BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73223)
(Xem: 62212)
(Xem: 39389)
(Xem: 31147)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Chữ nghĩa bật ra từ những vết sẹo đời – Đọc truyện của Lâm Chương

29 Tháng Mười 201012:00 SA(Xem: 1500)
Chữ nghĩa bật ra từ những vết sẹo đời – Đọc truyện của Lâm Chương
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00
Vài dòng về Lâm Chương: Ông sinh năm 1942 tại Gò Dầu Hạ Tây Ninh. Cựu sĩ quan quân lực VNCH. Ở tù từ 1975-1985. Vuợt biển năm 1987, định cư tại Boston, Massachusetts Hoa Kỳ. Tác phẩm đã xuất bản: Loài Cây Nhớ Gió (thơ, Việt Nam); Đoạn Đường Hốt Tất Liệt (tập truyện, Hoa Kỳ); Lò Cừ (Tập truyện, Hoa Kỳ); Gió về phố biển (Truyện vừa, Hoa Kỳ) và Đi giữa bầy thú dữ (Truyện vừa, Hoa Kỳ)

Trên bàn viết lữ thứ của mình, Lâm Chương bắt đầu lại những trang viết khi bóng chiều đã ngã trên vai. Nói bắt đầu lại, bởi vì trước kia, ở trong nước, ông làm thơ. Một chặng đường bầm dập đã qua, một khoảng thời gian nát vỡ tình người đã trải, khởi điểm từ con số không, nhưng lòng lại giục giã, lên đường. Một lên đường rất cô đơn nhưng đầy khẳng khái, tạo nên những tiếng vang tốt.

Trong cõi viết mới của mình, Lâm chương đã khởi đi bằng truyện ngắn. Rồi từ truyện ngắn, ông viết truyện vừa, mà tiêu biểu là “Gió về phố biển” và “Đi giữa bầy thú dữ”. Rồi, càng về sau này, ông càng “ưa” thể loại “đoản văn”. Đẩy ngòi bút vào cả ba thể loại nhưng lại cùng phảng phất một điều: gom góp những vụn vỡ của đời sống, thu nhặt những mất mát trong cõi nhân sinh, và soi rọi nó bằng một tấm lòng của một người tha thiết với quê hương, quặn đau theo những vết sẹo của cuộc đời.

Lâm Chương là người lính thực thụ, đối diện với sống chết từng phút từng giây. Đi lính, nhưng không hề nuôi thù hận. Đi lính, như một sự sắp đặt của tạo hóa, không tránh khỏi. Mũi tên đã khởi đi từ chiếc cung. Chỉ có phóng tới, chứ không thể thu về. Đó là thế chẳng đặng đừng của những người trai trẻ trong thời loạn ly của đất nước. Giữa trận tiền, dù có muốn dừng lại sự bắn giết lẫn nhau cũng chẳng được. Ông viết: “Những thằng đi trận của cả hai phe đều ở vào cái thế của tên giác đấu. Mình không giết nó, nó giết mình. Đâu cần chi phải hận thù?”. “Đâu cần chi phải hận thù?” Nghe, thật đơn giản, nhưng tự đáy lòng, không phải ai vào cuộc cũng mang một nỗi niềm như thế.

Sau tháng 4 1975, quân nhân, công chức chính quyền miền Nam, được lệnh tập trung mười ngày. Mười ngày, rồi mười tháng, rồi mười năm, rồi nhiều năm tiếp theo nữa. Đó là giai đoạn tang thương. Không phải chỉ có Lâm Chương, cũng không phải chỉ có những người lính cũ, mà là cả miền Nam bị nhốt vào nhà tù lớn. Người khác gọi là “cải tạo”, nhưng với ông tù là tù! Làm sao cải tạo được. Mà cải tạo cái gì? Viết về những ngày tháng như thế, Lâm Chương đã dùng chất liệu thật, để tạo nên những trang văn nói lên cái bi thảm của tù tội giữa núi rừng Việt Bắc rất lôi cuốn qua nhiều truyện ngắn. Cái bi thảm đó, có trải qua mới thấm cái cùng khổ của những người bại trận với: đói, rét, gông, cùm, bệnh, tật, và lao động khổ sai. Đọc những trang viết của ông ông trong giai đoạn này, tôi lại nhớ đến Cung Trầm Tưởng, một người lính, một nhà thơ, một người tù, một kẻ lưu vong, từng có những vần thơ tù làm ray rứt người đọc:

“Áo tù thẫm máu đôi vai

Bàn chân nứa chém, vành tai gió lùa

Ngó tay bỗng thấy già nua

Cứa êm thân xác mấy mùa thu qua

Môi cằn, má hóp thịt da

Ngô vơi miệng chén, canh pha nước bùn

Đêm nằm ruột rỗng vai run

Đầu kề tiếng suối, chân đùn bóng đêm”

(Nguyện Cầu Mùa Thu)

Vết sẹo của tù đày đã lành miệng theo thời gian, nên LC đã viết về giai đoạn này với một tâm thế hết sức bình thản mà mà không hề hằn học. Không phải ông không đau về cuộc chiến vừa qua; không phải ông không tiếc nuối về những tháng ngày tuổi trẻ bị giam cầm nơi rừng rú; không hẳn ông đã giác ngộ triết lý nhà Phật; và cũng chẳng phải ông có cái tâm lớn như Bồ Tát để quên đi những trận đòn dã man đã giáng xuống thân thể gầy còm của những người tù, nhưng, theo tôi, ông “hiểu”. Cái quan trọng nằm ở chỗ ấy. Như một con đinh ốc nằm trong một guồng máy, làm sao một con đinh ốc đã bị khóa chặc, lại có thể ngưng nỗi một guồng máy đang vận hành với một vận tốc chóng mặt. Xa hơn nữa, bao nhiêu năm đã trôi qua, bao nhiêu mùa trăng khuyết lại tròn, bao nhiêu nước từ nguồn ra biển, người Việt Nam bị đầu độc bởi hận thù đằng sau những chiếc bánh vẽ, thì hằn học, oán hờn nằm trên những trang chữ lẻ loi, có lay chuyển được điều gì? Dĩ nhiên, ông cũng không hề “quên”. Làm sao quên được những mồ hôi và máu đã thấm vào mạch đất? Làm sao quên được những những nấm mộ sơ sài của bạn bè sau cuộc chiến, nơi rừng thiêng, nước độc. Không, không hề. Ở ông, nhớ nhưng không bóc trần, biết nên không truy vấn, và, hiểu nên không biểu lộ thù hận trên những trang chữ của mình.

Không những thế, với ông, những kẻ “bên kia” vẫn có dăm người, với chút tình người còn xót lại. Ông không ngần ngại nói lên những điều ấy, dựng lại những hoàn cảnh đầy nhân tính, chẳng hạn như truyện “Cận kề biên giới tử sinh” hay truyện “Những ngày mắc cạn”. Nghĩ về một gã quản giáo đã nới tay trong những trận đòn, và cũng giúp đỡ ông trong những cơn thập tử nhất sinh, ông viết:

Cũng vẫn con người ấy, nhưng bây giờ, tôi thấy dưới lớp băng đông giá, còn tiềm ẩn cái hơi ấm tình người. Nhìn qua bên kia hàng rào trại, cây rừng đang xanh tốt mùa mưa. Lòng tôi cũng bắt đầu xanh lại. Trong khi chờ người bạn tù nấu cháo, tôi nằm xuống chiếc sạp nứa. Có tiếng mọt kẽo kẹt nghiến gỗ trong vách. Trước kia, đêm trằn trọc trong trại cải tạo, nghe tiếng mọt, lòng tôi ray rứt như nghe đời mình đang bị gặm nhắm hao mòn dần theo những tháng ngày lưu đày. Bây giờ, cũng tiếng mọt, nhưng tôi lại nghe như tiếng đời sinh động.” (Những ngày mắc cạn)

Ông nhìn rõ “Khi biết mình đã hiểu lầm bữa cơm bồi dưỡng, thành bữa cơm ân huệ cuối cùng cho tử tội, bao nhiêu nỗi buồn rầu trong tôi vụt tan biến. Và cơ thể đang ê ẩm rã rời, bỗng khỏe lại như vừa được uống một liều thuốc hồi sinh. (…)…tôi nghiệm ra rằng, người Cộng Sản dù ác độc gian trá, nhưng họ cũng là con người, thì một lúc hiếm hoi nào đó, họ cũng biết nói thật và cũng động lòng trắc ẩn” (Cận kề biên giới tử sinh)

Thời gian ra khỏi tù cũng gian nan, nhọc nhằn không kém. Đó là quãng thời gian đi giữa quê hương như một người xa lạ, “bị quê hương ruồng bỏ, giống nói khinh” (Thơ Vũ Hoàng Chương). Hiếm người dám chứa chấp những kẻ về từ tù ngục. Kiếm được một việc làm, mà làm gì cũng được, là trăm đắng, ngàn cay. Họ làm đủ mọi thứ để kiếm sống. Họ làm muôn nghề để nuôi thân. Họ sống trong cảnh “Anh về cụt mất hai tay / Còn nghe thiên hạ chê bai đủ điều” (Thơ Trần Nghi Hoàng). Cái cụt mất hai tay, không là cụt mất theo nghĩa đen, mà là cụt mất hai tay trong một thân thể lành lặn. Lành lặn, nhưng ăn bám cuộc đời. Lành lặn nhưng vô dụng. Đó là bước đường cùng của những tấm thân gầy còm về từ tù ngục. Đó là nỗi đau cụt mất hai tay trong một thân thể lành lặn. Mỗi truyện ngắn nằm trong mạch này, của LC, đều phảng phất những nỗi đau như thế, từ những nhân vật xưng “tôi”.

Lâm Chương viết về những người ra tù, bị giạt về các vùng quê khá rõ nét. Nhà quê vốn đã nghèo. Cái giàu ở họ, mà ai cũng nhìn thấy, đó là cái giàu về cơ cực. Tuy vậy, những người về từ tù ngục, bị giạt ra chốn quê mùa này, càng cơ cực hơn. Viết về ruộng đồng, thôn dã, người đọc cảm được cái “thế” của người nông dân trong những ngày mùa. Đó là thế mặt nhìn đất, lưng phơi giữa trời. Theo chân những người đào giếng nơi những thị trấn khô cằn, người đọc thấy từng giọt mồ hôi của họ đổ xuống theo từng nhát xuổng. Bám theo những người làm công, khuân vác, ta cảm được sức nặng đè lên những đôi vai gầy, thiếu ăn, mất ngủ.

Viết về thôn quê, Lâm Chương như con cá lội trong nước, tha hồ. Chữ nghĩa ông về những vùng đất này cũng mộc mạc, đơn sơ như lòng người dân chất phác, hiền hòa. Viết về núi rừng, văn chương ông tự nhiên, tuôn chảy. Không những thế, người đọc còn học được nhiều thứ, biết thêm nhiều phong tục, ngay trên những trang sách ấy. Tuy nhiên, phải nói thêm rằng, ở thế mạnh của mình, ông vẫn chưa lột tả đến kỳ cùng những điều còn ẩn chứa ở những vùng thôn dã đó.

Định cư tại Mỹ, gia tài họ (những nhân vật của LC) là con số không. Vì thế, họ cố gắng bương chải để sống. Họ cố gắng lao động cực nhọc để nuôi thân, để tạo một chỗ đứng cho thế hệ thứ hai. Và xa hơn, lòng của họ luôn ngóng về bên kia biển lớn. Nỗi chịu đựng của họ cũng lớn không kém những gì họ đã chịu đựng bên quê nhà. LC còn dựng nên nhiều cảnh sống, sau khi trở lại thăm quê hương. Những nhân vật của ông va chạm nhiều thứ “trái tai gai mắt”. Và dường như, mỗi lần về lại quê hương cũng là mỗi lần cõng thêm nhiều nỗi buồn trên lưng, khi qua lại Mỹ. Đây là thời gian mà ông đẩy ngòi bút vào thể loại “đoản văn”. Sự chuyển hướng này cũng tạo nên sự thay đổi trong phong cách nghệ thuật. Những trang viết càng về sau, người ta càng thấy chữ nghĩa của LC như hướng về sự đơn giản. Nó làm cho ta có cảm tưởng như tác giả đã bỏ lại những cồng kềnh, đã gạt ra những ôm đồm không cần thiết. Đơn giản trong dựng truyện, đơn giản trong cấu trúc câu, và đơn giản trong cách dùng chữ. Hiếm thấy những chữ lạ, cầu kỳ. Cái đơn giản ấy chạm vào cái sần sùi của đời sống, đụng cái thô nhám của nhân gian, và rờ được cái trần trụi của tình đời. Trong cái đơn giản ấy, người đọc bắt gặp những chi tiết đắc địa. Sự thay đổi trong nghệ thuật đó đã hình thành một phong cách. Dẫu vậy, ông đã cài đặt nhiều phần triết lý trong đối thoại, của nhiều nhân vật, từ nhiều khuôn mẫu khác nhau, trong đời. Nhiều chỗ, những câu đối thoại chưa làm nổi bật được cá tính của nhân vật.

Thiển nghĩ, cũng cần nói thêm về hai truyện vừa: “Đi giữa bầy thú dữ” cùng “Gió về phố biển”. Đây là hai truyện vừa khá lôi cuốn. Riêng truyện “Đi giữa bầy thú dữ” mang tầm vóc của tiểu thuyết, nếu ông khai triển nó rộng hơn, trên bề diện nhân vật, cũng như trên bề diện không gian. Hai truyện này đều chứa đựng những phần đời tang thương, bầm dập. Và cũng ở đó, hé lộ nhiều hơn tư tưởng của nhà văn.

Hai truyện vừa cùng nhắc về một nơi chốn: Nha Trang. Nếu ở “Gió về phố biển”, Nha trang là nơi ẩn náu, dung thân, nơi có những bàn tay chìa ra, vực dậy, thì trong “Đi giữa bầy thú dữ”, Nha trang là nơi thọ nạn, dã tâm lọc lừa giấu đằng sau mặt nạ thương người. Cùng một thành phố, lúc lâm nạn, thời tuổi trẻ, của “tôi”, đã được người người sẵn lòng giúp đỡ. Cũng cùng thành phố, sau những tháng ngày tù tội, trở về, tìm đường vượt thoát, “tôi” lại bị người ta lường gạt đến tận đường cùng. Cái gì làm nên sự khác nhau ấy? Một giai đoạn những năm 1960’s đầy tình người. Và, một giai đoạn những năm 1980’s đầy nghi kị, toan tính, sẵn sàng hại nhau vì những phần vật chất nhỏ nhoi. Nếu đặt hai tác phẩm trong ngữ cảnh liên văn bản, người đọc sẽ dấy lên nhiều câu hỏi. Nhưng một câu hỏi quan trọng không thể thiếu: Có phải thời gian hai mươi năm đã làm một xã hội băng rã về đạo đức? Và nguồn gốc của sự băng hoại này?

Tình người, ở xứ mình tìm mãi không ra, nhưng như một phép lạ, tình người đã cứu vớt “tôi” khỏi rơi xuống những tầng địa ngục ngay trên xứ người, nơi đất Chùa Tháp. Cho nên, đoạn kết của “Đi giữa bầy thú dữ” là một đoạn kết hay. Ở đó, oán hờn đã lắng xuống, thù hận đã trôi đi, những vết sẹo ngày xưa đã lành miệng. Cái duy nhất còn lại là: làm sao tìm lại được một cánh chim trong trời đất bao la. Cánh chim đó là hình ảnh thật đẹp của người từng bị gọi là “con đĩ ngựa”. Cánh chim mang tên Nga, một người phụ nữ lưu lạc trên xứ người, hy sinh thân xác để cứu một gia đình bị nạn, đưa họ rời nơi địa ngục để về chốn thiên đường. Giúp, mà không mong người khác biết. Cứu vớt, mà không nghỉ đến việc trả ơn. Cái gì rồi cũng qua đi. Chỉ có tình người ở lại. Tư tưởng của tác giả nằm ở những dòng chữ cuối cùng, mang lại một ấn tượng lớn cho độc giả.

Nếu phải chọn một hình ảnh cho Lâm Chương, tôi hình dung ra một gã nông dân kiệm lời, ít nói, nhưng lại rất miệt mài trên cánh đồng chữ nghĩa của mình. Trên cánh đồng đó, Lâm Chương đưa những mảnh đời vụn vỡ, những nỗi đau hun hút, những vết thương tướm máu, vào trang sách, truyền cho nó những hơi thở, biến thành những “cuộc sống” khác. Đó là bản lãnh nghệ thuật. Tuy vậy, đọc ông, người đọc vẫn có cảm tưởng rằng, vì mãi mê đi tìm những mảnh vỡ đó, nên cõi viết của ông chưa khai triển những chủ đề lớn đúng mức, chưa đẩy mình vào những chặng đường dài, thử thách.

Chữ nghĩa của Lâm Chương, nói cho cùng, là chữ nghĩa bật ra từ những vết thương đã lành miệng, của chính mình, và của tha nhân.

Đoàn Nhã Văn

10/2010

Theo Người Việt Boston
Ý kiến bạn đọc
30 Tháng Mười 20107:00 SA
Khách
Với tôi , LC là người đại diện cho một lớp thanh niên bất hạnh trong cuộc chiến vừa qua , thua thiệt và bơ vơ từ một xã hội ích kỷ cho đến tột cùng nghiệt ngả ở phút sau cùng...Ông đã thay cho bao nhiêu người để trải lòng sau bao nhiêu dâu bể . Đọc ông, rời trang sách mà cứ ngậm ngùi.Với những lời đơn giản , không cần làm dáng , không cố chiêm nghiệm về cuộc đời nhưng tự những gì thoát ra từ ngòi bút , ông đã khiến người đọc phải băn khoăn , trăn trở ...Thiết nghĩ , giửa xô bồ chữ nghỉa hôm nay , những tác phẩm của ông đã thay mặt cho biết bao người âm thầm vẫn mong ngóng từ một giải bày . Đợi chờ ông với những gì chưa nói hết ....GN .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn