BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73235)
(Xem: 62214)
(Xem: 39393)
(Xem: 31148)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP VÀ GIAI THOẠI

09 Tháng Bảy 200912:00 SA(Xem: 2571)
ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP VÀ GIAI THOẠI
54Vote
43Vote
30Vote
21Vote
12Vote
3.610
Ông Võ Nguyên Giáp làđại tướng đầu tiên của lực lượng quân sự cộng sản Việt Nam. Ông sinh đầu năm 1912 (tuổi Tân hợi), ở Quảng Bình, cùng quê hương của ông Ngô Đình Diệm, tổng thống nền đệ nhất cộng hòa ở miền Nam Việt Nam. Xuất thân từ một gia đình nho học, quan lại lâu đời ở đất Quảng Bình nên thiếu thời ông Võ Nguyên Giáp có một cuộc sống đầy đủ so với phần lớn thanh niên Việt Nam lúc ấy, và được ăn học đến nơi đến chốn. Cái gốc nho gia của gia đình đã nuôi dưỡng ông trong tinh thần chống thực dân Pháp.

Tổ chức cách mạng đầu tiên Võ Nguyên Giáp tham gia là Tân Việt, một đảng chống Pháp có xu hướng mác-xít, thời kỳ nhà học giả Đào Duy Anh làm tổng bí thư.

Do tham gia phong trào thanh niên học sinh chống thực dân Pháp, Võ Nguyên Giáp bị giặc Pháp bắt tù ở Hỏa Lò Hà Nội. Có tài liệu nói ông bị kết án 3 năm tù. Nhưng chính lời ông Giáp nói với người xung quanh thì ông chỉ bị giam vài tháng. Chính tài liệu của Phòng Nhì thực dân Pháp để lại là án 3 năm tù, nhưng thực tế ông chỉ bị có vài tháng tù, sau đó ông tiếp tục được đi học trở lại và lá đơn có bút tích của ông gởi cho chính quyền thực dân Pháp lúc đó, đã thành cái “mầm họa” để sau này những người chống ông trong đảng cộng sản Việt Nam đem ra làm vũ khí khống chế ông. Là học sinh trường Albert Sarraut, trường trung học nổi tiếng nhất Đông Dương lúc bấy giờ, phần lớn học sinh là người Pháp, còn người Việt Nam, Lào hoặc Miên chỉ loáng thoáng những người hoàng tộc, như anh em hoàng thân Su-va-na Phu-ma, Su-va-na Phu-vông (của Lào) và số ít tầng lớp trên của xã hội Việt Nam lúc đó. Võ Nguyên Giáp đậu xuất sắc các bằng tú tài Tây (phần I và phần II) và tiếp tục theo học khoa luật ở trường đại-học Hà-Nội, trường đại học duy nhất cho toàn xứ Đông Dương và đậu cử nhân luật. Tuy nhiên, Võ Nguyên Giáp rất yêu môn Sử và để có thêm tiền, ông đã vừa dạy môn Sử ở trường trung học Thăng Long, một trường tư thục nổi tiếng thời bấy giờ về tinh thần bài thực dân Pháp của học sinh và cả một số giáo sư của trường vừa theo học luật ở đại học. Hàng năm, cứ ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng được tổ chức chung với ngày kỷ niệm Jean d’Arc, là dịp để học sinh các trường Bưởi và Thăng Long... đánh nhau với học sinh Pháp ở trường Albert Sarraut.

Võ Nguyên Giáp say sưa với những gì liên quan đến Napoleon ngay từ khi còn là học sinh, cho đến ngày đeo quân hàm đại tướng. Có lẽ cuốn tiểu sử Napoleon mà ông thích nhất là cuốn do Tarlé biên soạn. Có khổ người cũng nhỏ con như Napoleon, cái mặc cảm về tầm vóc đó có thể làm cho Võ Nguyên Giáp tìm thấy chỗ dựa để bùng lên lòng tự tín nơi Napoleon. Và, cũng có thể ông còn dùng những mẫu chuyện tình của Napoleon để vừa tự bào chữa, vừa tự an ủi những chuyện tình của đời ông, cũng thật là éo le.

Lối giảng sử của Võ Nguyên Giáp vừa xúc tích về tài liệu, vừa thống thiết của một người đang sống trong men yêu nước, nên ông được học trò yêu mến và đồng nghiệp lớn tuổi hơn như Đặng Thái Mai, Hoàng Minh Giám... nể vì. Võ Nguyên Giáp được Trường Chinh đưa vào đảng Cộng sản Đông Dương. Ông được thường vụ trung ủy lúc bấy giờ coi trọng (gồm Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Thụ v.v...) nhưng thực ra ông chưa giữ nhiệm vụ một cấp ủy nào.

Sau khi Mặt trận Bình Dân ở Pháp bị đổ, chính phủ Pháp năm 1939 đặt đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng Pháp luật, Võ Nguyên Giáp được cho qua Trung Hoa học quân sự ở trường Hoàng Phố, và cũng là lần đầu tiên Võ Nguyên Giáp được gặp Hồ Chí Minh, lấy bí danh lúc ấy là Vương. Học được vài tháng, vì tình hình mới lúc đó, Võ Nguyên Giáp được điều về hoạt động trong nước cùng một số đảng viên cộng sản khác.

Dưới quyền trực tiếp của Phùng Chí Kiên, ủy viên trung ương đảng cộng sản Đông Dương, đã từng học trường quân sự cao cấp ở Nga-xô và đã từng phục vụ trong lực lượng hồng quân Nga, Võ Nguyên Giáp được phụ giúp vào việc tổ chức và huấn luyện (với cái vốn mấy tháng học ở Hoàng Phố) những người tự vệ đầu tiên, mà hầu hết là người Thổ hoặc Nùng.

Giữa năm 1944, Phùng Chí Kiên bị lực lượng của thực dân Pháp phục kích bắn chết. Cái chết này, đến nay còn là một nghi vấn mà các tài liệu của cộng sản Việt Nam hết sức né tránh nói đến. Đương nhiên Võ Nguyên Giáp và Chu Văn Tấn cùng được cử thay thế Phùng Chí Kiên để lãnh đạo lực lượng vũ trang. Ngày 22-12-1944 tại Tân Trào thuộc tỉnh Thái Nguyên, trung đội vũ trang đầu tiên của đảng cộng sản Đông Dương làm lễ ra mắt. Hoàng Quốc Việt thay mặt thường vụ trung ương đảng cộng sản Đông Dương làm lễ trao cờ và trao nhiệm vụ cho trung đội, lấy tên là “Đội tuyên truyền giải phóng quân”, Võ Nguyên Giáp được cử làm trung đội trưởng và Chu Văn Tấn làm chính trị viên của trung đội.

Sự nổi dậy của nhân dân Việt Nam trên toàn quốc vào năm 1945 thực ra không hoàn toàn là công lao của Việt Minh, một tổ chức do Hồ Chí Minh cùng Hồ Tùng Mậu và vài đảng phái khác hợp thành để mang màu sắc toàn dân, mà nó là sự kế tiếp của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp trong suốt 80 năm, từ Cần Vương đến Đông Kinh Nghiã Thục; từ Phan Đình Phùng và Trương Công Định; Từ Hoàng Hoa Thám và Nguyễn Thiện Thuật, rồi đến khởi nghiã Yên bái của Việt Nam QDĐ do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Tháng 8-1945 chỉ là trung tâm của thời điểm mà ngọn sóng thần dân tộc trổi dậy bởi cái động lực của nạn đói do phát-xít Nhật gây ra; bởi sự mâu thuẫn đảo chính lẫn nhau của Pháp-Nhật, đã làm rõ bộ mặt hèn yếu của những tên lính Pháp thực dân, cộng với hào khí của thanh niên học sinh Việt Nam được nuôi dưỡng âm ỉ qua những trang sử oanh liệt của dân tộc. Rất nhiều đô thị, nhân dân đã tự phát cướp kho thóc, gạo của phát-xít Nhật cũng như kho quân nhu của Pháp và hình thành những chính quyền tự quản trước khi các đảng phái khác đến “tiếp thu”. Thí dụ : ở Yên Bái, nhân dân đã tự động phá kho quân nhu ở Đồn Cao, cướp gạo và quần áo và đã bầu viên chủ sự nhà giây thép tỉnh tạm thời làm tỉnh trưởng. Sau đó người của VNQDĐ theo quân đội Lư Hán sang giải giới quân Nhật mới tiếp thu chính quyền. Ở Phú Thọ thì chính quyền lâm thời trong tay viên tham tá tòa công sứ, Nguyễn Hữu Chỉnh, trước khi Việt Minh tới do một đội khố xanh giải ngũ làm quản lý đồn điền cho bác sĩ Lương ở Cẩm Khê, mới được kết nạp Việt Minh, đại diện thường được quen gọi là Đội Phiên.

Cho nên cái lực lượng quân sự nhỏ bé của Võ Nguyên Giáp chỉ làm nhiệm vụ hậu thuẫn cho Hồ Chí Minh về Hà-nội và bảo vệ các cơ quan của Việt minh, đàn áp các lực lượng của các đảng phái khác như VNQDĐ, Đại Việt, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội v.v... Lúc đầu Võ Nguyên Giáp giữ bộ trưởng Nội vụ trong chính phủ lâm thời của Hồ chí Minh. Khi thành lập chính phủ Liên hiệp, Võ Nguyên Giáp được giữ chức thứ trưởng quốc phòng mà ông Vũ Hồng Khanh giữ chức bộ trưởng. Nắm được lòng dân cũng như quốc tế “ngán” cộng sản, nên Hồ Chí Minh khôn ngoan “giả vờ” giải tán đảng cộng sản Đông Dương, chuyển thành hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác, do Trường Chinh đứng đầu. Đó mới chính là bộ tham mưu và ban lãnh đạo quyền lực nhất ở sau lưng Hồ Chí Minh. Còn bề ngoài, Hồ Chí Minh tận dụng khối đảng viên cộng sản là trí thức hoặc những trí thức được móc nối để “nằm vùng” trong các đảng phái như Trần Huy Liệu, Trần Đăng Khoa, Hoàng Minh Giám, Hoàng Hữu Nam, Cù Huy Cận và Võ Nguyên Giáp. Cần lưu ý là cho đến tận 1946, vị trí của Võ Nguyên Giáp được đề cao ở cả trong nước cũng như đối với Pháp, nhưng ông ta vẫn chưa được là thành viên của Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Đông Dương.

Võ Nguyễn Giáp, với kiến thức khá uyên bác của mình, với nhãn quan của một nhà sử học, với lòng yêu thích nghiệp võ, ông ta đã đóng góp rất to lớn và hiệu quả cho việc hình thành và phát triển các đơn vị vũ trang mới cho Việt Minh, núp dưới danh nghĩa của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, như các khóa quân sự cấp tốc cho tự vệ, mở trường đào tạo sĩ quan lục quân đầu tiên mang tên Trần Quốc Tuấn v.v... Đồng thời Võ Nguyên Giáp cũng hoạch định các kế hoạch cho quân chiếm lại chính quyền ở các địa phương mà các đảng phái khác đang nắm giữ như Huyện Thường Tín (Hà Đông) do Đại Việt giữ; Vĩnh Yên, Yên Bái, Lao Cai v.v... do VNQDĐ giữ. Cùng các tổ chức các đơn vị Nam tiến mà trong con mắt của những người công sản có thực quyền lúc ấy đã nhìn xa được rằng phải đem quyền lực của miền Bắc Việt Nam bằng quân sự vào Nam.

Hồ Chí Minh đã khôn ngoan chấp nhận cùng các đảng phái khác tham chính nhưng chỉ có tiếng mà không có miếng. Tất cả tổ chức của cộng sản là mượn cái danh của chính phủ Liên hiệp đa đảng để động viên các thành phần nhân dân, trong khí thế yêu nước bảo vệ Tổ quốc chống thực dân Pháp, thật là dễ dàng đưa họ vào lực lượng vũ trang để nắm lấy họ, sức mạnh thực sự của lúc giao thời và nhờ vào sức mạnh đó mà đã gạt được các đảng phái quốc gia, các tổ chức tôn giáo, các đoàn thể và nhân sĩ trí thức yêu nước.

Những ngày Hồ Chí Minh cùng phái đoàn PhạmVăn Đồng, Phan Anh, Nguyễn Mạnh Hà v.v...qua họp với Pháp ở Fontainebleau thì Võ Nguyên Giáp với cương vị thành viên của chính phủ Liên hiệp đa đảng, dưới sự lãnh đạo của quyền chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng, một nhân sĩ yêu nước, là bộ mặt công khai của cộng sản về quốc phòng, chuẩn bị chiến tranh, mà Hà-nội và Hải-phòng được coi là trọng điểm. Công sản đem hết lực lượng toàn đảng ra đổ vào lĩnh vực quân sự. Bên cạnh Võ Nguyên Giáp, những nhân vật không tham gia chính phủ, nhưng đầy quyền lực trực tiếp ra mặt như Nguyễn Văn Trân và Nguyễn Khang ở Hà-nội; Lê Thanh Nghị ở Hải-phòng; Phan Điền ở Nam-định; vùng Lạng-sơn có Phùng Thế Tài; khu vực Lai-châu, Sơn-la có Bằng Giang; vùng Phú-thọ, Yên-bái, Lao-cai có Ngô Minh Loan, Trần Quang Bình, Việt Hồng, Lộc Giang. Nguyễn Chí Thanh và Trần Hữu Dực ở miền Trung; Trần Văn Trà, Tô Ký, Ung Văn Khiêm, Phạm Ngọc Thạch, Trần Văn Giàu v.v... ở miền Nam, được bổ xung thêm những cán bộ đảng ở Bắc vào như Phan Trọng Tuệ (ở khu 5), Lê Hiến Mai ở Nam v.v...

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, vai trò của Võ Nguyên Giáp nổi bật, nhất là từ lúc được phong hàm đại tướng, giữ chức tổng tư lệnh. Đó là giai đoạn được trọng dụng nhất của ông ta ở mức từ một trung đội trưởng nhảy lên vị trí đại tướng đầu tiên và giữ nhiệm vụ tổng tư lệnh; cũng như trong đại hội 2 của đảng Lao động (cộng sản trá hình), Võ Nguyễn Giáp nhảy thẳng vào bộ chính trị, ở ngôi vị thứ 4, nếu không kể Hồ Chí Minh, sau Trường Chinh, Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng. Xung quanh ông ta có các thiếu tướng Trần Đăng Ninh (hậu cần), thiếu tướng Lê Liêm (tổng cục chính trị), Hoàng Văn Thái (tổng tham mưu), Trần Văn Quang (cục tác chiến), Nguyễn Trọng Vĩnh (tổ chức cán bộ). Và, trong các chiến dịch lớn như : biên giới và điện biên, được bổ xung thêm cán bộ đảng làm công tác chính trị là Nguyễn Văn Trân, phụ trách bí thư đảng ủy mật trận. Riêng ở trận điện biên, Nguyễn Chí Thanh cũng được phong hàm đại tướng và thay thế thiếu tướng Lê Liêm ở nhiệm vụ chủ nhiệm tổng cục chính trị. Ngược lại, Võ Nguyên Giáp được kiêm thêm nhiệm vụ bí thư đảng ủy mặt trận.

Giai đoạn oanh liệt nhất của Võ Nguyên Giáp là năm 1954, bước vào những chiến thắng đầu tiên ở mặt trận Điện-biên-phủ, người ta đã quên trận thua của ông trước tướng De Lattre ở Vĩnh Yên cũng như vẫn còn là cái bí mật về việc ông được đại tướng Trung cộng Trần Canh cố vấn trong trận biên giới, tướng La Quý Ba cố vấn trong xây dựng tổ chức, và ở Điện-biên thì có cả đại tướng Trần Canh, La Quý Ba và thêm nguyên soái Vi Quốc Thanh. Nhà thơ cung đình trước đó đã làm thơ ca ngợi Staline, Hồ Chí Minh, nay thì ca ngợi Võ Nguyên Giáp. Ông còn “vinh dự” được nhà thơ Bút Tre ca ngợi rằng :

“Hoan hô đại tướng Võ Nguyên
Giáp ta thắng trận Điện-biên lẫy lừng.”

Sau này, thanh niên học sinh ở miền Bắc Việt nam rất ít người biết bài thơ “nịnh” của Tố Hữu, mà chỉ nhớ hai câu trên của Bút Tre, cho đến cả các bà, các chị bán hàng ở chợ cũng đều nhớ, như họ nhớ đến đại tướng Nguyễn Chí Thanh, người luôn đối đầu với Võ Nguyên Giáp, cũng trong hai câu thơ của Bút Tre :

“Anh Thanh, ơi hỡi anh Thanh,
Anh về phân bắc, phân xanh đầy chuồng”!!!

Dựa vào hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954, chính phủ Hồ Chí Minh, tiếp quản Việt Nam từ vĩ tuyến 17 ra Bắc. Buổi ra mắt nhân dân thủ đô Hà-nội, Võ Nguyên Giáp là ngôi sao sáng sau Hồ Chí Minh trên lễ đài tạm thời dựng ở quảng trường Ba-đình. Ngoài ảnh Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Staline, Ma-len-cốp, Vô-rô-si-lốp, Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai được treo khắp cơ quan, phố phường, trong nước chỉ có ảnh Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Hoàng Quốc Việt. Cái hào quang ấy nhanh chóng tắt với cái báo hiệu nho nhỏ trên báo Nhân Dân rằng đại tướng tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp sang sân bay Gia Lâm đón đại tá Phạm Hùng từ miền nam tập kết ra Bắc, và chỉ một tháng sau thì ngôi thứ trong bộ chính trị có chút thay đổi : Phạm Hùng được bổ xung là ủy viên chính thức của bộ chính trị và xếp hàng thứ 4, đẩy Võ Nguyên Giáp xuống hàng thứ 5.

Những cuộc chỉnh quân, chỉnh huấn, cải cách ruộng đất, trăm hoa đua nở v.v... đẩy mạnh cao trào “đấu tranh giai cấp”, khiến từ thành thị đến nông thôn đều tang hoang và tiêu điều. Nỗi hân hoan về chiến thắng Điện-biên-phủ không còn háo hức lòng dân nữa vì ai ai cũng lo sợ, cũng đói. Anh hùng quân đội Nguyễn Quốc Trị, chiến sĩ thi đua toàn quốc Giáp Văn Khương, tổ trưởng tổ xích hầu đã hạ chết trung úy Bernard de Lattre, không còn được báo đài nhắc đến nữa. Người anh hùng ở trận Điện-biên Nguyễn Quốc Trị bị qui kết thành phần địa chủ và Giáp Văn Khương can tội kiêu ngạo của tầng lớp tiểu tư sản. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, người luôn tự hào vì mới chỉ học đến lớp 4 nổi lên và áp đảo Võ Nguyên Giáp.

Là một trí thức, lại giòng dõi quan lại nên Võ Nguyên Giáp mặc dù đã được “rèn luyện” trong cách mạng nhưng tác phong vẫn không phải là cái mẫu vô sản như Hồ Chí Minh, mặc bộ áo nông dân phanh cúc ngực, cổ quấn chiếc khăn mặt bông, hoặc như đại tướng Nguyễn Chí Thanh, mặc bộ áo lính nhàu nát, bạc màu, vai không đeo sao, chân đi dép lốp và sẵn sàng ngồi ăn cơm với lính ngay dưới đất một cách thoải mái. Ông Giáp lúc nào cũng tề chỉnh mà theo quan niệm của ông, đó là tính “chính qui”, còn Nguyễn Chí Thanh thì chỉ nói đến tính “cách mạng” và lập trường “vô sản”. Trong quân đội, người ta phục tướng Giáp nhưng người ta yêu và gần gũi với tướng Thanh nhiều hơn. Nếu cho bỏ phiếu, chắc chắn tướng Giáp sẽ thua phiếu, nhưng bàn tay cầm cân nẩy mực của Hồ Chí Minh vẫn không cho tướng Thanh, dù được phép bắt giam những đại tá thân cận nhất của tướng Giáp, nhưng vẫn không được chiếm chỗ của tướng Giáp. Bên đại diện cho “hồng”, bên đại diện cho “chuyên” mâu thuẫn nhau liên tục là điều đảm bảo để Hồ Chí Minh nắm chắc được quân đội, không sợ có đảo chính từ phiá vũ trang.

Ngay từ trước 1960, cộng sản Hà-nội đã cho những đơn vị vũ trang chính qui thâm nhập miền Nam để phối hợp với những đơn vị cộng sản nằm vùng sau 1954 nhằm chiếm nốt miền Nam Việt Nam. Sĩ quan cao cấp nhất bị chết trước 1960 khi vượt quá vĩ tuyến 17 về phiá Nam là thiếu tướng Bùi Xuân
Ý kiến bạn đọc
23 Tháng Ba 20117:00 SA
Khách
Cộng Sản thì sao? "giả vờ" thì sao? Trong lòng những người yêu nước ko bao giờ có tính đố kỵ như người-ăn cắp giả của bài viết này, một người nói tiếng Việt mà lại nói tiếng chó!!!!!!!!!!!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn