá”! Đúng không nào?
Nguyễn Thanh Ty
Gửi ý kiến của bạn