BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 72812)
(Xem: 62102)
(Xem: 39201)
(Xem: 31056)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Trại Kiên Giam (Chương 13 --> Hết)

08 Tháng Mười Một 201212:00 SA(Xem: 2011)
Trại Kiên Giam (Chương 13 --> Hết)
54Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
54
Chương Mười Ba

 

Dùng biện pháp phân biệt thức ăn tùy thành tích cải tạo, hạn chế nhận quà và thăm gặp gia đình để buộc tù nhân trại E tăng năng suất không thành công. Đem các đội tù Việt Nam Thương Tín, tù hình sự từ các phân trại A, B, C đến đào ao để phát động cuộc thi đua, tù nhân trại E vẫn tiếp tục giữ vững thái độ. Ra đến bãi lao động anh em đồng lòng làm thật chậm, năng suất dưới mức chỉ tiêu ấn định, thà bị phạt cả đội về trễ hay làm thêm buổi sáng chủ nhật.

 

Anh em toàn trại không ai chỉ huy ai, nhưng sống đồng lòng, vì cùng có kinh nghiệm, cố gắng duy trì các hành động tập thể, không chống đối cá nhân để riêng rẽ bị kỷ luật.

 



Trại trưởng Thân Yên cho chuyển Trung tá BĐQ Dương Đức Mai từ phân trại B làm trưởng ban trật tự để làm công tác đưa trại đi lên. Trung tá Mai, người sĩ quan QLVNCH khởi đầu binh nghiệp từ năm 1943 đi lính cho quân đội Pháp. Trở thành Thiếu úy Nhảy Dù Pháp từ 1951, luôn luôn hãnh diện với quá khứ đã từng chỉ huy những sĩ quan Nhảy Dù trẻ tuổi hơn, sau này đã là tướng lãnh. Đơn vị cuối cùng của Trung tá Mai là Liên Đoàn 22 Biệt Động Quân đóng tại Ban Mê Thuột. Vào tù Trung tá Mai sớm đầu hàng, trở thành một tay sai đắc lực. Chính ông ta đã hãnh diện điều đó, ông tự hào là đã sắp xếp trại tù A-30 (Củng Sơn) vào trật tự nề nếp. Thành tích đó được giới thiệu khi ông chuyển qua trại A-20 Xuân Phước. Ông Mai đã đem kỷ luật quân trường vào đời sống nhà tù. Trước khi đi lao động, mỗi người phải xếp mền gối thật vuông vức như lúc học ở trường huấn luyện. Đi tập họp phải xếp hàng từ nhà ra đến bãi, hai bên đường luôn luôn có trật tự thi đua kiểm soát.


Cá nhân nào vi phạm việc xếp mền gối hay trật tự lúc di chuyển phải bị đánh điểm xanh, bị ba điểm xanh trong một tháng đương nhiên bị xếp hạng cải tạo kém và hạ mức ăn xuống 12kg. Đội có nhiều người không giữ trật tự di chuyển, buổi trưa lên hội trường học nội quy và tập cơ bản thao diễn đi đứng cho thuần thục.

 

Nhưng mặc dù các biện pháp của trại và mọi cố gắng của những người tù cải tạo tốt như Dương Đức Mai, Phạm Quốc Bảo, Đoàn Đô, Phan Gi On, Nguyễn Văn Lịch, Lê Quang Minh, tù phân trại E vẫn ù lì không tăng năng suất, không báo cáo, không đấu tranh. Các buổi học tập mỗi đêm vẫn phát biểu theo đúng “bài bản và sách vở” rồi thôi. Kết quả thu hoạch năm đó ba mẫu ruộng được 700kg thóc, đậu cua chỉ bằng nửa dự tính và đậu phộng không đủ số giống phát ra vì khi thâu hoạch anh em bỏ lại hoa màu cho người dân đi mót nhặt. Thấy tình thế căng thẳng, tinh thần đoàn kết chống đối của phân trại E cao, Thân Yên cho mở đợt học tập viết lý lịch nguyên cả tháng, đồng thời thi hành hai biện pháp cùng một lúc, thứ nhất quyết định cho nhận quà thăm nuôi đầy đủ, biện pháp thứ hai ngược lại cho bắt giam một loạt hơn 30 người không cần vi phạm cụ thể. Xà lim khu E không đủ chỗ giam, nhiều anh em bị đưa vào xà lim các khu B và C. Những người bị giam đều hơn một lần bị kỷ luật nên cùm một hay hai chân không đáng ngại lắm và chúng tôi cũng có kinh nghiệm là tiêu chuẩn ăn 9kg một tháng với nước muối chúng tôi có thể chịu đựng hơn 5 tháng mà không bị chết, được trở ra rồi dần dà sẽ hồi phục trở lại. Nhưng lần này, tiêu chuẩn cơm không phải 9kg như thường lệ mà mỗi bữa chỉ được phát 2 muỗng cơm, đổ vào thật nhiều nước muối đồng thời hạn chế nước uống mỗi bữa chỉ còn một vá.

 

Mỗi lần phát cơm, hai trực trại Thái và Luật lấy muỗng đong lường từng muỗng cơm và lấy vá lường từng vá nước. Nhất là Luật, mỗi lần múc xong vá nước muối hắn chậm rãi đưa lên ngang tầm mắt nhìn rồi trịnh trọng đổ vào phần cơm, làm đều đặn mỗi ngày như là một trò chơi thích thú của hắn. Chúng tôi gạn nước muối ra, rồi đái vào, dùng nước tiểu rửa cơm cho bớt mặn. Nhưng chỉ vài ngày sau là nước tiểu cũng cạn khô không đái ra được nữa. Đói đã là điều dễ sợ nhưng khát thì khủng khiếp, cổ cứng lại và nước miếng dẻo lại như ngậm keo. Những hôm trời mưa nghe tiếng mưa kêu rào rào trên mái, tưởng tượng như thấy những giọt nước mát đang tràn ngập ra từ mái nhà xuống đất, đầu óc càng căng thẳng, người muốn căng lên, muốn vỡ ra, môi khô lại và cổ cứng nghẹn vì thèm nước, mỗi tế bào trong người như rộn ràng lên đòi nước. Nước tràn bên ngoài mà trong xà lim chúng tôi không có lấy một giọt, vẫn phải nhận một vá mỗi ngày do hai tên trực trại Thái và Luật đong cho.

 

Nguyễn Tú Cường đi làm việc có một sáng kiến uống thật nhiều nước rồi về đái cho Vũ Hùng Cương uống. Phương thức này phổ biến ra cho mọi người, nhưng bọn công an lại rất ít gọi chúng tôi ra hỏi cung vì đây là một lần giam kỷ luật để trấn áp, chúng cũng biết là chúng tôi không khai và không có điều gì để khai cả. Không nhận tội sách động chống đối mà an ninh gán cho. Phải nằm chịu đựng cả đói lẫn khát, tất cả chúng tôi kiệt lực nhanh chóng. Chỉ qua một tháng là ai nấy chỉ còn da bọc xương, cái đầu giống hệt như cái sọ người chết, hai hốc mắt trũng sâu xuống, dường như không còn một chút thịt nào.

 

Tôi nằm cùng phòng với Lâm, người Phật Giáo, ngoan đạo, mỗi ngày anh cầu nguyện Quan Thế Âm Bồ Tát. Tôi thấy sau những lần ngồi cầu nguyện, Lâm trở nên thoải mái và tự tin. Tôi cũng thuộc gia đình thờ Phật, nhưng từ nhỏ tôi không đi chùa và không có đức tin; tôi chỉ ngồi tập theo kiểu Yoga và điều tức hơi thở để duy trì sức khỏe. Tự nhiên tôi thấy trong hoàn cảnh gần kề cái chết này một niềm tin thật cần thiết, tôi không biết anh Lâm cầu nguyện, anh có hy vọng và thấy một điều gì không; nhưng với tôi, tôi chỉ thấy một khoảng không trống rỗng và nếu chết có lẽ chỉ là một bóng đen úp xuống. Thời gian đầu chúng tôi vẫn cố duy trì tập thể dục để giữ sức khỏe. Một cái chân bị còng chúng tôi vẫn khập khiễng đứng lên để làm một vài động tác cho thân thể có hoạt động cùng với sự xoa bóp. Bụng đói nên thân thể rã rời nhiều lúc không muốn ngồi lên, phải tranh đấu ngay với thân thể mình, không cử động thân thể, nằm bẹp dí chúng tôi sẽ mau chết hơn, nhưng đầu óc muốn ngồi dậy mà thân thể như bất tuân, rã rời từng khớp xương, mỗi thớ thịt. Khoảng sau một tháng thì hầu như không ai còn có thể đứng lên để làm cử động được dù chỉ để đánh hai bàn tay về sau theo thế anh em gọi là dịch cân kinh. Rồi những người chịu đựng không nổi phải ngất xỉu. Họ được cho về đội. Lần giam kỷ luật này để trấn áp và dằn mặt cả trại, thúc đẩy lao động có năng suất hơn.

 

Gần Tết Canh Tuất tất cả đều được thả ra, thời gian kỷ luật lần này chưa tới hai tháng, nhưng ảnh hưởng tới sức khỏe trầm trọng hơn những lần khác. Bên ngoài anh em đã có người được gia đình lên thăm, nhiều người đã nhịn bớt phần khoai mì để giúp chúng tôi bồi dưỡng lấy lại sức. Sau đợt trấn áp đó sự chống đối lắng xuống.

 

Cứ mỗi lần đông đến càng nhiều mối lo, trước hết sự đi lại của thân nhân khó khăn, quà gửi bưu phẩm cũng không nhận được. Trại cho gia đình lên thăm hai tháng một lần, nhưng không mấy gia đình đủ tiền nong và rảnh rang để đi thăm đúng hẹn, thường là 3 tháng hay 4 tháng một lần cho những gia đình còn khả năng thăm nuôi đều đặn. Mùa đông miền Trung bão lụt, từ ngã ba Chí Thạnh từ quốc lộ 1 vào trại là đường núi nhưng phải qua sông La Hai và nhiều con suối. Suối miền Trung mùa khô, chỉ trơ toàn đá, nhưng đến mùa đông thì nước lũ như thác, các cầu cống thường trôi sụp.

 

Mùa đông cái lạnh của núi rừng, sương lam chướng khí xông ra ngùn ngụt phủ màu trắng tang thương trên trại cải tạo. Lạnh cắt da thịt, lạnh từ xương tủy lạnh ra cộng thêm với những cơn gió lùa qua những cửa sổ vào ban đêm phải mở toang ra để bên ngoài cán bộ tuần tra kiểm soát bên trong. Trại vẫn sợ người tù túm tụm bàn tán chống đối, cho dù người tù có muốn được yên thân nhưng kẻ quản lý vẫn không muốn để yên. Quân đội đông như kiến, du kích dầy đặc, công an vũ trang đến tận răng, Cộng sản vẫn không yên tâm, chúng vẫn sợ sự chống đối, dù sự chống đối chỉ biểu lộ qua lời than trong nhà tù, trong hơi thuốc lào chống lạnh. Cán bộ tuần tra, trật tự thi đua kiểm soát giấc ngủ chưa đủ, chúng còn buộc người tù phải thay phiên nhau gác, mỗi người mỗi đêm gác một giờ. Không có đồng hồ, tù nhân bàn giao giờ gác bằng cách ước lượng thời gian, trong bóng tối mò chân bạn đồng cảnh để bàn giao giờ gác. Trong cảnh khổ đó, càng thêm mâu thuẫn, người đứng đắn kéo dài thêm giờ gác trước khi bàn giao, thiểu số giảo hoạt mới nhận gác năm mười phút đã gọi người hạ phiên. Người tù có ý thức ngoài chống đói, chống lạnh, còn phải tranh đấu với bản thân mình để khỏi vì những hoàn cảnh đó mà bất hòa mâu thuẫn với bạn bè. Mọi điều xấu đều được cố tình sắp đặt để người tù càng đói khổ càng cấu xé nhau. Mùa đông năm 1980 sau một năm chịu đựng, những người tù bệnh tật lần lượt chết, khởi đầu là các anh Lương Thiện, Quách Văn Trung, Trần Văn Sáng, Lê Văn Kéo, Phan Văn Cải, Bùi Nguyên Nghĩa. Cái chết của người tù có thể để lại tiếc thương cho thân nhân, nhưng là một giải thoát, giải thoát cho bản thân người tù khỏi kiếp đọa đầy và cũng giải thoát cho gia đình người tù một trách nhiệm, một bổn phận. Tù còn sống là gánh nặng cho gia đình, bỏ thì không đành mà gánh vác thì không kham nổi. Mỗi năm số người chết càng đông hơn, vì càng ngày sức lực càng kiệt, tuổi càng già sức chịu đựng càng suy giảm; tù hình sự chết càng nhiều vì hầu hết đều không được gia đình thăm nuôi. Có ngày chết hai, ba người, toán trật tự đi chôn có lúc phải bỏ xác lên một chiếc xe cải tiến để đẩy. Người chết được cuốn lại trong chiếc mền của họ, không có gỗ để đóng hòm. Những cái chết không hương khói đầu tiên còn làm cho người tù thương cảm chạnh nghĩ thân phận mình, không biết nằm xuống lúc nào. Người bệnh chết, người khỏe ngã bệnh, bệnh lao phổi lan tràn nhanh chóng. Lúc đầu chỉ ở những người bị đánh đập nhiều, hay những người bị giam cầm kỷ luật, rồi đến những người do thiếu ăn. Đến năm 1981 chỉ riêng phân hạt E có hơn 100 người mắc bệnh lao phổi. Còn nhiều người khác bị bệnh bao tử và bệnh gan do chất độc từ khoai mì H-34 tàn phá. Trại phải cho tập trung số hơn trăm người mắc bệnh lao ở cách ly trong một nhà để bớt truyền nhiễm. Trại lại không có thuốc, tính trên mỗi người tù được cấp mỗi tháng là $0.4. Mỗi tháng trạm y tế chỉ mua trên khoảng 50 lọ Streptpmycine nên những ngươi bịnh nặng ho ra máu mỗi kỳ nhận thuốc được chích nửa lọ. Bác sĩ Trần Quí Nhiếp nghĩ ra cách chích thuốc trực tiếp vào huyệt phế du để hy vọng thuốc tác dụng hiệu quả hơn.

 

Thuốc sử dụng hàng ngày là thuốc viên xuyên tâm liên, bệnh gì cũng được cấp phát mỗi lần hai viên xuyên tâm liên. Nếu không có thuốc gia đình gửi lên thì đành phải khắc phục. Khắc phục là tiếng đầu môi để giải quyết những khó khăn trong chế độ xã hội chủ nghĩa, anh em tù gọi là KP-mycine, nếu không khắc phục nổi thì nhận chiếc mền, hay may mắn lúc nào gỗ thừa thì được 6 tấm gỗ thơ sơ đóng thành chiếc hòm. Số người chết mỗi ngày một nhiều hơn. Khu nghĩa địa trên ngọn đồi nằm giữa hai khu A và B không còn chỗ chôn. Khu A phải lập thêm nghĩa địa mới trên đường đi Hốc Kè.

 

Đến năm 1982, một số lớn tù nhân trình diện đã được cho về, đa số là tù đến từ trại Suối Máu kể cả sĩ quan cấp tá. Sĩ quan trình diện từ các trại Z-30, Z-30D chỉ về lẻ tẻ và những người bị bắt chưa ai được tha. Nhiều đợt tù có án từ các tỉnh chuyển đến, chiếm đa số trong trại, cả khu A tù Việt Nam Thương Tín về hết đã phá ra xây dựng lại nhà gạch nhập vào khu E biến thành trại A. Dù hoạt động chưa có thành tích, tổ chức không sâu rộng, nhưng tinh thần chống đối của người dân mỗi lúc càng cao, những năm đầu thành phần phục quốc chỉ ở Saigon và những khu công giáo ngoại ô thành phố, bây giờ các đợt tù mới được đưa đến từ các tỉnh miền Trung, và miền Đông, thành phần dân chúng thuần túy. Những tổ chức đối kháng ở miền Trung đều có võ trang, hoạt động cụ thể nên họ bị ra tòa lãnh án. Phong trào đối kháng không bị tiêu diệt mà lại gia tăng, người đối kháng không dính dáng đến chế độ cũ. Phạm Văn Đồng có lần tuyên bố với ký giả ngoại quốc là “những người chống đối là những người trước kia bóc lột dân chúng, những người ngồi mát ăn bát vàng, ngại lao động, ngại gian khổ, bị mất quyền lợi nên điên cuồng chống lại chính quyền cách mạng”, không biết Phạm Văn Đồng phải trả lời thế nào nếu có ký giả ngoại quốc nào am hiểu tình hình Việt Nam, hỏi rằng y nghĩ thế nào khi người nông dân Việt Nam, những người không có quyền lợi dính dáng đến chế độ cũ, những người trước kia có cảm tình với VC hoặc có giúp đỡ VC nay đứng lên cầm súng chống lại chính quyền Cộng sản? Có phải chăng chế độ Cộng sản không còn lý do tồn tại nữa?

 

Trại Xuân Phước là nơi tập trung thành phần chống đối của các trại cải tạo miền Nam, cũng là nơi tập trung của các người lãnh đạo các tổ chức phản động ở khắp các tỉnh miền Nam Việt Nam, Nghĩa Bình chuyển vào, từ cao nguyên Ban Mê Thuột đến và cả những người ở tận Rạch Giá, Long Xuyên, Cần Thơ.

 

Về phần các sĩ quan trình diện, là những sĩ quan trẻ tinh thần chống đối cao, nhưng họ chưa quen nhìn các vấn đề chính trị, họ chỉ mơ tưởng một ngày trở lại hoàn cảnh huy hoàng ngày trước, ở trong tù họ giữ danh dự, không làm lao động tích cực. Sau giờ sinh hoạt, giải trí bằng cách kể chuyện kiếm hiệp, hút thuốc lào, chờ đợi “tin hấp dẫn” (hot news).

 

Trao đổi ý kiến với Trần Danh San và Vũ Văn Ánh, chúng tôi đồng ý với nhau cần phổ biến rộng rãi hơn những hiểu biết ít ỏi về chế độ Cộng sản, về những vấn đề trọng đại của thế giới, để cùng nhau có những cái nhìn xa hơn và sẵn sàng chấp nhận một thời gian tù đày lâu dài, có một niềm tin là chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ. Theo cách thức chúng tôi làm tập Rèn Luyện ở trại Xuân Lộc, tập Hợp Đoàn được hình thành. Hợp Đoàn là tên của Vũ Văn Ánh đặt, anh San phụ trách viết bài về dân tộc và nhân bản, nhân quyền dựa trên lý thuyết Duy Dân của Lý Đông A, vì San là một đảng viên Duy Dân. Tôi viết những đề tài về các thực tế chính trị thế giới và Việt Nam, phân tích lý thuyết Bốn Thế Giới của Brezinski xem đó là sách lược mới của Mỹ, và thuyết Ba Thế Giới của Đặng Tiểu Bình để đưa đến kết luận là tình hình thế giới sẽ có nhiều thay đổi. Những sự thay đổi hoàn toàn bất lợi cho chế độ Cộng sản. Điều này tạo niềm tin cho anh em, xóa bỏ đi trong đầu óc họ ý niệm là chế độ Cộng sản không bị đánh bại. Cái ý kiến tiêu cực rằng là “một quốc gia đã bị Cộng sản hóa không bao giờ xoay ngược lại” làm cho nhiều người cạn suy nghĩ muốn cam phận, vì thực tế cho đến thời gian đó, khối Cộng sản đang bành trướng mà chưa bị đẩy lui.

 

Dựa trên những hiện tượng chính trị như hội nghị các đảng Cộng Sản Đông Âu lần thứ 22 trong đó Tito cổ động sự đòi hỏi độc lập cho các đảng Cộng Sản Đông Âu, kết quả là Cộng sản Rumania tách xa quĩ đạo Liên Sô, cộng tác với Anh Mỹ, được hưởng tối huệ quốc. Sự việc Rumania bỏ phiếu trắng tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc trong khi các nước CS khác đòi công nhận chính quyền Hunsen; sự việc Đức Giáo Hoàng Jean Paul II là Đức Hồng Y người Ba Lan duy nhất được bầu làm Giáo Hoàng, Ngài lại là một cựu tù nhân của Cộng sản Ba Lan; sự việc Brezinski là người gốc Ba Lan di cư trốn chế độ Cộng sản; sự việc báo chí Cộng sản luôn luôn chỉ trích đài phát thanh Âu Châu Tự Do, cho rằng đài đó cổ động phong trào nổi dậy ở Đông Âu. Sự việc nhà bác học Amelik người Nga tiên đoán chế độ Cộng sản sụp đổ trong thập niên 80 sau chiến tranh không thể tránh được giữa Liên Sô và Trung Quốc. Dựa trên những tài liệu ít ỏi đó, tôi viết những bài nhận định rằng chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ từ sự đấu tranh của các nước Đông Âu, khởi đầu đòi độc lập thoát khỏi sự đô hộ của đế quốc Nga. Tôi phân tích sự hình thành Liên Bang Sô Viết là một quốc gia Nga La Tư và thuộc địa, do đó nó sẽ không bền vững khi thực tế các nước Cộng Hòa khác trong Liên Bang Sô Viết sau khi được phát triển tiến bộ sẽ đòi độc lập và không chịu sự cai trị của người Nga trên đất nước của họ, đưa đến kết luận là Liên Sô sẽ làm vỡ khẩu hiệu vô sản thế giới đoàn kết của Karl Marx. Lúc tôi viết những bài trên tôi không nệ vào kiến thức hẹp hòi, bài viết không có giá trị như bài khảo cứu, nhưng trong phạm vi tờ báo chui trong nhà tù, thì cũng tạm ổn vì nhằm thuyết phục anh em đọc để họ có ý nghĩ là chế độ Cộng sản không vững bền được. Tờ Hợp Đoàn thứ hai có bài viết về Đông Âu của tôi được phổ biến thì may mắn đọc báo Nhân Dân cho thấy Ba Lan sôi động, Công Đoàn Đoàn Kết được thành lập đấu tranh đòi dân chủ như có sự thỏa hiệp của các lãnh tụ đảng Cộng Sản Ba Lan là hai Tổng Bí Thư Kania và Gireh về việc dân chúng Ba Lan đòi triệt hạ nghĩa trang quân đội Hồng Quân Liên Sô chết tại Ba Lan trong Đệ Nhị Thế Chiến. Báo Nhân Dân cũng loan tin các trường học ở Ba Lan dạy lịch sử Ba Lan rằng Liên Sô là một quân đội chiếm đóng Ba Lan và là thủ phạm giết chết hàng chục ngàn sĩ quan của Ba Lan. Sửa đổi lại sử chứng, vì trước đây Liên Sô đổ tội cho Đức Quốc Xã làm công việc tàn ác đó. Tôi nhớ lại năm 1973, tiếp phái đoàn ICCS, kiểm soát đình chiến tại cửa khẩu Hội An, một Đại-tá Hải Quân đã nói với tôi rằng: “Thông cảm trường hợp Việt Nam, vì nước Ba Lan của chúng tôi cũng đang bị ngoại nhân chiếm đóng.”

 

Trường hợp Ba Lan có thể xem như một phong trào Quốc gia đòi độc lập dân tộc, chống lại sự chiếm đóng của Đế quốc Liên Sô; Cộng sản có dùng từ ngữ đẹp thế nào thì tinh thần quốc tế vô sản, hay nghĩa vụ quốc tế thực chất chỉ vẫn là trường hợp một quốc gia mạnh chiếm đóng và khai thác một quốc gia nhỏ. Như vậy, khi Liên Sô còn duy trì được sự đô hộ trên các nước Đông Âu thì khối Cộng sản đệ tam còn, một khi Liên Sô suy yếu, các phong trào quốc gia sẽ nổi lên tại Đông Âu và khối Đệ tam quốc tế tan vỡ. Sự dàn xếp của các cường quốc tại hội nghị Postdam và Yalta công nhận quyền chiếm đóng của Liên Sô tại Đông Âu, rõ ràng các nước Đông Âu bị áp đặt chế độ Cộng sản. Không gì vô lý và là một hành động phản quốc của những người lãnh đạo gia nhập Đệ tam quốc tế. Vì điểm cốt yếu của Hiến Chương Đệ Tam Quốc Tế là chủ trương chuyên chính vô sản thực hiện đấu tranh giai cấp và công nhận Mạc Tư Khoa là trung tâm Cộng sản. Liên Sô lãnh đạo khối Đệ Tam Quốc Tế. Từ điểm này rõ ràng Hồ Chí Minh là một tội đồ phản quốc; ông ta đi đến Âu châu để tìm đường cứu nước, thời điểm đó có thể ông ta là người yêu nước, gặp thời ở Âu châu phong trào thực dân còn mạnh, ông không thể đấu tranh tại bản quốc để đòi độc lập cho đất nước, điều đó không trách ông được, cũng như bao nhiêu nhà ái quốc khác đã gặp phải sự khó khăn đó. Khi gặp thuyết Cộng sản và ông tin vào đường lối Cộng sản có thể giải phóng dân tộc thì có thể là lầm lẫn, nhưng khi gia nhập Đệ Tam Quốc Tế, công nhận Liên Sô là đất thánh, làm đảng viên tiên phong về phương Đông truyền bá thuyết Cộng sản và xây dựng đạo quân tiền phương thôn tính đất nước, biến đất nước thành một bàn đạp của Cộng Sản Quốc Tế tiến về Đông Nam Á, Hồ Chí Minh là một người phản quốc. Sau này ông chết đi, đám đệ tử Lê Duẩn, Trường Chinh lại vỗ ngực làm “mũi tên nhọn” của khối Xã Hội Chủ Nghĩa, nhai đi nhai lại lời thách thức “ai thắng ai” của Breznev là một hành động nô lệ cực kỳ thô bỉ. Từ Castro ở Cuba, Lê Duẩn ở Hà Nội đến một tên cán bộ hạng bét quản lý trại tù đọc diễn văn cũng lặp lại khẩu hiệu đó với vẻ vênh vang tự đắc. Các lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam tự hào quá đáng, xem mình là cường quốc chính trị, mà không biết rằng Liên Sô đang lúng túng với cái sân sau là Đông Âu đang rục rịch đứng lên.

 

Trong cuộc tranh chấp ý thức hệ, thế giới đang giằng co trong cuộc chiến tranh lạnh, những điểm nóng chỉ là một bộ phận nhỏ trong toàn cuộc chiến đó. Việt Nam không may mắn, bị lãnh đạo bởi những tay sai ngoại nhân vỗ ngực tự nhận là tiền đồn của thế giới tự do hay mũi tên nhọn của xã hội chủ nghĩa. Người lãnh đạo thực tâm yêu nước, phải khéo léo lợi dụng được sự tranh chấp quốc tế để độc lập, lèo lái tổ quốc tránh chiến tranh, đằng này tự nguyện làm tên lính xung kích, làm sao dân tộc Việt Nam không đau khổ triền miên. Việt Cộng chuyên sử dụng sử liệu giả để ngụy chứng tính yêu nước của Đảng Cộng Sản, và kích thích lòng yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc, nhưng bọn lãnh đạo là những người xuất thân ngu dốt nên không nắm vững con đường xây dựng bảo vệ đất nước của tiền nhân. Các triều đại Việt Nam xưa kia sau khi thắng ngoại xâm phương Bắc rồi cầu hòa, cầu hòa để tránh can qua, cho dù có thắng cũng đổ nát điêu tàn vì Việt Nam luôn luôn phải chiến đấu tự vệ trên đất nước. Các triều đại ngày xưa cầu hòa, triều cống nhưng không lệ thuộc. Trái lại, ngày nay từ Hồ Chí Minh đến Lê Duẩn tình nguyện làm tay sai cho Liên Sô, đem dân tộc nô lệ từ tư tưởng đến chính trị, mọi hình thức đều rập khuôn, mọi kế hoạch đều được Liên Sô duyệt, cứ mỗi lần sắp đại hội Đảng, các Đảng Cộng Sản phải chờ Liên Sô đại hội rồi mới soạn thảo chương trình đại hội đem qua Liên Sô duyệt xét trước. Mỗi năm, tên bí thư phụ trách về tư tưởng, tuyên huấn phải họp ở Mạc Tư Khoa để nghe Soulov Bí thư Đảng Cộng Sản Liên Sô được xem là lý thuyết gia ban hành các chỉ thị. Hiến pháp Liên Sô lại ghi rõ là Đảng Cộng Sản chủ trương phân công lao động quốc tế. Một hình thức bóc lột rất thâm độc về kinh tế của Liên Sô đối với các chư hầu. Trong tinh thần đó, các nước chư hầu Liên Sô chỉ làm công tác gia công kỹ nghệ cho mẫu quốc. Điều này chính các kinh tế gia khối Commecon đưa ra chỉ trích và đòi hỏi Liên Sô để họ tự do hoạch định chính sách phát triển cho phù hợp với tiềm năng kinh tế của họ. Chỉ có những tên lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam xem Liên Sô là thiên đường. Sau khi chiếm miền Nam thống nhất đất nước, Cộng Sản Việt Nam tình nguyện đứng hẳn với Liên Sô trong khi các nước cộng sản khác đang tìm cách tách rời. Mâu thuẫn Liên Sô - Trung Cộng, cuộc vận động độc lập của các nước Âu châu chia rẽ khối cộng sản và sẽ làm cho cộng sản tan vỡ.

 

Tin tức tình hình Ba Lan làm cho anh em đọc Hợp Đoàn càng phấn khởi hơn và Phạm Đức Nhì đã viết bài “Ngọn Lửa Ba Lan” đóng góp cho chúng tôi đăng ở Hợp Đoàn 3. Cũng trong số Hợp Đoàn này tôi viết bài “Sự Quản Lý Sai Lầm Về Kinh Tế”. Sau tờ Hợp Đoàn 3, Vũ Văn Ánh bị bắt giam vì liên hệ trong vụ Ngô Văn Ly rải truyền đơn. Tôi và Nhì ra số Hợp Đoàn 4, tôi viết bài: “Truyền Thống Dân Chủ ở Việt Nam” chứng minh xã hội Việt Nam không có giai cấp, truyền thống dân chủ có từ thời chế độ quân chủ. Do đó, đấu tranh giai cấp là một đường lối không phù hợp với văn hóa dân tộc. Cuối năm 1981, tôi bị bịnh nặng, Ngọc, Nhì, Nhàn, Dũng và Tú Cường ra Hợp Đoàn 5. Sau đó những mâu thuẫn trong nội bộ anh em trẻ, đồng thời nhóm khác trong trại noi theo Hợp Đoàn ra nhiều tờ báo chuyền tay, nên tôi bàn với anh em tạm nghỉ, vì theo kinh nghiệm, khi có nhiều người làm cùng một việc dễ đưa đến tranh chấp. Bất cứ một sự tranh chấp nào trong nhà tù đều không có lợi, những mâu thuẫn nhỏ đưa đến những tai hại vô cùng lớn lao. Đúng như tên Hợp Đoàn do anh Vũ Văn Ánh đặt cho tờ báo, Hợp Đoàn thể hiện được phần nào sự đoàn kết, nó không thuộc tổ chức chính trị nào. Ánh, tôi và các em sĩ quan trẻ như Nhì, Ngọc, Cường, Hải... và hai em sinh viên Vũ Văn Dũng và Nguyễn Thanh Nhàn trên lập trường Quốc gia chống Cộng sản. Không ai tham gia một tổ chức chính trị nào, chỉ có anh Trần Danh San, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Quyền, đảng viên Duy Dân, những bài viết của anh trên lập trường chính trị đó, Ánh và tôi đồng ý là tờ Hợp Đoàn sẽ đăng tất cả các bài vở của tất cả các quan điểm chính trị Quốc gia nếu họ đóng góp, dĩ nhiên là trên lập trường chống Cộng. Anh em có thể gửi thơ và nhạc tù ca phổ biến trong Hợp Đoàn, những bài thơ của Nhì và nhạc của Khuất Duy Trác, Phạm Văn Hải, Trần Đắc Thắng được anh em tán thưởng. Trên thực tế những bài nhạc, bài thơ có tác dụng sâu rộng hơn những bài lý luận vì thơ nhạc đi sâu vào tình cảm con người hơn. Hợp Đoàn xem như là một thành công, anh em tiếp nhận đọc rất thận trọng và nghiêm túc. Thực chất nội dung vẫn chưa hẳn là một tờ báo đáng giá gì nhưng vì ở trong tù vừa khó khăn vừa nguy hiểm, mỗi lần Ánh hay Cường viết và lên khuôn tờ báo, những anh em thân thiết đều phải canh chừng và tổ chức đánh cờ chung quanh để tránh sự dòm ngó của an-ten, nên công một người thành công của nhiều người. Anh em đọc củng cố bảo vệ nó như người phát hành, vì nếu đổ bể ra thì tất cả đều bị chịu thiệt hại. Cũng như tờ Rèn Luyện ở Xuân Lộc, tờ Hợp Đoàn tạo sự gắn bó giữa chúng tôi và những người có tham dự vào cuộc chơi nguy hiểm.

 

Vũ Văn Ánh đến từ trại Hàm Tân Z-30C, nguyên là một công chức cao cấp của Bộ Thông Tin, anh có học báo chí ở Hoa Kỳ và giáo sư ngành truyền thông Đại học Cửu Long, sau tháng 4 năm 1975, anh học tập ba ngày tại cơ sở rồi trốn trình diện. Ánh và số bạn bè như Đại-úy Cảnh sát Vũ Trọng Khải, Trung-úy Dù Đoàn Bá Phụ, Đại-úy An Ninh Quân Đội Nguyễn Đại Thuật, những người trốn học tập. Các anh được móc nối tham gia tổ chức của Bác-sĩ Phan Huy Quát, người móc nối đưa các anh vào bưng vùng Biên Hòa thì bị bắt. Lúc đó mới hay tổ chức đã bị Cộng sản xâm nhập, và người lập bưng ở Tân Uyên và móc nối đưa vào bưng là cán bộ công an, đây là một tổ chức giả mượn danh Bác-sĩ Phan Huy Quát để bắt người, do Sở Công An Thành Phố dựng lên. Ở các trại Ánh sống đứng đắn, trọng danh dự nên được rất nhiều sĩ quan trẻ mến, trong đó có Trần Bửu Ngọc sĩ quan Biệt Kích và Ngô Văn Ly sĩ quan Biệt Động Quân. Ở đâu Ánh cũng là một cá nhân có sức thu hút và thuyết phục. Chính điểm son này, ở trại giam nào anh cũng bị giam cùm trong kỷ luật, Ánh thường chống đối bọn Cộng sản ra mặt. Gặp Ánh tại trại Xuân Phước, Trần Danh San và tôi thuyết phục Ánh bớt chống đối công khai, vì chống đối công khai là tranh chấp với tên cán bộ cấp nhỏ. Những người này quản lý tù, có thẩm quyền đối với tù nhân nhưng thực chất không có gì đáng kể, họ chỉ thi hành một cách máy móc chỉ thị của thượng cấp, họ được dậy lòng căm thù để thi hành các chính sách độc ác của Đảng mà thôi.

 

Vấn đề Cộng sản cần nghiên cứu từ lý thuyết đến thực tế, trường hợp Cộng Sản Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lịch sử để nhìn nó không có thế đứng trong dân tộc Việt Nam. Từ đó có thể tóm lược một số lý luận cần thiết để chia xẻ với bạn đồng tù. Ánh đã đồng ý với San và tôi, nên tờ Hợp Đoàn được khai sinh như trình bày ở trên. Khuyết điểm duy nhất của Ánh là hợp tác với Ngô văn Ly quá sâu, Ly là người chống Cộng cực đoan và “vô chính phủ”, muốn làm gì thì làm, bất chấp tai họa cho người khác. Ly lại có cái nhìn khắc nghiệt và ác độc với những người không đồng ý kiến với Ly, Ly thường kết tội những người khác là phản bội chiến sĩ, là đầu hàng Cộng sản, sau đó hắn rải truyền đơn ký tên họ để mượn tay Cộng sản triệt hạ. Trường hợp Huỳnh Cự cũng là việc làm của Ngô văn Ly. Lần này y rải truyền đơn, bị bắt, hắn khai Bùi Lượng, Khúc Thừa Văn, Trần Công Linh và Lê Quang Minh là những người đã xúi giục và cộng tác với hắn để hại họ. Những người này đều có mâu thuẫn với nhóm Ly và Ánh từ Hàm Tân. Việc làm của Ly thường xuyên giống nhau từ Z-30C nên an ninh trại phát giác ra ngay. Nhưng bọn Cộng sản không cần biết ai mâu thuẫn ai, nên có duyên cớ là chúng bắt nhốt hết; và sẽ biến thành ra quan trọng để báo cáo lên cấp trên lập công thăng tiến chức vụ. An ninh đã nhốt Ly, Ánh, Đoàn Bá Phụ, Trần Công Linh, Bùi Lượng, Khúc Thừa Văn và Lê Quang Minh. Sau ba tháng Lê Quang Minh đã chết trong xà lim, Bùi Lượng và Khúc Thừa Văn chết hai năm sau đó. Thảm kịch tù hại nhau là một vết nhơ trong hàng ngũ tù nhân chính trị, hại nhau bằng cách làm an-ten báo cáo hay mượn tay địch để giết người bất đồng ý kiến đều là những hành động tàn ác, xuẩn ngốc. Anh em tích cực tham gia các hoạt động chống đối trong trại, nhưng đặc tính là không chịu đựng những thất bại. Sau mỗi lần bị giam thường hay trách cứ, đổ lỗi, nghi ngờ nhau - nên hoạt động này đưa đến sự liên kết cũng có, mà đưa đến chia rẽ hơn cũng có. Sau này Ly lại mâu thuẫn với Ngọc và Ánh, đem tố cáo tờ Hợp Đoàn tại sở Công An Thành Phố khiến tất cả chúng tôi đều bị đưa về Sài Gòn để thụ lý ra tòa. Đời sống trong tù chật hẹp, căng thẳng, con người rất dễ mất bình tĩnh và mâu thuẫn cãi cọ nhau. Chính Cộng sản tạo ra điều kiện đó để triệt hạ người chống đối. Tôi nhớ hôm trình diện ở trường Trưng Vương, một chính trị gia xưng đối lập với chính quyền Thiệu để xin vào học tập trước, tên cán bộ đã nói: “các anh đều là bọn phản động như nhau, heo trắng heo đen đều là heo cả”. Mỗi lần nhớ câu đó tôi đều thấy đau và nhục, nên cố gắng nhịn nhục và chịu đựng những bất công hay hiểu lầm của bạn đồng tù khi tôi thường dùng thì giờ rảnh để đọc nhiều sách Cộng sản.

 

Bắt đầu bịnh nặng từ tháng 8-1981, tôi thường bị xỉu ngay tại bãi lao động, lúc đầu vài ngày một lần. Cơn choáng xảy ra, đầu óc quay cuồng, nằm ngay trên sạp mà thấy cảm giác như bị hút vào khoảng không vô tận, lưng không thấy chạm sàn nằm và cảm thấy cô đơn. Bác sĩ Nhiếp nói với Biên, bạn thân tôi, là tôi bị loạn tim và có thể chết bất cứ lúc nào. Thoạt đầu nghe mình bịnh nặng có thể chết, tôi buồn vô hạn, uất ức lẫn hối tiếc, nhớ mọi người thân và thương vợ con, càng thấy mình có lỗi; một sai lầm là mất cả cuộc đời, di lụy cho bao nhiêu người. Ý nghĩ càng dày vò tôi từ những ngày đầu sau khi Sài Gòn sụp đổ làm tôi nhức buốt cả đầu. Hôm tối 24 tháng Chạp trời thật lạnh, được lệnh ngủ sớm vì an ninh sợ tín đồ Thiên Chúa Giáo làm lễ Giáng Sinh, ngồi riêng rẽ cầu nguyện cũng bị cấm. Cơn lạnh làm tôi không kềm nổi nên run lên, tôi choáng váng, muốn nghẹt thở, rồi đầu óc lại tỉnh táo, nhớ nhanh tất cả mọi người thân. Tôi bỗng sợ và nghĩ chắc là chết, Khổng Hữu Diệu nằm bên cạnh tôi dặn tôi nếu lên cơn đau cố gắng lay động để anh kêu cấp cứu, nhưng tôi nghĩ nên buông luôn, kêu cứu làm gì, quá lắm thì được cho vài giọt thuốc Long Não, chưa chắc có ích lợi mà lại phiền hà bạn bè. Mỗi lần tôi lên cơn xỉu, bạn bè kêu cấp cứu, cả nhà mất ngủ, tôi làm phiền họ nhiều lần rồi, lần này tôi đinh ninh sẽ chết nên không muốn làm phiền nữa. Đến sáng ra thì mọi người thấy tôi chết cứng rồi, thế cũng xong. Đã nhiều anh em chết như vậy, tối vào mùng nằm ngủ, chết lúc nào không ai hay biết, sáng ra không dậy điểm danh, lúc đó bạn bè mới hay. Nghĩ đến đó tôi không còn hay biết gì nữa.

 



Trong giấc ngủ tôi thấy khô cổ, khát nước, tôi đến một cái giếng, mực nước cạn gần đáy, khi tôi đưa tay vớt, mực nước dâng tràn lên đến miệng giếng, tôi chợt thức, biết mình vừa nằm mơ, cảm thấy người dễ chịu, hình như có một luồng khí mát chạy khắp người tôi ra đến môi. Lần mơ này khác với những lần mơ trước, tôi vẫn thường nằm mơ thấy khát nước, đến giếng múc nước thì nước cạn, lúc đến sông thì mạch nước rút ra xa hay thấy thác nước trắng xóa đến gần thì là tảng đá trắng. Những lần mơ như vậy thì ngày hôm sau thế nào tôi cũng bị một lần ngất xỉu, lần nằm mơ này ngược lại, nước đang cạn lại đầy; tôi bắt đầu có hy vọng. Từ đó bịnh tôi thuyên giảm tự nhiên không thuốc men. Thân thể con người thật kỳ diệu, và những giấc mơ cũng hay, báo trước tình trạng sức khỏe của tôi, sau lần đó tôi khỏe dần, khoảng cách những lần ngất xỉu cũng giãn ra. Tôi nghĩ là chết rồi lại sống trở lại, thấy con người thật mỏng manh, sự sống và cái chết thật gần gũi và chết chỉ là một bóng đen trùm xuống và không còn biết gì nữa, là hết. Thành công hay thất bại ở đời rồi cũng một lần kết thúc, ân hận tiếc nuối rồi cũng qua đi. Quả thực con người như có mà như không, đúng như lời Phật, giải tỏa được lòng uất ức và sự khắc khoải đúng là một sự giải thoát, từ đó tôi mạnh dần dần và lúc nào cũng vui vẻ, không giận hờn, không oán thù, không tiếc nuối, con người thoải mái và nhẹ nhàng hơn.
Cuối năm 1980 Hà Nội ban hành Hiến pháp. Tôi không hiểu lý do gì một bản Hiến pháp phải đợi thời gian hơn 4 năm mới hoàn thành, trong khi Việt Cộng có thể làm Hiến pháp trong một tháng và biểu quyết trong một ngày. Đối với Cộng sản, Hiến pháp chỉ là một hình thức dân chủ bịp bợm, vì Hiến pháp và luật pháp của nước Cộng sản đâu có nhằm bảo vệ người dân mà chỉ nhằm xác định tính độc tài của Đảng, tự nhận cho Đảng quyền lãnh đạo toàn dân và làm chủ đất nước. Nếu được nhìn thấy một lần cảnh biểu quyết tại Quốc hội của Việt Cộng chiếu trên màn ảnh thời sự, là thấy rõ trò bịp một cách bỉ ổi. Cả Quốc hội họp, khi biểu quyết, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh sau khi đọc xong một khoản, hỏi: “Có đồng chí nào phản đối không?”, thế là thông qua - Quốc hội bù nhìn thì làm sao dám phản đối ý kiến của Chủ tịch là người số 2 trong Chính Trị Bộ.

Bản Hiến pháp có nhiều thay đổi so với Hiến pháp 1959 vì lại phải mô phỏng theo Hiến pháp mới năm 1977 của Liên Sô, một Hội Đồng Nhà Nước được thành lập với một số quyền hạn rộng rãi hơn Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội cũ, Thủ Tướng đổi danh xưng là Chủ Tịch Hội Đồng Chính Phủ, một chức Đệ Nhất Phó Thủ Tướng được xác định. Trước kia Việt Cộng có đến 8 Phó thủ tướng quyền hạn như nhau, một Ủy Ban Thường Vụ của Hội Đồng Bộ Trưởng chỉ gồm có Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch và Bộ Trưởng Phủ Chủ Tịch là thư ký; các Bộ trưởng không được họp ở ủy ban này, nói chung sự đổi mới chỉ tăng thêm sự rườm rà. Sự mô phỏng Hiến pháp 1977 của Liên Sô cũng nói lên sự kém cỏi và tinh thần nô lệ của Bộ Chính Trị ở Hà Nội. Trong khi Liên Sô tuyên bố đã thành công trong việc xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa, nên Hiến pháp 1977 nằm trong bước quá độ từ Xã Hội Chủ Nghĩa lên Cộng Sản Chủ Nghĩa. Trong khi Việt Nam còn trong thời kỳ đầu của xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, theo họ là xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa không qua con đường phát triển Tư Bản Chủ Nghĩa.

 

Đại hội đảng lần thứ năm được chuẩn bị khá lâu nhưng đình hoãn mãi, vì theo tin tức từ bên ngoài cho biết lý do đình hoãn đại hội vì Lê Duẩn chưa chuẩn bị được đa số đại biểu được bầu vào Ủy Viên Trung Ương thuộc phe cánh của y. Võ Nguyên Giáp từng bị thất sủng từ hồi Hồ chí Minh còn sống, nhờ có tên tuổi trong và ngoài nước biết đến nên vẫn còn được giữ chân Bộ Chính Trị và phụ trách một công tác kém quyền hành là Phó Thủ Tướng đặc trách cách mạng khoa học kỹ thuật. Trước đại hội kỳ 5, Võ Nguyên Giáp lại được nhắc nhở đến nhiều, và đó là mối lo ngại của Lê Duẩn dù Lê Duẩn đã dành nhiều quyền hạn cho Lê Đức Thọ thuộc cánh ông ta trong chức vụ Trưởng Ban Tổ Chức Đảng. Lê Đức Thọ cùng với Lê Duẩn được cử vào miền Nam để lãnh đạo Xứ Ủy Nam Kỳ và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Lê Duẩn là Bí thư Xứ Ủy, thì Lê Đức Thọ là Phó bí thư Xứ Ủy.

 

Chiến thắng miền Nam năm 1975 củng cố thế mạnh của cánh Xứ Ủy Nam Kỳ, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt cùng với cánh liên khu 5 Võ Chí Công, Chu Huy Mân thành đa số ở Chính Trị Bộ, chiến thắng này lại củng cố thêm thế mạnh cho cá nhân Lê Đức Thọ. Từ năm 1957 Lê Đức Thọ thay thế Lê Duẩn điều khiển bộ phận Đảng Miền Nam, và là người chỉ huy chính thức cuộc nổi dậy của Cộng sản tại miền Nam. Đến khi chiến thắng, Lê Đức Thọ là người ký kết hòa đàm Paris, nhưng cũng là người quyết định cuộc tổng tấn công mùa Xuân 1975. Ở vị trí thứ 5 trong Bộ Chính Trị nhưng là Bí Thư thứ 2 trong Ban Bí Thư, Lê Đức Thọ với nhiệm vụ ủy viên Tổ Chức Đảng, đã trở thành một thế lực lấn lướt cả Lê Duẩn. Lê Đức Thọ có hai em là Đinh Đức Thiện, Bộ trưởng Bộ Dầu Khí (trước đó là Cục trưởng Tổng Cục Hậu Cần) và Mai Chí Thọ, Giám đốc Sở Công An Sài Gòn kiêm Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố. Chức vụ Giám đốc Sở Công An, nhưng thế lực của Mai Chí Thọ thật lớn, vì nắm trọn lực lượng Công an Sài Gòn. Thọ đã lập được nhiều công trạng phá vỡ tất cả các tổ chức chống đối tại Sài Gòn, trong đó có rất nhiều tổ chức do y lập ra. Làm việc này Thọ có được hai cái lợi cho cá nhân y, thứ nhất các tổ chức phản động của y lập ra làm mồi bắt được nhiều người yêu nước chống Cộng.

 

Thứ hai y càng tô vẽ các tổ chức phản động càng quan trọng, công lao của y càng lớn. Thành phố Sài Gòn tuy trên tổ chức hành chánh chính trị đứng sau Hà Nội là thủ đô, nhưng thực tế thế lực chính trị của thành ủy Sài Gòn lớn hơn thành ủy Hà Nội nhiều vì Sài Gòn đảng viên đông tức là số đại biểu tham dự đại hội đông. Kinh tế Sài Gòn bao trùm cả nước, nắm được Sài Gòn là có thế đứng mạnh nhất. Theo tổ chức của Cộng sản, Giám đốc Sở Công An Thành hay Tỉnh là Phó bí thư thứ 2 của thành ủy hay tỉnh ủy đó. Từ lúc Nguyễn Văn Linh làm Bí thư Thành ủy, Võ Văn Kiệt Phó bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố, Mai Chí Thọ, Giám đốc Sở Công An, là Phó bí thư thứ 2 Thành ủy. Nguyễn Văn Linh trở thành ủy viên chính trị sau đại hội 4, Võ Văn Kiệt ủy viên dự khuyết trở thành Bí thư Thành ủy, Vũ Đình Liệu Phó bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố. Mai Chí Thọ vẫn giữ vững thế nắm giữ ngành công an.

 

Lúc này quản giáo Tích thường tìm dịp nói chuyện với Ánh và tôi. Chú bé này là quản giáo đội 5 chúng tôi từ ngày mới lên trại 1979. Đội 5 là đội quản thúc, hơn một năm chỉ làm lao động trong trại, cuối năm 1980 mới được đi lao động bên ngoài. Tích người Bắc, nổi tiếng ác ôn nhất trong hàng ngũ quản giáo, hắn không bao giờ rời đội, suốt giờ lao động hắn bắc ghế ngồi tại chỗ để trông từng người tù một, chờ dịp tù sơ hở là chửi bới. Bộ mặt kênh kiệu làm cao không bao giờ nói chuyện với tù, điều này đỡ cho chúng tôi vì chúng tôi cũng không muốn nói chuyện với cán bộ. Có những người lăng xăng chuyện vãn với cán bộ trông không giống ai, đa số tù không thích thái độ nịnh bợ đó, nên số này cũng rất ít. Từ khi đi phép về, hắn có vẻ buồn và suy nghĩ và thường bỏ đội đi chơi. Một hôm tôi nghe một màn đối thoại của Tích và bạn hắn:

 

- “Mầy có biết Sài Gòn hiện đại lắm không? Ngoài đường lúc nào cũng đông người chứ không như ở Xuân Phước của mình đâu. Còn chợ Sài Gòn thì hàng hóa thật là nhiều, thứ gì cũng có chứ không như chợ Đồng Xuân của mình. Mầy biết không, đường nào cũng có hàng quán, mình có tiền thì cái gì cũng có, cũng mua được, không phải xếp hàng. Mầy biết không, tiệm ăn nào cũng sạch sẽ, có cả khăn bàn và khăn tay trắng muốt, không như tiệm ăn ở ngoài Hà Nội đâu... Mầy biết không, gia đình của bà cô tao ở ngã ba Ông Tạ giầu lắm, cô tao theo chồng di cư năm 1954, nhà cô tao đứa nào cũng có đồng hồ, mỗi đứa một cái Honda; mà ở Sài Gòn họ ăn nhiều thế, bữa nào cũng có thịt, trong nhà người nào về lúc nào ăn lúc đó. Cô tao nói, sau giải phóng cô tao không mua bán được nên gia đình cô tao nghèo đi. Nghèo gì, tao vẫn thấy vương giả chán. Cô tao dặn tao đi ra ngoài đừng mặc áo Công an, mặc áo Công an dân họ ghét, mà tao cũng thấy như vậy, mình mặc đồ Công an dân họ khinh lắm.”

 

Tích thường hỏi chuyện Ánh và tôi về việc học hành, về đại học, có lẽ hắn có xem hồ sơ biết chúng tôi có học đại học. Chú bé có lẽ mê hai chữ đại học và ước mơ đi học ở đại học Công an. Tích nói với tôi hắn học xong lớp 9 thì vào Công an vì cha chết trong chiến trường B (tức chiến trường miền Nam), thảo nào hắn căm thù tù chúng tôi. Lúc đầu chúng tôi không thích nói chuyện, từ khi nghe câu chuyện Tích kể về Sài Gòn cho bạn, Ánh và tôi biết tinh thần thằng bé lung lay, không còn mơ mộng những giáo điều, sáo ngữ. Hắn có thay đổi thái độ với tù, không còn tìm cách chửi bới như trước, nhưng lao động hắn vẫn kiểm chỉ tiêu và luôn luôn bắt đội chúng tôi vượt hơn chỉ tiêu các đội khác. Một hôm ra đến bãi đào ao, hắn cầm thước đo chỉ tiêu cho từng tổ. Tính tham lam vẫn không chừa, mỗi lần hắn đo một thước lại gạch quá thành một thước hai ba phân, để ba thước có thể trở thành 3 thước 1. Tôi chợt nẩy ra ý định.

 

Tôi nói:

 

- Cán bộ cho tôi mượn cái thước.

 

Tích hơi ngạc nhiên đưa mắt nhìn tôi một lúc, nhưng rồi cũng đưa thước cho tôi. Tôi cầm thước đo một thước lùi vào ba phân, đến ba thước thì lùi lại khoảng 2 thước 9, tôi gạch điểm của tôi lùi sau điểm gạch của Tích 2 tấc rồi đưa thước cho hắn. Tích cầm cây thước gõ vào gạch của tôi hỏi:

 

- Sao lại chỗ này?

 

Tôi chỉ vào gạch của hắn nói:

 

- Sao lại chỗ này?

 

Tích xẵng giọng:

 

- Có tí xíu mà anh cũng kèo nài.

 

Tôi trả lời:

 

- Cán bộ không đổ mồ hôi mà cán bộ cũng kèo nài chúng tôi 3 thước thành 3 thước 1; chúng tôi đổ mồ hôi, 3 thước còn lại 2 thước 9 cán bộ cũng không chịu.

 

Tôi thấy mắt hắn trợn lên nhìn tôi, nhưng rồi dịu xuống và nói:

 

- Thôi các anh làm đi.

 

Tôi biết tôi đã suy đoán đúng, chú bé đã thay đổi nhiều, nếu việc này mà xảy ra trước khi hắn đi phép chắc chắn là sẽ chửi bới tôi một hồi rồi làm biên bản cùm tôi trong phòng kỷ luật. Ngày hôm sau làm lao động một lúc thì Tích tới đội gọi tôi đi theo hắn. Tôi đinh ninh là hắn đem tôi đi nhốt, anh em bạn bè ai cũng nhìn tôi tỏ ra thông cảm, họ cũng quen cái tính của tôi, hay chịu đựng nhưng nhiều lúc hơi bướng, anh em nói tôi nóng sảng.

 

Lên mặt ao tôi ngạc nhiên không thấy Tích đi về hướng trại mà dẫn tôi vào một bóng cây, chỉ vào gốc cây Tích nói:

 

- Anh ngồi xuống đi.

 

Tôi ngồi xuống xong, hắn ngồi lên chiếc ghế (ở trong tù mỗi lần nói chuyện với cán bộ là một điều sỉ nhục, cán bộ ngồi trên ghế còn tù ngồi dưới đất), Tích hỏi tôi:

 

- Ngày hôm qua anh không sợ tôi kỷ luật anh?

 

- Cán bộ kỷ luật tôi thì tôi chịu, tôi trả lời.

 

- Anh biết hồ sơ cải tạo của anh không tốt, anh cứ bướng thế làm sao về được.

 

Thấy hắn có vẻ dịu giọng, tôi nói:

 

- Bao giờ nhà nước cho về thì về, ở tù 5 năm rồi riết cũng quen.

 

- Anh có nhớ Sài Gòn không?

 

- Nhớ chứ cán bộ, đi xa lâu rồi phải nhớ nhà, nhớ Sài Gòn lắm.

 

- Anh biết tôi đi Sài Gòn về không, Sài Gòn lúc này vui lắm.

 

Giả bộ không biết hắn đi Sài Gòn, tôi nói:

 

- Cán bộ mới đi Sài Gòn à, chắc là vui lắm nhỉ, tôi tưởng cán bộ đi Hà Nội chứ.

 

Tích bắt đầu kể chuyện:

 

- Chuyến đi phép này tôi ghé Điện Bàn, quê của anh đó, tôi có bà chị về làm dâu ở làng Phong Thử, anh rể tôi tập kết ra Bắc, anh có nhớ làng Phong Thử không? Làng Phong Thử đi từ ngã ba Điện Bàn từ quốc lộ 1 rẽ lên Đại Lộc. Làng mới xây dựng lại toàn nhà ngói, chị tôi nói trước đây là chiến trường Mỹ ném bom B-52 san bằng, dân làng đi ra thành phố. Sau ngày giải phóng trở về nên ai cũng giàu có, nhà nào cũng có đài tốt (radio). Tôi thấy làng trù phú lắm, người ta làm cả nghề dệt vải. Trước khi đến đó, tôi đã đọc tài liệu về hợp tác xã Điện Quang đứng đầu toàn tỉnh với năng suất 9 tấn. Tôi vừa muốn thăm anh chị vừa muốn xem hợp tác xã gương mẫu.

 

Tôi có vẻ chán khi nghe Tích tuyên truyền, nhưng bất ngờ hắn tiếp câu chuyện:

 

- Chị tôi nói bà con nông dân họ than oán lắm.

 

Thấy Tích ngưng lại tôi hỏi dò:

 

- Phong Thử gần quốc lộ nhưng trước kia toàn dân theo kháng chiến.

 

- Đúng đó, toàn dân là cơ sở, dân kinh tài của cách mạng ở thành phố về nên họ không sợ, họ nói tùm lum, chứ dân ngụy các anh có bất mãn cũng đâu dám nói. Tôi về Hà Nội bằng phi cơ, anh đã đi phi cơ lần nào chưa, đi phi cơ nhanh thật. Về Hà Nội mẹ tôi mừng lắm, hai năm rồi tôi mới gặp mẹ, mẹ tôi bán một con lợn được hơn hai ngàn, mẹ cho tôi hai ngàn để mua xe đạp. Tôi muốn có một chiếc xe đạp từ lâu rồi mà chưa có tiền mua. Lúc bé đi học cứ chạy theo sau mấy người đạp xe cho tới trường và nghĩ đến lúc mình có một chiếc xe thì sướng lắm. Nhưng tôi vào đến Sài Gòn tôi may áo quần và tiêu hết, mua xe đạp làm gì, như các anh trước kia nhà cao cửa rộng, xe cộ đủ thứ bây giờ thay đổi rồi cũng hết.

 

Đang nói chuyện với tôi thì có tên Tiên cán bộ tài xế lái xe chở hàng đi ngang qua, Tích hỏi với:

 

- Ê Tiên, cậu đi đâu đó, tối nay có chuẩn bị họp chi đoàn không?

 

- Các cậu họp đi, tớ ra chợ Xuân Phước uống cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc”, nghe nhạc xập xình (cà phê phin và nghe nhạc vàng). Rồi dẫn con Hà ra bờ suối tìm chỗ nào vắng mà cưa cho nó sướng không cần họp.

 

Nói xong hắn bỏ đi. Tích có vẻ ngượng với tôi về lối ăn nói thô tục của Tiên về chuyện trai gái. Tiên là tên cán bộ lái xe nên có tiền, luôn luôn tỏ ra ăn chơi và sống trội hơn các cán bộ khác. Tôi thấy nói đến họp nên bắt ý hỏi Tích để dò chơi:

 

- Hình như sắp có tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc?

 

- Đấy, họp chi đoàn cơ sở để bầu đại diện về dự Đại hội Huyện, bầu đại diện Huyện đi dự Đại hội Tỉnh. Đại hội Tỉnh bầu đại diện đi dự Đại hội Toàn quốc.

 

Tôi tiếp tục hỏi tới:

 

- Theo Hiến pháp có Chủ tịch Hội Đồng Nhà nước, không biết chuyến này ai làm Chủ tịch?

 

- Thì ông Trường Chinh chứ ai, ông Nguyễn Hữu Thọ xử lý Chủ tịch nhà nước khi bác Tôn chết, nhưng mới vào Đảng hồi sáu mươi mấy thì sức mấy mà được. Không chừng chuyến này ông Võ Nguyên Giáp làm Tổng bí thư hay Thủ tướng.

 

Tôi ngạc nhiên vì cách nói của Tích và những điều hắn nói về Võ Nguyên Giáp. Tôi tưởng một cán bộ cấp nhỏ không thể nói chuyện thay đổi Tổng bí thư, càng tò mò hơn nên tôi hỏi tiếp:

 

- Nghe nói ông Võ Nguyên Giáp bị bịnh nên lâu nay làm Phó Thủ tướng đặc trách khoa học kỹ thuật.

 

- Uy tín ông Giáp lúc này lên, người ta hay nhắc đến ông Giáp lắm, có thể làm Tổng Bí thư.

 

- Nhưng Tổng Bí thư bao giờ cũng làm suốt đời mà?

 

Tích làm vẻ thông thạo trước sự “khờ khạo” của tôi, hắn nói:

 

- Thì các anh không biết nên nói như vậy. Tổng bí thư cũng do đại hội bầu chứ, thành ra họ phải tranh thủ đại biểu nhất là các ông được bầu vào trung ương. Trung ương Đảng bầu ra Chính trị Bộ và Tổng Bí thư.

 

Buổi nói chuyện với Tích tôi thấy hữu ích, trước hết xác nhận được một số điểm. Thằng bé quả thực thay đổi nhiều sau chuyến đi phép. Đối với một cán bộ ở chỗ đồng khô cỏ cháy Xuân Phước này cũng như sinh và lớn lên ở Hà Nội thiếu thốn trong chiến tranh, sự phong phú và đời sống thoải mái của Sài Gòn có thể cảm hóa được. Điều này tôi xác nhận rất rõ qua nhiều cán bộ Xuân Phước những năm về sau, như cán bộ Tuyến, cán bộ Hải, cán bộ Uy, cán bộ Cường tên nào cũng về trường công an học vài năm trở ra trại đều thay đổi, trở thành rất dễ tính. Đặc biệt là trường hợp cán bộ Hải, hắn mang lon thượng sĩ nhưng phải làm vệ binh vì hay đánh tù khi hắn làm quản giáo ở đội hình sự. Làm quản chế (vệ binh) tù chính trị Hải thường có nhiều hành động độc ác. Hắn đi quản chế đội nào thì hôm đó tù không được đi tắm và múc nước, kể cả việc làm dơ bẩn như bốc phân. Coi đội làm rẫy hắn buộc tù phải dùng tay bốc phân bón cây, không được dùng xẻng xúc. Phân bón rau là phân người trộn với cát rồi phơi nắng, lần đầu tiên bốc vào phải nôn đến mấy lần, thấy tù nôn thì hắn chửi thậm tệ là quen thói hút máu nhân dân, không biết lao động, ngồi mát ăn bát vàng v.v...

 

Hải cũng thay đổi sau lần đi học Công an ở Thủ Đức về, lúc nào hắn cũng ngồi thừ ra, và rất dễ dãi, cho đi tắm sớm. Một hôm ngoài bãi lao động, hắn gọi tôi lại đưa tôi đọc một bài báo tường thuật về nữ bác sĩ Phượng ở bệnh viện Từ Dũ (Viện Bảo Vệ Bà Mẹ và Trẻ Em Thành Phố) đem hai đứa bé song sinh dính liền vào nhau qua Nhật để mổ - Hai đứa bé được đặt tên là Nguyễn Việt Đức.

 

Bài báo ca ngợi thành quả sáng tạo khoa học của nhân dân Nhật Bản và tính nhân đạo của đảng Cộng Sản. Tôi đọc xong thì Hải hỏi tôi:

 

- Anh suy nghĩ thế nào?

 

Tôi không biết Hải hỏi với ý gì - nên trả lời chung chung:

 

- Khoa học tiến bộ quá, dính liền nhau mà mổ được.

 

Hải hỏi tôi:

 

- Thật sự anh không nghĩ gì sao?

 

- Vâng, tôi không nghĩ gì cả, tôi thấy tội nghiệp những đứa trẻ quái thai.

 

Hải buông một câu nói ngoài tưởng tượng của tôi:

 

- Bao nhiêu người khỏe mạnh, bao nhiêu nhân tài đem đi nhốt rồi đem cứu một quái thai làm gì?

 

Tôi chỉ biết nhìn Hải ngạc nhiên, có thể nào khi người ta nhìn ra sự thực thì sự thay đổi lớn vậy sao? Tôi tin là Hải nói thực, với tâm hồn và sự suy nghĩ của hắn, đưa ra một nhận xét rất đúng đắn. Trước khi bảo tôi về đội, Hải nói:

 

- Đối với tôi anh còn ngại không muốn nói chuyện phải không? Anh dè dặt cũng đúng, giữa anh với tôi vẫn là một khoảng cách.

 



 


Chương mười bốn

 

Lần nói chuyện với Tích thấy sự rạn nứt trong nội bộ các lãnh tụ đảng Cộng sản là có thực, và trong hàng ngũ đảng viên không còn tình trạng bưng bít và nói theo một chiều như những năm đầu nữa; bây giờ cán bộ có thể phát biểu những ý nghĩ riêng tư của họ, tôi nghĩ đó là một sự tiến bộ nếu nhìn chung trên quyền lợi đất nước, đối với đảng Cộng sản đó là một sự suy thoái đến độ trầm trọng. Một lời nói của một cán bộ cấp thấp chưa phải có giá trị hoàn toàn đúng nhưng nó phản ảnh một hiện tượng, về sự đồn đãi bàn bạc giữa cán bộ với nhau về các sự tranh chấp nội bộ, điều này trước kia không hề có trong nội bộ của một đảng Cộng sản. Tính chất của những đảng độc tài, cán bộ được huấn luyện có niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ và những điều lãnh tụ nói ra, đảng độc tài dùng động lực căm thù làm phương tiện đấu tranh và củng cố nội bộ nếu còn đối tượng tranh đấu, còn đối tượng căm thù tức là còn kẻ địch thì tất cả họ hướng về kẻ địch để tiêu diệt. Nhưng khi không còn địch thủ thì sự tranh đấu đó không thể nào hết đi được nên nó hướng vào bên trong tức là hướng vào sự tranh chấp nội bộ. Tôi hiểu thêm được một khía cạnh của vấn đề, những nhà lãnh tụ độc tài họ luôn luôn tìm ra đối tượng căm thù một phần để giữ vững tổ chức. Trường hợp Trung Hoa sau khi tiêu diệt hết kẻ thù giai cấp, không còn đối tượng cho đám đảng viên và đoàn viên trẻ tuổi đã được dạy tư tưởng Mao Trạch Đông, ông ta phải tạo ra cuộc Cách mạng Văn hóa để hướng tuổi trẻ Trung Hoa đấu tranh tiêu diệt những đồng chí thân thiết của ông đã trở thành những đối thủ, đó là những nguyên soái Tư lệnh các Quân khu và những người đang nắm giữ các chức vụ có thể tranh chấp quyền hành với Mao. Như vậy có thể tin tưởng được rằng sau khi Cộng sản hết kẻ thù trong nước và mối đe dọa từ bên ngoài, thì những cuộc đấu tranh nội bộ sẽ xảy ra và có thể làm đổ vỡ tổ chức Đảng. Một điều ghi nhận nữa là dù cho Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản cố tiêu diệt tính người trong cán bộ của họ, muốn đào tạo nên “con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”, họ dùng lối tuyên truyền bịp bợm để đánh lừa đảng viên, biến đảng viên thành ra cái máy chỉ biết căm thù. Họ đã thành công khi bưng bít tất cả sự thật, nhưng khi sự thật bị phơi bày, thì tính người của đảng viên Cộng sản lâu nay bị che khuất sẽ trỗi dậy và trong trường hợp có điều kiện nó sẽ gây nên những phản ứng có thể làm đổ vỡ tổ chức Đảng.

 

 

Như vậy chúng tôi có thể nói chuyện được với những cán bộ đó để tìm hiểu thêm tâm trạng của họ và qua họ biết thêm được những tin tức cần thiết dù là họ nói không hoàn toàn chính xác, những lời nói của họ có thể tìm thấy được những sự việc qua sự suy diễn hợp lý và khách quan. Những năm đầu trong tù, cán bộ chưa chịu nhìn ra sự thật, còn nhìn tù nhân như những kẻ thù nguy hiểm nên tù nhân cũng giữ thái độ đối nghịch, nhưng một khi họ thay đổi, chúng tôi cũng có thể trao đổi nói chuyện với họ và cuối cùng để xem “ai cải tạo ai”.

 

Kết quả đại hội kỳ 5 nhiều Ủy viên Bộ Chính trị bị loại trong đó có Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Linh, Chu Huy Mân. Trường Chinh được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Lê Thanh Nghị làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội đồng, Phạm Văn Đồng làm chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng tức Thủ tướng. Tố Hữu được lên hàng thứ 8 Ủy viên Bộ Chính trị và được chỉ định đệ nhất Phó chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng. Chức Đệ nhất Phó chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng mới được quy định, trước kia Việt Cộng có nhiều Phó Thủ tướng (khoảng từ 8 đến 10) ngang hàng nhau, bây giờ rập theo Liên Sô quy định trong số Phó chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng chỉ có một người thay Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng khi vắng mặt. Tố Hữu tên thật là Nguyễn Văn Lành là người tỉnh Thừa Thiên, thuộc cánh Lê Duẩn, một lá bài đang lên, Lê Duẩn chuẩn bị cho Tố Hữu thay thế Phạm Văn Đồng. Sự tranh chấp nội bộ của lãnh đạo Cộng sản Việt Nam càng ngày càng rõ rệt. Nguyễn Văn Linh trở lại làm Bí thư Thành ủy Sàigon, lúc từ Hà Nội vào Sàigon báo Tuổi Trẻ, tiếng nói của Đoàn Thanh niên đã phỏng vấn Linh rằng đại hội có thành công hay không, Linh cười trả lời “thành công, thành công lắm” và câu hỏi tiếp, cuộc bầu cử có công bình hay không thì Linh trả lời là rất công bình. Tại sao có những câu hỏi như vậy của những người ủng hộ Nguyễn Văn Linh khi Linh bị loại khỏi Chính Trị Bộ. Rõ ràng là mức xào xáo nội bộ đến độ công khai.

 

Dịp Tết 1982, trại cho bắc loa vào trong trại để đêm Giao thừa nghe các lãnh tụ chúc Tết, chúng tôi bị bắt ngồi chờ đến gần sáng cũng không có chương trình chúc Tết thường lệ. Sau biết được là Hà Nội không sắp xếp được giữa Trường Chinh Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Lê Duẩn Tổng Bí thư ai đọc trước. Sự mâu thuẫn đến độ chi tiết.

 

Nhìn ra sự mâu thuẫn về tranh chấp quyền hạn trong nội bộ của Đảng Cộng Sản Việt Nam, bơm lại chút phấn khởi và tin tưởng trong tù nhân. Lòng háo hức về biến động ở Ba Lan vừa mới tắt sau vụ Liên Sô dùng các tướng lãnh Ba Lan tay sai để đảo chánh loại trừ chính phủ và những người lãnh đạo Đảng Cộng sản đã ủng hộ Cộng đoàn Đoàn kết.

 

Tâm lý chung của đám đông mau chán nản, muốn có kết quả ngay. Thành kiến về một chế độ Cộng sản không thể bị lật đổ rất khó xóa đi được. Do đó nếu muốn vận động được một phong trào chống Cộng trước tiên phải chứng minh cho quần chúng là chế độ Cộng sản cũng như mọi chế độ chính trị khác cũng sẽ bị đánh đổ loại trừ khi nó không còn được nhân dân ủng hộ. Dĩ nhiên chế độ Cộng sản có cả một đảng tổ chức làm hậu thuẫn, một hệ thống bạo lực sẵn sàng đàn áp và có tương quan chặt chẽ giữa các đảng và các quốc gia Cộng sản với nhau. Chống lại một chế độ Cộng sản là một điều khó khăn, nhưng không phải chế độ Cộng sản là vô địch. Trước kia chiến đấu với Cộng sản nhưng đa số người Quốc gia nghĩ về Cộng sản là một cái gì bí hiểm, tàn bạo, đáng sợ nhưng cũng đáng nể. Chế độ Cộng sản buông bức màn sắt cô lập với thế giới bên ngoài, không giao thương và không tôn trọng quy luật quốc tế. ít người kể cả những chính trị gia hiểu rõ về lý thuyết Cộng sản một cách đầy đủ, chỉ biết nó qua những khẩu hiệu tuyên truyền của cơ quan tâm lý chiến đơn điệu và hời hợt, ít người đọc Tư Bản Luận vì nó vừa dày vừa khó hiểu. Không ai đọc nhiều về Lénine và Staline để nắm vững qui luật đấu tranh của họ. Người có thể đọc là những viên chức cao cấp vừa có đủ trình độ ngoại ngữ, kiến thức và có thể giữ tài liệu mà không bị cảnh sát bắt thì bận làm quan và hưởng thụ. Những người muốn đọc thì bị cấm đoán. Người có thẩm quyền và trách nhiệm vạch đường lối chống Cộng thì không có kinh nghiệm sống thực tế vì trước khi “làm quan” họ chỉ sống và học ở ngoại quốc hay ít ra là ở các thành phố nên đối với Cộng sản thì chỉ sợ mà không gần. Trái lại những người có kinh nghiệm sống với Cộng sản, có thể nhìn rõ những khuyết điểm của nó thì hoặc là không có cơ hội hoặc không đủ trình độ để trình bày và thuyết phục người khác. Những cán bộ Cộng sản miền Bắc dù với nhu cầu phải tô hồng tâng bốc lãnh tụ, đưa Hồ Chí Minh lên hàng lãnh tụ lớn nhưng có lẽ trong tận cùng của họ, họ cũng biết Hồ Chí Minh không “vĩ đại” như họ phải hô hào nên họ phải viết “học tập lý thuyết Marx Lénine tư tưởng Mao trạch Đông và tác phong Hồ chí Minh”. Rõ ràng lãnh tụ có thuyết, có tư tưởng thì đầu óc to lớn, lãnh tụ chỉ có tác phong thì đúng là người bình thường, chưa kể tác phong của Hồ chí Minh chỉ là một người giả dối, lừa bịp rẻ tiền, đắc thời làm nên sự nghiệp. Khi đã tìm hiểu từ lý thuyết đến thực tế thì trong xã hội Cộng sản còn dễ suy đoán những gì xảy ra trong tương lai vì Cộng sản là một tổ chức thì phải có quy luật, một bộ máy phải có cơ hành vận chuyển, tổ chức càng lớn, bộ máy càng to thì quy luật phải rõ ràng. Chìa khóa để tìm đường lối của Cộng sản trong thời gian sắp tới là đại hội Đảng. Bản phúc trình của Tổng bí thư, các khẩu hiệu chiến lược được thông qua tại Đại Hội Đảng, là những điều hướng cho chính sách áp dụng sau Đại Hội Đảng, nếu có thay đổi hay bổ túc thì qua các hội nghị Trung Ương Đảng và hướng dẫn thi hành chính sách là nghị quyết của Chính trị Bộ và Ban bí Thư.

 

Khuynh hướng của người lãnh đạo cao cấp phải thống nhất rập khuôn theo Tổng bí Thư khi họ trình bày tham luận của họ, nếu có người đọc tham luận khác thì đó là những sự kiện đáng kể. Trong đại hội kỳ IV, Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc là Kim Ngọc đã chỉ trích chính sách bình công chấm điểm và đề nghị khoán sản phẩm đã bị phê phán, cách chức và bị cầm tù. Đại hội kỳ V, Nguyễn Lam, bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ban Kế Hoạch Nhà Nước, xác nhận quản lý sai lầm kinh tế, Lê Duẩn và Phạm văn Đồng cũng tuyên bố nhận lãnh trách nhiệm. Chế độ bình công chấm điểm được thay thế bằng khoán sản phẩm. Trong đại hội kỳ V, Nguyễn văn Linh bị ra khỏi Chính trị Bộ vì tham luận của Linh đưa ra những điểm cởi mở về kinh tế không được đại hội chấp nhận. Đó là điểm đáng lưu ý.

 

Các quy luật điều hành chế độ Cộng sản đã được Lénine đề cập trong các tác phẩm của ông, và các đảng Cộng sản từ Liên Sô đến Việt Nam coi đó là cẩm nang hướng dẫn cho nên họ luôn luôn bị cứng nhắc và lỗi thời. Lénine có bộ óc lớn vẫn bị giới hạn, vì thời đại ngày nay khoa học kỹ thuật tiến bộ quá nhanh, điện tử được áp dụng trong mọi địa hạt, nhất là địa hạt quản lý xã hội thì trí óc của con người không lường trước hết được. Đây là một điều thất bại của chế độ cộng sản nói chung.

 

Phong trào Cộng sản quốc tế và khối Xã hội chủ nghĩa do Liên Sô lãnh đạo là một trào lưu tư tưởng, một định chế và một thực tế chính trị thời đại, được hình thành từ một lý thuyết đến tổ chức rất chặt chẽ nhằm chinh phục và thống nhất cả toàn thế giới.

 

Từ sự phê phán đúng các khuyết điểm các chế độ chính trị trong lịch sử loài người nhất là chế độ tư bản và phong trào đế quốc chiếm thuộc địa và thị trường tiêu thụ của các quốc gia Tây phương. Ý niệm giải phóng con người khỏi áp bức bất công và giải phóng các dân tộc khỏi nô lệ là lý tưởng của con người có lương tâm. Từ đó lý thuyết Cộng sản trở thành một hấp dẫn. Dùng bạo lực để đoạt và củng cố chính quyền vô sản, tập trung quyền hành và tài nguyên trong tay. Khởi đầu các nước Cộng sản giải quyết những khó khăn đưa xã hội đến ổn định và phát triển, dù giai đoạn này đòi hỏi phải hy sinh cả chục triệu người dân. Nhưng sau khi qua giai đoạn cần thiết để ổn định lúc ban đầu, đưa một nước ra khỏi sự trì trệ của một nước bị lệ thuộc hay còn ở trong chế độ phong kiến, đến giai đoạn các quốc gia ổn định. Cộng sản phải chứng tỏ sự hữu hiệu trong việc thực thi lời hứa đem lại công bình xã hội và hạnh phúc cho con người thì chế độ Cộng sản hoàn toàn thất bại, chỉ sau 70 năm nắm chính quyền, chế độ Cộng sản đi vào bế tắc vì giữa tổ chức chính quyền Cộng sản và những ước mơ đầu tiên của Karl Marx trở thành mâu thuẫn.

 

1- Ước mơ giải phóng con người công nhân khỏi các bất công, áp bức và bóc lột, chế độ Cộng sản câu thúc con người áp bức và bất công nhất. Người công nhân là đối tượng để giải phóng cũng thành một thành phần bị bóc lột bởi tư bản nhà nước, bởi hệ thống cán bộ quản lý và bởi các khuyết điểm trong tổ chức quản lý.

 

2- Ước mơ một xã hội không có giai cấp, chế độ Cộng sản tổ chức thành một xã hội nặng nề nhất, đảng viên Cộng sản thành một giai cấp bóc lột mới và chính trong nội bộ Đảng hệ thống đẳng trật cũng rất nặng nề mà con đường thăng tiến của đảng viên cũng chỉ dựa trên tính xu phụ, tâng bốc, bợ đỡ và kéo bè kết cánh tiêu diệt loại trừ nhau. Biến xã hội Cộng sản thành một môi trường đào tạo những con người đê tiện, nơi mà con người phải che dấu nhân tính để được sống bình an.

 

3- Ước mơ giải phóng cho các dân tộc bị áp bức nhưng kết quả lại hình thành một đế quốc nô lệ nhiều dân tộc.

 

4- Ước mơ hình thức nhà nước quản lý xã hội tự thủ tiêu, con người tự quản lý đời sống, nhưng lại thành lập một chính quyền mà bộ máy nhà nước quá nặng nề, buộc nhân dân đóng góp để bọn quan lại tiêu xài xa xỉ, nhũng lạm, và uổng phí; một hệ thống chính quyền dùng vũ lực để can thiệp thô bạo vào đời sống cá nhân của mọi người.

 

5- Ước mơ một nền sản xuất vững mạnh, mọi người đều tự giác bảo vệ của công nên hàng hóa sản xuất như nước để con người “làm việc theo năng suất và hưởng theo nhu cầu”, nhưng lại tổ chức một nền kinh tế què quặt, không đáp ứng được nhu cầu. Chế độ kiểm soát và phân phối nặng nề, trì trệ nên dân chúng phải làm quá sức mà phải xếp hàng cả ngày mua hàng hóa phẩm chất kém mà số lượng không đủ nhu cầu.

 

Lý thuyết không tưởng nên áp dụng vào thực tế lộ rõ ra những sai lầm. Chủ nghĩa Cộng sản không còn giá trị, nó hiện còn tồn tại nhờ tổ chức và bạo lực.

 

Một khi bạo lực không thể áp dụng thì chế độ Cộng sản đương nhiên tan rã, sự tan rã từ chính nó. Nhưng đã nhiều lần đề cập ở trên, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thắng lợi vì nhờ vào chiêu bài giải phóng dân tộc, chống ngoại xâm giành độc lập. Đảng không thắng nhờ chiêu bài xây dựng xã hội chủ nghĩa trong đó đấu tranh giai cấp là điều kiện cốt yếu. Sau khi thống nhất cả nước; lá cờ giải phóng dân tộc chấm dứt sứ mệnh. Đảng lộ rõ bản chất là một thành phần của đệ tam quốc tế theo con đường Liên Sô tổ chức lại xã hội Việt Nam theo đúng khuôn mẫu Sô Viết. Đảng Cộng Sản Việt Nam đi dần vào thất bại. Nguyên do:

 

1- Việt Cộng đã phá bỏ mọi giá trị tư tưởng của dân tộc Việt để áp đặt tư tưởng Marx Lénine trên toàn dân. Điều 4 hiến pháp (1980) Việt Cộng ghi rõ: “Đảng Cộng Sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Marx Lénine, là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội, là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.

 

Trên phương diện thế giới, Cộng Sản Việt Nam đã đi một bước quá chậm chạp, trong khi tư tưởng Marx Lénine đã lỗi thời bị phê phán ngay cả trong hàng ngũ các nước Cộng sản. Liên Sô đang bế tắc vì dùng độc tôn một hệ tư tưởng Xã hội không tiến bộ và không lối thoát - thì Việt Cộng sau khi chiến thắng quân sự vội vã xem việc áp đặt hệ tư tưởng độc tôn đó như là con đường không thể khác.

 

Về phương diện quốc nội: Việt Nam có truyền thống văn hóa hội nhập sâu sắc các tư tưởng Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo và Ki Tô giáo, hình thành tinh thần dân tộc, lòng nhân ái và tình yêu nước.

 

Trong căn bản tư tưởng đó, người Việt Nam không thể nào chấp nhận một hệ tư tưởng xây dựng trên hận thù đấu tranh. Việt Cộng nhờ vào tổ chức Đảng và hệ thống bạo lực xây dựng một định chế và tổ chức chính trị, nhưng không thể đi sâu vào tư tưởng dân chúng. Khi không còn yếu tố hướng dẫn của nhu cầu giành độc lập, chính quyền Cộng sản trở nên đơn độc và đối nghịch với toàn dân.

 

Đảng Cộng sản kể công bằng hai cuộc chiến thắng chống Pháp và chống Mỹ để biện minh cho quyền lãnh đạo đất nước. Điều này thật vô lý và lạc hậu, chế độ quân chủ dùng thuyết thiên mệnh để biện minh cho quyền lãnh đạo chính thống. Nhưng chế độ quân chủ cũng chỉ biện minh cho sự tồn tại của triều đại với điều kiện triều đại đó hợp với thiên mệnh - tức là hợp với lòng dân và phục vụ cho hạnh phúc của nhân dân.

 

Đảng Cộng sản dùng công lao (cướp công) để biện minh không những cho sự cầm quyền mà còn đòi hỏi quyền bất khả thay thế và quyền tiêu diệt thành phần dân chúng khác. Hiến pháp Cộng sản viết: “Đảng là người lãnh đạo duy nhất... Đảng lãnh đạo là thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và của dân tộc... đó là con đường tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội...” Chủ nghĩa chỉ là một định chế chính trị do con người đặt ra tùy hoàn cảnh xã hội. Xã hội loài người luôn luôn tiến bộ thì chủ nghĩa chính trị cũng phải thay đổi. Không thể nào như Cộng sản nói chủ nghĩa Cộng sản là định chế xã hội cuối cùng tốt đẹp nhất của loài người.

 

2- Lénine nói chế độ Cộng sản dân chủ triệu lần hơn dân chủ kiểu tư sản. Nhưng Cộng sản chủ trương tập trung dân chủ, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây là một lối chơi chữ. Đảng tự nhận mình là người lãnh đạo, là bản thân của quần chúng dù Đảng không được dân chúng bầu lên, không đại diện cho nhân dân. Nghị quyết Đại Hội kỳ 4 năm 1976 của Việt Nam viết: “Thông qua nhà nước, đường lối chính sách của Đảng biến thành quyết định của bản thân quần chúng. Đảng bắt buộc tất cả các tổ chức, các cán bộ, đảng viên của Đảng tôn trọng quyền lực của cơ quan nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và quyết định chỉ thị của cơ quan nhà nước, coi đó là kỷ luật của Đảng.”

 

Rõ ràng quyền làm chủ của nhân dân chỉ là một điều mơ hồ và nhân dân chỉ là một điều nhân danh. Bao nhiêu quyền hành đều nằm trong tay Đảng, dĩ nhiên quyền lợi cũng do Đảng nắm giữ hết. Như vậy thì làm sao có dân chủ được. “Đảng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đảng chủ trương dân chủ với nhân dân và chuyên chính với kẻ thù của nhân dân.

 

Hai chữ nhân dân đã mơ hồ, mà những kẻ thù của nhân dân lại càng hồ đồ hơn. Không có luật pháp nào bảo vệ cho quyền cụ thể của nhân dân, và bất cứ người nào bị công an hỏi đến cũng sẽ mất quyền công dân và tức khắc trở thành kẻ thù của nhân dân và kẻ đó sẽ bị chuyên chính. Công an là tổ chức để phán quyết “tính nhân dân và kẻ thù của nhân dân”, lại là tổ chức bạo lực chuyên quyền, dốt nát và được dạy tinh thần hận thù.

 

3- Ba cuộc cách mạng chủ yếu của cách mạng Cộng sản đem ra thi hành đều bế tắc. Cuộc cách mạng tư tưởng không thể thành công. Cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, thực tế không đem lại đầy đủ sản phẩm và công bằng cho con người trong xã hội. Trong quan hệ sản xuất tư bản, không kể tương quan chủ và thợ ngày nay đã được cải tiến giảm bớt tình trạng bóc lột mà trở thành tương quan lưỡng lợi. Quan hệ sản xuất mới tập trung tư bản vào nhà nước, gọi mỹ miều là sản xuất toàn dân, trở thành vừa là một hệ thống bóc lột nặng nề, vừa là một tổ chức thư lại, trì trệ. Thất bại trong việc quản lý sản xuất là một trong những nguyên do chính làm cho hệ thống Cộng Sản Quốc Tế sụp đổ.

 

Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, được Đảng Cộng Sản Việt Nam xem là then chốt nhất trong ba cuộc cách mạng trở thành không tưởng vì hệ thống giáo dục kém cỏi, sự độc tài tư tưởng, sự chuyên quyền của hệ thống Đảng, làm cho động lực chính của cách mạng khoa học kỹ thuật tức là đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa trở thành dốt nát, lý luận một chiều, không sáng kiến. Riêng khẩu hiệu “hồng trước chuyên sau” và chủ trương khinh miệt trí thức cũng là một nghịch lý đối với chủ trương cách mạng khoa học kỹ thuật

 

4- Khẩu hiệu chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam là “xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa không qua con đường phát triển Tư Bản Chủ Nghĩa.” Theo lý thuyết Marx, Cộng sản chủ nghĩa là sự phát triển tất yếu của con người sau Tư bản chủ nghĩa. Người công nhân làm cuộc cách mạng thay đổi quan hệ sản xuất, thủ tiêu mâu thuẫn giữa chủ thợ, xóa bỏ được tình trạng người bóc lột người, cải biến phương thức sản xuất. Cộng sản chủ nghĩa đến thời Lénin, ông ta thấy không thể tiến lên Cộng sản chủ nghĩa nên đã khai sinh ra thuật ngữ “Xã Hội Chủ Nghĩa” để chỉ một giai đoạn phát triển trong lịch trình cách mạng vô sản. Sau đó các lý thuyết gia Cộng sản khai sinh thêm hai giai đoạn là “bước quá độ từ Tư bản chủ nghĩa qua Xã hội chủ nghĩa” và “bước quá độ từ Chủ nghĩa xã hội sang Cộng sản chủ nghĩa.” Liên Sô tuyên bố đã thành công trong giai đoạn xây dựng Xã hội chủ nghĩa và Hiến pháp năm 1977 là chuẩn bị bước quá độ tiến từ Chủ nghĩa xã hội lên Chủ nghĩa cộng sản. Các nước Cộng sản Đông Âu còn trong giai đoạn quá độ tiến qua Chủ nghĩa xã hội. Việt Nam là một nước cựu thuộc địa, nông nghiệp là sản xuất chính yếu của nền kinh tế. Các hệ thống ít ỏi của kỹ nghệ nhẹ gồm các ngành chế biến hàng tiêu dùng.

 

Trước tình hình thực tế đó, những người lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam thường nói là họ áp dụng nhuần nhuyễn lý thuyết Marxism vào thực tế Việt Nam; họ sẽ tiến thẳng từ tình trạng nông nghiệp lên Chủ nghĩa xã hội. Với một tham vọng tạo ra một mô thức phát triển mới làm đàn anh các nước thứ ba như là họ tự hào là một cường quốc chính trị, một mẫu mực để các nước chiến đấu giành độc lập noi theo. Họ thường nói nước Việt Nam là nước nhỏ người không đông đã đánh thắng liên tiếp ba đế quốc lớn, “điều mà trước khi Việt Nam thành công không ai tin được.”

 

Nhưng tham vọng của Việt Cộng vượt quá khả năng thực tế của họ, thành phần chủ lực của đảng viên không phải là công nhân mà là quân đội và công an, lực lượng bạo lực, đoàn thanh niên và nông dân, nên họ vội vàng quốc hữu hóa tất cả nhà máy đưa vào quản lý nhà nước, cải tạo công thương nghiệp, tiêu diệt thành phần sản xuất. Phát triển kỹ nghệ trong điều kiện thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, thiếu kiến thức và mù tịt về quản lý.Học đòi theo Staline, vội vàng công nghiệp hóa đất nước trong khi chưa đủ các điều kiện về vốn, người và kỹ thuật làm cho họ thất bại nặng nề, giết chết cả nền tảng công nghiệp non nớt, làm cho nền kinh tế càng tồi tệ hơn.

 

Do đó tham vọng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa thành ra “xuống hố cả nước”, và kế hoạch phát triển 5 năm từ 1976-1981 thành ra một sư phá hoại tất cả vốn liếng của đất nước. Giấc mơ công bằng xã hội thành “cào bằng xã hội”, biến Việt Nam thành một trong những nước nghèo nhất thế giới. Đại hội kỳ 5, Đảng chưa nhìn thấy rõ. Đại hội kỳ 6, Cộng sản đã nhìn thấy những bế tắc. Trước mắt muốn theo chân Liên Sô đổi mới nhưng lại tham vọng và mơ tưởng chỉ cải cách kinh tế, áp dụng cơ chế kinh tế thị trường có kiểm soát mà không thay đổi chính trị. Một điều rõ ràng nhất trong lịch sử tư tưởng chính trị thế giới hiện nay là Chủ nghĩa tư bản không giẫy chết như Karl Marx tiên đoán, mà trái lại Chủ nghĩa cộng sản đang diệt vong.

 

Nằm cạnh tôi là Khổng Hữu Diệu, Chủ tịch Mặt Trận Dân Quyền và Đoàn Phan Trí thuộc Đảng Tân Quốc Xã, chúng tôi trao đổi với nhau nhiều điều suy nghĩ. Những người bạn này cho biết sau 1975 họ quá nóng lòng trước cảnh nước mất nhà tan, trước sự bóc lột trắng trợn của chính quyền và cán bộ Cộng sản đối với dân miền Nam, nên cùng số bạn bè lập nên những Mặt Trận để kêu gọi nhân dân nổi lên chống Cộng; nhưng thiếu lãnh đạo, thiếu chuẩn bị và phương tiện nên họ thất bại. Không ai có đủ khả năng tập hợp được lực lượng mạnh để hành động đáng kể. Nhiều người cho là chúng ta thiếu một lý thuyết chống lại thuyết Marxism nên đã thua trận, nên họ đã nghiên cứu để lập thuyết. Có người phổ biến thuyết Dân Tộc Nhân Bản và Kinh Tế Bình Sản của Lý Đông A, Đảng Trưởng Đảng Duy Dân. Thiển nghĩ Karl Marx là con người đọc sách nhiều, suy nghĩ nhiều, đầu óc được xem như hơn người bình thường nhưng một khi sai lầm thì tai hại cũng thật lớn. Lénine một đời người viết 5000 cuốn sách lớn nhỏ đề cập thảo luận giải thích đến hầu hết những vấn đề xã hội, nhưng một khi sai lầm cũng làm khổ biết bao thế hệ, câu thúc hàng tỉ và làm chết hàng trăm triệu con người trên quả đất. Chỉ có các giáo chủ và các tôn giáo có lòng bác ái đem tình thương và sự xả thân để phục vụ con người. Khi con người chung sống đã hình thành xã hội, khi đã có xã hội, phải có quản lý xã hội đó, xã hội vì con người mà thành lập, con người phải tự chế bớt quyền lợi cá nhân vì quyền lợi của người khác thì xã hội mới ổn định. Vậy con người phải bảo vệ xã hội nhưng xã hội tồn tại trên căn bản vì hạnh phúc của con người. Hệ thống quản lý xã hội do nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội mà có. Do đó không thể nhân danh bất cứ điều gì để tiêu diệt và nô lệ con người.

 

Con người là chủ thể của xã hội nên tổ chức các định chế xã hội như thế nào cũng phải vì hạnh phúc con người, nếu đi trái với qui luật đó là ngược lại với thiên nhiên không thể tồn tại được. Chế độ Cộng sản nhân danh xã hội mà chối bỏ hạnh phúc con người, chế độ đó không có lý do tồn tại, thì sau chế độ Cộng sản, một chế độ mới phải đặt trên căn bản vì hạnh phúc của con người. Quốc gia cũng có một định chế xã hội hình thành do tập hợp của quyền lợi của một số con người có cùng truyền thống lịch sử và cùng hướng về một tương lai, hình thức một quốc gia thay đổi qua các diễn biến của lịch sử nhưng định chế quốc gia không thể thay đổi được. Khi đã công nhận con người là chủ thể của xã hội thì chế độ dân chủ không thể nào thay thế bằng một thứ “dân chủ tập trung” vì đã tập trung là độc tài không thể dân chủ được. Lénine chỉ trích dân chủ Tây Phương là dân chủ của người giàu, vì người giầu mới có khả năng ứng cử. Điều này không sai, nhưng những người giầu muốn đắc cử họ phải có điều kiện để cử tri lựa chọn, tức là không nhiều thì ít họ phải có chương trình phục vụ công ích. Không thể có dân chủ hoàn toàn cho mọi người, nhưng có tự do ứng cử và tự do lựa người đại diện là tương đối tốt. Lénine nói dân chủ tập trung kiểu Cộng sản, dân chủ triệu lần hơn dân chủ tư sản là ngụy biện hàm hồ.

 

Ở miền Nam Việt Nam trước 30-4-75 những người nắm chính quyền thường viện lý do dân trí còn thấp, các điều kiện dân chủ chưa chín mùi, để từ khước áp dụng dân chủ, điều đó cũng không đúng. Mở mang dân trí, phát triển kinh tế là trách nhiệm của chính quyền. Dù lúc đầu có khó khăn trở ngại để một nước từ thuộc địa qua độc lập, từ nông nghiệp lạc hậu qua phát triển, từ tư tưởng quân chủ, tác phong cường hào qua dân chủ, nhưng chính quyền phải đặt cứu cánh xây dựng dân chủ, từ pháp chế tổ chức giáo dục và tuyển chọn nhân sự phải hướng vào mục đích đó. Âm mưu thủ tiêu dân chủ hay từ khước thực hiện dân chủ là đi ngược lại xu thế tiến hóa chung.

 

Người Mỹ đến Việt Nam không lâu, nhưng ảnh hưởng của Mỹ về phương diện chính trị khá sâu. Trước kia ở miền Nam, Mỹ trực tiếp ảnh hưởng đến quyết định chính trị bằng cách sử dụng các quân nhân và chính trị gia theo kiểu nuôi gà đá, nghĩa là, bên ngoài thì Mỹ giúp đỡ quân sự để chống nhau với Cộng sản, còn nội bộ, mỗi chính trị gia hay một viên chức Mỹ ủng hộ cho một con gà, nội bộ mặc tình tranh đấu chọi nhau, ai thắng thì người nuôi gà thắng. Ngược lại trên cuộc chạy đua chính trị ở nước Mỹ thì người nuôi gà nào thắng, thì con gà của họ nuôi trở thành vô địch ở trường đấu đá. Thành ra các chính trị gia Việt Nam làm chánh trị với Mỹ để được cai trị dân Việt Nam như tác phong một ông vua quan, họ trở thành những kẻ đấu thầu chính trị. Trương một bảng hiệu lên, có vài hoạt động tối thiểu, để khi nào được trúng thầu mới đi tìm sản phẩm. Do đó, một công việc rất tầm thường là một nước trải qua nhiều chính biến, mà các tổ chức chính trị khi nắm được chính quyền không tổ chức nào đủ nhân lực để nắm toàn bộ chính quyền.

 

Đành rằng thế giới ngày nay các nước đều quan hệ chặt chẽ với nhau, nhất là các nước nhược tiểu, và cũng là một thực tế là trong sự nghiệp chính trị chống Cộng của người quốc gia nếu không có Mỹ ủng hộ cũng khó tiếp tục được. Nhưng từ chỗ cần thiết đến sự lệ thuộc hoàn toàn là chuyện khác, từ chỗ cần thiết phải có Mỹ ủng hộ đến sự chờ đợi cũng là một chuyện khác. Người ta chưa rút tỉa kinh nghiệm tại sao, cũng cùng trường hợp những nước chia đôi, tại sao Mỹ không bỏ rơi Đức quốc, không bỏ rơi Nam Hàn, thậm chí Đài Loan cũng không bị bỏ rơi khi Mỹ công nhận Trung Cộng. Đó là một vấn đề chính trị quan trọng, nó có nhiều lý do, nhưng một lý do chính là Tây Đức mạnh hơn Đông Đức, Nam Hàn mạnh hơn Bắc Hàn hoặc ít ra như Đài Loan cũng tự đứng vững được với một chính quyền và một nền kinh tế vững mạnh và những nước này có những hoạt động ảnh hưởng lại chính trường nước Mỹ. Người ta tin vào Mỹ là nước tư bản chống Cộng sản nên không thể bỏ rơi một vị trí chiến lược quan trọng như Việt Nam, nhưng người ta không nghĩ là Mỹ vẫn chống Cộng nhưng chiến lược thay đổi, học thuyết Domino đã bị bỏ qua để theo học thuyết 4 thế giới của Brezinski không vây chặn Cộng sản mà chia rẽ khối Cộng sản, và Mỹ cần đẩy mạnh sự chia rẽ đó. Sự hiện diện của Đảng Cộng Sản Việt Nam là một động lực để đẩy mạnh sự chia rẽ giữa Trung Quốc và Liên Sô đến độ không hàn gắn được. Người ta không nghĩ rằng dù nâng đỡ Trung Quốc trong chương trình cải cách của Đặng Tiểu Bình, nhưng Mỹ vẫn muốn có sự cản trở về sự phát triển của Trung Quốc mà trong cuộc chiến biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam, Mỹ đã nhìn thấy Cộng Sản Việt Nam có đủ sức ngăn cản sự bành trướng của Trung Quốc về phương Nam. Người ta quá tin tưởng vào Mỹ, trước kia tin vào Mỹ sẽ không bỏ miền Nam nên không chuẩn bị sức mạnh cho riêng mình, nên khi Mỹ bỏ rơi miền Nam, từ chính quyền đến các lực lượng chính trị không ai dám đương đầu với Cộng sản. Ngày nay người ta thấy Mỹ còn bao vây Việt Cộng, còn cấm vận, không có quan hệ ngoại giao, người ta tin là Mỹ sẽ trở lại bằng một hình thức nào đó loại bỏ Việt Cộng nên không ai chuẩn bị lâu dài để đấu tranh với Cộng sản, không ai chịu nhìn thấy Cộng sản sẽ sụp đổ ví lý thuyết lỗi thời và nội bộ suy thoái, thất bại trong việc quản trị xã hội, cho dù Mỹ có bang giao thì người Việt chống Cộng cũng còn lý tưởng để chống Cộng sản. Người chống Cộng Việt Nam hiện tại ở trong tình trạng không nhìn cái yếu căn bản của Cộng sản, nên vừa chống vừa sợ, chống vì căm thù, và vừa trông chừng người Mỹ. Nếu một lúc nào đó Mỹ đạt đến sự tương nhượng của Cộng sản, nhìn nhận và bang giao với Việt Cộng thì người Việt Nam quốc gia chống Cộng sẽ mất đi một số người. Căm thù là một động lực để chống Cộng, nhưng căm thù thực sự mạnh mẽ nơi chiến trường của một người lính chiến. Phải chống Cộng vì lòng yêu nước và niềm tin - chống Cộng và hiểu rõ rằng còn Cộng sản là đất nước không tiến bộ, con người Việt Nam không thể yên thân và hạnh phúc được, chống sự tồn tại của lý thuyết và tổ chức Cộng sản, không phải chống vì tên Việt Cộng A, tên Việt Cộng B tàn ác dã man. Phải chống Cộng cho dù Cộng sản “tỏ ra dễ thương” cũng cần đòi hỏi họ phải từ bỏ lý thuyết và phương thức xây dựng xã hội theo kiểu Cộng sản. Khi người cộng sản đã từ bỏ những điều căn bản đó thì họ không phải là kẻ thù nữa - hận thù là động lực đấu tranh, nhưng hận thù không giải quyết được những vấn đề thuộc con người mà chỉ có tình thương mới làm cho đời sống con người có ý nghĩa.

 



 


Chương Mười Lăm

 

Trại cải tạo có nhiều tù các nơi chuyển đến thì những hoạt động của các tổ chức chính trị ồn ào nhộn nhịp và hậu quả không tránh khỏi sự khám phá của an ninh qua sự báo cáo của hệ thống tù nhân làm tay sai vẫn lén lút cung cấp tin tức. An ninh biên chế những tù nhân bị liệt vào thành phần cứng đầu vào phân trại B, để thi hành chế độ cải tạo nặng nề và đồng thời chuyển một số người chúng nghi là có ảnh hưởng đến đám đông vào phân trại C để giam vào xà lim và cách ly. Tôi theo toán người vào phân trại B, ở vài ngày chưa yên chỗ thì được lệnh chuyển trại vào C. Phân trại C nằm trong một thung lũng hẹp cách phân trại B khoảng 3 km, theo đường núi ngoằn ngoèo vào xã Xuân Định, đa số là đồng bào sắc dân H’Roi, một sắc dân thiểu số chưa được khai hóa vì từ chiến tranh chống Pháp đến nay vùng rừng núi này thuộc Việt Cộng kiểm soát. Cán bộ chế độ Cộng Hòa chỉ hoạt động từ năm 1956 đến đầu năm 1958 rồi rút từ khi Việt Cộng bắt đầu có những hoạt động ám sát.

 

Qua một con suối cạn, một cánh rừng nhỏ, đến trảng tranh đầu thung lũng, nhìn lại tứ bề vách núi dựng đứng. Thung lũng trở thành như cái giếng cạn khổng lồ. Bề mặt thung lũng được san bằng phẳng, khu trại được xây hai bên con đường băng ngang, bên tay phải là trại tù, bốn bề có dây kẽm gai, hào sâu trồng cây xương rồng dầy đặc, bên tay trái cách cái ao nuôi cá là dãy nhà chỉ huy và nhà ở của cán bộ. Bấy nhiêu đó đã nói lên bao công trình của tù đã để lại, bao nhiêu mồ hôi đã đổ ra, và bao nhiêu tuổi trẻ đã nằm xuống, còn ghi lại bởi những nấm mồ nằm chi chít trên một ngọn đồi đầy cỏ tranh đất khô cằn không trồng được cả loại khoai mì H-34. Sau tù tàu Việt Nam Thương Tín xây dựng trại A, tù hình sự đến Xuân Phước xây dựng trại B, trại C và trại D. Họ phải chống lại nước độc và sương lam chướng khí và phải đẵn cây, san đất, xẻ đường với dụng cụ thật thô sơ và sức con người còm cõi vì thiếu ăn.

 

Họ phải kéo cày thay cho trâu bò. Không thể tưởng tượng được đã cuối thế kỷ 20, người Việt còn làm công việc thay súc vật, ở các nước văn minh, con vật cũng không làm việc nặng nhọc đó. Hình ảnh người kéo cày thay trâu trước đây chỉ đọc trong sách, không ngờ sau 1975 trở thành một hiện tượng phổ biến. Người cộng sản hãnh diện họ là người tiến bộ, trong khi họ kéo đất nước lùi hàng mấy chục năm. Phân trại C tù hình sự tập trung không có án, đa số các em là dân Sài Gòn, con em của sĩ quan viên chức, cha đi cải tạo, các em bị đuổi ra khỏi trường vì lý lịch, có em cũng phạm lỗi nhưng có em chỉ có một tội không công ăn việc làm, không được đi học, công an phường khóm bắt đi cải tạo. Dân Sài Gòn không chịu nổi gian khổ, các em bỏ xác ở trại Bù Gia Mập,

 

trại Bù Đớp, để phát hoang cho thanh niên xung phong xây dựng khu kinh tế mới, rồi các em được đưa ra trại Xuân Phước, mười em từ khi bắt đầu lao động đến lúc về, chết hết 3. Vào đến trại chúng tôi được đưa vào khu nhà tập thể, ở đây những người đi ngày hôm trước đã có mặt, đa số là nhóm viên chức cao cấp và các tu sĩ từ Chí Hòa mới lên. Một số những người khác thì bị đưa vào giam ở xà lim. Lần này không ai suy đoán được lý do vì sao lại cách ly hàng loạt người, kể cả những người mới đến. Những người bị cách ly lại phân ra hai trường hợp, trường hợp cùm chân ở xà lim và trường hợp ở ngoài. Trại tương đối yên tĩnh, không có sự kiện gì để phải trấn áp như những lần trước. Trong trại tù nhiều trường hợp rất phức tạp, đa số tù nhân đều tốt nhưng cũng có thiểu số ngu xuẩn dựng nên chuyện báo cáo để lập công. Bọn an ninh thì như lũ kên kên chỉ chờ có báo cáo là có dịp hành hạ tù để lập thành tích nhận lẵng hoa hay cờ thi đua của trung ương.

 

Dù sao 5 tháng bị cách ly cũng là thời gian sung sướng ở trong tù, khỏi phải đi lao động ở ngoài, tới bữa ăn nhà bếp đem cơm nước đến tận cửa nhà, tù cách ly được gọi là tù quí tộc, cơm bưng nước rót. Gia đình lên thăm, tôi nhận được hai tin vui buồn lẫn lộn, mẹ tôi bị bịnh nặng, bà muốn lên thăm tôi mà không đi được, và tin con trai tôi, Thụy Vũ, đã vượt biên qua đến Hongkong. Cho đứa con trai duy nhất mới 14 tuổi một thân một mình đi tìm tự do mà tôi mừng. Biết rằng tuổi Vũ còn nhỏ dại, cuộc ra đi là một phiêu lưu, nhưng dù sao hy vọng con còn biết lo lắng học hành để có một tương lai cho nó, ở lại Việt Nam nó sẽ không được đi học tiếp hết bậc trung học. Chính sách kỳ thị đã làm hại bao nhiêu đứa trẻ có cha anh đi học tập cải tạo. Không biết ngày tôi được về, mẹ tôi còn sống hay đã mất. Tôi còn được may mắn hơn nhiều anh em là thời gian ở tù tất cả những người thân trong nhà đều lần lượt lên thăm tôi tại trại. Bà nội tôi chết, tôi không có ở nhà và bây giờ mẹ tôi bịnh, tôi thật lo. Lúc nước sắp mất, cha mẹ muốn tôi ở lại để gần gũi gia đình, vì tôi là đứa con đi xa nhà sớm nhất, có ngờ đâu tôi ở lại đã không gần gũi được ai mà còn là gánh nặng và mối lo âu cho người thân. Nhớ đến mẹ, lòng tôi nặng trĩu, tôi đã hơn 40 tuổi, mẹ còn lo từng thức ăn, từng món đồ dùng cần thiết cho tôi trong tù. Mẹ thật chu đáo, cứ tuần tự mỗi lần thăm, đồ dùng sắm đủ, mỗi kỳ một vật khác nhau, mẹ nhớ không thiếu món nào, cái khăn mặt chớm rách là có cái khác, ống kem đánh răng sắp hết là có cái khác, cái bàn chải, quần lót, bí tất, khăn quàng cổ cho mùa lạnh. Tôi chưa bao giờ phải viết thư xin một thứ gì, thư bị giới hạn khổ giấy, nên còn để viết lời thăm hỏi những người thân thương. Những bà mẹ của tù cải tạo, những tấm lòng bao la vĩ đại, có mẹ nhờ con dâu đã có chồng khác, tháng tháng mang quà thăm, để con khỏi buồn, vì mẹ không muốn cho đứa con lúc còn ở tù biết mình mất vợ; có những mẹ vợ buộc con gái của mẹ phải tiếp tục đi thăm con rể dù đã lấy chồng khác. Tuổi trẻ năm tháng cô đơn, phải thông cảm cho những người vợ trẻ. Người đàn bà Việt Nam làm vợ còn nhiều lỗi lầm nhưng làm mẹ thì tuyệt vời. Mười năm ra đời, nghĩ mà hổ thẹn vì tôi chưa có một món quà cho ba mẹ, cứ miệt mài làm việc, mong có công danh cho cha mẹ vui lòng. Công danh, sự nghiệp có những lúc tôi nghĩ thật dại dột và buồn cười. Vì ảo ảnh hư danh mà con người cứ phải khổ. Thành công hay thất bại rồi có tồn tại hay không?

 

Tháng chạp 1982, trời quá lạnh, phân trại C trong thung lũng sâu càng lạnh hơn, có đêm tất cả mọi người không nằm ngủ được, cái sàn xi-măng càng thấm và bốc hơi lạnh vào xương sống, bao nhiêu cái áo quần mặc vào hết, rồi choàng cái mền hút thuốc lào chống lạnh. Nghĩ đến Đoàn Phan Trí, người bạn nhỏ, bị bệnh lao phổi, đến Vũ Văn Ánh, Lê Văn Sanh, Trần Danh San, Hà Mạnh Phan đang nằm trong xà lim lòng tôi xót xa.

 

Qua một vài anh em bị kỷ luật ngắn ngày trong xà lim nhắn ra cho tôi là họ bị hỏi về âm mưu tổ chức đánh phá trại để đào thoát, cụ Lê Sáng và Trương Quốc Bảo bị cáo là tổ chức dạy võ và nhóm võ sinh sẽ là mũi xung kích trong vụ đánh tháo thân, đồng thời trong trại có cuộc bầu cử Tổng thống. Cụ Lê Sáng là chưởng môn võ Vô Vi Nam bị Việt Cộng bắt vì những công việc tham gia tổ chức chống Cộng từ thời trước năm 1954 ngoài miền Bắc. Trong tù, cụ là một mẫu người chính trực không khuất phục. Cụ không làm một hành động gì chống đối, nhưng mỗi khi bọn cán bộ lên mặt giáo huấn, cụ đem đạo lý làm người ra nói với chúng nên chúng ghét tìm dịp để nhốt cụ vào kỷ luật.

 Chuyện bầu cử Tổng thống thì có người gán cho Linh mục Nguyễn Văn Vàng. Nhân dịp Tết Tân Dậu, gia đình thăm gặp, cha có mời một số thân hữu đến ngồi ăn cơm. Những chuyện vặt vãnh như vậy, rồi do hiềm khích thêu dệt để báo cáo hại nhau. Trong cảnh khổ thường tạo sự gần gũi những người đồng cảnh với nhau, nhưng cảnh khổ cũng sinh ra những con người không có nhân tính, chỉ vì tư lợi nhỏ nhen sẵn sàng đạp lên xác người đồng cảnh để sống. Mà chưa chắc họ nhận được sự ưu đãi gì của bọn cai tù, chỉ giúp cho chúng cơ hội để tăng thêm sự hành hạ đối với những người tù chúng không khuất phục được. Có người học bài học thủ đoạn của Cộng sản, vội xem nhau là nội thù, thi hành kế tá đáo diệt địch. Tôi đã kể về trường hợp mâu thuẫn giữa một bên gồm các anh Khúc Thừa Văn, Bùi Lượng, Trần Công Linh và một bên bao gồm nhóm của anh Vũ Văn Ánh và Ngô Văn Ly mà giờ đây trừ Ngô Văn Ly được thả ra còn tất cả đều bị cùm chân đã gần hai năm rồi. Ngô Văn Ly rải truyền đơn, lại được thả ra trước, anh em tỏ ra nghi ngờ, và biết được hắn đã “bán cái” cho người khác việc làm của hắn, nên từ sự thán phục, nhiều người đã quay lưng và Ngô Văn Ly bị dồn đến thế cô lập. Đây là một phản ứng đúng đắn của tập thể nhưng là một nguy hiểm, vì con người quá khích, cực đoan và tham vọng như Ly, thường chỉ biết oán trách người khác và thù hận mà không bao giờ tự biết lỗi của mình.

 

Việt Cộng đã là một tập thể bán nước hại dân, không ra gì cũng đang đi đến chỗ mâu thuẫn sụp đổ, nhưng người Quốc gia thì chưa hình thành được gì hết. Trại Xuân Phước tập trung những người cầm đầu những vụ phản động, phục quốc lớn nhất, bị những bản án dài nhất, nhưng cũng mới tỏ ra là những tổ chức lẻ tẻ, nhân sự ô hợp, đầy mâu thuẫn, mà cũng chỉ là những mâu thuẫn do những sai biệt nhỏ nhặt trong đời sống, chưa tìm ra được những người nào có ý kiến sâu sắc, nhìn khắp những vấn đề quan trọng, chưa có ai tỏ ra là một chính trị gia có tầm cỡ kể cả những người từng thành công ở chế độ cũ làm nên đến hàng lãnh đạo là các ông cựu tổng trưởng. Những người tù có thiện chí, nhưng xét mình không đủ tài năng, không đủ phương tiện, sẵn sàng tham gia vào những lực lượng chống Cộng như là một người lính chiến chỉ còn biết chờ đợi, và không biết chờ đợi đến bao giờ. Đa số nhân tài đã ra đi, nhưng đa số này thường là những người tham lợi, tâm hồn bạc nhược, biết có ai thức tỉnh, để lãnh đạo dấy lên một phong trào để qui tụ đủ sức mạnh chống Cộng hay không? Hay là cũng tan nát vì chia rẽ? Miền Nam trước kia không thiếu nhân tài, bao nhiêu người đi học ngoại quốc đỗ đạt cao, nhưng nhiều người đã thiếu vốn liếng tinh thần, nên họ chỉ là những chuyên viên, và chỉ biết mưu cầu quyền lợi cá nhân, khi đất nước gần sụp đổ họ ra đi không thương tiếc. Một trăm năm nô lệ, hơn hai mươi năm chiến tranh, lòng người ly tán, biết bao giờ tổ quốc mới có cơ hội phục hưng?

 

Thời gian trước 1975, trong khi xã hội băng hoại vì vật chất, đa số con người nắm chính quyền đều chạy theo quyền lợi cá nhân và vơ vét, nhưng tôi biết vẫn có nhiều người thanh liêm trong sạch, người ta từng nói tới tướng Thắng, tướng Trưởng, tướng Chinh, tướng Hiếu, dù tôi không có cơ hội gần gũi những người nổi tiếng đó, nhưng tôi tin là dư luận đúng, vì tôi gặp được nhiều người cũng có tinh thần đó, nhưng họ không giữ địa vị quan trọng nên không được nhắc đến, nên tôi cũng thường ca ngợi những người được dư luận ngợi ca đã đóng góp vào sự xây dựng những huyền hoại, vì xã hội còn nửa cổ kính, nửa văn minh, nửa nông nghiệp, nửa thành thị như xã hội Việt Nam, người dân cần người lãnh đạo có huyền thoại. Tôi không hiểu những người được ca ngợi đó, có người đã chết, nhưng những người còn sống có chuẩn bị để làm nên nghiệp lớn cho dân tộc, chuẩn bị đánh đổ Cộng sản, một chế độ đang sụp đổ hay không? Tên tuổi những người đó được những người nổi dậy trong nước sử dụng như một lời hiệu triệu tập hợp cũng là điều rất ích lợi. Trong cái hư đó, nếu có cái thực chuẩn bị tiếp theo thì rất là hay. Nhưng e rằng những tên tuổi lớn đó cuối cùng cũng chỉ là hư danh.

 

Thời gian ở tù, tôi cũng có nhiều dịp để khâm phục những người tù bất khuất, tôi đã có dịp nêu tên tuổi ở những phần đầu khi tôi gặp họ ở trại tạm giam. Ở phân trại C này, tôi tiếp tục khâm phục một người khác, Linh mục Phan Thanh Luân; cha Luân sinh quán Phan Rang, cha còn trẻ, khoảng 37 tuổi, bị kết án chung thân vì tổ chức phong trào chống Cộng ở địa phương, vào trong tù cha vẫn tiếp tục chống đối, bao nhiêu lần viết kiểm điểm, cha đều viết vỏn vẹn có mấy chữ “Chế độ Cộng sản độc tài tàn bạo, nặng trừng phạt trả thù, không có khoan hồng”, cha Luân đã bị nhốt xà lim nhiều lần, các cha khác khuyên cha nên nhẫn nhục hơn, nhưng cha đã dứt khoát trả lời cha muốn làm một viên gạch lót đường cho người yêu nước bước lên đi tới. Trong đợt kiểm điểm cuối năm 1982, cha Luân lại chỉ viết như cũ. Cha Luân bị nhốt từ tháng 12-1982 đến khi tôi rời Xuân Phước tháng 10 năm 1986, nhiều người khác đã chết nhưng cha vẫn còn sống, cha đã yếu lắm, lần cuối cùng khoảng giữa tháng năm 1986, an ninh gọi cha ra để viết kiểm điểm. Cha Luân trả lời cha không biết viết. Cha Luân đã quyết chết. Ý nguyện của cha là làm viên gạch lót đường, nhưng không biết có người nào bước lên viên gạch tên Luân để đi được bước vững chắc trong sứ mạng chống Cộng hay không? Có lẽ giờ đây cha Luân đã chết, cha sống được cho tới ngày tôi rời trại tháng 10-1986 đã lạ lùng - đã từng nhiều lần ở xà lim, tôi biết sức chịu đựng của con người cũng giới hạn, trước đây San, Ánh chịu hơn hai năm, chúng tôi khâm phục lắm. Chế độ kỷ luật chỉ ăn 9kg lương thực mỗi tháng trên lý thuyết, trên thực tế có thể ít hơn, có nhiều người như Lê Quang Minh rất khỏe mạnh đã chết sau 3 tháng, thiếu tá Bùi Nguyên Nghĩa chỉ chịu được có 2 tháng là chết. Xà lim trại cải tạo nơi chứng nghiệm sức mạnh của tinh thần và niềm tin, nếu bình tâm, thoải mái, tự tin có thể kéo dài được sự sống hàng nhiều năm, nếu lo âu bứt rứt, tiếc nuối, ân hận thì sẽ chết trong thời gian ngắn.

 

Tháng 3 năm 1983, chúng tôi được chuyển trại ra khu B, những anh bị kỷ luật vẫn tiếp tục bị giam giữ. Bọn chỉ huy đã xin cả một đại đội địa phương từ trên tỉnh xuống bảo vệ trại sau khi đã bắt giam và cô lập một số người bị nghi ngờ. Bọn chúng tin là tù có thể nổi loạn thì ít, mà muốn làm lớn chuyện, dựng chuyện để báo công, lập công thì nhiều. Vì chúng hy vọng giam một số người đông đảo trong tù sẽ có người chịu không nổi sẽ nhận tội, và đối với pháp chế Cộng sản chỉ cần một số ít nhận tội là chúng có thể đưa một đám đông ra tòa, tạo thành một vụ án to lớn để báo cáo lên bộ Nội Vụ, lúc đó trại Xuân Phước lại được thưởng lẵng hoa, bọn chỉ huy và an ninh sẽ được thăng cấp. May mắn là không ai chịu nhận những cáo buộc tày trời mà tội danh đó trong trại có thể bị xử tử hình. Không kể các anh Vũ Văn Ánh, Khúc Thừa Văn, Bùi Lượng bị giam đã gần 2 năm, nhân vụ Ngô Văn Ly rải truyền đơn, những người khác mới bị giam hơn 5 tháng mà ai nấy đều chỉ còn da bọc xương. Những lúc tù trong xà lim được dẫn đi tắm, nhìn thân thể tàn tạ của họ không ai khỏi xúc động. Thất thểu dắt díu nhau để đi, người còn khỏe dìu người yếu hơn. Được đi tắm là một đặc ân với người bị kỷ luật, có khi mỗi tháng một lần, có khi ba tháng chưa được nhắc tới. Tắm đối với người ở xà lim là một hạnh phúc lớn lắm, được rút chân ra khỏi còng một lúc, được đi ra ngoài trời, được nhìn và sưởi trong nắng, được nghe và hưởng gió mát, được hít không khí trong lành, được tạm quên mùi hôi thúi do nước tiểu và phân của chính mình bài tiết ra trong cái thùng đạn đại liên đầy đến tận miệng mà trật tự cũng không đổ đi, được ngâm mình trong nước một lúc. Do đó, dù có gần chết đến nơi, được tắm cũng ráng mà dìu nhau đi. Tắm đối với phân trại B không những quí đối với tù giam ở xà lim, mà còn quan trọng với ngay cả tù được đi lao động. Đó là một chính sách của trại đối với những người tù cải tạo không tiến bộ, hệ thống bơm nước vào những hố chứa trong trại bị cắt, trại không có giếng vì nằm trên đồi đầy đá. Nước lấy từ con suối Trà Bương. Suối nước ở rừng núi miền Trung mùa mưa nước lũ tràn bờ chảy như thác, nước suối mùa mưa rất độc, vì nước cuốn theo bao nhiêu rác rến lá cây độc, nhất là lá cây sơn, thân cây sơn mục, mùa mưa nào đem về lòng suối càng nhiều lá cây mục thì năm đó có nhiều người chết vì những chứng bịnh lạ, sốt lên rồi chết nhanh chóng, kể cả ngoài khu dân cư bên kia suối.

Mùa nắng suối dần dần cạn, khô lại, chỉ còn nước ở những nơi trũng không thông được. Khoảng nước ao tù đó dùng nhiều công việc, tưới rau cho đội rau xanh, đội vệ sinh, đội rửa thùng phân và thùng nước tiểu, đội chăn nuôi cho bò uống nước, cán bộ giặt áo quần và tắm, giặt, nấu, ăn, uống. Nhưng được lặn hụp trong khoảng nước đục ngầu, chứa đựng đủ thứ rác rến, phân người, phân súc vật, băng vệ sinh phụ nữ, không phải là dễ, vì phải lao động tốt. Qui chế mới được ban hành, tù chỉ được tắm mỗi tuần hai lần theo tiêu chuẩn. Còn những lần tắm khác nếu có là do sự thông cảm của cán bộ nhận xét qua thành tích lao động của mỗi buổi. Lịnh ban ra thật nhẹ nhàng và gọn gàng. Không lao động tốt không được tắm và lấy nước về nấu rửa. Tới gần cuối giờ lao động mỗi buổi, tất cả tù trong đội đều hồi hộp chờ một lịnh ban ra thu dụng cụ đi tắm, hay là thu dụng cụ về trại, kèm theo chỉ thị kiểm điểm anh A, anh B vì lao động lề mề, vì cải thiện linh tinh. Một người làm sai cả đội chịu trách nhiệm lây, do đó tập thể phải thúc đẩy, xây dựng lẫn nhau, nghĩa là phải đấu tranh tố cáo nhau kịch liệt. Người tù ngây thơ nào cũng biết đó là mưu kế của Việt Cộng để gây mâu thuẫn và hiềm khích. Tình đồng cảnh cũng mạnh nên thảo luận qua quít, phê bình đại khái rồi cười thông cảm. Nhưng chuyện không xảy ra một ngày, một buổi, mà sự việc xảy ra đều đều mỗi ngày trong nhiều năm, mùa hạ nắng chang chang như đổ lửa, mồ hôi quyện với tro than vì cuốc gốc mía mới đốt, mặt mày lấm tèm lem như mọi, thì một phút nhảy ùm xuống nước cũng rất cần, đừng nói khẩn trương trong năm phút tắm. Trường hợp đó mà phải vác cuốc về trại vì anh A, B nào đó làm lao động lề mề, dựa dẫm. Dù có biết là âm mưu của Cộng sản gây nên hiềm khích vẫn cứ tố nhau, phê bình nhau, đấu tranh thực tình, đề nghị biện pháp xử phạt lên cán bộ quản giáo. Cán bộ quản giáo có cùm một người tù, có hạn chế thức ăn, cấm viết thư thăm gặp cũng do đề nghị của đội, của tập thể, không phải là ý riêng của cán bộ. Nhờ những biện pháp như tù phải đi chân đất đi làm, ăn uống theo các tiêu chuẩn bình bầu, chế độ tắm rửa, chế độ giam cầm kỷ luật, trại Xuân Phước (tức trại A-20) nổi tiếng toàn quốc là trại trừng giới ác liệt, là địa ngục trần gian.

 

Đối với anh em kỷ luật, chúng tôi nghĩ phải làm cái gì cho họ. Một viên thuốc, một cục đường trong xà lim giá trị gấp trăm gấp ngàn lần ở ngoài.

 

Móc nối được hai trật tự Dũng và Cảnh, anh Phạm văn Đồng đã tổ chức được hai hình sự Sơn và Thuận sẵn sàng “bay” tức là nhảy tường đem đồ tiếp tế vào khu xà lim. Giờ bay là những giờ trưa phiên trực của Dũng và Cảnh. Đường dây tiếp tế kéo dài được ba tháng, đến ngày 9 tháng 6 thì bể. Nguyên do trong một phòng giam anh Trần Quí Phong và ông Bùi Ngọc Phương - anh Phong nhận tiếp tế, chia không đều, ông Phương đòi thêm, anh Phong đã nặng lời, ông Phương tức giận tố cáo, tai hại là khi bị xét anh Trần Quí Phong còn giữ số quà chưa ăn hết. Sơn, Thuận, Đồng và Ngô Ly bị bắt, vài ngày sau các anh Nguyễn Chí Hiền, Nguyễn Hữu Giao và tôi bị bắt - chúng tôi nhận là có cho Đồng và Ly quà, các anh Giao, Hiền được thả ra sau một tuần kỷ luật và tôi tiếp tục bị giam. Nguyễn Minh Lý tức Lý lé, trưởng ban an ninh tổng trại làm việc với tôi. Hắn nói đáng lẽ giam tôi cùng đợt đưa vào trong C năm ngoái vì tôi đã tổ chức một đảng chính trị trong trại, tên là Lực Lượng Dân Tộc Việt và chính tôi đã tổ chức vụ tiếp tế cho đồng bọn ở trong xà lim. Tôi nghĩ hắn nói dóc, chắc là hắn mới nhận được báo cáo của một tên đặt điều nào đó vì nếu tôi bị báo cáo từ trước làm sao hắn chừa tôi ra không nhốt. Tôi nhất định khai là tôi chỉ cho quà do em Đồng xin, chúng tôi đã thỏa thuận với nhau về những lời khai từ khi mới bắt đầu làm công việc nguy hiểm. Còn tổ chức đảng chính trị là một điều không thể có, vả lại cái tên “Lực Lượng Dân Tộc Việt” là một tên của tổ chức chính trị có từ trước năm 1975, nếu tôi có tổ chức đảng chính trị tôi không đặt trùng hợp như vậy. Lý cho bắt nhốt thêm những người bạn thân của tôi là Khổng Hữu Diệu, Trịnh Đình Lâm, Koksorl Bien, Nguyễn Tú Cường.

 

Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm thân mình căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc, đau đớn liên tục. Người bị còng phải dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi tất cả cáo quần ra chêm ngang thắt lưng mới chịu được một thời gian, chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp lại thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ trong vài ngày chân đã sưng húp vì ban đêm bị lắc còng điểm danh. Cách bức cung này không ai có thể chịu được phải khai và nhận. Đoán hắn dựa vào báo cáo mù mờ và không có sự thật nên phải khai như thế nào để hắn có thể chấp nhận được. Sau một tuần bị cùm chéo, tôi khai rằng tôi được chỉ định đọc báo cho toàn nhà nghe. Thỉnh thoảng thì giờ rảnh rỗi ngồi với nhau cũng bàn với các bạn hữu những điều đăng trong báo, đó là bài tham luận của Nguyễn Lam trong đại hội kỳ 5, xác nhận những sai lầm về kinh tế. Trong khi nói chuyện với bạn bè tôi có đưa ý kiến riêng là khi đã nhận là sai lầm kinh tế tất phải có những biện pháp đổi thay mà đã thay đổi kinh tế thì phải thay đổi chính trị ở mức độ nào đó. Phải đến lúc chính phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cần đến sự trợ giúp của người Mỹ và phải có những thay đổi cần thiết. Những điều tôi nói đó không xa sự thật, không mới mẻ gì vì từ đầu khi tôi bị bắt, tên trưởng ban chấp pháp, Đại tá Nam Thành ở Sở Công An Thành Phố nói với tôi là hắn và thượng cấp của hắn biết là chỉ có Mỹ mới giúp cho Việt Cộng thoát khỏi những khó khăn kinh tế, nhưng theo hắn, Mỹ sẽ đến Việt Nam với những điều kiện Việt Cộng đặt ra. Tôi cũng nghĩ Mỹ sẽ trở lại Việt Nam nhưng với điều kiện của Mỹ đặt ra sau khi đã cô lập đến độ làm Việt Cộng phải ngã quỵ, quỳ xuống van xin. Dĩ nhiên tôi không nói điều tôi nghĩ ra, tôi giả nghe Nam Thành nói như nghe một điều mới lạ. Bây giờ tôi cũng lý luận đó để nói với tên Lý, một cán bộ cấp thấp, để nó thấy điều tôi nói hợp lý, không buộc tội tôi càng tốt, còn nếu làm hồ sơ tôi sẽ viện dẫn những điều tôi nói là tài liệu tôi đọc được của Nguyễn Lam. Tôi đã đối phó đúng, các người bạn tôi được thả ra trong thời gian ngắn và tôi được thả ra sau ba tháng bị giam xà lim.

 

Không thể tiếp tế được cho các bạn bè còn bị nhốt và hậu quả trầm trọng đã đến, tháng 11 năm đó, ông Bùi Ngọc Phương chết, tội nghiệp một con người được tiếng là tỉ phú, mà đến lúc chết thèm một ít hơi béo, một hơi ngọt mà không có. Rồi lần lượt Linh mục Nguyễn Huy Chương, ông Bùi Lượng, anh Đức, Khúc Thừa Văn và Linh mục Nguyễn Văn Vàng chết trước, sau, tùy sức chịu đựng của mỗi người. Khúc Thừa Văn khi quá kiệt lực được đưa ra trạm xá, gặp lúc gia đình có thân nhân là Việt Cộng xin phép Bộ Nội Vụ đến thăm, nhưng quà đến quá trễ không đủ phục hồi được một thân thể đã kiệt sức hơn ba năm bị giam kỷ luật. Trước khi chết, anh Văn còn đủ tỉnh táo để mời những người bịnh nằm chung mỗi người một điều thuốc và gởi cho một em hình sự hai điếu để ngày hôm sau chuyển lại cho Mai Văn Hoàng và tôi, là hai người mà anh Văn cho rằng đã hiểu anh không phải là người hèn nhát. Những người khác như anh Lê Văn Sanh, Trần Danh San, Đoàn Phan Trí, Vũ Văn Ánh, Nguyễn Minh Hoàng, Châu Sáng Thế, Nguyễn Hữu Nghĩa, cụ Lê Sáng nhờ được lệnh chuyển trại của Bộ Nội Vụ cuối năm 1984 đến trại mới họ được ra khỏi kỷ luật nên thoát chết thảm vì đói và kiệt lực trong xà lim.

 

Đây là những người tù bất khuất, nếu không công khai chống đối thì cũng là người luôn luôn giữ tư cách đúng đắn, để lại trong lòng anh em sống chung những tình cảm tốt đẹp.

 

Ra khỏi kỷ luật, tôi ở trong một đội mà hầu hết những người đều là viên chức cao cấp từ hàng Tổng trưởng đến Tổng giám đốc, hoặc cấp bực từ Trung tá trở lên, tôi trở thành người nhỏ tuổi nhất và có chức vụ tầm thường. Nhưng ở đội này nhiều khi không được thoải mái bằng ở những đội toàn những anh em sĩ quan trẻ tuổi.

 

Nhớ lại những anh Ngô Khắc Tỉnh bị tên cán bộ Ninh tuổi chưa đáng con của anh mắng mỏ, anh không hề vi phạm một điều gì lớn, chỉ một sơ suất lao động nhỏ cũng là cái cớ. Đại tá Trần Thanh Bền, Trung tá Hồ Văn Nho và anh Hồ Văn Châm thường xuyên báo cáo. Anh Tỉnh là người luôn luôn giữ danh dự và tư cách của một con người từng nắm giữ nhiệm vụ quan trọng. Tôi cũng nhiều lần bị mắng chửi vì tình nguyện gánh nước tưới rau thay cho anh Ngô Khắc Tịnh, anh Tịnh bị bại hai chân. Tên quản giáo Ninh muốn tìm cớ chửi mắng anh nên giao cho anh canh tác một miếng đất nhỏ ở trong trại. Tôi giúp anh Tịnh săn sóc miếng đất mỗi khi đi làm về. Họ báo cáo anh Tịnh mua chuộc và điều khiển tôi.

 

Tên Ninh buộc tôi không được giúp anh Tịnh, tôi cứ lờ đi tiếp tục giúp anh Tịnh ngoài giờ làm, tôi không ăn gian giờ lao động của trại, vả lại giúp một người tàn tật thì không có nền luân lý và luật pháp nào cấm. Kết quả là anh Tịnh bị đổi đi đội khác, để rồi anh phải chống gậy đi lếch thếch, theo đội xuất trại rất khổ. Tôi không biết nhiều về anh Ngô Khắc Tỉnh và Ngô Khắc Tịnh, nhưng tôi biết hai anh xuất thân từ một gia đình có đạo đức tại tỉnh Phan Rang. Giáo dục gia đình là căn bản quan trọng để đào tạo tính tình và đạo đức, tác phong của con người. Giáo dục học đường có thể đào tạo con người giỏi, nhưng nếu thiếu đạo đức, ở trong hoàn cảnh khó, họ có thể dễ dàng trở thành con người tồi tệ. Nhà trường cũng có dạy đức dục, nhưng nhiều khi không có căn bản của gia đình, học sinh không hấp thụ được điều tốt thầy dạy. Có lần anh Nguyễn Tú, ký giả báo Chính Luận, chỉ phê bình qua loa về một bài thơ của anh Cao Văn Khanh ca tụng chế độ, sẵn ghét anh Tú không chịu viết báo tường; tên cán bộ Hùng, phụ trách giáo dục bắt anh viết một bài kiểm điểm rất cay đắng để đọc trước toàn trại trước khi nhốt anh Tú vào kỷ luật. Các anh Hồ Văn Châm, Trần Thanh Bền, Hồ Văn Nho đổi sự thoải mái trong chức đội phó, đứng thúc đẩy lao động và công tác riêng rẽ phục vụ cán bộ bằng mồ hôi và danh dự của người đồng cảnh.

 

Mẹ tôi chết vào tháng 5 năm 1984, mẹ định đi thăm tôi từ cuối năm 1982 mà không đi được. Tết năm 1983, vợ tôi đưa bé Đoan Trang lên thăm. Mẹ đã chuẩn bị đầy đủ, gọi vợ con tôi từ Sàigon về Đà Nẵng để cùng đi thăm, cuối cùng mẹ không đi được. Từ đó, bệnh mỗi ngày mỗi nặng và mẹ không bao giờ còn gặp tôi nữa. Được tin mẹ bịnh, mỗi lần gia đình lên thăm là mỗi lần tôi hồi hộp, sợ nhận tin xấu về mẹ. Lần đó, khi gọi tên thăm gặp, tôi thẫn thờ, linh tính báo cho tôi việc không hay nên tôi đã bồn chồn từ mấy ngày trước, quả thật khi ra gần đến nhà thăm, em trai tôi đứng trông nơi cửa, tôi đã nhìn thấy miếng vải tang chế nơi ngực của Khoa. Hai anh em ôm nhau khóc, em chỉ nói với tôi “trước khi mẹ chết, trối với em lên dặn anh cố giữ sức khỏe và đừng vi phạm kỷ luật để ở nhà có lên thì được thăm và mẹ trối với ba tôi là dù hoàn cảnh nào gia đình cũng phải thăm và nuôi tôi, mẹ nói từ nhỏ tôi vẫn ốm yếu, nếu không nuôi tôi, tôi sẽ chết trong tù”. Tôi không thể viết gì dài hơn để nói tình cảm mẹ đối với tôi và cái lỗi của tôi đối với mẹ, suốt đời chỉ làm khổ mẹ cha, chưa bao giờ có được một hành động để biểu lộ lòng hiếu thảo.

 

Bất ngờ đến với tôi và có lẽ đối với tất cả trại là danh sách tha về hôm 26 tháng 7 năm 1984 có tên tôi. Vỏn vẹn chỉ có 7 người, tên tôi cuối cùng. Đọc đến lần thứ hai tôi mới nghe vì tôi không bao giờ có hy vọng được tha nên không để ý. Đội xuất trại xong, chúng tôi mới được dẫn về trại chính làm thủ tục.

 

Để lại tất cả đồ đạc cho bạn bè, tôi đi tay không về trại. Hai chân đi đất đã lâu nên đường có gồ ghề lồi lõm cũng quen. Hàng dừa hai bên đường đi đã cao quá đầu người, trĩu nặng những buồng trái. Mau thật, mới ngày nào chúng tôi đào đất trồng dừa. Khi đào hố trồng những cây dừa con xuống, tôi nói đùa “khi nào dừa có trái thì mới về”, anh em giẫy nẩy. Thế mà dừa đã có trái mấy mùa rồi tôi mới ra khỏi trại. Còn nhiều anh em ở lại. Các bạn bị nhốt trong xà lim vẫn còn bị cùm, có người cùm đã ba năm rồi chưa được thả ra.

 

Những ruộng lúa xanh tươi rạp trong nắng sớm, những cơn gió nồm đùa ngọn mía lao xao gợn sóng chạy về hướng đông bắc, đụng phải vách núi cuộn vòng về hướng đông. Cứ mỗi cơn gió, một đợt sóng lá xôn xao đẹp mắt. Những ruộng mía này tưới biết bao nhiêu mồ hôi của tù, những ngày đứng dưới nắng gắt cuốc những ruộng mía mới đốt, tro than bay lấm lem luốc, nếu hôm nào cán bộ Hải đi quản chế đội thì không được tắm, buổi trưa buổi chiều, anh em kéo nhau về, mặt mày đen thui; bụi tro và mồ hôi nhễ nhại - lòng hậm hực. Làm mía có khổ, nhưng mùa thu hoạch cũng bù đắp; chỉ tiêu mỗi ngày 500 cây mía vừa chặt, vừa bó, dọn lá và vác ra địa điểm; chỉ tiêu có nặng nhưng làm mía có thể ăn được mía. Có chất ngọt vào đỡ mệt và bồi dưỡng. Khi thâu hoạch, đội phải cử ra hai người lựa và róc mía cho cán bộ quản giáo và quản chế ăn, còn phần họ mang về nhà. Cán bộ mải bận lo ăn thì tù cũng bớt bị kiểm soát, đi sâu vào trong ruộng mía, có cây lá che khuất, tù cũng có thể ăn một vài cây mà không bị phát giác.

 

Lưng chừng đồi là những ruộng khoai mì; khoai mì bạt ngàn, nhìn đâu cũng thấy. Những năm đầu, chúng tôi còn trồng khoai dưới thung lũng. Bây giờ khoai đã trồng cả lưng chừng núi, mỗi năm phá đất trồng thêm. Trồng cây khoai mì vùng đất xấu phải đào thành hố lập phân, mỗi bề 40cm. Xong bỏ các loại lá cây rừng làm phân xanh; cây khoai mì cứ thế mà lớn. Qua một năm củ đầy cả hố. Nhổ cây khoai mì, đất cứng thật vất vả. Hai tay cầm thân cây, chân đứng dạng ra lấy sức kéo lên. Nhiều khi cảm thấy như xương sống giãn ra mà cây không nhúc nhích. Làm khoai, chế biến khoai trắng sạch; trại đem đổi ở hợp tác xã huyện Đồng Xuân lấy khoai khô của dân đen mục rẻ hơn cho tù ăn. Làm như vậy cho trại có lợi. Chế độ cái gì cũng tính toán phân chia thật kỹ; chỉ có không khí là Đảng không phân chia quy hoạch vào sự quản lý của nhà nước được, nên dân và tù chỉ còn hít thở được tự do mà thôi.

 

Tấn nói với tôi:

 

- Ra đến nơi lấy giấy xong, ông và tôi ra về ngay, không có xe mình đi bộ, phải đi ra khỏi trại ngay.

 

Tôi nói với Tấn:

 

- Đi ngay chớ chờ cái gì, sao ông nghĩ vậy?

 

Tấn nói:

 

- Tôi lo cho ông.

 

Ra tới văn phòng trại, thấy tên cán bộ quản giáo Ninh và tên cán bộ giáo dục Hùng ra theo tới nơi, tôi hơi ngại. Nhớ hôm sinh hoạt đội, các anh Hồ Văn Châm và Trần Thanh Bền khiếu nại rằng họ cải tạo tốt mà không được về trong khi những người bị kỷ luật như anh Phạm Chí Thành, Tăng Ngọc Hiếu, Phạm Đức Nhì được tha. Sự phát biểu hơi kỳ cục, kỳ cục như lần anh Châm nói rằng anh không còn trách nhiệm vì đã rời chức Tổng Trưởng trước khi miền Nam giải phóng và anh Bền ví von anh đã rời canh bạc trước 30-4-1975. Các anh chỉ nghĩ một chiều khi làm một sự so sánh đó. Những người được về là Trung úy mà họ đã ở đến năm 1983. Còn các anh là những người lãnh đạo miền Nam Việt Nam. Cải tạo tuy không có án nhưng mỗi người cải tạo đều có những mức án ngầm căn cứ vào chức vụ, quá trình hoạt động, gia thế v.v... riêng của mỗi người, còn việc cải tạo ở trại nó chỉ ảnh hưởng cho sự tăng án hơn là giảm án; vì trong chế độ quá máy móc, thư lại, và sợ trách nhiệm như chế độ Cộng sản thì đề nghị xấu thì dễ mà đề nghị tốt thì khó. Chế độ mà người buộc là cấp dưới mà người cởi buộc là cấp thật cao ở trên. Đó là hậu quả không thể tránh được trong tổ chức độc tài. Có người nghi ngờ, cho là chế độ cộng sản tốt chỉ có người thừa hành làm sai. Lý luận như vậy chứng tỏ họ không có kinh nghiệm sống trong chế độ cộng sản, chế độ cộng sản nó chỉ phát triển được tính xấu, tính ác cho dù trong đó con người còn nhân tính, họ cũng phải giấu đi vì nếu họ sống khác họ sẽ bị guồng máy tức tổ chức của họ nghiền nát. Chế độ cộng sản cần phải loại trừ hẳn từ lý thuyết đến tổ chức, nó không phải vì con người xấu - có nhiều người không xấu hẳn nhưng sống trong chế độ đó họ phải ác, phải xấu - chỉ khi nào chủ thuyết và tổ chức cộng sản bị dẹp bỏ thì con người cộng sản không còn nguy hiểm mà một số đông người cởi bỏ được áp lực và sự trói buộc họ sẽ phát triển trở lại nhân tính. Vậy chống Cộng sản cốt yếu là chống chủ nghĩa, chống tổ chức hơn là chống từng con người cộng sản. Khi còn chủ nghĩa, còn tổ chức thì bất cứ một người cộng sản nào cũng nguy hiểm - khi chủ nghĩa đổ, tổ chức tan, con người cộng sản không còn nguy hiểm.

 

Phải viết lý lịch và bản cam kết rằng lúc ra về đến địa phương phải tuân hành luật pháp và khai báo những phần tử xấu đến móc nối trong các tổ chức phản động. Tôi viết xong thì tên cán bộ Lâm an ninh vào gọi tôi ra, vào phòng an ninh gặp Hùng và Ninh ở đó. Lâm bảo tôi chuẩn bị trở về trại, trường hợp của tôi hắn còn đề nghị hỏi ý kiến Bộ Nội Vụ trở lại vì tôi là thành phần xấu. Cán bộ quản giáo Ninh nói nếu để thành phần xấu như tôi được về thì những người cải tạo tốt sẽ nản chí. Một lần nữa trong đời, đầu tôi nhói đau lên và chân tôi muốn nhũn xuống như khi nghe tin thành phố Đà Nẵng thân yêu lọt vào tay cộng sản và lần nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Không hiểu sao lần bị bắt thì tôi bình tĩnh được, mà lần quay lại trại tôi lại mềm yếu đến nhũn ra, quả thật tôi đã mệt mỏi, hơn 7 năm tù tôi đã mỏi mòn, sự vui mừng khi được gọi tên ra về giờ trước, bây giờ thất vọng như quả bóng căng phồng lên rồi bất ngờ bị nổ tan ra.

 

Trước khi chia tay để Tấn ra về, bạn còn nhắn tôi: “Cố gắng lên đừng xỉu nhé.” Tôi buồn thật, nhưng chưa đến nỗi phải xỉu như bạn lo lắng. Mệt mỏi theo tên cán bộ Hùng trở về phân trại, tôi lầm lũi bước. Con đường dốc lởm chởm đá đâm vào chân đau điếng giờ đây tôi thấy rất rõ, trái với lần ra đi tôi quá vui nên quên đi. Tôi biết là tôi sẽ bị ở lại lâu. Họ muốn phản đề nghị để Bộ Nội Vụ bỏ lịnh tha của tôi, thì họ phải làm tờ trình rất xấu về tôi. Với một tờ trình xấu thì ủy ban xét tha nào dám cho tôi về lần thứ hai nếu không có sự thay đổi quan trọng. Tôi kể như ở tù lại lần thứ hai - chiều hôm đó trở ra bãi lao động.

 

Sự tai hại tiếp theo cho nhiều người là sau khi đề nghị bỏ lịnh tha của tôi có kết quả - trại Xuân Phước tiếp tục lệ đó để giữ lại nhiều người mãn án. Linh mục Nguyễn Tiến Khẩu mãn án 10 năm tù chuyển qua tập trung cải tạo, anh Châu mãn án 10 năm tù chuyển qua tập trung cải tạo, trung úy phi công Nguyễn Hương tập trung, trốn trại bị án 10 năm tù, mãn án 10 năm tù, bị chuyển án tập trung vì tình nghi trốn trại lần thứ hai. Chắc là các anh Hồ Văn Châm, Trần Thanh Bền không hối hận về sự khiếu nại ngu xuẩn của họ.

 

Giữa năm 1984, có một chuyến tù đặc biệt được chuyển đến trại, đặc biệt vì họ không thuộc diện tù nào dù vẫn được gọi là tù chính trị tội danh là “tay sai chế độ cũ đàn áp cách mạng”, đó là những cựu quân phạm của Việt Nam Cộng Hòa bị giam ở Côn Đảo trước ngày 30-4-1975.

 

Ngày 2-5-1975, tù nhân phiến cộng ở Côn Đảo phá ngục tiếp thu đảo, bầu chỉ huy, và nhốt tất cả tù và nhân viên binh sĩ còn lại vào nhà giam. Các viên chức và sĩ quan địa phương phục vụ tại đảo họ bỏ vào bao bố thả xuống mũi Cá Mập. Trong đó có Tôn Thất Sỹ bạn tôi, đặc phái viên hành chánh Côn Sơn. Hơn 10 ngàn tù được dần dần cho về, còn khoảng hơn 1,500 bị cho là “có nợ máu với nhân dân” được đưa về trại tù Kinh 5 ở Chương Thiện năm 1979. Số này lần lượt thả ra và 112 người cuối cùng không thể cho về được họ chuyển lên trại Xuân Phước.

 

Trong số 112 người này, Nguyễn Văn Nhung tức Tư Nhung ở tù lúc 18 tuổi vào năm 1952 khi đến trại năm 1984 đã ở tù 32 năm qua ba chế độ từ thời Pháp, tù Việt Nam Cộng Hòa và tù Việt Cộng. Khởi đầu, Nhung can tội đánh cướp hãng Caric giết chết một người Pháp bị án tử hình, không bị hành quyết đưa giam ở Côn Đảo, giảm dần án lẽ ra đến tháng 7 năm 1975 là mãn án, nhưng không ngờ đến 30-4-1975, thời cuộc biến đổi - Nhung ở tù tiếp vì tội làm trật tự ở trại Côn Sơn, đàn áp tù Cộng Sản mỗi khi họ đấu tranh.

 

Tất cả những người còn lại đều là những binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa bị thường tội - có người án tử hình giam từ năm 1960. Người bị giam mới nhất là Trương Văn Giàu năm 1970 đến năm 1984 đã ở tổng cộng 14 năm tù. Những người tù này trình độ họ thấp không có một ý thức chính trị; chỉ là những người khi thừa hành nhiệm vụ họ không có tự do lựa chọn. Vậy mà họ bị chế độ trả thù dã man tàn nhẫn. Tàn nhẫn vì họ là nạn nhân của một nhu cầu. Những người Cộng sản bị tù ở Côn Sơn cần khoa trương những khổ nhọc khi họ ở tù tại Côn Sơn, nên cần có những chứng tích sống là những người đã đàn áp họ để chứng tỏ địa vị xứng đáng của họ trong Đảng. Thực ra ở nhà tù không bao giờ là sung sướng, nhưng tù dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa họ được ăn no, được học hành, không phải lao động cực khổ, khi họ ăn cá khô thì họ đã gọi là tàn ác và đấu tranh. Người cộng sản đê hèn ở chỗ khi cần thiết họ có thể đi lạy lục ngoại bang như Phạm Văn Đồng phải đi qua Pháp lạy lục để xin viện trợ, nhưng họ không buông tha cho những người lính trọng tội phải chấp hành lịnh của những giám thị ở nhà tù. Tên Đại tá Bình, cựu tù Côn Đảo, một hôm đến thuyết trình khẳng định là những người tù Côn Đảo sẽ không được thả ra và y còn hăm he là những người lỡ cho về sẽ bị bắt lại. Tù Côn Sơn, những người không may nạn nhân âm thầm của lịch sử, cùng nằm trong một nhà tù nhưng tôi biết tù cải tạo đang được thế giới tự do can thiệp. Còn những bạn tù Côn Sơn không ai biết đến họ, đến năm 1988 số này vẫn chưa ai được giải quyết - Tư Nhung ở tù đã 36 năm, người ít nhất Trương Văn Giàu cũng đã 18 năm. Họ đã ở tù liên tiếp từ chế độ này sang chế độ khác. Một người bị nhốt suốt cả đời trong tù là một hình phạt khủng khiếp. Thời gian trước 1975, họ bị mất tự do nhưng không đói, về ở Kinh 5 Chương Thiện có thể tìm được thức ăn cải thiện trong cánh đồng mầu mỡ, nhưng ra đến Xuân Phước lần lượt họ bị chết dần, có người đã không còn thân nhân. Nguyễn Hồng Anh là người đầu tiên trong nhóm này bị chết, hôm đó gặp ngày nhiều người tù được thăm, Anh xin được 4 lon gạo, anh nấu ăn hết một lần rồi đi vào chỗ nằm, đến giờ sinh hoạt mới biết Anh đã chết rồi, chết nhanh chóng vì được ăn một bữa quá no. Xác chết được mang ra cửa, phòng tiếp tục sinh hoạt, bạn bè mừng cho anh vì khi còn sống bị đói triền miên chỉ có lúc chết là được no. Cuối năm 1984, hơn 100 người được chuyển trại về Xuân Lộc, phần lớn là những người mới đến trại năm 1982 và 1983. Anh em còn ở lại hy vọng chờ đợt thả nhân dịp Tết đầu năm 1985; ở lâu tù nhiều kinh nghiệm, cứ có một đợt chuyển trại đông đủ, số còn lại sẽ có người về, vả lại đã qua 9 năm rồi, về trong dịp Tết là được cứu xét trong lễ 2 tháng 9. Nếu ai không về được thì bắt đầu yên trí cải tạo mốc thứ 4 chờ dịp thả lúc đủ 12 năm.

Trại Xuân Phước bây giờ chỉ chuyên nhốt những người tù chính trị có án nặng ở khu nhà ngói tường xây ở phân trại A đang càng ngày càng được mở rộng. Thường phạm án nặng về Gia Trung.

 

Sau đợt thả tù cải tạo vào tháng 1 năm 1985, số tù không án trong trại chỉ còn khoảng 200 ở lại cùng với một số tù thường phạm để khai thác khu canh tác phân trại B. Đã không được về, không được chuyển trại về Nam, những người ở lại xem như không được may mắn. Mức độ lao động mỗi ngày mỗi tăng, số tù giảm mà diện tích canh tác vẫn mở rộng. Chỉ tiêu chế biến khoai mì bình quân 70kg mỗi người năm 1984 đến năm 1986 phải lên đến 170kg. Chỉ tiêu nhổ gánh khoai mì về trại trước 400kg mỗi ngày nay đã lên 600kg, đào hốc trồng khoai trước 150 hốc một ngày lên 240 hốc. Tất cả chỉ tiêu đều phải làm xong, vì có làm xong mới được tắm mỗi ngày. Đất núi sau khi trồng một năm cây khoai mì bám đất thật chắc. Ôm cây khoai mì nhổ lên nhiều khi muốn thắt cả ruột. Nhổ xong xếp gánh cho đủ 60kg mỗi gánh, còn thì giờ phải dọn cho sạch cây lá. Con đường từ đồi thoai thoải về đến trại gần 3km phải đi qua hai cái dốc. Những người khỏe mạnh nhổ nhanh, gánh trước, còn thì giờ lên dóc ngồi nghỉ. Người gầy yếu làm chậm đi sau, mới leo tới đỉnh dốc thì cán bộ đã hô đội đi. Từ chuyến di chuyển thứ ba thứ tư trở đi, cặp chân không theo sự điều khiển của cái đầu, lúc xuống dốc chỉ cố giữ kềm làm sao cho khỏi vấp ngã, còn thì cứ để cho gánh khoai trên vai lôi thân người chạy xuống. Riết rồi thấy cây khoai mì là sợ.Giờ đây tôi cũng không hiểu sao lúc đó tôi gánh được mỗi ngày 10 gánh khoai mì về trại, mỗi gánh nặng 60kg, trong khi tôi chỉ cân nặng 38kg.

 

Thấm thoát đã qua 10 năm, sau lần hụt về năm 1984, tôi không còn hy vọng được tha. Không trông mong được ra khỏi trại một cách bình thường - nhưng tôi vẫn hy vọng có một biến chuyển quan trọng để được ra về. Tuy tài liệu báo chí không đầy đủ, nhưng tôi vẫn theo dõi được biến chuyển thay đổi ở Liên Sô kể từ 1985 khi Gorbachev lên làm Tổng bí thư với chương trình Glasnost và Perestroika. Ở Việt Nam, Lê Duẩn chết, Phạm Văn Đồng đã giới thiệu để Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam bầu Trường Chinh làm Tổng Bí thư thay Lê Duẩn. Nhưng việc Nguyễn Văn Linh đặc biệt trở lại Chính Trị Bộ và giữ chức Thường trực Ban Bí Thư - đây là một chức vụ mới trong Ban Bí Thư. Con đường lên Tổng Bí thư của Linh đã rộng mở. Đại hội kỳ 5, Linh ra khỏi Bộ Chính trị vì y có chủ trương cởi mở. Trở lại thành ủy Sài Gòn, y thực hiện sự cải cách, Sài Gòn đã có phần dễ thở hơn. Linh đã đi đúng theo con đường Gorbachev đang đi ở Liên Sô. Thân phận nước nhược tiểu, chế độ nào cũng vậy. Chế độ Cộng sản nói độc lập nhưng thực chất bị lệ thuộc nhiều hơn hết bởi vì mỗi khi nhận là thành phần đệ tam quốc tế tức phải nhận sự lãnh đạo của Liên Sô.

 

Gia đình vẫn gửi báo Tuổi Trẻ, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật, báo Thanh Niên lên cho tôi xem. Muốn có đủ các số báo đó, phải kèm theo báo thể thao và báo công an để khi xét, bọn cán bộ “mượn” báo thể thao và báo công an thôi. Ở núi rừng nên cách trở giao thông, ngay cán bộ cũng không đủ báo đọc. Những anh em sĩ quan trẻ còn nhiệt tâm đã về gần hết. Số tù cải tạo còn lại quá ít, chỉ tiêu lao động quá cao, sức khỏe gần như đã suy kiệt; ai nấy thu người lại chịu đựng, không còn những sinh hoạt ồn ào vui vẻ như trước. Càng khổ sở thì càng mâu thuẫn nhau, đụng chạm nhỏ cũng biến thành cãi cọ xô xát lớn. Thật cô đơn. Ngày về xa. Hy vọng chuyển trại càng không thấy. Đã hơn 7 năm ở trại Kiên Giam Xuân Phước, bao nhiêu người cùng đến trại từ 1979, đã về hoặc chuyển trại gần hết, bao nhiêu người đã chết rồi. Số phận vẫn xui xẻo, khi tôi nằm trong số 10 người ở lại lâu nhất trại này. Chiều ngày 13 tháng 10 năm 1986, đang làm ngoài bãi, anh Trần Danh San và tôi được an ninh gọi về để chuyển trại. Anh em cũng nghĩ như chúng tôi, một khi tôi và San cùng đi thì sự không may đến với chúng tôi nhiều hơn vì hai chúng tôi được ghi là thành phần xấu. San mới bị chuyển từ trại Long Khánh lên trở lại. Anh em nhìn chúng tôi ái ngại. Nhưng tôi vẫn thích một chuyến thay đổi ra sao thì ra “phận bèo đâu quản nước trôi, lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.”

 

Đến văn phòng phân trại, phân trại trưởng Huy đứng chờ đưa hai chúng tôi lên xe về tổng trại, y chúc chúng tôi đi đường may mắn. Tôi bỗng bàng hoàng, không khi nào trại trưởng đưa tù lên xe, trước đây chỉ có một lần duy nhất khi Nay Luett được xe du lịch đến đón tại trại để ra Nha Trang đi máy bay về Hà Nội - vài tháng sau được tin Nay Luett chết tại Phú Bổn. Đến bộ chỉ huy Tổng trại, trại trưởng Bàng, cán bộ an ninh Lâm, cán bộ giáo dục đều có mặt ngay tại sân. Họ làm việc nhanh tại đó, soát xét hành trang, trả tiền lưu ký do gia đình chúng tôi gửi khi đến thăm nuôi, bàn giao hai chúng tôi cho toán 4 người cán bộ từ Sở Công An Thành Phố ra. San và tôi được còng tay vào hai bên chiếc xe Jeep. Chúng tôi rời trại Xuân Phước khoảng 4 giờ chiều.

 





Chương Mười Sáu
 

Phải trải qua một giai đoạn khó khăn hơn nữa trong đời tù nhưng tôi thật dửng dưng - không còn lo lắng như những lần chuyển trại khác, cũng không còn sợ gì nữa, đã hơn 11 năm trong tù, bẩy năm hai tháng ở trại Kiên Giam Xuân Phước. Trong đời tôi chưa bao giờ ở một nơi lâu như vậy; di chuyển đến một nơi khác cũng là một sự thay đổi cần thiết. Tôi cố nhìn tất cả cảnh vật hai bên đường đi qua, lần đi đến trại năm 1979 ngồi trong xe bít bùng không thấy gì. Con đường này trước đây tôi đã từng đi lại lúc làm Phó Quận trưởng Đồng Xuân này. Dân chúng làm nhà ở san sát hai bên lộ, xen lẫn đám nhà tranh lụp xụp là những ngôi nhà ngói kiểu bánh ích hai mái ngói và hai chái gần bằng nhau, đó là nhà của những cán bộ Cộng sản địa phương, được đãi ngộ ưu tiên mua vật liệu để làm nhà ngói; ngói và gạch mua của trại cải tạo do chúng tôi làm ra. Cộng sản đãi ngộ đảng viên và cán bộ của họ tận tình, dành mọi ưu tiên nên mức sống cán bộ và đảng viên cách biệt với nếp sống của dân chúng rất xa. Họ chủ trương làm cách mạng để xóa bỏ giai cấp, nhưng thật sự là tiêu diệt thành phần đối lập và tạo nên một giai cấp đảng viên, giai cấp của người cầm quyền, bất công hơn bất cứ xã hội nào khác trong lịch sử từ trước đến nay, kể cả chế độ phong kiến.

 

Trước kia con đường từ Chí Thạnh lên quận lỵ La Hai và con đường từ quận lỵ La Hai lên đến trại Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Tre thường mất an ninh, mỗi lần di chuyển vào trong các ấp chiến lược mới cảm thấy được an toàn.

 

 

Cảnh vật đã thay đổi nhiều lắm, không còn vết tích gì của thời chinh chiến. Nắng buổi chiều chiếu nghiêng nghiêng trên những sườn đồi xã Xuân Quang đã phủ màu xanh, nổi bật lên những đoàn người đi làm việc đồng áng trở về. Khuôn mặt người nông dân Việt Nam lúc nào cũng khắc khổ, chiến tranh đã chấm dứt hơn 12 năm rồi, dân chúng chưa có niềm vui, mọi người không dấu được nét ưu tư lo lắng. Chỉ có những đứa bé chăn trâu, bò, chưa biết nghĩ là còn vui được. Có đứa đứng hẳn lên lưng con trâu giang hai cánh tay khẳng khiu ra để làm thế thăng bằng, thân hình trần trụi hiện rõ những chiếc xương sườn và xương vai trên nền da mốc thếch, những đứa khác thấp lè tè dưới cái mông của con bò chúng chăn. Thỉnh thoảng chuyền cho nhau điếu thuốc quấn nguyên lá to bằng ngón tay cái. Những đứa nhỏ này không đi học, mỗi ngày đi giữ trâu bò cho hợp tác xã để nhận 5 điểm công. Lúc nhỏ tôi cũng ở nhà quê, nhà tôi cũng không khá giả lắm nhưng tôi cũng không phải cực khổ lăn lộn với cuộc sống lúc tuổi trẻ thơ, làng quê trong thời chiến không có trường học, suốt ngày tôi chỉ câu cá, bắt chim, đá dế. Sau tôi hơn 30 năm, đất nước thanh bình, đám trẻ này vẫn không được đến trường học, tôi cảm thấy xót xa. Tôi nhớ trong một cuốn sách, Lenine bàn về tuổi thơ, ông ta nói là cách mạng vô sản sẽ làm cho những đứa trẻ thành những Hoàng tử và Công chúa. Tôi cũng nhớ là ông Hồ Chí Minh cũng cóp lại ý đó và viết trong bút ký của ông; nhưng kết quả hoàng tử và công chúa đâu không thấy, chỉ thấy những em bé xơ xác, thân thể gầy guộc phải bỏ học đi làm kiếm ăn ở tuổi lên mười. Ở Sài Gòn có cung thiếu nhi ở phủ Phó Tổng Thống cũ. Cung thiếu nhi để cho các hoàng tử và công chúa đến vui chơi, nhưng chắc những hoàng tử và công chúa đó phải là con của những đảng viên cao cấp, Ủy viên Trung Ương Đảng trở lên.

 

Đời sống nông dân quanh trại tù Xuân Phước cũng bày ra bao nhiêu cảnh thê thảm.

 

Những nông dân bám trụ trong chiến tranh là những người nuôi sống “kháng chiến quân”, những du kích quân tay súng tay cầy chống lại quân đội Cộng Hòa, họ là những người chịu đựng gian khổ nhất, bom đạn trút lên đầu họ ngày đêm, không có gia đình nào không có người chết trong cuộc chiến. Có những gia đình con cái trẻ trung chết hết chỉ còn người mẹ già. Mẹ chịu đựng gian khổ trong chiến tranh, hòa bình trở lại mẹ vui không được bao nhiêu ngày, rồi mẹ vẫn tiếp tục sống quãng đời còn lại trong tăm tối

 

Tù bị cấm tiếp xúc với dân chúng chung quanh vùng, dù dân vùng quanh trại là dân được chế độ tín nhiệm, dân vùng mật khu Kỳ Lộ đã ở trong vòng Việt Cộng kiểm soát từ năm 1965 không có hoạt động của chính quyền Cộng Hòa. Họa hoằn một vài lần gặp các người đi làm rừng băng qua trại, tù mới trao đổi một vài câu chuyện ngắn ngủi. Một lần, một mẹ già nói với chúng tôi: “Gia đình mẹ có ba đứa con bị lính Cộng Hòa bắn chết, nhà của mẹ bị đại bác bắn sập, nhưng mẹ không giận các con, chỉ tại chiến tranh, mẹ tưởng hòa bình rồi mọi người bớt khổ, mẹ không ngờ hòa bình rồi các con lại đi cải tạo, mẹ thì vẫn khổ, ai sướng đâu thì mẹ không có thấy, trước kia mẹ đã đau đớn khi con mẹ chết, mẹ hiểu cha mẹ các con hiện tại đau khổ như thế nào khi các con ở tù mãi không có ngày về.”

 

Tình cảm con người Việt Nam chan hòa, mọi người biết thông cảm tha thứ cho nhau. Người Việt Nam không có hận thù sâu đậm. Chỉ có những người vong bản đem lý thuyết hận thù ngoại lai áp đặt, gán ghép truyền bá trong dân chúng. Lòng hận thù đó không tồn tại lâu dài trong con người Việt Nam.

 

Những người mẹ già cô độc mỗi ngày phải cầm dao vào rừng đẵn cây, chặt củi kiếm ăn. Những đứa trẻ đi thọc ổ kiến vàng lấy trứng nấu canh cho bữa ăn sắn, khoai của gia đình. Những thiếu nữ đi cắt rau dại đổi một lần giao hợp với tù hình sự trong nhà lô vào buổi trưa để lấy một bánh xà phòng 72% dầu, một bộ quần áo tù đổi hai lần giao hợp và 10 đồng bù thêm. Tôi đã thấy nhiều cảnh cơ cực của người dân quê Việt Nam thời chinh chiến, bom đạn dội trên đầu hàng ngày, chết chóc như cơm bữa, nhưng họ không bị cái đói đè nặng ám ảnh như hiện tại. Vừa công tác lao động tập thể vừa tranh thủ giờ làm việc riêng mà không đủ sống. Những nhà hai bên đường đi còn có những đứa trẻ bụng ỏng đít teo, mũi lòng thòng, mắt toét không đủ áo quần mặc giống như thời kỳ trước năm 1950 khi các làng mới hồi cư. Xã hội quay trở lại 40 năm, ai chịu trách nhiệm, nếu không phải là ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam? Bao nhiêu chục triệu người chết, bao nhiêu triệu gia đình tan nát để đổi lấy một đất nước thê thảm như vậy sao?

 

Ngã ba Chí Thạnh đã trở thành khu thị trấn của huyện Tuy An, trời nhá nhem tối, xe ngừng lại để ăn cơm. Lần đầu tiên sau hơn 11 năm tù mới được uống một ly trà đá. Ngon tuyệt vời. Nước lạnh đến đâu thấm mát cả cơ thể đến đó. Tỉnh Phú Yên vẫn dư thừa lúa gạo bán ra các tỉnh khác mà không cần nhập lúa gạo miền Nam. Khởi đầu sau khi chiếm miền Nam, Việt Cộng thi hành chế độ kiểm soát lương thực, thu mua lúa và thuế nông nghiệp. Thuế đánh trên 70% trị giá sản xuất, nhà nước chỉ cho phép mỗi nhân khẩu giữ lại 15 kg thóc mỗi tháng. Còn bao nhiêu phải bán với giá quy định, mười lăm ki lô thóc mỗi đầu người mỗi tháng, qui ra chưa được 10 kg gạo nên nông dân đói và ăn độn quanh năm. Sau khi tất cả phải vào hợp tác thì nhà nước qui định chế độ bình công chấm điểm, đời sống nông dân càng tồi tệ hơn, nông dân quần quật làm suốt ngày công điểm cũng không được qui định cao bằng cán bộ quản lý, mỗi hợp tác xã nông nghiệp phải gánh một số cán bộ đảng viên không sản xuất. Sản phẩm sau khi thu hoạch trừ các khoản phí tổn, thuế khóa, đóng góp nghĩa vụ, những khoản giao tế, lễ lạt đón tiếp phái đoàn. Cuối cùng người nông dân không còn được chia bao nhiêu trên sản phẩm chính họ làm ra.

Sau đại hội kỳ 5, chế độ khoán sản phẩm được áp dụng, phần ruộng cấy giao về cho mỗi gia đình dựa trên nhân số lao động. Trên lý thuyết người nông dân đáng lẽ khá hơn, nhưng thực tế họ vẫn đói, nông phẩm thu hoạch cũng vẫn chạy vào túi của cán bộ bằng nhiều cách. Ngoài việc phải trả tiền thuế, tiền thuê đất, nông dân phải trả tiền thuốc trừ sâu, phân bón, tiền công dẫn nước tưới ruộng. Người nông dân phải trả tiền mua các loại thuốc không đúng giá qui định. Được mua 10 bao phân giá 20 ngàn một bao, lãnh phiếu cung cấp đến kho nhận chỉ nhận 8 bao với giá 22 ngàn một bao, nếu không chịu thì có khi phải chờ đến mùa sau. Thuốc sát trùng chưa được cấp phát, vì thủ kho cũng có quyền vô giới hạn, mua thuốc sát trùng cũng phải hối lộ mới có, nếu không phải chờ đợi. Chưa kể phân bón và thuốc sát trùng đã quá hạn không còn phẩm chất, vì hệ thống phân phối quan liêu dầy đặc, luôn luôn trễ nải, hệ thống kho vựa yếu kém, không bảo vệ được sản phẩm tốt, nhưng trời mưa đất chịu, các cơ quan làm theo giấy tờ, các cơ quan của nhà nước độc quyền, có đảng lãnh đạo, dân chúng kêu ca vào đâu được.

 

Nếu không hiểu tường tận đời sống của nông dân và những gì họ phải chịu đựng, thì không thể nào một người ở ngoài có thể hiểu được tại sao nông dân Việt Nam đói, khi họ đi dọc theo quốc lộ số 1 vào đến Sài Gòn, nơi đâu cũng thấy những đoàn nông dân chăm lo cầy sâu quốc bẩm, nơi đâu cũng thấy hai bên đường cây xanh bóng mát và những ruộng lúa xanh đến tận chân đồi núi phía xa. Xe lên đỉnh đồi Cả khoảng hơn 8 giờ tối, trăng lung linh phủ lên vạn vật một mầu tím nhạt, lưng núi đá Vọng Phu mờ ảo hiện sừng sững trên nền trời trong. Bầu trời thật cao và xanh vắt, tinh khiết, thỉnh thoảng có một vài đám mây mỏng như tơ trôi chầm chậm thản nhiên, mặt trăng cao và nhỏ lại, ánh sáng làm mờ những hạt sao lưa thưa. Biển phẳng lặng trong xanh biên biếc in rõ những vùng có đá ngầm đen thẫm. Tôi rùng mình vì lạnh, cái lạnh se se thấm người, trăng càng sáng càng lạnh. Hơn 11 năm trong nhà giam, đêm nay mới được nhìn thấy một đêm trăng sáng bao la trọn vẹn. Trong tù nằm cạnh cửa sổ mới được nhìn thấy một mảnh trời đêm qua lưới cửa đan bằng dây kẽm gai dây thành ô, cạnh chưa quá 5 phân. Cứ mỗi lần trăng sáng là tôi rạo rực muốn đi. Thuở nhỏ cứ mỗi đêm trăng, sau giờ học tối, chúng tôi vài đứa bạn rủ nhau đi lang thang hết những con đường vắng trong thành phố ra đến bãi biển Thanh Bình Đà Nẵng ngồi ngắm cảnh trăng sáng và mầu nước xanh trắng loang loáng. Lớn lên một tý, thấy ngọn núi Tiên Sa và đèo Hải Vân chắn ngang tầm nhìn của mình, chúng tôi rủ nhau đạp xe qua bãi biển Mỹ Khê để nhìn hết cái bao la huyền hoặc của biển cả những đêm trăng sáng, mơ ước lớn lên sống đời lãng mạn của một thuyền trưởng của một tầu viễn dương. Thuở đó, mỗi đứa đều ôm ấp trong lòng hình ảnh một cô bạn học cùng trường, ngồi nhắc về người con gái mà mỗi đứa thầm yêu, đứa nào cũng muốn bạn mình nói về người con gái mình thương mến, cứ thế mỗi đứa chúng tôi nuôi một tình yêu đơn phương và làm thơ, không bao giờ tìm hiểu là cô bạn có yêu mình không, và cũng không tìm cách thổ lộ tình yêu. Lớn lên mỗi đứa mỗi hoàn cảnh rồi lập gia đình với những người con gái khác, nhưng mỗi lần gặp lại nhau là một lần nhắc lại với nhau về những người con gái thời bé và nhiều khi thấy tức vì không có một đứa nào tìm cách tiến xa hơn trong tình yêu đầu đời. Mới đó mà đã gần 30 năm, từ khi rời Đà Nẵng, xa bạn bè, lần ra đi xa nhà đầu tiên, tưởng về sẽ gặp lại tất cả, nhưng cuộc đời cứ trôi theo dòng, chúng tôi cứ xa mãi biền biệt, mà cho dù có dịp về thì cũng không bao giờ gặp đủ bạn bè của thời trẻ thơ ước mơ. Tôi bỗng nhớ bạn, Giao, Dũng đã chết, Thu, Phụng, Sử, Côn đã đi xa, đứa du học, đứa chạy di tản, có đứa nào phải chết trong tù không? Tôi nhớ Thu Hà, người con gái thuở bé thơ đó, nhớ thật tha thiết. Những buổi đi học về cùng đường, những buổi chào cờ đứng trong hàng nhìn nhau không nói. Đi xa rồi không có dịp gặp lại. Mỗi lần nhớ thấy lòng rưng rưng. Nàng đã theo gia đình di tản ra nước ngoài. May mắn cho nàng thoát được cảnh làm vợ người đi cải tạo. Bất giác quên thực tại là một người tù bị còng tay vào thành xe đang di chuyển, tôi nói:

 

- Trăng đẹp quá, nên ngừng lại một lát để nhìn cảnh đẹp, mấy khi được qua đèo Cả vào một đêm trăng như thế này.

 

Tên cán bộ hướng dẫn nói như châm chọc tôi:

 

- Anh có tâm hồn thi sĩ quá, chắc anh làm thơ nhiều lắm.

 

Tôi rất thật thà đáp:

 

- Tôi yêu thơ, tôi thuộc nhiều thơ kể cả thơ chữ Hán và thơ Việt Nam, lúc nhỏ tôi có làm thơ, nhưng thơ của tôi dở hạng bét nên tôi không tiếp tục.

 

Hắn tiếp theo như không nghe lời tôi nói:

 

- Tôi nghĩ là anh còn làm nhiều thơ, vào trại anh còn làm thơ mà?

 

Tôi vẫn thành thật nói:

 

- Đó là điều tôi rất tiếc, sống trong cảnh tù đầy như tôi mà không làm được thơ là một sự uổng phí lớn, giá như làm được một vài bài thơ hay thì cũng đủ trả giá cho một đời người.

 

Hắn tiếp tục theo ý hắn:

 

- Anh còn làm báo nữa phải không?

 

Tôi đáp:

 

- Những bộ môn về văn tôi đều thích nhưng không làm được gì, lúc nhỏ học môn gì cũng khá trừ ra Văn là kém.

 

Tên cán bộ ngồi cạnh nói theo:

 

- Sợ anh chưa thành khẩn trong lời nói.

 

Tôi thấy từ ngữ thành khẩn quá vô duyên trong lúc này, nó kéo tôi trở lại thực tại tôi là một người tù đang bị xích một tay vào thành chiếc xe jeep đang di chuyển với 4 tên công an, trong đó hai tên cầm hai khẩu AK sắt thép đen sì. Tôi tiếc đã đối thoại với những tên Cộng sản để làm mất đi cái cảm giác êm đềm như được hòa mình với cảnh thiên nhiên của một đêm trăng sáng tuyệt vời. Không tranh luận vô ích, tôi ngước nhìn trời cao và biển xa. Trăng vẫn sáng, trên bầu trời trong xanh và biển vẫn lặng, loang loáng ánh sáng trên những lượn sóng bạc đầu, in rõ đậm nhũng hòn đảo ngoài bờ biển tỉnh Khánh Hòa. Tôi nghĩ cuộc đối thoại vừa qua thật vô ích, những lời nói làm hoen ố cái đẹp, như một bức danh họa bị một tên vô lại ném một cục bùn vào.

 

Chúng tôi được đưa về trại giam Nha Trang ở đỡ 2 ngày, hôm đó là tối thứ sáu. San và tôi ở hai phòng khác nhau. Người giám thị, một trung úy công an bảo chúng tôi để hành trang ở văn phòng, hắn nói nếu đưa vào phòng sẽ bị tù cũ lột sạch và không chừng còn bị đánh. Mỗi phòng đều có một người tù cầm đầu gọi là Đại Bàng và một đám em út phục dịch và bóc lột người khác. Tôi ngạc nhiên vì tôi từng ở những trại tạm giam của Cộng sản, trước kia không hề có tình trạng này. Thời đó, tù rất sợ cán bộ, nhất là tù hình sự. Công an coi tù làm việc rất nghiêm túc. Sự thay đổi này nói lên là tù hình sự đã không còn sợ công an nữa, hoặc là khinh nhờn, hoặc là cấu kết bè cánh với nhau như ở nhà tù thường phạm trong chế độ cũ. Mặt khác chứng tỏ bọn công an không còn làm việc nghiêm chỉnh nữa, họ biết có nạn đại bàng, có nạn tù cũ hiếp đáp tù mới vẫn không giải quyết, chứng tỏ tinh thần làm việc sút kém và không còn tin tưởng vào tổ chức hay lý tưởng như trước. Sự suy sụp tinh thần của cán bộ là điều suy thoái đáng kể của một chính quyền được gọi là Cách Mạng, và kỷ luật sắt như chính quyền và đảng Cộng sản.

Thời kỳ những năm đầu, ở các trại giam, mỗi ngày hai lần điểm danh, người giám thị đi vào phòng xem xét từng khoảng chấn song, từng khoảng tường như sợ tù nhân chui lọt ra ngoài bằng những lỗ kim, lúc đó tôi vẫn thường nghĩ, nếu người công chức, cán bộ của chính phủ VNCH làm việc cần mẫn như vậy thì không làm sao mất nước. Bây giờ cán bộ Cộng sản chỉ mở cửa phòng, trong nhà tù giao khoán cho đại bàng, tự do đánh đập bóc lột tù và phân phối mọi việc. Ở đâu cũng diễn ra những dấu hiệu báo chế độ Cộng sản đã suy tàn có thể bị đánh bại được, do đó vấn đề trở lại là làm thế nào để kiện toàn lực lượng đối kháng.

 

Bước chân vào phòng, cửa sắt vừa đóng lại, mới dợm bước thêm vào bên trong thì một người thanh niên nằm ngay cửa ngồi dậy chận tôi lại, hắn nói với một người nằm xây mặt vào: “Thưa anh hai, có khách mới”, người đó không cần quay ra, chỉ nói: “Làm việc đi”. Thêm một người thanh niên nằm giường phía đối diện nhảy lên, nắm cổ áo tôi lôi, tôi phản ứng tự nhiên ghịt lại, thì hắn đẩy tôi ngã sấp xuống cái giường đầu tiên. Lúc đó người thanh niên thứ nhất la lên: “Anh hai, ông này là tù ở trại Xuân Phước về”. Tiếng la đó làm nhiều người nhỏm dậy, người thanh niên được gọi là anh Hai cũng chống tay ngồi lên.

 

Tôi nhìn cánh tay thật lực lưỡng, khuôn mặt thật trắng của người thanh niên xoay ra, tôi đoán hắn chưa đến ba mươi. Khi hắn bắt đầu di chuyển qua cái giường đến bên cạnh tôi, tôi mới thấy hai cái chân khẳng khiu. Di chuyển đi lại nhờ vào hai cánh tay nở nang quá khổ. Hắn dịu giọng: “Mời chú ngồi, chú ở trại Xuân Phước là tù có án hay tập trung cải tạo.”

 

Tôi không ngờ cái dấu trại Xuân Phước đóng sau cái áo tù của tôi có ảnh hưởng quan trọng trong đám tù nhân ở trại giam Nha Trang này. Tôi đáp:

 

- Chú tập trung cải tạo.

 

Hắn hỏi tiếp:

 

- Chú cấp bậc gì mà chưa được về?

 

Để dễ hiểu và khỏi dài dòng về cấp bậc hành chính, tôi nói cấp bậc quân đội.

 

- Chú là Trung úy biệt phái.

 

- Chú nói dối, chắc chú Trung tá mới lâu như vậy, tụi cháu tưởng sĩ quan ngụy về hết rồi.

 

- Còn nhiều lắm, còn nhiều người Thiếu úy vẫn chưa về.

 

Có nhiều tiếng nhao nhao lên:

 

- Thiệt hả chú, bên ngoài ai cũng nói cải tạo về hết rồi, chỉ có những người ác ôn mới không về, chú có ác ôn không?

 

Tôi cười nói thân mật.

 

- Các cháu thấy chú có ác ôn không?

 

Một người nói:

 

- Trông chú hiền quá, sao chú ở tù lâu vậy?

 

Tôi nói đùa:

 

- Hiền lành mới ở tù lâu. Tù không thích hợp với người hiền.

 

Người thanh niên đại bàng la lên:

 

- Tụi bay hỏi nhiều quá, để từ từ chú nói chuyện có được không, chú uống cà phê hay uống trà, chú ăn mì nhé?

 

Tôi chưa kịp trả lời thì hắn đập vào người thanh niên ngồi bên cạnh:

 

- Đ.M., có nghe tao nói không mà ngồi đó, đi nấu nước pha cà phê và làm mì nghe chưa.

 

Hai ba người thanh niên đứng lên, kẻ đi lấy một cái đèn làm bằng lon nhôm nấu bằng dầu hỏa, người đi soạn lấy mì gói và cà phê. Trong nhà tù mà họ sống đầy đủ, nấu nướng bằng đèn dầu hỏa. Trước kia chúng tôi cũng có nấu lén bằng cách đốt bao plastic gói đồ thăm nuôi. Trong lúc tôi ăn mì, uống cà phê cố giữ cho khỏi phải ăn uống hỗn như người đói, nhưng họ cũng nhìn ra tôi ăn quá ngon và quá nhanh, hơn 11 năm mới uống lại ly cà phê nóng - Ngon lắm.

 

- Trại đói lắm hả chú, ăn toàn khoai mì phải không, trại A-20 không được mang giày dép đi làm phải không và chỉ được tắm có hai lần một tuần hả chú, làm sao sống được hả chú?

 

Tôi đáp:

 

- Các cháu biết cả rồi, còn làm sao sống, thì chú vẫn còn sống đây.

 

- Tụi cháu ở ngoài đời nghe nói mà không tin, nhưng tụi cháu sợ lên trại A-20 lắm, tụi cháu đang chờ đợi đi trại lao động, không biết đi đâu, nghe nói trại A-30 dễ chịu hơn.

 

Tôi nói với họ đi trại A-20 hay A-30 tùy mức án. Trại A-30 là trại thuộc tỉnh, chỉ giam tù án dưới 10 năm và tù vượt biên nên chế độ quản lý dễ dãi hơn, trại ở giữa đồng bằng Tuy Hòa nên được tương đối no đủ vì canh tác được lúa gạo. Người thanh niên đại bàng kể cho tôi nghe hắn bị án 20 năm tù vì tội đâm chết một người bạn khi cãi nhau trong một ván cờ tướng, hắn đã ở tù 7 năm, được đưa đến nhiều trại cải tạo nhưng không được nhận vì tàn tật teo hai chân từ nhỏ. Hắn nghe đồn về trại Xuân Phước nên sợ phải đến đó. Hắn hỏi:

 

- Chú ở trại A-20 có thấy ai bị tàn tật như cháu bị đến đó không?

 

Tôi đáp:

 

- Bị tàn tật khi tới thì không có, nhưng ở lâu rồi bị tai nạn lao động, hay bị cùm chân sinh ra tàn tật thì có.

 

Biết hắn lo phải đến Xuân Phước nên tôi mới an ủi rằng có lẽ trại Xuân Phước sẽ không nhận người tàn tật. Hắn nói:

 

- Ở trong phòng lâu quá, cháu buồn chán lắm, muốn đi trại cho khoảng khoát thoải mái. Đi đâu cũng được, đừng đến trại Xuân Phước cháu sợ quá.

 

Hai ngày ở trại giam Nha Trang tôi được đãi như thượng khách, một phần vì tôi lớn tuổi, một phần có lẽ vì tôi là tù cải tạo ở trại Xuân Phước về. Đa số tù trong phòng là tội vượt biên hay tổ chức đưa người vượt biên, một số ít là trốn nghĩa vụ quân sự, còn lại là tù kinh tế, nhiều nhất là tội buôn trầm hương. Trầm hương là thứ quốc cấm, như các loại cà phê, tiêu. Chuyên chở không giấy phép bị bắt. Sản phẩm nào đưa vào qui hoạch nhà nước đều cấm tư nhân buôn bán, người ta phải buôn chui, trên đường di chuyển qua nhiều chặng kiểm soát, nếu dấu không kỹ bị bắt, bị bắt phải hối lộ, hối lộ không được thì phải đi tù.

 

Tôi hỏi một thanh niên ngư phủ lý do vượt biên, tôi nói làm ngư phủ được trả lương cao hơn các nghề khác. Em nói lương có cao nhưng không đủ ăn - cá tôm đánh được công ty hải sản quản lý, mỗi tàu quốc doanh đều có nhân viên nhà nước đi theo. Bọn này gian lận đem cá tôm đi bán ở ngoài khơi trước khi vào bến công ty. Ngư phủ không được chia phần đó. Tất cả đều là lợi tức của nhân viên nhà nước có thế lực - có hệ thống ăn chia. Ngư phủ chỉ được trả lương theo mỗi chuyến đi.

Tôi giả ngây thơ nói: “Trong chế độ xã hội chủ nghĩa công bình làm gì có tham nhũng”. Các em tỏ ra tức giận vì những lời nói đúng sách vở của tôi:

 

- Chú cải tạo tốt quá sao chưa được về, chú tin là công bình chứ ai mà tin.

 

Tôi cảm thấy vui vì phản ứng hồn nhiên bộc trực đó. Tôi hỏi tiếp một em nông dân trẻ tại sao vượt biên trong khi em là lực lượng nòng cốt của chế độ, chỉ sau có người công nhân thôi. Lối hỏi theo bài vở của tôi lại làm cho người được hỏi tức giận. Em nói:

 

- Xin lỗi chú, làm mà không ăn ở thì làm làm gì chú?

 

Tôi hỏi tiếp:

 

- Trên đường đi chú thấy lúa tốt quá, sao không đủ ăn?

 

- Lúa tốt, thu hoạch có, nhưng trừ vào tiền phân, tiền giống, tiền thuốc trừ sâu, tiền nước, tiền đóng thuế nông nghiệp hết sạch chú ơi. Chú có biết đất còn đẻ nữa đó.

 

- Đất đẻ là thế nào? Tôi ngạc nhiên hỏi lại.

 

- Thực chú ở tù lâu quá rồi cái gì cũng không biết. Bây giờ là thời kỳ khoán sản phẩm. Xã giao ruộng đất cho gia đình cầy cấy, rồi gia đình đóng lại tùy theo diện tích và hạng đất như là mình thuê đất của điền chủ. Có 7 loại hạng đất từ 1 đến 7 theo tình trạng màu mỡ. Nhà em 5 người được giao 1 mẫu rưỡi đất hạng 4, ra công sức mà làm, năm đầu có khá, trừ hết các khoản giống, phân, thuốc, nước, máy cầy còn dư được hơn 400kg thóc. Qua năm sau cũng miếng đất đó, nhưng xã giao mẫu bảy và là đất hạng 3, tình trạng đất đẻ và đổi hạng như vậy đó chú.

 

Một em quê ở Đà Nẵng tên là Trung, cầu thủ giữ vai trung vệ tự do cho đội tuyển bóng đá Đà Nẵng đi vào Sàigòn để dự giải vô địch bóng đá hạng A toàn quốc. Xe chở cầu thủ về Sàigòn có mang theo trầm hương để bán lấy lời cho đội tuyển ăn thêm. Khi bị công an Phú Khánh bắt, em phải đứng ra nhận lãnh. Theo sự sắp xếp của nhà dìu dắt khi mang trầm đi thì khi bị bắt phải có người nhận, trưởng đoàn phân công mỗi ngày trực, tới phiên ngày trực của người nào, nếu bị khám phá thì người đó phải nhận món hàng đó là của mình. Trung giải thích, cầu thủ hạng A lương mỗi tháng 500 đồng, mỗi lần đi đá và đi tập được ăn tiêu chuẩn 300 đồng một ngày nên hầu hết cầu thủ phải tiêu tiền nhà, người có trách nhiệm phải nghĩ cách làm ăn để duy trì sự tồn tại của đội. Tôi hỏi:

 

- Mỗi ngày ăn 300 đồng làm sao mà đủ sức đá, trong khi ly cà phê giá 50 đồng.

 

Trung nói:

 

- Đó là đội Đà Nẵng có tiếng giầu, các đội khác có đội chỉ có 200 đồng tiền ăn mỗi ngày.

 

Tôi hỏi tiếp:

 

- Vậy vào đội làm gì khi không đủ ăn, tiền thu bán vé để đâu, bây giờ nhiều người xem bóng đá.

 

Trung giải thích:

 

- Phải vào đội bóng để được ở lại thành phố, nếu không em phải vào nghĩa vụ quân sự, hoặc kinh tế mới hay nghĩa vụ lao động. Tiền bán vé nhiều, nhưng đó là phần quản lý của Ty Thể Dục Thể Thao - không ai được quyền biết ngoài Tỉnh ủy.

 

Một em khác không đợi tôi hỏi, kể chuyện là gia đình em có người em trai là vận động viên xe đạp, trong chuyến đua “về nguồn” khởi hành từ Sàigòn về Hà Nội, người em trai được về hạng nhì và được giải thưởng một bằng ban khen và một ảnh bác Hồ. Trong khi gia đình em phải mua sắm chiếc xe đạp hết hai cây vàng và tốn chi phí tập dượt. Vào đoàn đua được có hộ khẩu ở lại thành phố khỏi phải làm nghĩa vụ quân sự hoặc đi kinh tế mới. “Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa” cái gì cũng thiếu, chỉ có thừa bằng khen và ảnh “bác Hồ”, em kết luận như vậy.

 

Chỉ hai ngày ở trong trại giam Nha Trang tôi được biết thêm nhiều thực tế ngoài đời. Sáng thứ hai, xe tiếp tục về Sàigòn, ra khỏi nhà giam xe chạy vòng qua nhiều đường phố Nha Trang để đến Ty Công An đón đủ 4 nhân viên áp tải, tôi được nhìn Nha Trang sau hơn 12 năm chưa thấy lại. Công viên bờ biển xơ xác tiêu điều, cây cối không được cắt xén tu sửa, trên đường phố người qua lại đông đúc, hầu hết là đi xe đạp và đi bộ, kể cả sĩ quan hải quân Việt Cộng trong đồng phục quần xanh áo trắng nón cối xấu xí. Sau 12 năm “giải phóng”, Nha Trang biến đổi nhiều quá. Không tìm đâu ra một tà áo trắng thướt tha của nữ sinh ngày trước, ngày nay những thiếu nữ chỉ mặc áo cụt đơn sơ, có nhiều thiếu nữ đi xe đạp đàn ông, áo quần mặc nhiều màu xanh, màu đỏ hay xanh lá cây. Tôi nghe nói ngoài dân, vải được bán theo tiêu chuẩn, được phân phối màu nào may mặc màu ấy không lựa chọn, có những người đàn bà hơi đứng tuổi mặc một chiếc quần hai ống màu xanh và vàng đối chọi nhau. Trước 75, một phụ nữ miền Nam dù ở thôn quê cũng không ai mặc như vậy, không người phụ nữ nào đạp xe đàn ông tự nhiên như bây giờ.

 

Đoạn quốc lộ từ Cam Ranh đến huyện lỵ Tuy Phong Phan Thiết hư hỏng, đầy bụi bặm. Xe ngừng lại một quán ăn, bọn công an áp tải sau khi mua hộ San và tôi hai đĩa cơm, chúng tôi vào ngồi ăn trong quán. Một em bé trạc 12 tuổi, gương mặt xanh xao gầy ốm đến gần mời chúng tôi mua trứng gà luộc.

 

- Chú mua trứng gà đi chú, cháu bán rẻ mà.

 

Tôi trả lời:

 

- Chú không có tiền.

 

- Xí, chú là công an mà không có tiền, công an giàu lắm à.

 

- Chú không phải công ăn đâu cháu, chú đi nhờ xe, mấy chú công an vào tiệm ăn kia kìa.

 

Khi cháu gái đến sát bên đuôi xe, San cựa mình nhấc tay lên, cháu gái thấy chiếc còng nơi tay, phản ứng tự nhiên á lên một tiếng rồi lùi ra xa, giương mắt to lên nói:

 

- Á, hai chú là tù, chú có phải là ngụy quân cải tạo không?

 

- Vâng, chú là cải tạo, nhưng không phải là ngụy.

 

- Chú không phải là ngụy sao chú lại cải tạo - bộ chú là phản động à?

 

Tôi không muốn các em nhỏ gọi người tù cải tạo là ngụy, nhưng giải thích thì em cũng không hiểu, người ta quen gọi rồi. Các em nhỏ không hề biết gì về chính quyền cũ. Tôi nói tiếp:

 

- Sao cháu biết cải tạo là phản động?

 

- Ba cháu nói, ba cháu cũng là sĩ quan ngụy cải tạo, ba cháu là thiếu úy, ba cải tạo năm năm mới về. Sao chú chưa về? Những người đi qua đường tò mò đứng xem. Em bé gái lấy ra hai quả trứng cho tôi và hai quả cho San. Tôi muốn trả tiền cũng không được vì tiền công an áp tải giữ. Gọi em trả lại thì em bé đã chạy qua bên kia đường. Vài người cho chúng tôi các loại nào thuốc lá, bánh mì, chuối và nước uống, chúng tôi cảm ơn không nhận, họ cứ tự động bỏ vào chỗ ngồi rồi dang ra xa nhìn. Bọn áp tải chạy ra xua, đám đông chỉ dang ra xa, không giải tán.

 

Tôi nghĩ đến em bé bán trứng gà, 4 cái trứng trong số vốn cỏn con, mười trứng gà đựng trong một cái rổ nhỏ, cơ nghiệp thương mại của bé, mới từng ấy tuổi em đã phải bỏ học, buôn bán để nuôi gia đình, em đã quyết định cho chúng tôi một phần tài sản của em.

 

Cộng sản đang ra sức tiêu diệt mọi truyền thống của dân tộc Việt Nam, để dựng lên một xã hội theo ý chúng muốn, trong đó con người luôn luôn rình mò hận thù nhau, đấu tranh với nhau không khoan nhượng. Chúng đã giết hàng triệu người, triệt phá các công trình xây cất, đốt hết sách vở tài liệu văn hóa, làm thay đổi đời sống kinh tế của cả nước, làm cho mọi người phải nghèo khổ để cho bọn cán bộ đảng viên được độc quyền no ấm.

 

Nhưng chúng không tiêu diệt nổi tâm hồn người Việt, tấm lòng luôn luôn thương người nghèo và binh vực kẻ yếu, phát xuất tự nhiên từ tâm hồn con người không cần ai nhắc nhở. Em bé gái ở cái tuổi lên mười, sinh ra và lớn lên ở xã hội mới, được dạy cho tiếng ngụy để gọi chính quyền cũ, được xem bao nhiêu lần những phim ảnh tuồng tích nói xấu, bôi bác sĩ quan chính quyền cũ, nhưng thấy chúng tôi bị tù em vẫn thương xót xúc động.

 

Tôi nhận hai quả trứng, những điếu thuốc lá, mòn quà nhỏ người đi đường ném cho là nhận cả tấm lòng của người dân đối với chúng tôi. Tôi không tủi thân khi bị thương hại, trái lại tôi rất sung sướng vì qua sự biểu lộ đó, tôi thấy tâm hồn người Việt Nam vẫn còn, chính tâm hồn trong sáng đượm thắm tình người đó làm cho đất nước Việt Nam tồn tại. Cộng sản không tiêu diệt được tâm hồn con người. Trái lại, chính tâm hồn người Việt đang dần dần tiêu diệt chúng; tổ chức, bạo lực chỉ là sức mạnh bên ngoài. Tình cảm của con người là sức mạnh bên trong. Bao giờ bạo lực không còn sử dụng được, tổ chức không còn bền vững, lúc đó tình yêu con người sẽ thắng và Cộng sản sẽ bị tiêu diệt.

 

Gần tối xe về đến đầu xa lộ Biên Hòa, hàng bạc hà dầy trồng hai bên bờ làm phong cảnh ít nhiều thay đổi tươi mát. Sàigòn bây giờ người đi lại tấp nập hơn những năm đầu sau khi Cộng sản chiếm miền Nam.

 

Tôi đảo mắt nhìn quanh, trong một lúc muốn thấy hết chung quanh một cách tham lam.

 

Lòng tôi nôn nao như người đi xa trở về quê cũ. Trước kia tôi không hề có cảm giác đó một khi ra đi rồi trở về Sàigòn. Sàigòn đối với tôi là đất khách, là nhà trọ. Quê tôi ở Quảng Nam, gia đình tôi ở Đà Nẵng, tôi chỉ thấy nao nao mỗi khi từ xe lửa hay trên máy bay nhìn thấy đỉnh núi Két, trái núi đứng thẳng có hình cong như mỏ két nằm về phía tây nam Đà Nẵng, hay màu biển xanh thẫm bầy ra phía dưới thân phi cơ đang giảm cao độ để đáp xuống. Tôi là đứa con hay đi xa, nhưng lại nhớ quê nhà, không đi dứt, luôn luôn tìm dịp để trở về với quê hương, với gia đình, nơi in dấu trong đời tôi những kỷ niệm.

 

Giờ đây cảm giác đó tôi dành cho Sàigòn, xa cách rồi mới thấy Sàigòn là quê hương thứ hai của mình.

 

Xe vào đến trại Phan Đăng Lưu - trời nhá nhem tối, người cán bộ ra nhận chúng tôi là Ba Phận, hắn mang lon Trung tá Giám thị Trưởng trại giam, lúc tôi rời trại đầu năm 1978 hắn là Thượng úy Trưởng khu.

 

Thủ tục xét nhập trại xong. Tôi được đưa vào xà lim số 23 khu C-2. Trên đường đi vào khu trại giam, hai bên những người tù mới từ khu xà lim và tập thể đang nhìn tôi một cách tò mò. Họ nhìn ra tôi khác lạ với những người tù mới bị bắt vào.

 

Xà lim số 23, phân trại C-2. Người ở trước mới di chuyển nên vẫn còn phảng phất hơi người và sự ấm cúng sạch sẽ.

 

Soạn đồ đạc chuẩn bị tắm, mặc cho những tiếng gọi từ hai bên và phòng tập thể trước mặt. Họ đang ngạc nhiên vì tôi là người tù mới đến trại giam mà hành trang đầy đủ, mặc quần áo có đánh số, hình dáng lôi thôi lếch thếch. Trong trại tạm giam rảnh rỗi nóng lòng muốn nghe tin tức bên ngoài, ai cũng nghĩ là từ ngày họ bị bắt sẽ có những điều mới mẻ, họ cần biết qua những người tù mới vào sau.

 

Tôi hoàn toàn thoải mái vì được tắm mát sau cuộc hành trình mệt mỏi cả ngày trong nắng nóng và đường đầy bụi bặm. Có đủ thì giờ để kỳ cọ. Tiếc là không có một miếng xà phòng thơm. Từ ngày đến trại lao động, tắm nước ao, nước suối, lúc nào cũng phải gấp nên không cần đến xà phòng. Tôi tắm thật lâu để tận hưởng lần đầu tắm lại nước máy sau hơn 9 năm rời trại tạm giam đi lao động cải tạo.

 

Trong chế độ cộng sản có nhiều thiên đường vì nó có nhiều tầng địa ngục, đối với người tù ở trại cải tạo lao động xà lim trại tạm giam là một thiên đường với chỗ nằm riêng biệt rộng gần một mét, một cầu tiêu và một vòi nước riêng để tắm giặt. Xà lim tạm giam khác với xà lim kỷ luật, xà lim kỷ luật là tầng đáy của địa ngục chốn trần gian. Xem xét dưới khung cửa ra vào, khoảng hở có thể thò lọt bàn tay ra ngoài. Thật may mắn, với khoảng trống đó, xà lim này rất thuận lợi, nếu hai xà lim bên cạnh cũng trống như vậy thì có thể trao thức ăn cho nhau, có thể nhận quà tập thể ném sang và có thể nằm nói chuyện với nhau mà không sợ bị bắt. Buổi trưa trời nóng nực, khe hở đó thành một cửa gió rất tốt, nằm dưới nền xoay đầu ra ngoài, gió lọt vào khe hở dỗ giấc ngủ tuyệt vời. Đến giờ giới nghiêm, các cửa gió được mở ra, cửa sắt được kéo lại, đó là giờ ngủ, nhưng là giờ sinh hoạt của khu xà lim, không ai ngủ được lúc 9 giờ tối. Ở xà lim thì muốn ngủ lúc nào cũng được, nhưng nói chuyện với nhau là một nhu cầu vì suốt ngày bị đóng cửa, cấm quan hệ hai bên, cán bộ đi lại thường xuyên, tù không nói với nhau công khai được, trừ cách nói qua khe hở dưới cửa và gõ nói xuyên qua tường.

 

Tôi chưa kịp liên lạc thì Nguyễn Tú Cường từ số 10 cho biết Vũ Văn Ánh, Trần Bửu Ngọc và Nguyễn Tú Cường đã từ Xuân Lộc bị đưa về hơn một tuần và những anh em đã về trước bị bắt lại như Phạm Đức Nhì, Trần Đắc Thắng, Bùi Đạt Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Phạm Chí Thành, Trần Kim Hải (tức Hải Bầu). Trần Đức Long và Nguyễn Văn Tiên về từ 1981 cũng bị bắt lại. Cường cho biết tờ Hợp Đoàn đã bị lộ. Đa số những người bị bắt đều liên hệ đến tờ Hợp Đoàn hoặc là những người có sáng tác thơ nhạc như Trần Đức Long, Trần Đắc Thắng.

 

Trên đường di chuyển, tôi có nghĩ đến trường hợp tờ Hợp Đoàn bị tố cáo nhưng tôi vẫn hy vọng tình cảm khắng khít giữa Vũ Văn Ánh và Ngô Văn Ly khiến cho Ly không nỡ khui ra. Từ khi ra khỏi Kiên Giam, Ngô Văn Ly bị anh em tù tẩy chay về hành động độc ác của hắn, bị cô lập và xấu hổ, y đã thù tất cả mọi người. Ly là một người cực đoan và độc ác lại nhiều tham vọng, y tưởng là y làm hại được Lê Quang Minh, một tay an ten lợi hại, y sẽ được nhiều bạn tù xem như là người có công; ở trại ai cũng oán ghét Minh và nhiều người là nạn nhân của hắn, nhưng Ly còn hại cả Bùi Lượng và Khúc Thừa Văn nên không ai chấp nhận được. Dù những người bạn thân của y cố thuyết phục là các anh Bùi Lượng và Khúc Thừa Văn cũng làm an ten nhưng không ai tin điều đó. Giữa năm 1985, Ly được thả ra khỏi trại với danh sách đặc biệt một mình y. Người tù được tha ra mừng rỡ - nhưng trường hợp Ly được thả lại càng tăng thêm mối nhục, Việt Cộng rất độc ác, lợi dụng an ten một thời gian rồi sau đó cách này hay cách khác, chúng cũng làm cho người làm tay sai lộ diện để những người này không còn con đường nào khác hơn là phải bám lấy chúng một cách nhục nhã. Khi Ngô Ly ra về đến bộ chỉ huy trại, cán bộ an ninh Lý, người xây dựng cho Ly nhiều vụ đã giữ Ly lại một tháng ở phân trại A. Nơi đây, anh em tù có án vẫn tưởng y còn lập trường chống Cộng như trước, họ đã chôn giấu thư và những tài liệu, thơ nhạc viết có nội dung chống Cộng trên đường đi làm để nhờ Ngô Văn Ly lấy chuyển về gia đình. Ngô Văn Ly trao tất cả cho Lý. Số người bị nhốt có đến 30 người, linh mục Nguyễn Quang Minh trong vụ Linh Sơn và dược sĩ Thơ đã chịu không nổi phải chết trong xà lim. Vụ này cho tới khi tôi rời trại đã hơn một năm, các anh Phạm Trần Anh, bác sĩ Long, luật sư Lý Văn Hiệp, kỹ sư Nguyệt vẫn còn bị giam cùm trong xà lim, không biết bây giờ số phận họ ra sao?

 

Đến lúc này những người bị bắt có cả Nguyễn Văn Tiên, người đã được về từ năm 1981 thì chắc chắn là Ngô Văn Ly không còn gì nghi ngờ nữa - vì Tiên và tôi là hai người biết nhiều về việc làm của Ngô Văn Ly trong trại như các vụ vẽ cờ, rải truyền đơn đều do một tay y làm. Có lẽ trong sự thù hận điên cuồng, Ngô Văn Ly muốn mượn bàn tay cộng sản để triệt hạ hết chúng tôi.

 

Theo lời Cường thì những người được đưa về đã được hỏi cung và họ đều không nhận. Đây là một việc khó nuốt trôi vì kinh nghiệm vụ án liên hệ nhiều người rất khó có thể phủ nhận. Việt Cộng có thì giờ để thẩm tra án và chúng thường đối chiếu tất cả những lời khai để tìm sơ hở của từng người ở những điểm bất đồng rồi truy dần ra. Một điều may mắn là dù chúng nhốt chúng tôi ở nhiều xà lim khác nhau nhưng các xà lim khu tập thể, hai khu C-1 và C-2, chúng tôi có thể thông cung cho nhau.

 

Ngày hôm sau, Trần Kim Hải đi hỏi cung về trước phòng 9, tôi nói chuyện được với Hải vì xà lim 23 chỉ cách phòng 9 có 2 xà lim 24 và 25. May mắn nữa là Hải về ngồi chờ mở cửa trong một thời gian khá lâu. Hải đã nói với tôi như sau:

“Năm 1985, em về đến nhà mới biết mẹ em đã chết từ hai năm trước, chị em đã bán nhà dọn đi nơi khác không để lại địa chỉ. Em bơ vơ, nay ở nhà người này, mai ở nhà người khác, đi làm đủ mọi công việc để nuôi thân và nuôi Tuấn (bạn tù của Hải) bị ho lao. Một hôm tình cờ gặp Ngô Văn Ly, hắn hỏi hoàn cảnh của em, hắn đã mời về nhà hắn ở. Không còn cách nào khác vì kinh tế quá khó khăn, Tuấn phải về quê và em dọn về với Ngô Văn Ly. Câu chuyện bắt đầu hôm đám cưới Hùng Cơm (trong tù có nhiều tên Hùng nên anh em tùy từng tính tình hay một sự cớ gì đó để phân biệt Hùng Cơm, Hùng Gà, Hùng Thuốc v.v...). Hùng mời tất cả anh em cựu tù Xuân Phước đang có mặt ở Sài Gòn đến dự, Hùng đến nhà Ly mời em mà không mời Ly, hôm đó Ly giận và buồn lắm. Rồi hôm đám nhà Nhàn (ở tù về ba tháng thì chết) anh em cựu tù Xuân Phước đi đưa rất đông, Ly mới về cũng đến đưa đám, nhưng hầu như mọi người đều tẩy chay không ai nói chuyện với hắn. Ngô Văn Ly giận lắm, cả em ở trong nhà hắn, hắn cũng không nói chuyện. Rồi thời gian trôi qua mấy tháng, hắn nói đã tiếp xúc với ông Của, cũng là tù nhân ở Xuân Phước về đang ở chùa Hòa Hảo đường Bùi Thị Xuân, thúc đẩy ông Của lập một tổ chức phục quốc nòng cốt là tín đồ Hòa Hảo từ Sài Gòn đến Sa Đéc và Long Xuyên. Ông Của là Chủ Tịch Mặt Trận, Ly là Tổng Thư Ký và hắn mời em là Ủy viên tuyên huấn, em cũng nóng lòng muốn làm cái gì để chống lại cộng sản nên em đã nhận lời. Ly đưa em xem một danh sách hơn 100 người trong tổ chức. Một hôm Ly bàn với em về tài liệu học tập trong tổ chức, em làm gì viết nổi tài liệu học tập, nên để giải quyết khó khăn đó, Ly nói với em, lúc đó em ở trại là người chuyền và lên khuôn báo Hợp Đoàn, chắc em còn nhớ nên viết lại để phổ biến cho tổ chức học tập. Em nhớ được 18 bản nhạc và những bài thơ nên em đã viết hết cho Ngô Văn Ly và những bài lý luận chính trị thì em không nhớ, Ngô Văn Ly bảo em cố nhớ, em chỉ viết đại khái một vài ý thôi. Nhạc và thơ em viết trao cho Ngô Văn Ly, chấp pháp nó giữ hết, lúc đầu em nhận bừa là của em làm, tụi nó không tin vì em đâu có làm được thơ và nhạc nên nó càng đánh em nhiều hơn nữa, cuối cùng em phải khai ra tác giả. Em cũng khai anh là người chủ chốt trong báo Hợp Đoàn và em đã nhận báo Hợp Đoàn từ tay của anh để phổ biến cho người khác. Anh nên nhận đi cho đỡ khổ vì Nhì, Thắng và Long tụi nó cũng bị bắt hết rồi. Vụ này có bàn tay của Lý Lé trưởng ban an ninh Xuân Phước, hắn đổi về Sài Gòn làm công an phường Cầu Ông Lãnh, và mãi khi gần bị bắt em mới biết Ngô Văn Ly thường xuyên gặp Lý Lé. Vụ này bên ông Của bị bắt hơn 100 người, ông Của tự tử chết ở khu xà lim C-1 rồi.

 

Tôi đã hiểu tất cả mọi chuyện, Hải đã bị sa vào kế của Ngô Văn Ly để tiết lộ nội dung của tờ Hợp Đoàn, và hắn vì nể Ánh nên khai tôi là người chủ chốt, Ánh chỉ tham gia thôi và hắn quả quyết là tôi phải nhận không có cách nào chối được. Cả đêm hôm đó và những ngày tiếp theo tôi suy nghĩ làm thế nào để cắt vụ án cho gọn và nhẹ, càng ít người dính dáng càng tốt, tôi đã bị Hải và Ly khai quá rõ, chừng đó đối với pháp chế của Việt Cộng cũng đủ buộc tội, dù tôi không nhận. Vậy tốt hơn là tôi theo đúng như lời Hải khai, tôi nhận là chủ trương tờ báo. Phần thơ và nhạc đã có đủ bằng chứng, tác giả đã bị bắt. Phần lý luận tôi viết, tôi sẽ nhận; điểm này có lợi thế vì không ai còn nhớ tôi viết gì, chắc chắn khi hỏi cung nó sẽ buộc tôi viết lại, tôi sẽ tìm cách viết cho nhẹ hơn để bản án không nghiêm trọng. Tôi sẽ cắt phần đóng góp của anh Trần Danh San vì có thêm anh San vào không có ích lợi - kể cả phần của Ánh cũng vậy, tôi sẽ khai giống như Hải, Ánh chỉ là người cộng tác mà thôi. Thực ra, Ánh là người chủ chốt.

 

Tình hình chính trị bên ngoài tương đối thuận lợi. Từ năm 1985, chúng tôi đã đọc được trên báo Nhân Dân về phong trào Glasnost và Peretroika ở Liên Sô do Gorbachev chủ xướng. Về phương diện tư tưởng, đó là sự thay đổi quan trọng và rất sâu sắc trong chế độ cộng sản vì trước đó, cộng sản không bao giờ nhìn nhận mình sai lầm và không bao giờ chấp nhận phê phán lãnh tụ và phê phán Đảng. Ai phê phán Đảng đều bị cầm tù.

 

Đảng chỉ cho nêu ra hiện tượng sai lầm nhỏ của viên chức cấp dưới theo kiểu cuốn truyện “Những Câu Chuyện ở Huyện” của Liên Sô và ở Việt Nam, Nguyễn Mạnh Tuấn dựa theo để viết cuốn “Cù Lao Tràm”. Họ lý luận bản chất của Đảng luôn luôn trong sáng - có sai lầm chút đỉnh là do đảng viên cấp thấp. Giờ đây ở Liên Sô đã cho phê bình vào hệ thống tổ chức và quản lý. Sai lầm tổ chức và quản lý không phải là sai lầm hiện tượng nữa. Vì theo đường lối tập trung dân chủ, tức chế độ độc tài đảng trị, hệ quả tất yếu là tổ chức sẽ cồng kềnh nặng nề quan liêu, uổng phí tài nguyên và quản lý luộm thuộm quá nhiều hệ cấp. Trong hệ thống đó, một viên chức cao cấp muốn giải quyết vấn đề kinh tế, xã hội có lợi ích cho nhân dân cũng không làm được. Việc làm ở Liên Sô đã ảnh hưởng đến Việt Nam, Nguyễn Văn Linh từ khi ra khỏi Chính Trị Bộ trở lại bí thư thành ủy Sài Gòn, năm 1985 kỷ niệm 10 năm “giải phóng” Sài Gòn, Linh đã đưa ra nhiều nhận xét tiến bộ. Tôi nhớ điểm y phê bình về chính sách đã chỉ nhận vào đại học những học sinh kém con của đảng viên, y đã viết: “Tại sao sau 10 năm, chúng ta vẫn còn tiếp tục kỳ thị với con em của những người chế độ cũ” và hứa sẽ đẩy mạnh việc bỏ lý lịch trong các kỳ thi tại Sài Gòn là nơi y chịu trách nhiệm. Linh cũng đề cập đến những sai lầm trong việc quản lý kinh tế trong nền kinh tế chỉ huy. Y chưa dám nói đến chủ trương một nền kinh tế thị trường nhưng thành ủy Sài Gòn đã tổ chức một số cơ sở kinh tế dựa trên thị trường và luôn luôn được báo Tuổi Trẻ đề cao như là một sự thành công lớn, điều này ngược với chủ trương của Hà Nội. Báo Tuổi Trẻ của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Sài Gòn, báo Thanh Niên của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh được xem như tiếng nói của thành ủy và của cá nhân Nguyễn Văn Linh, chứng tỏ Linh chưa đủ mạnh và muốn dùng báo chí là một hình thức chuẩn bị ủng hộ đường lối của y.

 

Cộng sản càng thất bại, người dân càng khổ và càng đói nhiều hơn; nhưng muốn đánh bại cộng sản, phải có một lực lượng có tổ chức hùng hậu. Lực lượng đó chưa có, thực tế người quốc gia chưa hình thành được với chính sức mạnh tập hợp của mình. Thời đại hiện tại, muốn tổ chức một lực lượng quân sự mạnh phải có nhiều tiền và phải được các cường quốc giúp đỡ và chắc chắn là các cường quốc kể cả Mỹ đã không còn sử dụng lá bài quân sự. Với lá bài kinh tế và chính trị, Mỹ và Tây Phương đang thắng lớn trong chiến tranh lạnh với khối cộng sản. Do đó, mơ tưởng một giải pháp quân sự đánh đổ chính quyền cộng sản Việt Nam chỉ là một ước mơ không thành sự thực. Thực tế hơn 10 năm qua cũng cho thấy tất cả những tổ chức nổi dậy đều bị cộng sản tiêu diệt trong trứng nước bởi hệ thống công an và chính sách nhân hộ khẩu hữu hiệu.

 

Tóm lại, tình hình Việt Nam được diễn tả như là một bên cộng sản cầm quyền đã bất lực và bế tắc nhưng đối lực chưa có. Đối lực tuyệt đối của người quốc gia chưa hình thành đáng kể. Do đó, những sự hình thành đối lực trong nội bộ của cộng sản, dù đối lực này phát xuất từ bất cứ động lực nào cũng đáng kể. Những đối lực đó có thể từ sự bất mãn của các Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị hất cẳng mất quyền lợi. Từ sự tranh chấp quyền lãnh đạo chóp bu. Từ mâu thuẫn do tính cách địa phương, bởi cán bộ người miền Bắc tràn ngập hết các tỉnh miền Nam, khiến cán bộ miền Nam và cán bộ miền Nam tập kết bất mãn. Từ sự thức tỉnh của những người thực sự muốn phục vụ xã hội trước kia họ tưởng là mô thức cộng sản chủ nghĩa là mô thức tốt để xây dựng một xã hội không có bất công.

 

Trong hoàn cảnh đó tôi nghĩ nếu tôi phải nhận những điều đã làm và phải viết lại những điều mình viết cũng không có gì đáng sợ hay đáng buồn. Tôi không chủ trương trực tiếp đối đầu như những người can đảm hơn như Cha Luân, như Nguyễn Đức Điệp, tôi vừa linh động đối kháng vừa cố tránh né thiệt hại, xem đó như một trò chơi có tính nguy hiểm mà hấp dẫn, cũng có thể xem đó là một cuộc du kích. Nhưng khi đã bể ra, cũng có thể nhận vì những điều đã làm, những điều đã viết không sai. Chắc chắn nhận sẽ ra tòa án lãnh án, điều đó dĩ nhiên không tốt đẹp gì, nhưng đã ở tù khá lâu, rồi cũng quen. Những gì mất mát đã mất mát rồi, những gì lo âu cũng đã vượt quá tầm tay. Gia đình không có tôi thì các em tôi vẫn đảm trách được. Các con tôi không có tôi thì cũng đã khôn lớn. Vả lại còn chế độ cộng sản thì ở ngoài cũng như ở trong tù, mỗi nơi đều có những khó khăn và sự nhục nhã.

 

Năm ngày sau khi về đến trại thì tôi được gọi lên để trả lời cung, chấp pháp là người trưởng toán áp tải San và tôi từ trại Xuân Phước về, tên Ẩn, người miền Nam, tự giới thiệu là sinh viên luật khoa trước năm 1975.

 

Mở đầu Ẩn hỏi tôi:

 

- Chắc mấy hôm nay, anh đã được biết lý do đưa anh về đây.

 

Tôi trực tiếp ngay vào:

 

- Tôi biết, chắc là cán bộ cần hỏi tôi về tờ báo Hợp Đoàn trong trại Xuân Phước.

 

Ẩn hơi ngạc nhiên về sự trả lời trực tiếp vào vấn đề của tôi. Hắn hỏi tiếp:

 

- Anh thật thông minh và dứt khoát, nhưng ngoài tờ Hợp Đoàn còn tổ chức Dân Tộc Việt của anh như thế nào?

 

- Tờ Hợp Đoàn tôi nhận có, tôi chỉ có làm công việc đó trong trại - còn tổ chức “Lực Lượng Dân Tộc Việt” tôi đã trả lời an ninh trại Xuân Phước đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của Ngô Văn Ly, hắn dựng lên để báo cáo.

 

Càng ngạc nhiên khi tôi nói thẳng ra là Ngô Văn Ly báo cáo, Ẩn nói tránh:

 

- Anh đừng đề cập đến Ngô Văn Ly, mấy hôm nay chắc anh thấy Hải Bầu đi làm việc, hắn đã nhận tội và khai tất cả rồi. Ngoài ra tất cả đồng bọn của anh: San, Ánh, Cường, Ngọc đều đã nhận tội, anh là người cuối cùng.

 

Ẩn đưa ra một xấp bản cung của những người bạn kể trên.

 

Tôi tiếp tục ý kiến của tôi

 

- Tôi phải nhắc đến Ngô Văn Ly, đó là người trực tiếp báo cáo tất cả những chuyện này, cán bộ cần lưu ý đây là một việc xảy ra trong trại tù, và người báo cáo cũng là một người tù, chúng tôi sống với nhau quá lâu trong một hoàn cảnh cực kỳ khổ sở nên tâm lý con người thay đổi thường xuyên. Những đụng chạm cá nhân xảy ra hàng ngày, nên những chuyện họ báo cáo có cái thực cái không, có người dựa trên sự thực nhỏ để dựng nên chuyện lớn để làm hại người khác.

 

Ẩn hỏi lại:

 

- Anh trả lời tôi “Lực Lượng Dân Tộc Việt” thành lập như thế nào và có những ai trong tổ chức?

 

- Tôi đã trả lời cán bộ, cũng như đã trả lời tại Xuân Phước không có tổ chức đó, ngay tên tổ chức cũng là tên của một tổ chức chính trị có trước năm 75. Nếu tôi có tổ chức chính trị thì không có lý do gì lại lấy tên một tổ chức có sẵn.

 

Ẩn nhắc lại:

 

- Anh không có tổ chức “Lực Lượng Dân Tộc Việt”?

 

Tôi đáp:

 

- Đúng.

 

Và hắn ghi vào biên bản ở mục hỏi đáp theo đúng thủ tục, xong hắn hỏi:

 

- Ở trong trại anh có chơi thân với những ai?

 

- Tôi chơi với nhiều người, nhưng không có ai thân, tính của tôi như vậy, tôi không muốn bất cứ sự thân thiết nào gắn bó riêng tư.

 

- Quan hệ giữa anh và Koksorl Biên, Trịnh Đình Lâm, Đoàn Phan Trí và Nguyễn Tú Cường ra sao?

 

- Đó là những người bạn thường trò chuyện với nhau vì ở cùng đội, nếu ở đội khác, tôi lại nói chuyện với những người khác.

 

Ẩn hỏi tiếp:

 

- Quan hệ của Trần Danh San, Vũ Văn Ánh và anh thế nào?

 

- Cũng là những người bạn trong tù, chúng tôi ở cùng một đội nhiều năm liên tiếp với nhau nên dù không có thân thiết thì cũng hay trò chuyện với nhau.

 

- Anh có từng vào Ủy Ban Nhân Quyền của Trần Danh San?

 

- Đó là một sự sai lầm của những người báo cáo không nắm rõ vấn đề, trong Ủy Ban Nhân Quyền có Triệu Bá Thiệp, trùng tên với tôi, vả lại Ủy Ban Nhân Quyền của anh San tổ chức ngoài đời sau khi tôi đã bị bắt.

 

Ẩn ghi vào bản cung tôi không thuộc Ủy Ban Nhân Quyền, rồi hỏi tiếp:

 

- Còn Lực Lượng Việt Nam Tự Do thì sao?

 

Tôi đáp:

 

- Lực Lượng Việt Nam Tự Do là tổ chức của Vĩnh Hầu và Ngô Văn Vinh, tôi cũng không tham gia, điều này tôi đã trả lời với chấp pháp khi mới bị bắt hơn 10 năm trước.

 

Ẩn hỏi vặn lại:

 

- Cái gì anh cũng không tham gia sao anh bị bắt?

 

- Tôi không biết, tôi nghĩ là tôi là viên chức chế độ cũ và tôi chỉ yên trí ở tù vì tội đó.

 

Ẩn nói:

 

- Sao anh cứ hay dùng tiếng tù, trong khi anh là người cải tạo?

 

Tôi hỏi hắn:

 

- Cán bộ tin là tù khác với cải tạo sao, đối với tôi như nhau, cùng bị giam giữ một nơi, cùng làm lao động, cùng ăn tiêu chuẩn giống nhau, cùng mặc quần áo có đóng dấu và số như nhau, có khi cùng ở một đội, chỉ khác là một bên là tù có thời hạn, một bên là tù không có thời hạn nên không biết ngày về.

 

Tôi đã quen với lối hỏi vòng vo của chấp pháp, đó là phương pháp khai thác cá nhân người tù, để kết tội nặng nhẹ một phần trên hành động vi phạm và một phần trên cá nhân người tù. Lúc mới bị bắt tôi dè dặt không trả lời nhiều, nhưng bây giờ đã hơn 11 năm rồi, tôi thấy không cần thiết phải dè dặt. Tôi biết một phần nó hỏi vòng vo để người tù miên man trong sự trả lời, rồi quặt vào đề tài chính để đo lường sự lúng túng của người tù mà đánh giá sự trả lời xác thực đến mức độ nào. Ẩn quay lại hỏi:

 

- Anh nói rõ cho tôi biết về nhóm Hợp Đoàn của anh.

 

- Tôi có viết một số bài cho tờ Hợp Đoàn, ngoài ra không có nhóm Hợp Đoàn.

 

- Tôi hỏi ai chủ trương, ai làm chủ nhiệm, chủ bút, tôn chỉ mục đích tờ báo. Ý nghĩa của tên tờ báo, anh trả lời từng chi tiết.

 

Tôi đáp theo thứ tự ngược lại của câu hỏi:

 

- Tên Hợp Đoàn do tôi đặt, sau khi tập trung một số bài nhạc anh em hát thấy hay, tôi viết thêm một bài nữa thì hình thành một tờ báo, cần có cái tên, tôi đặt tên Hợp Đoàn, ý nghĩa của nó chắc cán bộ cũng hiểu là kêu gọi sự đoàn kết - việc này thông thường thôi, ai cũng muốn kêu gọi đoàn kết cả - còn tên thì không tên này thì tên khác. Dù tên nào thì đối với cán bộ đều là phản động. Không có qui định chủ nhiệm chủ bút gì cả.

 

Ẩn cắt ngang:

 

- Anh nói vô lý, tờ báo mà không có chủ nhiệm chủ bút?

 

Tôi trả lời:

 

- Gọi là tờ báo cũng được, gọi là một tập bài viết cũng được, hoàn cảnh trong tù đâu có phải ngoài đời mà cái gì cũng phải chính danh. Nếu tôi gọi là người chủ trương cũng được.

 

Hắn nói:

 

- Anh xác nhận rõ ràng, có là có, không là không, không thể mù mờ.

 

Tôi đáp:

 

- Vâng, tôi chủ trương Hợp Đoàn.

 

Hắn ghi vào biên bản cung tôi là chủ nhiệm kiêm chủ bút. Xong hắn hỏi tiếp.

 

- Mục đích anh kêu gọi đoàn kết để làm?

 

Tôi trả lời chung chung:

 

- Vì chia rẽ quá nhiều, nên kêu gọi đoàn kết, còn để làm gì thì chúng tôi chưa nghĩ tới vì có làm gì được khi chúng tôi ở trong tù.

 

- Các bài viết của các anh, nhạc, thơ đều nhằm chống lại chế độ, nói xấu chế độ. Anh kêu gọi đoàn kết để chống chế độ phải không?

 

- Cán bộ nghĩ, cán bộ sẽ làm gì khi bị nhốt hàng chục năm trong tù, cán bộ có tin là người bị nhốt sẽ ca tụng chế độ đã nhốt mình. Những năm đầu cán bộ ở trại cũng đòi hỏi chúng tôi mỗi lần phát biểu ca tụng chế độ, chúng tôi có sợ mà nói thì cũng không phải là sự thật, khi nói thì thật ngượng, và có lẽ về phía cán bộ cũng thấy điều đó. Những thơ và nhạc làm trong tù đương nhiên là làm lén và nó đúng tâm trạng, ý nghĩ và hoàn cảnh của người tù.

 

Ẩn không ghi những lời nói của tôi vào biên bản, hắn hỏi tiếp:

 

- Anh có nhớ những bài anh viết không?

 

- Lâu rồi, tôi chỉ còn nhớ đại ý thôi, không thể nào nhớ đúng hết được.

 

Hắn xếp hồ sơ lại và nói:

 

- Bây giờ anh về suy nghĩ để lần khác lên đây lần lượt viết lại.

 

Trở về lại xà lim, tôi nhớ lại những câu trả lời, yên trí bề nào cũng một lần công khai đến đâu thì đến đó. Bảy ngày sau tôi lại được gọi ra hỏi cung, chấp pháp mới, hắn giới thiệu hắn tên là Khang, người Bình Định, trước kia học Văn Khoa. Sau phần thủ tục, Khang đi thẳng vào câu hỏi:

 

- Anh đã đọc tập thơ của Phạm Đức Nhì chưa, tôi là thi sĩ, tôi thấy thơ cũng hay lắm nhưng dĩ nhiên là lập trường không đúng.

 

Tôi nghĩ ngay, đã nhận là thơ hay thì đương nhiên hắn phải thấy những điều mà người làm thơ viết lên là đúng, còn lập trường thì chắc chắn là không hợp với quan điểm chính trị của chế độ.

 

Tôi đáp:

 

- Tôi chỉ đọc của Nhì một vài bài thôi, Nhì làm thơ hay, còn nguyên cả tập thơ thì tôi chưa đọc qua và cũng không nghe nói tới.

 

Khang nói tiếp:

 

- Nhì vượt biên mang theo cả tập thơ, khi bị bắt các đồng chí ở Long An tịch thu được, sau đó mới biết được Nhì đã là chủ trương làm báo Hợp Đoàn trong trại cải tạo. Chúng tôi đã đưa hắn về đây, anh biết chưa?

 

- Tôi chưa biết.

 

- Anh có nhớ “Long Bô” và “Bà Già Trầu” không? Khang hỏi tiếp.

 

Tôi vừa ngạc nhiên vì Long và Tùng là hai người bạn tù đã về từ năm 1981, anh Tùng là một Thiếu tá Biệt Kích, có cha là một Đại tá Công an Việt Cộng, ông này trước kia là một công chức quan thuế của Pháp, theo kháng chiến từ 1945. Nhờ có cha là công an và nhiều thân nhân bên cộng sản nên Tùng khỏi đi Bắc. Trong trại tù, Tùng là người tù rất tốt với anh em đồng cảnh và rất đứng đắn, giữ tư cách và danh dự. Làm đội trưởng nhưng không báo cáo và xu nịnh như các đội trưởng khác. Anh Tùng hiền lành nên Ngô Văn Ly đặt cho cái tên là “Bà Già Trầu”. Tôi không hiểu Ly nó báo cáo những gì mà lôi cả những người cùng đội của chúng tôi từ năm 1981 và lại báo cáo cho công an cả những cái tên gọi hằng ngày của họ như Long Bô, Bà Già Trầu, Hải Bầu. Chi tiết này càng khẳng định sự trở mặt của Ngô Văn Ly đối với anh em chúng tôi. Lúc đầu Ly chống Cộng ồn ào và quá khích nhưng không có lập trường và lý tưởng; chống đối để khoa trương đến khi bị bạn đồng cảnh hết tin tưởng, quay ra thù hận và cam tâm xoay cờ làm hại bạn bè. Giống như trường hợp của Đoàn Kế Tường, chống Cộng nhưng ở tù đụng chạm anh em tù nhân khác sinh ra thù hằn nhau. Khi ra về bị Huỳnh Bá Thành xây dựng để viết phóng sự bôi bác tù nhân chính trị.

 

Tôi đáp:

 

- Long và Tùng là những người cùng đội, họ về từ năm 1981, tôi không biết họ ở đâu và làm gì, ở trong tù gần gũi thân mật, ra ngoài đời mỗi người đều gặp những hoàn cảnh khó khăn riêng không ai còn nhớ đến bạn.

 

Khang đánh vào tình cảm của tôi, hắn nói:

 

- Anh biết ngoài đời khó khăn sao không cố gắng để về, tôi biết gia đình anh cũng khó khăn lắm. Khi nhận vụ án của anh tôi rất khó nghĩ, anh đã ở tù 11 năm rồi, bây giờ thêm án mới nữa, bao giờ anh mới về?

 

Qua hai lần hỏi cung của Ẩn và Khang, tôi thấy khác xa với thời kỳ đầu mới bị bắt, lúc đó, cán bộ chấp pháp chỉ hỏi và không bao giờ chịu nghe một lời biện bạch của người bị bắt, lúc nào cũng giữ một lập luận - bị bắt đương nhiên có tội, vì Đảng không bao giờ sai lầm. Đó là lý luận cố hữu của Cộng sản. Lúc đó những lời nói “tâm tình” của chấp pháp với bị can là một mánh lới hỏi cung. Giờ đây tôi thấy sự thay đổi rõ rệt trong cung cách nói và ý nghĩ của Ẩn và Khang, tôi rất tin là con người ít nhiều có lương tâm thì đều thấy sự sai lầm của chế độ cộng sản, nhất là những thanh niên sinh trưởng ở miền Nam lúc trước, họ theo cộng sản có người vì không thích chính quyền miền Nam, đi tìm một con đường phục vụ, họ tin là cộng sản đúng, họ tin cộng sản là phương thức tốt nhất để phục vụ đất nước. Những người đó ngày nay chắc chắn đa số đã nhìn ra sự thật, nếu họ được nói một cách công bằng đúng với lương tâm của họ thì chế độ Cộng Sản còn tệ hơn những điều họ thấy từ các chế độ thuộc địa và chế độ Cộng Hòa. Nhưng mỗi người lại phản ứng một cách khác, trừ những kẻ tiến sâu vào con đường danh vọng và quyền lợi phải bám lấy, bảo vệ và ca tụng chế độ. Đại đa số đều muốn có sự thay đổi, nhưng hoàn cảnh chưa có ai đứng ra tập hợp thành sức mạnh để đẩy mạnh sự thay đổi và từ sự thay đổi mạnh mẽ mới có cơ bùng nổ luôn một cuộc đấu tranh ít đổ máu để loại bỏ chế độ cộng sản một cách hoàn toàn. Tôi nghĩ là cần nêu lên một số ý kiến nên không viết lại những gì tôi đã viết trong Hợp Đoàn mà viết về các điểm sau:

 

1.Trong kinh tế chỉ huy, chính sách quản lý kinh tế được tóm gọn trong cuộc cách mạng quan hệ sản xuất, thực chất là nhằm để nhà nước nắm tất cả tài sản quốc gia, và vô sản hóa toàn dân. Nền kinh tế qua 60 năm thử nghiệm ở Liên Sô đã thất bại. Thất bại chính là hệ thống quản lý và sự cứng nhắc trong các thủ tục điều hành. Chính quyền Cộng Sản Việt Nam cũng đi vào con đường thất bại đó. Ngày nay, các nhà lãnh đạo cộng sản đã nhìn thấy, muốn có sự thay đổi quan trọng, sự thay đổi kinh tế phải đi kèm với sự thay đổi chính trị. Không thể có một nền kinh tế uyển chuyển linh động trong một cơ chế chính trị độc tài cứng nhắc và thư lại.

 

2. Tập trung dân chủ đi ngược lại luận lý thông thường, đó chỉ là một chế độ độc tài vì không thể nào có dân chủ khi tập trung quyền hành và quyền lợi vào một nhóm người, dân chủ thể hiện qua sự bình đẳng của mọi người dân và được luật pháp bảo vệ quyền bình đẳng đó, dân chủ không có khi nào người dân được hướng dẫn và được ban phát dân chủ từ thượng tầng chỉ huy.

 

3. Đấu tranh giai cấp là một quan niệm lỗi thời, nhiều đảng cộng sản Tây phương đã phê phán - và không hợp với truyền thống dân tộc Việt Nam. Thời đại ngày nay, sự tiêu diệt lẫn nhau là một chủ trương lạc hậu và bị lên án.

 

4. Trong cuộc chiến tranh ý thức hệ, thời kỳ chiến tranh lạnh, những nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã tự đặt mình vào sự lệ thuộc với Liên Sô và tự nhận là mũi tên nhọn của xã hội chủ nghĩa là một sự sai lầm lớn lao. Quan niệm đó chỉ đem chiến tranh về cho tổ quốc và nhân dân phải chịu đi ngược lại truyền thống yêu chuộng hòa bình và chỉ duy trì sức mạnh tự vệ của lịch sử dân tộc Việt Nam.

 

Tôi viết ngắn gọn những ý kiến của tôi, mỗi đề tài khoản một trang giấy, tôi muốn người cán bộ cộng sản họ bình tĩnh đọc và nghĩ. Tôi nhận tôi là người chủ chốt trong tờ Hợp Đoàn, Nhì và Ánh cộng tác, còn San tôi phủ nhận. Tôi thấy tinh thần làm việc của chấp pháp cũng kém hơn trước, miễn sao trình bày hợp lý là được chấp nhận, không truy cứu, đào sâu để buộc tội nhiều người như trước đây.

 

Trước khi kết cung, Khang có nói với tôi là hắn rất băn khoăn khi phải làm nhiệm vụ để buộc tội tôi, vì không thể nào án của tôi dưới 20 năm. Tôi đáp lời Khang là tôi chấp nhận hậu quả tôi đã làm, và tôi nghĩ những điều tôi suy nghĩ là không sai, và buộc tội tôi là buộc tội những việc sẽ xảy ra trong tương lai.

 

Tôi trở lại xà lim tiếp tục hưởng sự an nhàn và thoải mái sau thời gian quá vất vả ở trong trại cải tạo lao động. Ngày ngày ăn ngủ, tắm đầy đủ. Đã 11 năm chưa bao giờ tôi được thoải mái như lần này. Tôi nhớ lại khi lần đầu bị bắt, bị đẩy vào xà lim, thấy bóng tối lờ mờ đã nhợn và sự đơn độc làm cho buồn. Lần này cảm tưởng khác trước rất xa.

 

Từ năm 1985, để đối phó với tình trạng vật giá gia tăng, áp dụng chế độ giá lương tiền, công nhân viên, cán bộ không còn lãnh tem phiếu lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng. Cán bộ công nhân viên cấp thấp của cộng sản bị ảnh hưởng nặng, qui luật giá cả tăng vọt của thị trường chợ đen khan hiếm. Chỉ có những cán bộ cao cấp và những tên may mắn giữ những vị trí có quyền lợi thì mặc sức vơ vét. Việt Cộng không bảo đảm được đời sống tối thiểu cho cán bộ, điều mà tất cả các chính quyền cộng sản cố duy trì để đổi lấy sự trung thành.

 

Cố gắng tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên có thêm lợi tức. Chính quyền Việt Cộng ban hành chính sách “ba lợi ích kinh tế” cho phép mỗi đơn vị, mỗi cơ quan tùy khả năng và hoàn cảnh thiết lập cơ sở kinh tài, các địa phương và đơn vị đua nhau mở cơ sở kinh doanh. Các quận và thành phố tập trung các ngành dịch vụ giải trí như nhà hát, sân khấu ca nhạc, phòng khiêu vũ và cả nhà tắm hơi.

 

Việt Cộng giải thích trơn tru những việc trước kia chúng chỉ trích, như khiêu vũ chúng gọi là “múa đôi”, nhà tắm hơi có đấm bóp thì được gọi là “nhà tắm dưỡng sinh”. Các phường và đơn vị nhỏ mở phòng chiếu video. Sân khấu ca nhạc được trình diễn nhạc tiền chiến, những bản nhạc tình yêu trước năm 1975 được duyệt lại để cho trình diễn. Phòng chiếu video được “thông cảm” chiếu những phim Trung Hoa, Hồng Kông nhập cảng lậu. Cộng sản đã chấp nhận một bước lùi quá nặng.

Ở trại giam công an cũng có chương trình ba lợi ích kinh tế, khai thác bán thức ăn cho tù. Tù mới bị bắt cũng được thông báo cho gia đình thăm, và gia đình được khuyến khích gửi nhiều tiền để mua thức ăn tươi, nóng hàng ngày. Buổi sáng trại bán cà phê, xôi bánh, nửa trưa bán chè, trưa bán bánh canh, thức ăn mặn, xế chiều bán chè hoặc bán hột vịt lộn. Cán bộ muốn có nhiều lời, phải dễ dãi với tù. Cô công an tên Lài, năm 1977 hách xì xằng có tiếng, chỉ có nhiệm vụ dẫn tù đi chụp hình lăn tay, cũng tìm mọi cách để la mắng, người thì ngồi chưa nghiêm túc, kẻ thì tay không đặt đúng vị trí đầu gối. Sau hơn 9 năm, trở lại nhà giam Phan Đăng Lưu, tôi thấy cô Lài ngày ngày gánh canh đi bán, múc canh thâu tiền, ăn nói nhã nhặn. Khi làm thương mại, cô công an Lài đã quên mất quyền hạn của cô. Tù gọi mua canh cô lên tiếng dạ, gọi tù bằng chú.

 

Thật buồn cười ông Karl Marx đem kinh tế làm nền tảng lý luận, đảng cộng sản dùng qui luật bao tử để cai trị, giờ đây, đảng viên cộng sản đang bị qui luật bao tử hành cho điêu đứng. Sự thay đổi đó làm cho Ba Phận, Mười Thăng, Cô Lài ở trại Phan Đăng Lưu không khỏi suy nghĩ và làm sao họ còn giữ được lòng son sắt với Đảng. Làm sao họ còn đem thân ra bảo vệ Đảng như trước kia họ còn tin vào Đảng, vào lãnh tụ.

 

Tháng 12-1986, xà lim 23 tôi tiếp nhận thêm một người tù, hắn tên Lưu, người quê Quảng Ngãi, gần 60 tuổi. Mới đẩy vào xà lim hắn than bị bắt oan, than khổ, đập đầu mấy cái vào xà lim đòi tự vận. Tôi đã quen với những hành động này của người mới bị bắt, chỉ vài ngày sau thì đâu vào đấy. Muốn sống cũng khó mà muốn chết cũng đâu có dễ.

 

Tôi chỉ khuyên hắn vài lời lấy lệ rằng nên bình tĩnh chuẩn bị cuộc sống trong xà lim cả năm hay ít ra năm bẩy tháng. Nghe tôi nói phải ở xà lim thời gian đó, hắn càng hoảng hơn. Vài ngày sau, không cần gợi chuyện hắn cũng bắt đầu kể. Nói chuyện cũng là một nhu cầu để tránh cô đơn. Lưu kể, thuở nhỏ hắn sinh trong một gia đình khá giả ở Quảng Ngãi, được đi học ở trường Khải Định Huế. Chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, trở về học trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn, ra trường chỉ huy đại đội, rồi được chuyển làm chính trị viên sau khi kết nạp Đảng. Năm 1954 ở lại không tập kết, đổi địa bàn vào hoạt động tại Sài Gòn, trở thành nhà thầu cung cấp cho quân đội. Nhờ việc làm ăn, trước năm 75 Lưu quen với nhiều sĩ quan từ cấp Tá tới cấp Tướng. Kiểm chứng lời hắn nói, Lưu không nói dối, những đặc tính của các tướng lãnh VNCH hắn kể rất đúng. Vả lại, một cán bộ hoạt động nội thành, có tiền của quen biết tướng lãnh VNCH không phải là hiếm. Ở Đà Nẵng, sau ngày 29-3-1975, ai cũng biết chủ garage Hoàng Hữu Kiên ở đường Hoàng Diệu là một ủy viên trung ương Đảng. Hoàng Hữu Kiên là người quê Quảng Trị, là Việt Kiều từ Thái Lan về nước năm 1958, nhưng Hoàng Hữu Kiên được Tướng Hoàng Xuân Lãm che chở vì là đồng hương, bà con trong họ, có tiền của. Đà Nẵng bị cộng sản chiếm, nhà của Kiên là nơi tụ hội các lãnh tụ cộng sản ngoài Bắc, từ Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ trở xuống, và Thượng tướng Nguyễn Chánh chủ tịch Ủy Ban Quân Quản thành phố Đà Nẵng đã ở nhà của Kiên từ trước, và từ đó xuất phát nhiều lệnh tấn công quân VNCH tại vùng I chiến thuật. Hoàng Hữu Kiên về sau làm bí thư tỉnh ủy Nghĩa Bình.

 

Ở trong chế độ mà các ông Tổng thống nuôi cán bộ cộng sản như Vũ Ngọc Nhạ làm cố vấn từ Tổng Thống Diệm đến Tổng Thống Thiệu, nên ông Tướng vùng vì tiền và tình cảm bảo bọc cho những tên chỉ huy cộng sản nằm trong thành phố cũng không đáng ngạc nhiên. Chế độ không sớm mất là nhờ bên ngoài có Hoa Kỳ giúp tận tình, bên trong có những sĩ quan, cán bộ cấp dưới chiến đấu hăng hái mới đứng vững được hơn 20 năm. Đến khi Hoa Kỳ không giúp đỡ nữa thì chế độ sụp là đương nhiên.

 

Lưu nằm vùng thu thập nhiều tin tức quân sự, nên có công lớn, ngày lễ mừng chiến thắng tại Sài Gòn, y và Đinh Xáng được Trần Văn Trà trao tặng cờ Mặt Trận Giải Phóng, đó là vinh dự lớn của tên cộng sản nằm vùng trà trộn trong hàng ngũ quốc gia. Đinh Xáng từ thời đệ nhất đến thời đệ nhị Cộng Hòa đều có địa vị quyền thế và tiền của. Đệ nhất Cộng Hòa làm Dân biểu. Đệ nhị Cộng Hòa làm Chủ tịch Tổng công đoàn Công Kỹ Nghệ. Lưu lần lượt được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, được cung cấp nhiều nhà cửa, xe hơi, sống một đời sống huy hoàng không thiếu bất cứ thứ gì, giải trí, săn bắn, bơi lội, câu cá, đánh tennis, uống champagne, martel giống như người thượng lưu trong chế độ tư bản. Con cái đều tốt nghiệp đại học và có việc làm ở những cơ quan hái ra tiền như ngân hàng hoặc cơ sở ngoại thương. Trước khi bị bắt, Lưu làm Cục phó khai thác Lâm Sản, Cục Trưởng là một cán bộ miền Bắc vào. Y đã kết tình thông gia với Cục Trưởng đó, và cùng được chia hai căn nhà ở cư xá sĩ quan Không Quân Tân Sơn Nhất. Nhà được tu sửa đầy đủ tiện nghi hơn trước. Hai gia đình thông gia ở cạnh nhau, cùng làm một cơ quan, bên trên còn Đảng nên gắn bó keo sơn. Bên ngoài, những cuộc tranh chấp quyền hành và quyền lợi bắt đầu âm ỉ, cán bộ miền Nam và cán bộ thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam lần lượt bị cán bộ miền Bắc thay thế. Y và người thông gia cũng vậy, lúc đầu tiên Cục Trưởng chưa nắm hết đường đi nước bước nên nhờ ông đồng chí miền Nam, hai bên làm ăn khắng khít. Khi Cục Trưởng nắm vững mọi ngõ ngách và mánh lới thì sự nghi ngờ bắt đầu nảy sinh và đồng chí thông gia Cục Phó trở thành một cái gai cần phải nhổ. Kết quả là Lưu bị Cục Bảo Vệ Chính Trị bắt nhốt bằng những tài liệu do “đồng chí thông gia” cung cấp. Đảng viên cộng sản, nếu bị công an bắt thì công an phải chứng minh tội trạng và phải có thủ tục tước đảng tịch, sau đó mới được nhốt; nhưng nếu bị Cục Bảo Vệ Chính Trị bắt thì không ai can thiệp được.

 

Mỗi lần kể chuyện với tôi, Lưu thường hay khóc, tôi cũng không ngờ một cán bộ cộng sản cũng đã từng chiến đấu mà sợ hãi cái xà lim và tiếc rẻ công lao mấy chục năm theo Đảng trở thành công cốc. Tôi không xúc động chút nào vì những giọt nước mắt đó, vì bạn bè của tôi và dân chúng đang cực khổ nhiều lắm. Lưu kể cho tôi nghe, vào trong tù mới thấy chế độ cộng sản của y có nhiều bất công mà trước đó y không biết. Tôi không xem đó là một lời thú nhận thành thật. Vì Lưu là một người được ưu đãi của chế độ mới, thời gian nằm vùng của y cũng sung túc giàu có, nên cố tình không nhìn thấy cái khổ của người chung quanh. Lưu kể cho tôi nghe rằng tại trại giam Thủ Đức, y biết một cô gái bị bắt giam vì tội mãi dâm, trong khi thực tế là vì cô gái con nhà đàng hoàng đó không chấp nhận lời tán tỉnh của tên trung úy Trưởng công an phường nên tên này trả thù chụp mũ bắt khi cô gái đi chơi với bạn về đến nhà lúc quá giờ giới nghiêm. Sự bất công quá thông thường ở ngoài xã hội, vì đảng viên cộng sản ở địa phương, nhất là bọn công an là một bọn cường hào ác bá. Lưu nói cho tôi biết Trần Văn Trà viết một bộ hồi ký gồm có 5 tập, nhưng lại viết tập 5 trước. Tập 5 khởi đầu từ thời gian sau hiệp định Paris, trong đó Trà nhấn mạnh đến công lao chiến thắng miền Nam năm 1975 là công của các Tư lệnh chiến trường ở miền Nam năm 1975 hơn là Chính Trị Bộ ở Hà Nội. Trà có chỉ trích những sai lầm của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đi xa quần chúng. Trong lời nói đầu, Trà viết: “Chúng ta vì nhân dân chiến đấu và nhờ nhân dân chiến thắng nên chúng ta không thể đi ngược lại quyền lợi của nhân dân.” Sau khi xuất bản tập 5 bộ hồi ký đó, Trà đã bị hạ tầng công tác, tập sách bị thâu hồi không cho phổ biến. Sự mâu thuẫn trong bất kỳ tổ chức nào cũng là điều tự nhiên không có gì quan trọng lắm. Quan trọng là mức độ mâu thuẫn có đưa đến đổ vỡ và sự thay đổi tận gốc rễ hay không.

 

Karl Marx phân tích sự mâu thuẫn của xã hội và xem đó là qui luật tất yếu và là động lực để tiến bộ. Đảng Cộng Sản sử dụng qui luật mâu thuẫn xã hội và luôn luôn chủ trương đấu tranh không khoan nhượng, tiêu diệt thành phần đối lập.

Do đó, khi Đảng Cộng Sản còn đối tượng để đấu tranh thì họ thống nhất và đoàn kết - nhưng khi hết đối lực thì họ sẽ đấu tranh mạnh mẽ trong nội bộ và trở thành cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo. Lịch sử của các Đảng Cộng Sản đã cho thấy rõ điều đó. Sau khi lật đổ Sa Hoàng thì Cộng Sản đoàn kết để tiêu diệt thành phần Cách Mạng Dân Chủ để đoạt quyền lãnh đạo Cách Mạng ở Nga. Các lực lượng dân chủ bị tiêu diệt thì Đảng Cộng Sản phân chia thành Menchevik và Bolchevik. Sau khi Lénine chết thì có sự tranh giành quyền lực giữa đám đệ tam và đệ tứ và cứ như thế Đảng Cộng Sản Liên Sô mỗi lần thay đổi lãnh tụ là mỗi lần thanh trừng nội bộ. Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng tương tự, sau khi nắm được trị an toàn cõi Trung Quốc, Mao Trạch Đông củng cố quyền lực, dùng Lâm Bưu và Hồng Vệ Binh để loại trừ Lưu Thiếu Kỳ và các nguyên soái nhiều quyền hành, sau đó sử dụng lãnh tụ trẻ của Hồng Vệ Binh để loại trừ Lâm Bưu. Đặng Tiểu Bình dùng Hoa Quốc Phong loại trừ Tứ Nhân Bang (Giang Thanh, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên) sau đó loại trừ Hoa Quốc Phong để nắm trọn quyền hành.

 

Đảng Cộng Sản Việt Nam có truyền thống đoàn kết lâu dài hơn nhờ phải liên tục đấu tranh chống Pháp và cuộc chiến thôn tính miền Nam. Bây giờ chính quyền miền Nam đã bị tiêu diệt, đảng cộng sản hoàn toàn làm chủ đất nước thì sự tranh chấp nội bộ để giành quyền lãnh đạo là một sự đương nhiên.

 

Nói về mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, trước đây, Cộng Sản Miền Bắc tạo dựng lên để đánh lừa dư luận trong và ngoài nước Việt Nam. Nhiều người vì ngây thơ bị đánh lừa, nhưng cũng có nhiều người muốn vấn đề Việt Nam được giải quyết nên làm như tin là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là một thực thể độc lập với miền Bắc. Nhìn vào thành phần lãnh đạo của Mặt Trận, chúng ta thấy rõ nó là một bộ phận của Đảng Cộng Sản Việt Nam (trước 75 gọi là Đảng Lao Động) do Lê Đức Thọ và Phạm Hùng là hai Ủy Viên Bộ Chính Trị lãnh đạo, ngoài ra, các tướng lãnh mấu chốt đều là đảng viên trung ương như Trần Văn Trà, Trần Độ, Trần Nam Trung. Trần Văn Trà người quận Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, vào đảng cộng sản lúc 17 tuổi, năm 1945 được Hồ Chí Minh cử vào miền Nam để làm tư lệnh khu 7, Nguyễn Thị Định, cán bộ nằm vùng tại miền Nam, đã thăng tiến từ bí thư huyện ủy, lên đến bí thư tỉnh ủy Kiến Hòa và ủy viên của Trung Ương Cục. Nguyễn Thị Bình, nguyên thư ký riêng của Nguyễn Thị Thập, chủ tịch Liên Hiệp Phụ Nữ.

 

Năm 1960, trong một cuộc bầu cử nội bộ Liên Hiệp Phụ Nữ, Nguyễn Thị Bình đã được bầu nhiều phiếu hơn Nguyễn Thị Thập. Kết quả bầu cử không được Hồ Chí Minh chấp thuận vì Hồ Chí Minh bênh vực Nguyễn Thị Thập nên Nguyễn Thị Bình được thay đổi công tác vào miền Nam. Huỳnh Tấn Phát, nguyên đảng viên Tân Dân Chủ ở miền Nam gồm một số trí thức yêu nước, đảng này đã bị cộng sản thôn tính và gia nhập đảng cộng sản từ sau 1945, ngoài Huỳnh Tấn Phát còn những khuôn mặt miền Nam như Mai Văn Bộ, Ung Văn Khiêm, Lưu Hữu Phước, Trần Bạch Đằng. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ cũng đã được kết nạp vào Đảng thời kỳ thập niên 60 nhưng Thọ và Phát đảng tịch kém nên dù làm Chủ Tịch Mặt Trận và Chính Phủ Cộng Hòa Miền Nam vẫn giữ vai trò bù nhìn. Những người khác như Trịnh Đình Thảo, Trương Như Tảng là những bộ mặt bên ngoài trong lá bài lường gạt.

Ý kiến về một Mặt Trận Miền Nam độc lập với đảng cộng sản ở miền Bắc là một ý kiến không chính xác, tin tưởng là trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam có người quốc gia là một sự mơ hồ và ngây thơ. Sau năm 1975, nhiều người còn mong đợi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sẽ giữ độc lập và Miền Nam trung lập là quá chậm tiến và ngây thơ, muốn tìm một giải pháp dễ không bao giờ có được.

 

Sự kiện Trần Văn Trà và những đảng viên cộng sản miền Nam tập kết trở về bất mãn, nếu đưa đến tranh chấp phải được xem như là sự tranh chấp về quyền lợi của những người cộng sản và sự tranh chấp đó sẽ còn xảy ra giữa những lãnh tụ cộng sản với nhau, kết thành nhiều phe nhóm tiêu diệt nhau, chỉ khác nhau chút ít, một khi họ chưa thực sự nhìn rõ là chế độ cộng sản không thể phục vụ dân tộc, chế độ cộng sản là một chế độ kỳ cục đi ngược lại sự tiến hóa của con người. Nhưng trong sự tranh chấp nội bộ của cộng sản, chúng ta có thể rút ra được những lợi điểm:

 

- Trước hết, nó đánh tan được một thiên kiến vốn khâm phục và sợ cộng sản là một tổ chức đoàn kết thống nhất và không thể bị đánh bại.

 

- Khi cần loại trừ chế độ cộng sản thì mọi động lực đều cần thiết.

 

- Sự tranh chấp quyền lực nội bộ làm nản lòng một số đảng viên trẻ có học vấn, có lý tưởng phục vụ con người và tâm hồn yêu nước, họ có thể hình thành một thành phần đối kháng thực sự có ích trong nội bộ đảng cộng sản. Chúng ta quí trọng thành phần này vì họ đã đi đến kết luận là chế độ cộng sản không cần thiết cho dân tộc.

 

Lưu ở cùng xà lim với tôi non tháng thì hắn chuyển đi nơi khác. Tôi lại tiếp tục đời sống thoải mái chờ ngày ra tòa.

 

Xà lim số 24 bên cạnh là anh Doãn Quốc Sỹ và số 23 khu C-1 đối lưng là anh Dương Hùng Cường. Tôi thường nói chuyện với anh Sỹ qua khe hở dưới cửa và nói chuyện với anh Dương Hùng Cường qua vách ngăn hai xà lim đâu lưng nhau.

Những gì Hải Bầu nói với tôi, anh Sỹ đều nghe cả, một hôm anh hỏi tôi:

 

- Thiệp không đứng đầu một vụ án, nhưng tình thế anh em thúc đẩy đến như vậy, ra tòa phải gánh tội án nặng, Thiệp có buồn, có giận và có sợ không?

 

Tôi trả lời anh Sỹ:

 

- Dĩ nhiên là không muốn như vậy, nhưng em nhận vụ án sẽ gọn hơn, không kéo dài, vì bề nào cũng có người bị gán cho cầm đầu tổ chức, em không nhận, rồi nó khai thác mãi, lời khai của nhiều người sẽ mâu thuẫn nhau, thành bất lợi hơn. Anh Sỹ cho biết trường hợp của anh cũng vậy, nhóm của anh sau khi Hoàng Hải Thủy móc nối được cô Nhan, nhân viên bưu điện, chịu chuyển văn thơ ra ngoại quốc, thì mạnh ai nấy làm, không ai là trưởng nhóm; khi vụ án vỡ ra chấp pháp cũng ghép anh Sỹ là người cầm đầu và anh cũng nhận. Anh Sỹ nói: “Đặc tính của người quốc gia hay người tiểu tư sản mình là không bao giờ chịu ghép mình trong tổ chức, làm việc tùy hứng, mạnh ai nấy làm.” Nhận xét của anh Sỹ rất đúng, người tiểu tư sản có nhiều tài năng, nhưng làm việc không bao giờ chịu chấp nhận một khuôn mẫu kỷ luật, nên không thể làm việc với nhau lâu dài trong cuộc đấu tranh trường kỳ được. Tính này Lénine đã phân biệt là tính tự giác (có tổ chức, có ý thức) và hoạt động có tính tự phát (tùy hứng, tùy sự xúc động nhất thời.)

 

Anh Doãn Quốc Sỹ là một nhà văn nổi tiếng thuộc nhóm Sáng Tạo. Thời còn học sinh trung học, tôi rất thích đọc tạp chí Sáng Tạo; tôi mê đọc truyện ngắn của Thảo Trường, Thanh Tâm Tuyền, Thạch Chương, Duy Thanh, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Lôi Tam; thích những bức vẽ của Duy Thanh, Ngọc Dũng; thơ của Nguyên Sa và Tô Thùy Yên. Những tác giả trên có những người không thuộc nhóm Sáng Tạo mà chỉ có văn thơ đăng báo. Trí óc của tôi giới hạn, có lẽ tôi không hiểu hết những gì họ viết, nên tôi chỉ thích qua sự cảm nhận của mình. Trừ những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ là dễ hiểu, dễ nhớ vì anh viết thật thà, đôn hậu giống như người của anh. Nhắc đến anh Sỹ là phải nhớ đến bộ trường thiên Khu Rừng Lau, truyện dài Hồ Thùy Dương và truyện vừa Dòng Sông Định Mệnh. Thuở 16, 17 tuổi đọc Dòng Sông Định Mệnh, tôi mê lối tả cảnh, tả tình lãng mạn của anh Doãn Quốc Sỹ. Trước năm 1954, văn học Việt Nam tập trung ở Hà Nội và do người sinh trưởng ở ngoài Bắc viết. Huế và Sàigon cũng có xuất bản sách và báo nhưng ít, vì các nhà văn miền Trung và miền Nam vừa ít về số lượng và kém về phẩm chất. Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam gốc gác là người Quảng Nam nhưng tất cả đều sinh trưởng tại miền Bắc. Văn học Việt Nam tiến rất nhanh từ văn chương biền ngẫu qua tân văn gọn gàng sáng sủa do công lao đóng góp của nhiều người viết nhưng ai cũng phải công nhận là nhóm Tự Lực Văn Đoàn đóng góp nhiều nhất kể về lượng và phẩm.

 

Thời kỳ sau 1954, miền Bắc đã giữ được hầu hết văn sĩ và thi sĩ nổi tiếng - yếu tố này đã được cán bộ nằm vùng cộng sản ở miền Nam khai thác để tuyên truyền cho thế đứng của cộng sản miền Bắc trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Có lần đọc tập san của nhóm sử địa đại học Văn Khoa Sàigon xuất bản năm 1974, Nguyễn Ngọc Văn đã viết: “Văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ là tinh hoa của một dân tộc, họ rất nhạy bén trong sự cảm nhận tình yêu nước, hầu hết những văn nghệ sĩ đều theo kháng chiến và ở lại miền Bắc, vậy trong cuộc chiến tranh hiện nay, tình yêu nước nằm ở miền Bắc.”

 

Đối với người lớn tuổi có kinh nghiệm, lời tuyên truyền của Nguyễn Ngọc Văn không ảnh hưởng mấy, nhưng đối với những người trẻ tuổi, những sinh viên, lời tuyên truyền đó chắc chắn có nhiều kết quả, lôi kéo sinh viên về phía cộng sản.

Ngày nay thì câu trả lời cho lý luận của Nguyễn Ngọc Văn càng đã sáng tỏ ai yêu nước. Với một lực lượng văn nghệ sĩ hùng hậu như vậy, suốt 21 năm chia cách, ở miền Bắc không có một tác phẩm nào, không có một bản nhạc, một bài thơ nào có được chút giá trị; trừ những tác phẩm của những văn nghệ sĩ chống đối chế độ trong nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”. Những cán bộ có học ở miền Bắc, sau ngày 30-4-75 vào miền Nam đi sưu tầm lại những tác phẩm thời tiền chiến và những tác phẩm thời kháng chiến để đọc vì thời gian ở miền Bắc họ có “nghe nhắc qua” những tác phẩm đó. Như vậy rõ ràng “kháng chiến chống Pháp” hợp với tình cảm của toàn dân tạo hứng khởi cho văn nghệ sĩ sáng tác, còn xây dựng chủ nghĩa xã hội tại miền Bắc đã tiêu diệt mọi cảm hứng, không sinh ra được văn nghệ sĩ mới mà còn làm mất khả năng sáng tác của khối lượng thật đông đảo văn nghệ sĩ tài hoa đã vì tinh thần kháng chiến chống ngoại xâm mà ở lại miền Bắc. Điều này dễ nhận thấy, nếu chịu khó đọc một số tác phẩm sáng tác ở miền Bắc trong thời gian trước 1955-1975, chỉ thấy được những tác phẩm tuyên truyền ngô nghê, non nớt, những tình tiết hư cấu lố bịch.

 

Rất ít văn nghệ sĩ tài hoa di cư vào miền Nam, nhưng văn học miền Nam đã phát triển nhanh chóng; khi di cư những nhà văn thuộc nhóm Sáng Tạo còn là những sinh viên hay học sinh. Họ bắt đầu làm công tác văn học, có thể nói Sáng Tạo đã đóng góp rất nhiều, làm cho văn học miền Nam bừng sáng lên, và sau đó đã có những văn thi sĩ có tầm cỡ sinh trưởng tại miền Trung và miền Nam như Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư và vô số những văn nghệ sĩ khác mà tác phẩm của họ đã làm cho văn học nghệ thuật miền Nam hơn hẳn miền Bắc. Thời gian 20 năm với đời người là quá dài nhưng lịch sử dân tộc thì chỉ như một cái chớp mắt. Trong chớp mắt đó khoảng cách văn học giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam là điều minh chứng rõ rệt là dòng văn hóa dân tộc đã chuyển về miền Nam cùng với tình yêu nước, hoài bão xây dựng quê hương.

 

Nhưng tôi vẫn chưa thỏa mãn, không hiểu tại sao trong vận động lịch sử dân tộc lớn lao như vậy, xã hội miền Nam Việt Nam biến chuyển và tiến bộ rất nhanh trong bối cảnh một cuộc chiến tranh thật tàn khốc, miền Nam Việt Nam vẫn không có một tác phẩm lớn như bộ “Chiến Tranh và Hòa Bình” của Léon Tolstoi, hay “Cuốn Theo Chiều Gió” của Margaret Mitchel hay “Sông Don Êm Đềm” của Cholokov. Tôi đem điều thắc mắc đó hỏi anh Doãn Quốc Sỹ, anh giải thích: “Léon Tolstoi, Margaret Mitchel, Cholokov viết về một xã hội đã qua, họ thâu thập chất liệu được xem là chính xác để xây dựng tác phẩm, tư tưởng của tác giả và độc giả thống nhất, vì độc giả không phải là nhân chứng của hoàn cảnh lịch sử xã hội. Trái lại, những nhà văn Việt Nam phải viết tác phẩm trong xã hội đang sống, độc giả là chứng nhân của xã hội, nên khi đọc sách họ hòa nhập vào tác phẩm và tác giả. Do đó, tác giả không sống thực dễ bị độc giả nhận xét. Đơn cử thí dụ, nhiều nhà văn viết về chiến tranh, nhưng phần lớn chỉ ở Sàigon nghe bạn bè kể lại rồi viết, nên khi tác phẩm thành hình, độc giả đọc không thấy sự thật, tác giả không cảm nhận được các diễn biến tình cảm như độc giả họ sống thực với xã hội. Chính trong thí dụ về bút ký và truyện dài về chiến tranh, chỉ có hai tác giả Phan Nhật Nam và Nguyên Vũ là nổi tiếng hơn hết vì ngoài văn tài của mỗi người, họ sống thật với cuộc chiến hơn ai hết.”

 

Tôi hỏi về cách thức thâu thập chất liệu để xây dựng tác phẩm, anh Doãn Quốc Sỹ nói anh cũng nằm trong khuyết điểm là anh chỉ ở Sàigon và có thời gian ngắn đi dạy học tại Hà Tiên, nên ngoài Sàigon ra, những diễn biến xã hội ở các nơi khác nhất là nông thôn và chiến trường anh chỉ nghe kể lại.

 

Cũng như trước kia, trong kháng chiến chống Pháp, anh có theo gia đình đi tản cư, rồi hồi cư về Hà Nội sớm, các chất liệu anh xây dựng tác phẩm cũng do người khác kể lại, tôi hỏi tiếp theo anh sự “lấn cấn trong tư tưởng”, sự thắc mắc về lịch sử, ví dụ trước 30-4-75, có nhiều người thắc mắc là mình đứng trong chiến tuyến miền Nam chống lại miền Bắc có phải là yêu nước hay không, điều này có trở ngại cho sự sáng tác hay hình thành tác phẩm lớn hay không.

 

Anh Sỹ nói: “Nếu còn lấn cấn tư tưởng thì khó sáng tác, có thể trước đây, nhiều người ở miền Nam chưa sáng tác được vì vấn đề này, như vậy cũng hy vọng là sau này Việt Nam có tác phẩm lớn vì vấn đề lịch sử ngày nay đã sáng tỏ sau khi cộng sản chiếm miền Nam, nhưng riêng cá nhân tôi (anh Sỹ), tôi đã dứt khoát tư tưởng từ lúc đầu tiên bỏ vào miền Nam”.

 

Qua sự giải thích của anh Sỹ, tôi hiểu thêm phần nào rằng tại sao những nhà văn trong Sáng Tạo, viết truyện ngắn rất hay, nhưng truyện dài, trừ anh Doãn Quốc Sỹ, có một số tác phẩm cũng còn giới hạn, còn những tác giả khác, tác phẩm của họ chưa được độc giả ngưỡng mộ. Nể mích lòng anh Sỹ, tôi không dám đưa so sánh trong hai giai đoạn lịch sử văn học, không kể những nhà văn độc lập, nhóm Sáng Tạo hay nhóm văn nào khác vẫn chưa so sánh được ảnh hưởng của nhóm “Tự Lực Văn Đoàn”, dĩ nhiên là chỉ so sánh về ảnh hưởng của tác phẩm với độc giả, còn các khía cạnh khác như kỹ thuật sáng tác, lối hành văn v.v... ở thời điểm khác nhau không thể so sánh được.

 

Tôi nhớ lúc nhỏ, đọc một tờ Báo Xuân, tác giả một thiên phóng sự đi xông đất các nhà văn nhà báo (tôi quên tên tác giả), viết là khi đến tòa soạn Sáng Tạo, ông ta thấy có nhiều bàn thờ, trên mỗi bàn thờ có hình của mỗi người nhóm Sáng Tạo, ông ta ngạc nhiên tưởng có tai nạn làm nhiều người chết, nhưng khi nhìn kỹ thì những người quì trước bàn thờ đang quì lạy bức ảnh của mình. Người ta phê phán nhóm Sáng Tạo là đã quá tự mãn, chỉ biết tôn thờ cá nhân của mình và xem thường hết mọi người. Tôi xin lỗi anh Doãn Quốc Sỹ trước, hỏi ý kiến anh về sự phê phán đó đúng hay sai. Anh Sỹ đáp: “Phê phán hay móc nhau, thậm chí có khi chửi nhau của nhà văn nhà báo là hiện tượng thông thường, có khi chỉ là bạn bè đùa nhau nhưng cũng có khi sự phê phán có tính thù nghịch triệt hạ nhau. Cũng như lòng tự mãn cũng là một tính của con người, ai cũng có, chỉ có khuyết điểm là không chịu lắng nghe để tu sửa mình, bất cứ ai, không kể là nhà văn nghệ, tính khiêm tốn cũng là điều tốt.

 

Tôi biết anh Doãn Quốc Sỹ, ngoài viết văn, dạy học, anh còn nghiên cứu về Thiền. Hai tác phẩm bán được nhiều nhất là “Dòng Sông Định Mệnh” và “Về Thiền”. Người có nghiên cứu và thực hành về thiền mỗi ngày thì đạt được sự bình tâm, tính hòa ái, khiêm tốn. Tôi không hiểu các tác giả khác trong nhóm Sáng Tạo thế nào, nhưng lời chỉ trích về “tự sùng bái cá nhân” và “kiêu ngạo” coi thường mọi người mà người ta gán cho nhóm này, đối với cá nhân anh Doãn Quốc Sỹ không đúng một mảy may. Tôi cũng thường nói chuyện với anh Dương Hùng Cường ở xà lim phía sau, hai phòng đều số 23 ở hai khu đối lưng nhau, tôi không biết mặt anh Dương Hùng Cường, chỉ biết anh qua bút hiệu “Dê Húc Càn” viết báo công kích nhân vật chính quyền trước 1975, và chỉ đọc một ít tác phẩm của anh về đời sống của những người lính không quân và trại gia binh không quân. Anh Cường nói với tôi về gia đình, anh có 8 người con gái và sau lần cải tạo về chị Cường mới sinh thêm một cậu út, mà anh xem là “tác phẩm” lớn của anh. Tôi đùa tại sao là nhà văn phóng khoáng, anh vẫn còn phân biệt con trai hay con gái, anh Cường nói “cái chất” của người Việt Nam trong con người, nên vẫn biết con trai con gái vẫn là con, nhưng gia đình không có con trai thì vẫn thấy thiếu. Đời sống trong xà lim, tủn mủn như vậy, có lúc cũng có thể nói chuyện trao đổi với nhau những điều quan trọng, có khi chỉ nói những chuyện vặt vãnh, những thèm muốn tầm thường nhất của con người, hay có khi nằm hằng buổi để nhìn một vết loang lổ trên trần nhà rồi tưởng tượng ra bao nhiêu hình ảnh khác nhau. Cái vết ciment tô nhám nhúa trên tường mà tôi tưởng tượng ra cảnh cô ca sĩ đang hát tại một buổi dạ vũ nhiều cặp trai gái đang nhảy, cảnh Napoléon đánh trận ở Waterloo, cảnh lụt lội nước ngập đồng bằng miền Trung quê tôi. Nằm tưởng tượng như vậy thú vị và sớm hết giờ hơn là nằm nhìn đàn kiến tha con dán lên trần nhà qua khe hở của cánh cửa của xà lim.

 

Anh Dương Hùng Cường nhờ tôi chuyển đọc đến anh Doãn Quốc Sỹ 4 câu thơ anh làm nhân ngày giỗ của ông Hiếu Chân. Anh Cường chỉ viết văn mà chưa hề làm thơ, tôi đã đọc chuyển qua cho anh Sỹ, thơ không hay nên tôi không thuộc, vả lại trí nhớ đã kém lắm nên không nhớ được lâu. Sau này, ra trại lao động được tin Dương Hùng Cường chết ở xà lim tôi thấy có lỗi với anh quá nhiều. Tôi cũng được tin anh Doãn Quốc Sỹ bị xử án 10 năm đưa trở lại trại lao động. Anh Sỹ đã trên 60 tuổi, không biết anh có còn chịu đựng được những ngày gian khổ, nhục nhằn ở trại cải tạo lần thứ hai không? Lần trước anh bị tù hơn 6 năm rồi. Không biết lịch sử có biến chuyển nhanh để anh Sỹ và những người tù chính trị được ra khỏi tù trước khi kiệt lực gục ngã hay không. Anh Sỹ có hứa là nếu có hoàn cảnh anh sẽ đi cùng tôi ra Quảng Nam để sống với tôi một thời gian. Tôi sẽ đưa anh đến tận các nơi đã xảy ra cuộc chiến tranh của cả hai thời kỳ chiến tranh 1945-1954 và 1960-1975, ở đó, người dân Quảng Nam đã chịu đựng và xã hội Việt Nam trưởng thành như thế nào, tôi hy vọng với tài năng có sẵn và với chất liệu phong phú, anh Sỹ sẽ viết được một tác phẩm thật lớn cho văn học Việt Nam. Mơ ước đó có thành sự thực không, khi anh Sỹ đã già và còn ở trong nhà tù Cộng sản?

 

Ra ở tập thể được đúng một tháng, tôi được gọi đi làm việc. Khang báo cho tôi biết là theo chính sách mới, tôi không bị truy tố ra tòa, tất cả chúng tôi được đưa trở lại trại lao động cải tạo. Cuộc đời may rủi bất ngờ, tên công an Lý Lé và Ngô Văn Ly dàn xếp gài vụ Hợp Đoàn vào tổ chức phục quốc của ông Nguyễn Văn Của và liên hệ với vụ văn nghệ của nhóm anh Khuất Duy Trác, định cho chúng tôi chết trong tù, nhưng kết quả là chúng tôi được về nghỉ ngơi thoải mái gần 9 tháng tại xà lim Phan Đăng Lưu. Trở lại trại Xuân Lộc, San, Ánh, Ngọc và tôi ai nấy đều mập mạp, trắng trẻo và khỏe trở lại.

 

Về đến trại Xuân Lộc, an ninh tiếp tục cùm chúng tôi trong xà lim kỷ luật hơn tháng, sau cùng phải thả ra vì chính sách mới đối xử dễ dãi hơn với tù cải tạo.

 



 


Chương Mười Bảy

 

Về trở lại trại Z-30A, bị cùm trong xà lim không gì đáng kể, một phần đã quá quen, một phần sự kiểm soát ở trại tù không còn quá khắt khe. Mở, đóng cửa xà lim, đưa cơm, đều do trật tự cũng là tù nhân. Đó là anh Ngọc, cựu trung tá Dù, trưởng ban trật tự, giúp đỡ tận tình, cho đem đủ tiêu chuẩn ăn và thức uống. Ngoài ra, thuốc hút và thức ăn thêm do người bạn trẻ từ trại Xuân Phước là Phạm Văn Đồng gửi lén vào. Chỉ có ban đêm thì muỗi từ rừng ra quá nhiều và bị lắc còng kiểm soát không ngủ được. Cùm ở xà lim như vậy xem như tạm nghỉ dưỡng sức khỏi phải lao động.

 

Ra khỏi xà lim, Ánh, San, Ngọc và tôi được biên chế về đội 15, khu tù có án. Phân trại chia hai khu vực, khu các sĩ quan trình diện và khu tù có án, khu có án thêm một vòng rào kẽm gai, buổi trưa bị đóng cửa từ nhà một; khu trình diện, trong giờ nghỉ tù có thể đi lại với nhau tương đối thoải mái hơn.

 

 

Ngoài ra thì mọi qui chế như nhau. Rời khỏi trại Xuân Lộc 8 năm về trước, bây giờ quay trở lại, trại thay đổi nhiều, bạn bè cũ đã được về gần hết, chỉ còn lại Phố và các em từng bị kỷ luật sau vụ Tết Kỷ Mùi như Bằng, Huề, Lộc, Phương, nhưng tất cả đều đã đổi qua phân trại B. Gặp lại các anh Ngô Khắc Tỉnh, Ngô Khắc Tịnh, Lê Văn Sanh, Hoàng Bá Tất, Vũ Xuân Thông, các linh mục và mục sư từ trại Xuân Phước được chuyển về từ cuối năm 1984. Những bạn bè cũ từ tòa hành chánh và tiểu khu Quảng Nam... loay hoay rồi gặp lại nhau gần đủ mặt trong nhà tù. Lénine hướng dẫn các cơ quan coi tù của Liên Sô, cứ đổi trại liên tục để nuôi hy vọng cho tù là họ được về, cuối cùng gặp nhau và chết ở Siberia. Cộng Sản Việt Nam cũng áp dụng điều đó, suốt 13 năm họ điều động từ Nam ra Bắc, cũng đổi trại liên tục, nhưng cuối cùng phải đưa tù cải tạo về Nam. Chúng tôi gặp lại nhau ở trại Z-30A, không phải chết như những người tù Liên Sô, mà để được về. Đó là điều mà tù tin chắc. Việt Cộng muốn đưa chúng tôi đi khai thác các vùng rừng thiêng nước độc ở miền Bắc và miền Trung rồi chết ở đó, nhưng do tình thế chúng không được tự do thực hiện ý đồ đó, chúng bắt buộc phải đưa tù trở lại các trại miền Nam là để thả. Việt Cộng là một chính quyền rất ngoan cố, không bao giờ tôn trọng luật pháp và công luận quốc tế. Nhưng bây giờ chúng phải chiều theo áp lực của công luận, chúng tôi chắc chắn Việt Cộng đang ở thế yếu.

 

Trại Xuân Lộc đã đổi khác rất nhiều, không như 8 năm trước khi chúng tôi ở đây. Một phần vì để chuẩn bị cho tù về, đã có những chỉ thị cởi mở trong việc kiểm soát, thăm gặp và nhận quà của gia đình. Một phần vì chính bọn giám thị và cán bộ cũng không còn tin tưởng vào đảng, nên đã tùy tiện đối xử, một phần vì nghèo đói phải tự lo lấy đời sống nên bị mua chuộc.

 

Những anh tù trình diện đã đem kinh nghiệm dùng quà cáp và tiền của gia đình gửi, mua chuộc sự dễ dãi của cán bộ ở trại Nam Hà về áp dụng ở trại Xuân Lộc. Trại Xuân Lộc giờ đây gần như một thị trường mua bán. Tù có thể nhờ cán bộ mua đem vào trại những thứ bị cấm như trà, cà phê, kể cả rượu. Cán bộ còn buôn bán giờ thăm gặp gia đình; ngoài tiêu chuẩn cải tạo tốt còn nếu biết bỏ tiền mua, tù có thể gặp mặt và ở lại với thân nhân 72 giờ, 64 giờ, 48 giờ, 36 giờ, 24 giờ, 12 giờ, 3 giờ - mỗi giá cho mỗi thời gian; ngoài ra để được tự do với bà xã trong một phòng riêng thì có thể bỏ thêm ra từ 2000 đồng trở lên, tức là giá của 4 bao thuốc lá nhập cảng hiệu 555 hay Jet. Tù nhân cải tạo chưa tốt và không cần mua chuộc thì được gặp gia đình theo tiêu chuẩn một giờ; một giờ gặp mặt gia đình cũng đủ để nói chuyện cần thiết, trước kia chỉ 15 phút.

 

Tình trạng tại trại Xuân Lộc như là sự mệt mỏi của cả hai bên. Cai tù đã mệt mỏi vì đời sống càng khó khăn, họ đã thấy rằng theo mãi lệnh của Đảng chỉ có húp cháo và ăn khoai mì, trong khi họ thấy rõ cấp trên từ thủ trưởng các cơ quan như tiếp liệu, vật tư đều giầu có, nên không muốn hành hạ tù nữa, họ đã thấy bài học căm thù giai cấp mà Đảng dậy cho họ khi bước chân vào trường công an coi tù đã có cái gì lấn cấn sau sự thật nên họ có thể làm ngơ nếu không có gì quá đáng xảy ra và họ có thể thỏa hiệp với tù nhân nếu có lợi, dù nhỏ. Mặt khác, những người tù từng sừng sỏ chống đối ở các trại tù trước có lẽ cũng đã thấy sự chống đối quá khích cũng không đem lại cái gì cụ thể. Đa số những người chống đối không có những lý luận sâu sắc về lý thuyết, về chế độ, về tương lai đất nước, đa số chống vì hận thù, vì bị áp bức, vì tuyệt vọng. Giờ đây tình thế không còn tuyệt vọng, ngày về rõ ràng, đã thấy tình trạng sống ở tù đã có phần thay đổi, nhu cầu gặp gỡ gia đình... những yếu tố đó khiến nhiều người bỏ đường lối đối đầu. Trong khung cảnh chật hẹp của nhà tù, sự việc xảy ra có thể gọi là nhỏ nhặt, nhưng cũng phản ảnh một ý niệm rất cơ bản là khi người ta không thể tiêu diệt được nhau, người ta có thể tìm một công thức tương nhượng nào đó để có thể sống với nhau mà mỗi bên đều tìm thấy cái lợi của mình.

 

Tờ báo Tuổi Trẻ phê phán thi cử tuyển chọn theo lý lịch. Nguyễn Văn Linh nêu vấn đề này từ năm 1985 khi y là Bí thư Thành ủy Sài Gòn, bây giờ y là Tổng Bí thư, y vẫn không giải quyết được vấn đề nhỏ đó, các Tỉnh ủy bảo thủ vẫn không nghe lệnh của Trung Ương. Tình trạng sứ quân, địa phương nào bảo thủ quyền lợi của địa phương đó.

 

Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật nêu trường hợp em Nguyễn Minh Huy, học sinh, quê quán ở Nghĩa Bình, 6 năm liên tiếp thi đậu vào đại học, đậu với điểm số cao nhất, vẫn không được Tỉnh ủy Nghĩa Bình cấp giấy vào Sài Gòn học vì lý lịch cha là Trung úy Quân Đội Cộng Hòa tử trận năm 1962, năm em Huy được sinh ra. Thân nhân bên ngoại của Huy đều là cán bộ cấp Huyện của Cộng sản. Huy phải sống bằng cách đi giữ trâu rồi làm thợ mộc. Phóng viên báo Tuổi Trẻ đã đến Bình Định để điều tra tại chỗ, biết thêm không riêng mình Huy, tại địa phương này có cả gần 100 học sinh thi đậu vào các Đại học Sài Gòn không được Tỉnh ủy cấp giấy phép đi học vì lý lịch là con sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Khi báo Tuổi Trẻ tạo dư luận ồn ào về vụ này thì em Nguyễn Minh Huy bị Thành ủy tỉnh Nghĩa Bình trả đũa bằng cách gọi em đi nghĩa vụ quân sự.

 

Có lẽ chưa bao giờ một chính quyền mà mâu thuẫn nội bộ tồi tệ đến như vậy. Càng thêm niềm tin cho những người chống Cộng sản về sự sụp đổ không thể nào tránh khỏi. Đặt cho người yêu nước mối ưu tư làm sao tổ chức được một lực lượng đối kháng mạnh mẽ, vận động được toàn dân khắp cả nước. Chúng tôi nghĩ đến những người đã khôn ngoan hay may mắn ra đi trước ngày miền Nam sụp đổ. Ở nước ngoài không sợ bị công an đến nhà bắt, có nhiều phương tiện tiền bạc và khả năng trí óc, họ có nghĩ đến đất nước để làm chuyện đó hay không hay là họ bị ru ngủ trong văn minh và tiện nghi vật chất cùng mặc cảm thua sút nên mải chạy đua mong theo kịp người da trắng bản xứ. Và họ có còn chống Cộng hay vẫn còn sợ Cộng sản, tin là không thể lật ngược được tình thế như sự tuyên truyền của Cộng sản và tay sai?

 

Phong trào nói thẳng, nói thật được Nguyễn Văn Linh phát động đi quá đà. Chắc Nguyễn Văn Linh và những tên Cộng sản cùng phe cánh của y chỉ muốn đưa ra những sự sai lầm được gọi là hiện tượng tiêu cực của cán bộ cấp thấp, để rửa bớt bộ mặt bẩn thỉu của chính quyền Cộng sản đang bị dân chúng nguyền rủa và khinh bỉ, nhưng sự uất ức trong xã hội đã có từ lâu nên khi có lịnh cởi mở, nhiều người đã tiến rất xa.

 

Truyện ngắn “Tướng Hồi Hưu” của Nguyễn Huy Thiệp được tù truyền nhau đọc vô cùng thích thú. Có thể nói, khi đưa ra chủ trương cởi mở có giới hạn, Nguyễn Văn Linh nhằm mục đích cứu nguy chế độ đang suy sụp và sự đòi hỏi của quần chúng và sự thay đổi mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Nhưng mặt khác, những biện pháp cởi mở đó cũng cho thấy đã đến lúc Cộng sản biết không còn có thể bưng bít mọi cái xấu họ tạo ra cho xã hội cũng như đã đến lúc phải công nhận một giá trị khác hơn là “tư tưởng Mác Lénine vô địch”. Trong điều kiện đó, dù vẫn bị nhiều ràng buộc, nhưng những nhà văn Cộng sản cũng đã có thể phát biểu ý kiến riêng của con người họ, thay vì trước đây, họ chỉ hoàn toàn phát biểu ý kiến với tư cách là một đảng viên tô hồng chế độ để bảo vệ miếng cơm manh áo, đời sống kinh tế và con đường tiến thân. Con người thứ hai, tức con người đích thực từ lâu bị che dấu, có dịp bùng lên. Nhớ lại từ năm 1975, tiếp xúc với chú Bình, chú luôn luôn nói với cách phân hai “với tư cách đảng viên”, và “với tư cách người kỹ thuật”, bài học đó chú Bình muốn tôi hiểu về con người Cộng sản. Hy vọng trong một hoàn cảnh thuận tiện nào đó, con người đích thực trong các đảng viên Cộng sản nhất tề vùng lên, và khi đó, Cộng sản không còn sử dụng được bộ máy bạo lực đàn áp, đó là ngày chế độ Cộng sản sụp đổ.

 

Nguyễn Huy Thiệp là một người học môn Sử và dậy môn Sử, anh đã hiểu rõ Việt Cộng đã dùng cả sử học để ngụy chứng tính cách chính thống của người Cộng sản trong lập trường yêu nước. Truyện ngắn “Tướng Hồi Hưu”, người nông dân yêu nước đi kháng chiến chống Pháp, thành đảng viên Cộng sản cấp bậc Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn. Trở về nhà, không sống nổi trong gia đình vì ghê tởm cách sống của con trai và con dâu, những thanh niên trí thức thế hệ Cộng sản thứ 3, thế hệ mà Hồ Chí Minh đặt kỳ vọng giáo dục thành con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Kỳ vọng 100 năm trồng người của Hồ Chí Minh kết quả sinh ra một lớp “thú người” sống sa đọa, tàn nhẫn, đê tiện, tôn thờ vật chất và không có lương tâm. Người Cộng sản trưởng thành trong kháng chiến, không sống nổi với người Cộng sản mới được đúc ra chính là con trai và con dâu mình, cùng lớp trai trẻ trong làng, đến nỗi phải quyết định đi tìm cái chết như là tự tử ngoài chiến trường. Đây là một mấu chốt trong tư tưởng chống Cộng. Cộng sản thành công trong cuộc chiến nhờ ngụy trang trong lớp áo dân tộc, làm nhiệm vụ của người dân yêu nước đánh ngoại xâm. Nhưng từ khi chiếm miền Nam, lá bài dân tộc kết thúc, Cộng sản lộ nguyên hình và bắt đầu thất bại ở Việt Nam. Dù Cộng sản đang nắm chính quyền nhưng trong lịch sử Việt Nam, họ đang là kẻ bại trận. Việt Cộng chỉ còn sức mạnh duy nhất là tổ chức đảng và hệ thống công an là phương tiện bạo lực trấn áp và câu thúc con người. Tổ chức Đảng đã lung lay, không còn tin tưởng, nên mạnh tên nào có phương tiện thì hủ hóa tham nhũng, cán bộ cao cấp trở thành chúa trùm phong kiến quan liêu giữ đặc quyền đặc lợi.

 

Truyện ngắn “Tướng Hồi Hưu” của Nguyễn Huy Thiệp không những được tù nhân chúng tôi thích thú mà ngay trong cán bộ cũng có dư luận bàn tán và phân hai phe rõ rệt, báo chí lên tiếng phê bình, kẻ khen đúng muốn phát huy thêm, phe khác buộc tội phải yêu cầu đảng tỏ thái độ.

 

Những vở kịch của Lưu Quang Vũ được trình diễn trên sân khấu, trên màn ảnh truyền hình nên tác động sâu rộng và mạnh mẽ hơn. Lưu Quang Vũ phê phán thẳng tính cách láo khoét bịp bợm của những khẩu hiệu tuyên truyền, những sự hứa hẹn mơ hồ về một đất nước Việt Nam giàu đẹp.

 

Được xem vài vở kịch của Lưu Quang Vũ như “Tôi và Chúng ta”, “Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt”, “Bệnh Sĩ”, tôi đã thấy Lưu Quang Vũ phê phán thẳng vào bản chất của chế độ Cộng sản. Một điều rất khó tin nếu ở thời điểm trước 1987. Điều này khiến tù nhân phấn khởi càng tin tưởng là chế độ Cộng sản sắp phải tàn lụi và con đường chống Cộng của mình là đúng.

 

Sau đó, được tin cả gia đình Lưu Quang Vũ bị tai nạn xe hơi chết, tôi không ngạc nhiên. Lưu Quang Vũ đã đi quá sớm phê phán thẳng bản chất chế độ, trong khi Nguyễn Văn Linh và nhóm cởi mở chỉ muốn hạn chế sự phê phán trên những sai lầm hiện tượng. Ảnh hưởng của kịch sâu rộng hơn văn, nên Lưu Quang Vũ phải chết. Ông ta đã bị giết chết bằng cách sắp xếp một tai nạn. Chế độ Cộng sản thường sắp xếp những cái chết như vậy. Đinh Bá Thi bị giết trong tai nạn ở Hàm Tân, Đinh Đức Thiện bị giết trên đường về nhà, Lê Trọng Tấn bị giết chết đột ngột trước đại hội kỳ sáu khi đang làm Tổng Tham Mưu Trưởng và Trường Chinh cũng bị té lầu chết đột ngột.

 

Cộng sản họ thanh toán nhau rất tàn bạo, đó là họ học bài học Staline, Mao Trạch Đông để cư xử với những người tranh chấp quyền hành. Cái chết của Lưu Quang Vũ là cái chết của một nghệ sĩ can đảm, dù ông là một đảng viên Cộng sản, tôi vẫn phục ông, và tôi tin là chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ từ những người đảng viên Cộng sản đã nhận biết sự sai lầm của họ, nhận biết sự lạc hậu của thuyết Marxism và sự vô ích của đảng Cộng sản, nó không cần thiết để tồn tại, thành phần đảng viên như chú Bình, như Lưu Quang Vũ không ít.

 

Chúng ta từng chống Cộng bằng cách trưng bày cái xấu xa tàn bạo của địch để dân chúng sợ hãi mà tránh, nhưng thời trước chúng ta đã cấm quần chúng tìm hiểu địch. Việc này có thể đúng khi chúng ta đang có chính quyền, mà chính quyền lại không vững và thường bị điều khiển bởi những thành phần bán nước. Trong mặc cảm đó, chúng ta sợ Cộng sản và sợ tài liệu tuyên truyền của họ. Chúng ta đã theo đuổi một cuộc chiến mà chúng ta ít hiểu biết về địch thủ, ngoại trừ những điểm công thức biểu ngữ và khẩu hiệu nhàm chán. Dựa vào chủ trương nói thẳng, nói thật, hy vọng sẽ có nhiều tác phẩm như Tướng Hồi Hưu ra đời, để cổ võ cho sự đối kháng từ trong lòng của hàng ngũ cán bộ Cộng sản làm cho chế độ Cộng sản mau sụp đổ hơn.

 

Tháng 8-1987, báo Nhân Dân đăng tải hai lập trường gần như đối nhau của Nguyễn Văn Linh và Phạm Hùng về số phận của khoảng gần 3000 người cải tạo còn lại. Số 3000 người mà năm 1985, Lê Đức Thọ đã tuyên bố thẳng là không thể cho về được vì nguy hiểm cho chế độ nhưng cuối cùng, Phạm Hùng phải nhượng bộ. Tin tức về thả tù cải tạo được nói hàng ngày trong trại cũng như từ nhà thăm nuôi. Trại Xuân Lộc tổ chức tổ may, may quần áo mới phát cho người tù được tha.

 

Tên trại trưởng gặp San, Ánh và tôi, hắn khẳng định mọi người sẽ được về hết nhưng chúng tôi sẽ không được cứu xét, nhưng rồi Ngọc được thả trong đợt tháng 9-1987, Ánh và San trong tháng 10-87, tôi mới bắt đầu nghĩ đến hy vọng ngày về đoàn tụ với gia đình.

 

Đường lối của Đảng thay đổi mau chóng và làm mất niềm tin của cán bộ. Tên Hoạt, trưởng ban an ninh phân trại nổi tiếng ác ôn nhất, giờ cuối cùng phải phát biểu rất thành thật là “tôi chẳng hiểu ra sao, trước kia chỉ thị quản lý các anh chặt chẽ, sau lại chỉ thị đối xử tử tế, trước thì chủ trương giam lâu dài, bây giờ thì thả hết”, cũng như họ đã từng ngạc nhiên, có lúc Đảng dậy cho họ gọi ông Liên Sô, ông Trung Quốc, rồi đến lúc gọi ông Liên Sô, thằng Trung quốc, họ tự hỏi rồi không biết bao giờ đảng dậy họ gọi ông Trung Quốc và thằng Liên Sô, và cả đế quốc Mỹ nữa, không biết đến ngày nào đảng sẽ dậy họ gọi là ông bạn Mỹ vĩ đại. Trước kia cán bộ Cộng sản tin tưởng chỉ có Đảng Cộng sản quang vinh và bác Hồ vĩ đại, và Đảng tuyệt đối không bao giờ sai lầm và “chân lý đó không bao giờ thay đổi” nhưng ngày nay, người đảng viên Cộng sản biết là không có gì là vĩnh viễn, mọi sự sẽ thay đổi và sẽ thay đổi nhanh chóng.

 

Trại Xuân Lộc được trang bị một số máy thu hình tại ban thông tin văn hóa, số máy được phân phối cho mỗi phòng, được xem mỗi tuần độ hai buổi tối.

 

Cũng trên màn TV, bài trình bày của chủ nhiệm hợp tác xã may mặc của thành phố về những khó khăn của ngành. Anh ta đã nói thẳng một tình trạng bất công và vô lý trong chế độ giá cả ngành ngoại thương. Công may một cái áo sơ mi theo thời giá thị trường lúc đó tại Sàigòn từ 500 đến 700 bạc ngân hàng nhà nước, nhưng bộ ngoại thương được Liên Sô trả 50 đồng 1 chiếc nên chỉ trả công ty 40 đồng và công ty trả lại cho công nhân 30 đồng 1 chiếc. Con số sai biệt rất xa, đó là một trong những bế tắc của ngành ngoại thương của Việt Cộng và tình trạng này tố cáo sự bóc lột của đế quốc Liên Sô đối với các nước chư hầu trong chính sách mà hiến pháp Liên Sô gọi là phân công lao động quốc tế trong khối xã hội chủ nghĩa anh em, và sự phản dân hại nước của đảng Cộng sản Việt Nam đã đem tất cả tài nguyên nhân vật lực trả súng đạn. Hàng hóa Việt Cộng bán cho Liên Sô với giá rẻ mạt và các nhân viên Liên Sô ở Việt Nam đều được hưởng sự ưu đãi về giá cả đó. Liên Sô đã đem tầu qua vơ vét tất cả nông sản kể cả các thứ rau xanh, cây trái nhiệt đới mà ở Liên Sô không có hoặc phải canh tác khó khăn vì thời tiết lạnh lẽo. Trong các cửa hàng quốc tế tại Sàigòn, người Liên Sô chỉ trả 10 đồng bạc Việt Cộng để mua một lon bia xuất khẩu nhãn hiệu Sàigòn trong khi đó giá ngoài thị trường, người Việt Nam phải trả là $800 đồng. Ngoài ra, tất cả cơ quan du lịch, câu lạc bộ quốc tế, những nữ nhân viên phục vụ tại đó, đều bị chính phủ Việt Cộng bắt buộc phải phục vụ xác thịt cho khách ngoại quốc trong khối xã hội chủ nghĩa anh em, họ chỉ được lãnh lương mà không được biết đến sự giao dịch trả tiền giữa khách và ban quản lý. Ngay từ những ngày đầu sau khi chiếm miền Nam, tại Sàigòn và từ từ lan ra các thành phố, Việt Cộng cho tổ thức các cơ sở du lịch do công an quản trị, chúng cho tuyển nữ nhân viên một cách khó khăn, trên các tiêu chuẩn có học vấn và nhan sắc, làm lý lịch an ninh kỹ lưỡng vừa có tính cách làm cho nghề nghiệp có vẻ quan trọng vừa có tính cách đe dọa, vừa trả lương cao hơn các ngành nghề khác, rồi sau đó buộc những nữ nhân viên này làm gái điếm cho khách ngoại quốc, chúng chỉ xảo trá giải thích nhiệm vụ làm điếm đó như một hành động cao cả có tính cách phục vụ đảng và nhân dân vừa cột chặt nhân viên vào nhiệm vụ không thể thôi việc. Vì gái điếm trá hình nay được xem như là một nhân viên tình báo, vả lại chính sự ưu đãi về lương bổng, và một số quyền lợi khác cũng hấp dẫn tính tự nguyện của nữ giới, trong khi bên ngoài xã hội, tìm được một việc làm ổn định ở thành phố là một điều rất khó khăn.

 

Cũng nhờ nói thẳng nói thật, chúng tôi được biết cụ thể vấn đề tham nhũng, và tính cách thư lại ở trong chính quyền Cộng sản như thế nào. Báo Nhân Dân tố cáo những trường hợp gian lận thi cử trong kỳ thi tốt nghiệp trung học của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, văn bằng được cấp bừa bãi cho con của đảng viên và cán bộ Cộng sản chỉ có ghi tên mà không đến trường học. Bộ Giáo Dục của Hà Nội đã làm một cuộc kiểm tra cho thi lại thì 83% con số người được chấm đậu trong năm 1986 không đủ tiêu chuẩn. Trường hợp ăn lương ma trong guồng máy công quyền Cộng sản lên đến con số khủng khiếp, nếu không chính mắt đọc trên tờ báo chính thức của đảng Cộng sản là tờ Nhân Dân thì dù có ghét Việt Cộng đến đâu cũng không thể tin được. Báo Nhân Dân đưa ra con số công nhân viên và người ăn theo có lãnh lương mà không làm việc ở tỉnh Hải Hưng là 38 ngàn người và tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng xấp xỉ gần 40 ngàn. Những khám phá kinh khủng thời Đệ Nhị Cộng Hòa, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư Lệnh Quân Đoàn IV bị tố cáo có 40 ngàn lính ma ở 16 tỉnh vùng 4 chiến thuật đã làm chấn động dư luận cả nước sang đến nước Mỹ. Bây giờ sự tham nhũng hối mại quyền thế của chính quyền Cộng sản đã lên đến mấy chục lần hơn. Đại tá Lâm Quang Chính, Tỉnh trưởng Biên Hòa chỉ dùng áp lực để cho một người con trai ông ta được chấm đậu tú tài đã phải bị bãi chức, nay thì Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng cho 83% con em của họ được cấp bằng mà không phải đi học. Rồi chính những người này được ưu tiên vào đại học và tuyển dụng vào các ngành hưởng lương bổng và có quyền lợi hơn người dân bình thường khác. Những người chống Cộng không cần biết là sự nói thẳng nói thật là màn trình diễn cứu nguy chế độ hay không, đó là việc của Việt Cộng và Nguyễn Văn Linh. Người chống Cộng chỉ biết đó là chứng liệu đáng kể để có niềm tin khẳng định là chế độ Cộng sản phải sụp đổ, không có lý do để tồn tại và tin chắc những tài liệu đó được công bố thì sự bất mãn của người dân đối với chế độ càng gia tăng, sự sợ hãi của cán bộ Cộng sản khi đọc những tài liệu đó thì niềm tin đối với đảng và người lãnh đạo vốn đã giảm sút đi nhiều. Đó là những yếu tố thắng lợi của lực lượng đối kháng, nếu những người chống Cộng kết hợp được một lực lượng.

 

Sự thất bại trong quản lý của Cộng sản là một vấn đề rất căn bản làm cho cả chế độ sụp đổ không riêng gì ở Việt Nam. Ngay tại Liên Sô, thành trì của xã hội chủ nghĩa, những bế tắc về quản lý cũng là vấn đề then chốt. Các lý thuyết gia kinh tế Cộng sản tự hào chế độ của họ không có thất nghiệp nhưng thực tế nền kinh tế của Cộng sản là tình trạng bán thất nghiệp.

 

Đọc tờ Nguyệt San Spoutnik của Liên Sô nói về một cuộc cách mạng quản lý trong công ty Hỏa Xa của Cộng Hòa Liên Bang Beylorussia. Tài liệu viết Công Ty Hỏa Xa có 6000km đường tàu được điều hành bởi hơn 100 ngàn nhân viên và công nhân (trung bình trên 100 người cho 6km). Với số lượng công nhân và nhân viên khổng lồ đó, công ty không có khả năng tài chính để trả lương cho họ đủ sống, do đó Cộng Hòa Beylorussia và công ty đã làm một cuộc cách mạng quan trọng, cải cách quản lý, giảm thiểu được 30 ngàn công nhân - con số này sau đó được tái phối trí vào các ngành lao động khác. Cuộc cách mạng quản lý đó là một hứng khởi cho chương trình Perestroika và Glasnost của ông Gorbachev, và chính Gorbachev đã đưa ra thành tích ở công ty Hỏa xa đó ra thảo luận tại Sô Viết tối cao xem như một tấm gương sáng cho toàn thể Liên Sô. Qua tài liệu trên thấy được không riêng gì ở Việt Nam mà toàn thể khối xã hội chủ nghĩa đang gặp tình trạng tắc nghẽn quản lý. Mỗi cơ quan chính quyền cũng như các cơ sở kinh tế phải gánh chịu hai hệ thống nhân viên hành chánh và đảng ủy, mỗi hệ thống đều tuyển rất nhiều người để làm việc không có hiệu năng và sự tương quan trình báo, hội họp của hai hệ thống làm trì chậm tất cả mọi sinh hoạt, đưa đến đặc tính về nhân sự của khối xã hội chủ nghĩa, là cán bộ nhân viên họ chỉ kéo dài công việc cho đến hết giờ, qua ngày, qua tháng để sau đó nhận một đồng lương chết đói. Tài liệu còn cho thấy một công việc tầm thường là làm giảm nhân số vô ích tại một công ty Hỏa xa được Gorbachev xem như là một cuộc cách mạng tiêu biểu cho toàn thể Liên Sô, dù bản chất của cuộc “cách mạng” đó cũng chỉ là một sự “đá bùn sang ao”, số nhân sự được loại ra lại được phối trí vào các cơ quan khác. Đó cũng là một cái vòng luẩn quẩn về quản lý của khối xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế èo uột không có công ăn chuyện làm đưa đến tình trạng đảng viên và cán bộ phải bám vào các cơ quan chính quyền và xí nghiệp quốc doanh để sống - vì một công việc làm có giá trị xã hội cao đưa đến sự lạm dụng của nhân viên có thẩm quyền cũng như chính sách của đảng là ưu đãi cho đảng viên và thân nhân của họ. Đảng viên và thân nhân chắc chắn được ưu đãi nên không cần chú tâm học tập hay rèn luyện chuyên môn - không có khả năng nên vào cơ quan phải kết bè kết phái để bảo vệ quyền lợi, đồng thời hiệu năng công tác không có, chính sách ưu đãi đảng viên thực hiện bằng chương trình bổ túc văn hóa tại chỗ cho đảng viên cán bộ, vừa đi làm vừa đi học, mỗi năm thăng tiến 3, 4 lớp nhưng thực chất của nền giáo dục chỉ là sự bịp bợm (trường hợp thi cử của Quảng Nam-Đà Nẵng), cứ thế hết tệ trạng này kéo theo tệ trạng khác, đó là một quy luật tất yếu của một chính quyền và một đảng độc tài nắm quyền cai trị, qui luật đó tác dụng mạnh mẽ hơn ở những nước kém mở mang, đó là sự thất bại từ bản chất của chế độ Cộng sản không phải là hiện tượng như họ đã biện minh.

 

Người Cộng sản thường cho những khuyết điểm của chế độ họ là những hiện tượng tiêu cực - nhưng chúng ta cứ tưởng tượng một con người bị một vết ghẻ thì vết ghẻ được xem như một hiện tượng của một thân thể (bản chất) sạch sẽ khỏe mạnh, nhưng nếu một thân thể đầy cả những mụn lở, và tình trạng đó kéo dài suốt đời con người từ sinh ra đến lúc chết hãy còn ghẻ hay chết vì bệnh ghẻ lở đó thì ghẻ lở không xem là hiện tượng của thân thể khỏe mạnh được. Khi trả lời câu hỏi: “Bao giờ có chế độ Cộng sản?” - Lénine đã viết: “Chế độ Cộng sản thành công khi mọi người trong chế độ biết tiết kiệm từng Put hàng hóa, khi thấy một đơn vị hàng nhỏ rơi vãi thì biết tự động đem cất vào kho”. Đó là một mơ tưởng của Lénine đối với con người trong chế độ xã hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa. Karl Marx bàn đến Cộng sản chủ nghĩa, trong xã hội đó mọi người đều biết tự giác, nên tự đóng góp vào việc quản lý xã hội nên hình thức chính quyền bị thủ tiêu.

 

Mọi người, kể cả đảng viên trong chế độ xã hội chủ nghĩa không ý thức tự giác như Lénine phân tích, ngược lại họ chỉ phát triển được tối đa khía cạnh xấu của con người. Con người trở nên đê tiện, ích kỷ, lừa đảo, ngu dốt, hối mại quyền thế, nghĩa là mọi tính xấu, vì chỉ như vậy họ mới sống vững trong xã hội; nếu họ chỉ cần biểu lộ tính tốt thẳng thắn, cương trực, trọng danh dự và có lương tâm thì chỉ có hai con đường đi đến là chết và tù.

 

Do đó, chế độ cộng sản thất bại ngay từ đầu về phương diện nhân sự - đưa đến tình trạng xã hội suy thoái - không thể nào tháo gỡ. Không phải chỉ Việt Nam sau chiến tranh chậm tiến, mà ngay cả ở tại Liên Sô sau hơn 70 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa gọi là thành công, mà mỗi năm dân Liên Sô vẫn thiếu nông sản trong khi 30% số lúa mì chín bị hư rục ngoài đồng hay vương vãi trên đường chuyên chở hay mục nát trong kho. Điểm rõ ràng nhất trong bất cứ nước xã hội chủ nghĩa nào cũng giống nhau là dân vẫn phải đói, lương bổng không đủ ăn, nhưng tài nguyên bị phí phạm.

 

Đó là điểm mấu chốt của Gorbachev hay Đặng Tiểu Bình muốn thay đổi, muốn cải cách nhưng tùy hoàn cảnh của mỗi nước và tham vọng cùng thế đứng chính trị của mỗi cá nhân, mỗi người thi hành ở mức độ khác nhau và họ sẽ gặp những khó khăn khác nhau và đạt được những kết quả khác nhau.

 

Hoàn cảnh cộng sản Việt Nam còn khó khăn hơn Liên Sô hay Trung Quốc. Vì đảng Cộng Sản Việt Nam mới nắm được toàn bộ chính quyền sau một cuộc chiến đấu lâu dài và chết chóc, nên họ đang gặp một trở ngại về nhân sự vô cùng lớn - hầu hết cán bộ và đảng viên đều là cán bộ chiến đấu, không được huấn luyện quản trị và xây dựng - bản chất loại cán bộ này vừa tàn bạo vừa dốt nát. Ngày nay họ là kẻ chiến thắng và đang ngồi thụ hưởng trên sự chiến thắng; bệnh công thần đưa đến tự mãn tự đắc, lạm dụng chức vụ, hối mại quyền thế. Do đó tính bảo thủ trong guồng máy Cộng Sản Việt Nam không phải chỉ ở những người già nua mà còn ở cả trong đa số đảng viên ở mọi cấp. Bảo thủ vì hai yếu tố chính là dốt nát và đặc quyền đặc lợi. Thành ra lá bài cải cách của Nguyễn Văn Linh không thể tiến xa được vì trước hết Linh cũng là người nằm trong hai yếu tố dốt và đặc quyền, thứ nữa y là người nắm quyền Tổng Bí thư nhưng không đủ sức mạnh và không nắm được đa số. Chức Tổng Bí Thư của y do áp lực của Liên Sô đặt nên cho nên trong tình trạng đó, mọi nỗ lực cải cách ở Việt Nam hiện tại chỉ là nhu cầu của một trào lưu, đồng thời sự bắt buộc phải làm để gỡ rối về những thất bại quản lý, đồng thời rửa mặt để hy vọng nhận đầu tư và giải tỏa bị cô lập chính trị và bao vây kinh tế. Khi gặp các khó khăn nội bộ, Đặng Tiểu Bình xoay qua công thức cải cách kinh tế nhưng vẫn củng cố chính trị - hai mục tiêu này rất mâu thuẫn nên chỉ là một giải pháp gượng ép. Giữ độc tài chính trị nhưng nhận được sự đầu tư và trợ giúp kinh tế của Tây Phương là giấc mơ của những tên lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam - một giấc mơ đầy tham lam đúng như bản chất của họ, muốn được tất cả mà không muốn mất một tí gì, muốn lời thật nhiều nhưng không muốn bỏ vốn vì bản chất của họ là một bọn cướp.

 

Để thực hiện ý định thu hết đầu tư ngoại quốc, luật đầu tư được ban hành ngày 1 tháng 1 năm 1988. Từ ý muốn đến kết quả là một khoảng đường rất xa. Không phải chỉ ban hành một đạo luật là chuyển từ kinh tế tập trung xã hội chủ nghĩa sang kinh tế thị trường. Phát triển kinh tế ở Việt Nam đang gặp các trở ngại sau:

 

1. Hệ thống pháp luật không bảo đảm cho quyền tư hữu. Hiến pháp xã hội chủ nghĩa xác định quyền lãnh đạo duy nhất của đảng cộng sản (điều 4), chủ trương chuyên chính vô sản (điều 2), tư tưởng Mác xít Lê Nin chỉ đạo (điều 19), không công nhận quyền tư hữu v.v... Những điều khoản hiến pháp này còn tồn tại thì những bảo đảm về quyền tư hữu của luật đầu tư thành bấp bênh.

 

2. Chưa có đạo luật lao động để minh định rõ quyền hạn, quyền lợi và trách nhiệm của chủ thợ. Công nhân được xem là lực lượng nòng cốt của chế độ; đảng cộng sản lãnh đạo công nhân qua tổ chức công đoàn. Trong hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa, công nhân trên danh nghĩa là “chủ” của các nhà máy xí nghiệp quốc doanh nhưng họ không có quyền đình công. Nhưng đối với một xí nghiệp tư nhân thành lập trên luật đầu tư, lực lượng công nhân với sự lãnh đạo của công đoàn (đảng cộng sản) trở thành một lực lượng quá mạnh, khuynh loát, đe dọa chủ nhân không lường trước được những gì xảy ra sau khi nhà máy, xí nghiệp đi vào sản xuất.

 

3. Hệ thống tòa án và các viên chức tòa án chưa quen với nguyên tắc trọng pháp. Bộ Tư Pháp mới được tổ chức vào năm 1979, nhưng thói quen giải quyết bằng công an trở thành một truyền thống độc tài khó thay đổi. Cho dù luật lệ ban hành nhưng trong thời gian ngắn, viên chức tư pháp vẫn lúng túng không thể đóng vai trò trọng tài phân xử. Ngoài ra những viên chức này là đảng viên cộng sản nên họ sẽ nghe lệnh đảng hơn là tôn trọng công lý. Chưa có tổ chức luật sư đúng nghĩa là một luật sư đoàn của những người có khả năng về luật học và độc lập, được bảo vệ tính tự do trong khi bênh vực quyền lợi của các bên tranh tụng trước tòa án. Đoàn luật sư hiện có mới được tổ chức từ năm 1987, do các hội đồng nhân dân đề cử, cũng gồm các đảng viên cộng sản không căn cứ vào khả năng hiểu biết về luật pháp.

 

4. Tổ chức chính quyền không thống nhất từ trung ương đến địa phương, chính quyền cộng sản từ trung ương tập quyền mạnh mẽ, đến tình trạng sứ quân. Sự thay đổi này không phải do định chế tổ chức, mà do sự phân hóa trong hàng ngũ lãnh đạo, sự tranh chấp quyền lợi phe nhóm. Hiện trạng hành chánh trở thành kỳ quái, mỗi cơ quan chính quyền, mỗi cấp, mỗi đơn vị đều bảo thủ và luôn luôn muốn chứng tỏ quyền lực. Không ai đủ khả năng giải quyết và điều hợp, đã đi xa hơn cả tình trạng thư lại cửa quyền. Với hoàn cảnh đó, nhà đầu tư luôn luôn phải lúng túng và tốn thì giờ cũng như tiền của hối lộ. Nhà đầu tư sẽ gặp phải tình trạng bấp bênh không ổn định, không thể thiết lập kế hoạch sản xuất có lời. Với thực trạng hành chánh của chính quyền Việt Cộng, người đầu tư sẽ gặp trường hợp của Thủ tướng cho phép, nhưng cán bộ các tỉnh khó dễ làm trì chậm, hoặc giấy phép của Bộ A cấp khi có việc liên hệ Bộ B bị bộ này bác. Nhất là tình trạng “sứ quân” của chính quyền cấp tỉnh. Nhà đầu tư sẽ thấy không ai giải quyết nhanh chóng cho họ những điều cần thiết.

 

5. Hạ tầng cơ sở kinh tế khiếm khuyết: đây là vấn đề căn bản đang bị bế tắc, chính quyền Việt Cộng cần có hàng chục tỉ canh tân phi trường, bến cảng, kho vựa, xa lộ, thiết lộ, điện lực, điện thoại, khách sạn. Đối với nhà đầu tư, thì giờ là tiền bạc, các hệ thống hạ tầng cơ sở này hiện đang ở trong tình trạng lạc hậu và hư hỏng. Nhà máy xí nghiệp, văn phòng không thể thiếu điện. Điện lực hiện nay không bảo đảm lúc nào bị cắt. Cái vòng luẩn quẩn khó thoát, không có đầu tư thì không có ngoại tệ để xây dựng thì không thu hút được đầu tư.

 

6. Các định chế tài chánh như ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm chưa được tổ chức. Chính quyền đã thử nghiệm tổ chức một số ngân hàng quản trị theo tư doanh kết quả bị phá sản vì không có bộ máy quản lý. Các ngân hàng trở thành tổ chức bịp bợm, lường gạt hàng tỉ đồng tiết kiệm của người dân. Các định chế tài chánh phải được trang bị máy móc điện tử tối tân do nhân viên được huấn luyện thành thạo sử dụng. Cả hai điều kiện này đều thiếu. Phải cần số tiền lớn và thời gian. Hệ thống giáo dục dành đặc quyền cho đảng viên và gia đình của họ hiện nay, đưa đến kết quả là những người tốt nghiệp đại học và trung học chuyên nghiệp kém khả năng, không thông thạo ngoại ngữ. Nhất thời không thể đào tạo họ thành cán bộ quản lý giỏi và khá.

 

7. Thị trường nhân công rẻ nhưng kém hiệu năng. Điều hấp dẫn duy nhất hiện nay là thị trường nhân công rẻ nhưng đó chỉ là bề mặt. Đi sâu vào thực tế gặp trở ngại:

 

- Công nhân quen thói lề mề, chỉ làm hết giờ mà không làm hết việc, làm láo báo cáo hay. Họ không thích hợp cho công việc tại các nhà máy, xí nghiệp tân tiến là phải làm với năng suất cao.

 

- Nếu không giải tỏa được đặc quyền của cộng sản, chủ nhân không được trực tiếp tuyển dụng nhân công, nhà nước độc quyền giới thiệu đảng viên hay thân nhân đảng viên cộng sản vào các nhà máy, xí nghiệp, thành phần này càng kém năng suất hơn và tương lai sẽ có nguy cơ đình công, lủng củng hoặc đấu tranh làm tê liệt sinh hoạt. Ngoài tình trạng kém đói lâu ngày, công nhân Việt Nam không đủ sức khỏe làm việc mỗi ngày 8 giờ với mức độ lao động nhà máy đòi hỏi: tình trạng ốm đau bệnh tật của họ khiến nhà đầu tư phải chi phí nhiều. Thói quen ăn cắp của công nhân trở thành nếp, xí nghiệp khi hoạt động phải thiết lập hệ thống kiểm soát. Tóm lại, nhân công rẻ nhưng các chi phí cao, và năng suất thấp. Ưu điểm nhân công rẻ không còn hấp dẫn. Thực tế, người công nhân không được nhận đúng đồng lương của nhà đầu tư trả cho họ. Qua trung gian nhà nước, vì chính sách điều hòa thị trường nhân công, họ chỉ lãnh một phần. Nhà đầu tư lúng túng không thể dùng chính sách công xá để kích thích tăng năng suất.

 

Cộng sản thường dùng lý luận hiện tượng và bản chất để giải thích những sai lầm của họ. Qua kinh nghiệm quản lý các chính quyền cộng sản từ Liên Sô hơn 70 năm, Trung Quốc 40, Đông Âu 45 năm, dù với hoàn cảnh kinh tế như thế nào thì xã hội cũng gặp bế tắc. Tình trạng tham nhũng đặc quyền đặc lợi, thói quen làm việc lề mề không năng suất, tình trạng sứ quân mâu thuẫn giữa trung ương và địa phương v.v... là hậu quả tất yếu của nền chính trị độc tài, quyền lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản. Đó không phải là hiện tượng.

 

Người ta có thể biện luận là Nam Hàn tiến bộ nhờ Tổng Thống Phác Chính Huy độc tài, Đài Loan tiến bộ nhờ độc quyền lãnh đạo của Quốc Dân Đảng, Tân Gia Ba tiến bộ là nhờ ông Lý Quang Diệu nắm vững chính quyền. Đây là một ngụy biện hời hợt. Ổn định chính trị là một điều cần yếu để phát triển kinh tế, hấp dẫn đầu tư ngoại quốc. Các chính quyền Nam Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba có chính sách cứng rắn để nắm vững trị an, chống lại hoạt động lật đổ. Nhưng mọi định chế xã hội đều nhắm vào việc xây dựng thể chế dân chủ, trong đó tôn trọng quyền tư hữu và tự do kinh doanh. Điều hiển nhiên là các chính quyền này không thể so sánh với sự độc tài của các chính quyền cộng sản. Nếu nói là có độc tài mới đảm bảo được phát triển kinh tế thì trở lại vấn đề từ đầu, là các chính quyền cộng sản đã không thất bại.

 

Do đó, lý luận cởi mở kinh tế mà không thay đổi chính trị trở thành một ước mơ không thực hiện được của các lãnh tụ cộng sản. Không thể có hòa hợp giữa chính trị cộng sản và kinh tế tư bản. Đây chỉ là một cuộc hôn nhân gượng gạo, khi áp dụng sẽ không phát huy được ưu điểm của hai thành phần, ngược lại chỉ tăng thêm khuyết điểm. Vì áp dụng kinh tế thị trường, nhắm vào lợi nhuận, các cơ quan nhà nước cộng sản sẽ đua nhau kiếm lời, họ lại tham nhũng nhiều hơn, đặc quyền đặc lợi nhiều hơn vì vẫn giữ trong tay sức mạnh chuyên chính. Kinh nghiệm của chính quyền Việt Cộng trong những năm vừa qua, chỉ mới nới lỏng áp dụng chế độ hạch toán kinh tế, các địa phương và các cơ quan nhà nước đã lạm dụng làm giàu riêng tư, làm cho xã hội hỗn loạn thêm.

 

Bốn mươi năm qua, cuộc chiến tranh ý thức hệ đã ngã ngũ, chế độ độc tài với nền kinh tế chỉ huy đi đến chỗ bế tắc. Nền dân chủ đa đảng với kinh tế thị trường không phải là hoàn hảo nhưng có ưu điểm phục vụ được con người và sự phát triển của đất nước. Vấn đề Việt Nam hiện nay thật rõ rệt, hoặc tiếp tục đóng cửa, độc tài chính trị và độc quyền kinh tế thì nhân dân tiếp tục chịu đựng nghèo khổ cho đến khi bùng nổ ra cuộc cách mạng. Hoặc sớm dứt khoát từ bỏ chế độ cộng sản, thực hiện dân chủ.

 

Luật đầu tư và các cải cách sẽ không đem lại thành công. Không giải quyết vấn đề căn bản là từ bỏ cộng sản để dân chủ hóa thì luật đầu tư hay các biện pháp kinh tế chỉ là sự sửa đổi nửa vời.

 

Hiện chính quyền Việt Cộng bị bao vây kinh tế và cô lập chính trị, họ muốn phá vỡ sự kềm hãm đó bằng một số hành động và biện pháp, kể cả việc có thể sửa đổi một vài điều khoản hiến pháp, nhưng thâm tâm của những người lãnh đạo cộng sản già nua vẫn muốn duy trì độc quyền lãnh đạo cộng sản. Ước mơ của Đặng Tiểu Bình đang được Nguyễn Văn Linh ươm mộng. Xã hội cộng sản đã tan rã, tổ chức cộng sản đã hết lý tưởng để gắn bó. Họ chỉ còn dính dáng với nhau bởi đặc quyền đặc lợi mà có một số người được hưởng, tuyệt đại đa số nhân dân kể cả đa số đảng viên phải chịu đựng hậu quả trầm trọng của một đất nước đang sụp đổ, một tình trạng kinh tế suy kiệt tồi tệ.

 

Những cải cách nửa vời của các lãnh tụ cộng sản tưởng là cứu vãn được quyền lợi của họ, thực tế sẽ là một cơ hội để bùng nổ của đấu tranh.

 

Cuối tháng chạp năm 1987, vợ tôi lên thăm báo tin Đoan Trang, con gái út của tôi đã vượt biên đến Thái Lan. Để Trang đi một mình ra ngoại quốc khi bé mới 13 tuổi, chúng tôi đau xót lắm, nhưng không còn cách gì khác tốt đẹp hơn cho gia đình tôi. Chúng tôi đã mất tất cả từ khi miền Nam sụp đổ, chỉ mong cho con được ra ngoại quốc mới có thể tiếp tục học lên được, để chúng tự xây dựng cuộc đời của chúng nó. Ở tù, tôi không còn một chút hy vọng nào, ngoài sự mơ ước cho vợ con, anh em được đi thoát ra ngoại quốc, đi được người nào tốt người đó, tất cả mọi người thân đều đi được, nỗi mừng càng lớn dù còn phải ở lại một mình trong trại không ai viếng thăm. Sự chia ly nào không buồn, nhưng đã lỡ không trọn vẹn với đất nước, với gia đình, tù cải tạo phải chấp nhận hết.

 

Tôi còn được may mắn là có hai đứa con đều lần lượt vượt biên an toàn. Vào trong trại chia sẻ niềm vui riêng với anh em, bạn bè mừng cho tôi, người nào cũng ao ước cho con mình được ra đi thành công như vậy.

 



 



Chương Mười Tám
 

Tôi được thả ra khỏi trại cải tạo Long Khánh ngày 13 tháng 2 năm 1988 tức là 26 tháng chạp năm Đinh Mão. Lần thả tù này được quảng cáo rầm rộ để chứng tỏ với dư luận trong và ngoài nước chính sách cởi mở của Nguyễn Văn Linh. Chúng tôi được xe đưa đến tận Ty Công An Quận Hai để nghe Phó Giám đốc Công An Thành Phố nói chuyện. Ngoài nội dung tuyên truyền về chính sách cởi mở, y lưu ý chúng tôi hai điểm, thứ nhất là đừng quá ngạc nhiên về sự thay đổi của xã hội và ngay cả gia đình chúng tôi, thứ hai đừng lo lắng về cán bộ công an phường quận, cán bộ những đoàn thể nhân dân sẽ thường xuyên thăm viếng chúng tôi tại nhà. Chúng tôi sẽ không bị quản chế và được nhập hộ khẩu tại thành phố ngay sau dịp nghỉ Tết. Không bị quản chế và được nhập hộ khẩu là những thay đổi rất quan trọng đối với người tù cải tạo được về. Trước đây một người tù về địa phương phải chịu chế độ quản thúc rất chặt chẽ, mỗi người phải giữ một quyển sổ ghi công việc hàng ngày và sự quan hệ tiếp xúc với người khác trong ngày, cuối mỗi tuần phải đưa lên công an phường để đóng dấu chứng nhận. Muốn đi khỏi địa phương phải xin phép, và chỉ được cho đi trong thời gian vài ba ngày. Người bị quản chế thường bị huy động đi làm những công việc lao động nặng nhọc và bị nhục nhiều hay ít tùy tính tình của những tên công an phường, xã, luôn luôn muốn chứng tỏ quyền uy trên người chiến bại. Có được hộ khẩu tại Sài Gòn không phải là điều dễ; trước đây người tù cải tạo về bị bắt buộc phải đi kinh tế mới, nếu nấn ná sống ở Sài Gòn là tạm trú và tùy vào khả năng xoay xở đút lót của gia đình cho trưởng công an phường xã và công an khu vực.

 

 

Ra khỏi cổng Ty Công An Quận Hai không có người nhà trong đám đông đi đón thân nhân, tôi gọi một chiếc xích lô để về nhà ở đường Trương Minh Ký, Gia Định. Chợ Bến Thành nhộn nhịp người đi lại nhưng hàng quán lèo tèo, không có dãy hàng bán quảng cáo đồ Tết nên kém màu sắc và mất vui. Người đi bộ, đi xe đạp, một ít đi xe honda và thỉnh thoảng mới có một chiếc xe hơi của nhân viên nhà nước hay các cơ sở kinh doanh thương nghiệp hợp doanh; tư nhân chưa được phép sử dụng xe hơi.

 

Người phu xe nói Sài Gòn mới có sinh khí trở lại trong khoảng hơn một năm kể từ đầu năm 1987, tư nhân được mở cửa hàng buôn bán lẻ, hàng ngoại quốc gởi về theo những thùng quà gia đình được bày bán công khai, trước kia chỉ bán chui ở chợ trời. Nếu có tiền có thể mua được nhiều loại hàng tiêu dùng của khắp các nước trên thế giới, nhưng rất ít người làm ra tiền, trừ những người có thân nhân ở ngoại quốc gởi cho đều đặn thì có thể có mức sống sung túc hoặc là sung sướng, hoặc dân buôn bán chợ trời mánh mung và cán bộ chính quyền có lợi tức bất hợp pháp. Hầu hết người dân đều đói khổ, tiền làm không có, giá hàng hóa lương thực khá cao. Ở thành phố, nghề đạp xích lô được xem là có lợi tức khá nhất, nhưng một chiếc xích lô thường là do hai người thay phiên nhau đi; những người cải tạo về sớm, bác sĩ, dược sĩ, trí thức đều đạp xích lô, nhưng sau công đoàn thành phố thấy nghề xích lô nhiều lợi tức nên không cấp giấy phép cho những người đi cải tạo về sau, vả lại số lượng xích lô có giới hạn, nên dù không bị ngăn cấm thì cũng không thể tìm được người phu xe có xe rảnh cho mình đạp ở thì giờ họ nghỉ ngơi. Tù cải tạo về chuyển qua nghề xe ôm, gia đình nào còn giữ được chiếc honda có thể kiếm sống qua ngày, nếu phải dùng xe đạp để chở người thì quá vất vả và ít khách.

 

Xe chạy qua đường Đoàn Thị Điểm, trên lề đường gần trường nữ trung học Gia Long mặt lề rộng nên người nằm ngủ la liệt, có rất nhiều đàn bà và trẻ con nằm ngủ, có người mặc cả áo dài nằm ngủ, đầu gối trên một bao nhỏ và che nắng bằng nón lá. Đó là dân đi vùng kinh tế mới trở về, không nhà cửa, sống lang thang gầm cầu xó chợ, công viên lề đường. Tình trạng này kéo dài từ năm 1976 đến nay trở thành vấn đề nan giải. Lúc đầu công an hành quân bắt nhốt, đưa trở về vùng kinh tế mới hoặc đưa đi cải tạo, nhưng những biện pháp đó chỉ có hiệu quả với đàn ông, đàn bà và trẻ con thì họ vẫn kéo dài từ năm này qua năm khác, cuối cùng rồi công an cũng mệt mỏi làm ngơ. Những người này kiếm ăn bằng đủ thứ nghề, con nít thì bới đống rác tìm phế liệu phế phẩm để bán, hoặc móc túi, cướp giật. Phụ nữ còn trẻ thì lén lút hành nghề mãi dâm, họ rước khách và giải quyết tại bất cứ nơi nào, nhiều khi không cần phòng, nơi góc đường tối, cầu tiêu công cộng, các công viên, nhất là vườn Tao Đàn, công viên Chiến Thắng trước Tổng Tham Mưu cũ, công viên Hòa Bình tại ga xe lửa giữa đường Lê Lai và Phạm Ngũ Lão. Những em bé gái còn quá nhỏ chưa bán được thân, phải làm “đào xào”, tức là chỉ để cho đàn ông sờ mó thân thể lấy tiền nuôi thân và nuôi gia đình.

 

Những người phu xích lô ở thành phố thường là những người rất rành về mặt trái của sinh hoạt xã hội, anh tiếp tục kể cho tôi nghe về tình trạng mãi dâm phổ biến quá nhiều ở thành phố, hơn hẳn thời kỳ trước 1975, tình trạng thê thảm đến nỗi có em làm nghề từ lúc mười ba, mười bốn tuổi và có những trường hợp oái oăm khi chính người chồng thất nghiệp phải đi rước mối và canh cửa cho vợ tiếp khách. Tôi nghe người phu xích lô nói mà nổi da gà; tôi không thể tưởng tượng xã hội suy sụp đến như vậy. Trước năm 1975, Việt Nam đang chiến tranh, với hơn một triệu lính và hơn nửa triệu quân đội đồng minh xa gia đình, tình trạng mãi dâm đã quá trầm trọng, và chính cộng sản đã xem tệ nạn này là một lợi khí tuyên truyền nhưng cũng chưa có những trường hợp bi đát như anh phu xe đã kể. Sau hơn mười năm nắm chính quyền, cộng sản có còn đổ cho tệ nạn mãi dâm là “tàn dư của chế độ Mỹ-ngụy” hay không? Và chắc chắn đó không phải là sự thay đổi xã hội mà tên phó giám đốc Công An Thành Phố muốn nói với chúng tôi. Tôi hiểu điều hắn muốn nói với chúng tôi là sự đổ vỡ của gia đình một số người tù, một điều không thể tránh khỏi khi thời gian tù đày quá lâu, hoàn cảnh xã hội thay đổi đột ngột, khó khăn kinh tế dồn dập và sự cố tình của đảng cộng sản muốn đẩy mạnh sự phá vỡ gia đình của tù nhân trong chính sách trả thù và làm thay đổi tận gốc xã hội miền Nam.

 

Ở nhà được hai hôm, bạn bè cũ đến thăm, Trần Quí Hùng và Trịnh Thiều cho biết Kiều Trinh từ Hoa Kỳ về muốn mời tất cả bạn bè còn ở Sài Gòn dự bữa tiệc họp mặt tối 28 tháng Chạp tại nhà hàng Nguyễn Tri Phương. Hầu hết bạn bè trong những khóa học gần với Kiều Trinh còn ở Sài Gòn đến tham dự, khoảng gần 50 người. Kiều Trinh du học từ 1972 và tốt nghiệp bằng tiến sĩ kinh tế năm 1975, từ Mỹ về Sài Gòn đãi tiệc họp mặt bạn bè công khai cũng là một điều lạ, nhiều anh em tò mò đi tham dự vì có nhiều người tôi biết không thân Kiều Trinh lắm, vả lại trong hoàn cảnh chính trị tại Việt Nam, dù có chính sách cởi mở cũng là một điều đáng ngại.

 

Đối với tôi, đây là một cuộc vui, có dịp để cùng một lúc gặp gỡ nốt số đông bạn bè sau nhiều năm xa cách và để hiểu biết cuộc sống của họ trong xã hội mới ra sao. Hầu hết đều đã qua nhiều lần vượt biên tiêu tan hết tài sản, làm đủ mọi nghề để sống, tương đối khá nhất là nghề bán thuốc tây ở chợ trời.

 

Biết anh em thắc mắc về mục đích buổi họp mặt, Kiều Trinh luôn miệng nhắc nhở bạn bè đây chỉ là một cuộc họp gặp gỡ riêng tư, trên tình bạn mà thôi; sau khi gặp chúng tôi Trinh sẽ về Huế thăm nhà và đi du lịch Hà Nội cho biết.

 

Tôi hỏi thăm tin tức về các bạn bè đang sống ở Mỹ, Trinh trả lời tôi rằng anh ít giao thiệp bạn bè cũ vì bị họ tẩy chay, họ nghĩ Trinh theo Việt Cộng. Thấy bạn dấu đầu hở đuôi tôi hỏi tiếp:

 

- Bạn ở nước ngoài, là người học thức, chắc là theo dõi và hiểu nhiều về những vấn đề thời cuộc, chính quyền cộng sản đang công bố chính sách đổi mới, vậy tôi có cần vượt biên không?

 

Trinh hỏi lại tôi:

 

- Bạn ở tù lâu quá nên cay cú chăng?

 

Không giận vì câu hỏi quá ấu trĩ của một người bạn có học thức và bằng cấp cao, tôi thấy cần phải cho bạn hiểu rõ hơn nên kiên nhẫn nói tiếp:

 

- Bạn hỏi câu đó là bạn khinh tôi quá, kẻ chiến bại bị kẻ chiến thắng cầm tù mà cay cú là không công bằng. Những người tù chúng tôi không tiếc vì bị ở tù nếu thực sự chế độ cộng sản cần thiết cho một giai đoạn lịch sử dân tộc, và có thể phát triển được đất nước. Đằng này ngược lại, trong hơn mười ba năm qua, toàn thể xã hội đi xuống và đa số người dân đều biết rõ điều đó.

 

Trinh nói:

 

- Sau mười mấy năm cải tạo bạn vẫn còn bướng như thời sinh viên.

 

Tôi chọc bạn:

 

- Cám ơn bạn đã khen tôi, một tên cán bộ trong trại tù cũng đã nói với tôi như thế. Bạn đậu tiến sĩ mà cũng chỉ nhận xét được như một tên cán bộ quản giáo thôi thì ít quá. Tôi hỏi bạn rằng tôi có cần vượt biên không?

 

Trinh đáp:

 

- Tôi nghĩ thời gian ngắn nữa Nguyễn Văn Thiệu hay Hoàng Đức Nhã cũng có thể về Việt Nam an toàn.

 

- Bạn cũng chưa đi đúng câu hỏi, cuộc đời thay đổi, con người cũng thay đổi, có thể Nguyễn Văn Thiệu hay Hoàng Đức Nhã về an toàn mà một người khác không an toàn hay là tôi không có thể ở được thì tính sao? Hơn mười năm rồi mà chúng ta còn chưa đổi được một lối suy nghĩ theo đúng tình thế mới. Bạn ở Mỹ mà vẫn suy nghĩ theo kiểu “Sài Gòn nối dài”.

 

Trinh nói:

 

- Tôi không hiểu ý bạn.

 

- Rất dễ hiểu, có thể trong điều kiện nào đó, chính phủ cộng sản thấy Nguyễn Văn Thiệu và Hoàng Đức Nhã về nước hay cộng tác có lợi thì họ vẫn cho về và có thể mời về. Trước khi chiếm miền Nam, cộng sản xem Nguyễn Văn Thiệu là kẻ thù chính nên tuyên truyền triệt hạ Thiệu và tìm sự ủng hộ của người dân miền Nam bất mãn chế độ Cộng Hòa. Ngày nay, đối tượng cần áp chế để củng cố quyền lực cộng sản là người dân, người dân là kẻ thù chính của họ, dân chúng đã nhìn rõ mặt thật và muốn thay đổi chế độ. Nguyễn Văn Thiệu hay bất cứ chính trị gia cũ ở miền Nam không được dân chúng ủng hộ cũng có thể trở thành đồng minh giai đoạn của chính quyền cộng sản. Do đó, Nguyễn Văn Thiệu, Hoàng Đức Nhã, Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ v.v... là những người cộng sản có thể mời về, để chứng minh họ được người quốc gia hợp tác. Thiệu, Kỳ, Khánh, Nhã v.v... không phải thực sự là người quốc gia, những người này chỉ lo cho bản thân của họ. Cộng sản là một tổ chức chỉ úy kỵ những người có uy tín trong dân, có khả năng tập hợp dân chúng thành tổ chức để xây dựng đất nước. Các cá nhân có nhiều tham vọng mà ít uy tín, nếu cần, cộng sản sẽ xem như là đồng minh. Vấn đề chính ở Việt Nam và lịch sử Việt Nam không thể được suy nghĩ đơn giản trên một vài cá nhân. Chúng ta nên bỏ tất cả mọi thiên kiến, quyền lợi, ước muốn riêng tư, thật sự khách quan để suy nghĩ về những vấn đề trọng đại của đất nước. Thời điểm lịch sử đã đến và những người có thể làm được việc đó là những người có may mắn là đi học nhiều, có điều kiện thuận lợi như bạn. Chắc các bạn ở đây cũng như tôi đều biết bạn là ai, nhưng không ai nói, chỉ có tôi mới ở trong nhà tù ra nóng hổi chưa mất hơi tù nên mới nói - có thể làm phật ý bạn - xin lỗi, bỏ qua chuyện nhức đầu đi.

 

Tôi không nghĩ Kiều Trinh nhận một công tác tuyên truyền của cộng sản, với chúng tôi là những bạn cũ, nhưng chắc chắn để có thể mời chúng tôi, những nhân viên của chế độ cũ đi cải tạo về, đến dự một bữa cơm công khai tại một nhà hàng ở Sài Gòn, Kiều Trinh cũng đã được phép của Sở Công An Thành Phố.

 

Tết đầu tiên ở ngoài xã hội đối với tôi không vui vẻ gì, chỉ còn hai vợ chồng trơ trọi, hai con tôi đều đã đi xa, tôi lo lắng vì Đoan Trang còn quá nhỏ dại ở trong trại tỵ nạn tại Thái Lan. Tôi chưa về Đà Nẵng thăm gia đình để lạy mộ bà nội và mẹ tôi. Tôi là đứa cháu, đứa con bất hiếu. Bà nội và mẹ tôi đã lo lắng dành rất nhiều yêu thương cho tôi mà tôi chưa hề đáp được mảy may. Tôi phải ở lại Sài Gòn để chờ làm xong các thủ tục nhập hộ khẩu mới đi được. Đêm giao thừa Mậu Thìn, Sài Gòn đốt pháo thật nhiều. Dân Việt Nam dù nghèo đói đến đâu, dù phải thiếu nợ nhưng họ vẫn tổ chức đón Tết long trọng, nhà nào cũng đốt pháo. Mùa xuân là một mùa hy vọng sẽ đổi mới cho mỗi người, cho mỗi gia đình và hy vọng đổi mới cho xã hội. Xác pháo hồng trộn lẫn với cánh hoa mai vàng rơi rụng thành màu sắc rực rỡ trên nền đất. Tôi hy vọng rất nhiều vào tương lai, luôn luôn tôi có niềm tin là đất nước Việt Nam sẽ có ngày hưng thịnh trở lại, và toàn dân Việt Nam sẽ đứng lên làm một cuộc vận động lịch sử mới cho dân tộc, tất cả hầu như đã sẵn sàng chỉ còn chờ một hiệu lệnh phát khởi. Tôi tin vào sự trưởng thành của dân chúng và trong vận hội mới đó sẽ lọc lựa được những người đủ tài trí, thực tâm đối với con người, xã hội và đất nước thành người lãnh đạo tương lai và sẽ tự động đào thải những thành phần cơ hội, hoạt đầu tham vọng cá nhân. Hoàn cảnh chính trị Việt Nam không có ngay được những người lãnh đạo có uy tín nên phải xây dựng lãnh đạo từ hành động và chỉ có người dân mới làm được một cuộc lựa chọn đó. Chỉ có lòng chân thành, còn mọi thủ đoạn, mánh lới, xảo trá vặt vãnh, bịp bợm đều đã lỗi thời - những cái đó chỉ có Hồ Chí Minh là sử dụng thành công và đã chết theo ông ta rồi. Những ai còn bắt chước theo Hồ Chí Minh sẽ trở nên những tên hề lố bịch trước sự phán xét sáng suốt của người dân. Trong tương lai, chính người dân quyết định người lãnh đạo và tương lai đất nước qua sự phổ thông đầu phiếu.

 

Ngày mùng 5 Tết, theo đúng lịch trình, đến phòng chính trị Sở Công An Thành Phố, chúng tôi được cấp giấy chứng nhận nhập hộ khẩu. Thủ tục dễ dàng theo đúng lời hứa của Phó Giám Đốc Công An Thành Phố. Đem giấy chứng nhận về nộp tại phường để ghi vào hộ khẩu. Phường 11 quận Tân Bình nằm ngay trước gia đình tôi thuê ở trên đường Trương Minh Ký Gia Định nay đổi tên là Lê Văn Sỹ. Văn phòng phường trang trí sạch sẽ, nhân viên làm việc ăn mặc gọn gàng sang trọng áo trắng muốt, bỏ vào trong quần tây loại vải ngoại quốc đắt tiền, so với thời kỳ năm 1975, 1976 thay đổi nhiều lắm. Lúc đó cán bộ cộng sản hành chánh, công an hay quân đội đều ăn mặc luộm thuộm, quần tây vải ka-ki Nam Định, áo đủ loại hàng vải, lúc nào cũng nhàu nát như mới nằm ngủ dậy; các văn phòng thì lẫn lộn giữa công và tư, áo quần phơi đầy ngay trên lan can hay cầu thang.

 

Người cán bộ trung niên đeo kính trắng trễ xuống mũi, đọc xong hồ sơ của tôi, ngước nhìn thẳng mặt tôi hỏi:

 

- Anh không biết hút thuốc à?

 

Tôi tròn mắt ngạc nhiên vì câu hỏi không dính líu đến công việc tôi xin trong đơn. Thấy tôi ngạc nhiên hắn nhìn tôi chòng chọc, tay phải cầm bút chì gõ nhịp trên bàn, lập lại câu hỏi:

 

- Tôi hỏi anh có biết hút thuốc không?

 

Tôi như chợt tỉnh, nhớ bao thuốc đen hiệu Đà Lạt hút giở trong túi áo, vừa rút bao thuốc ra vừa trả lời:

 

- Báo cáo tôi có hút thuốc.

 

Tôi chìa bao thuốc ra:

 

- Mời cán bộ hút thuốc.

 

Hắn đưa tay rút ra một điếu thuốc, xong đưa điếu thuốc lên ngang tầm mắt, làm điệu bộ ngắm nghía, gục gặc cái đầu và hỏi tôi:

 

- Anh mời tôi hút thuốc này, tôi hút đầu nào?

 

Các tên cán bộ ở trong phòng cười rộ lên, tôi càng ngơ ngác không hiểu họ muốn gì cả.

 

Hắn nhìn tôi rồi xoay qua hỏi tên cán bộ trẻ tuổi ngồi bên cạnh:

 

- Ê, Năm, thuốc này mồi ở đầu nào?

 

Cán bộ tên Năm nói:

 

- Thuốc này em cũng không biết mồi đầu nào.

 

Trong phòng lại cười rộ lên. Tôi thực tình không hiểu gì hết, ngoài việc cảm thấy bọn họ đang chế giễu tôi, tôi thấy nóng ở mặt nhưng cố nuốt cái nghèn nghẹn nơi cổ, đứng lặng thinh.

 

Tên cán bộ ném điếu thuốc vào sọt rác xong nói với tôi:

 

- Ngày mai anh trở lại.

 

Tôi bước ra, ngay lúc đó một người đàn bà vào trình giấy. Tự nhiên tôi đứng lại nhìn bà ta để xem họ đối xử thế nào. Người đàn bà trình giấy xong ngồi xuống ghế mở bóp lấy ra hai bao thuốc lá hiệu ba số 555, đưa một bao mời tên cán bộ nhận đơn, hắn không ngước nhìn lên, đưa tay kéo bao thuốc vào trong hộc bàn. Người đàn bà tiếp tục mở bao thuốc thứ hai mời hắn một điếu, xong đưa mời mỗi tên cán bộ trong phòng mỗi người một điếu.

 

Tôi chợt hiểu, đó là thủ tục đi trình xin giấy tờ. Về đến nhà tôi kể lại chuyện đi xin giấy và mời thuốc để xác nhận lại sự nhận xét của tôi. Vợ tôi nói đã lâu không có việc gì phải xin giấy nên quên dặn tôi trước. Theo thủ tục hiện tại muốn xin bất cứ loại giấy tờ gì phải mang theo hai bao thuốc, phải là loại thuốc nhập cảng đầu lọc mới đúng như người đàn bà đã làm tại phường. Nếu việc không quan trọng như vậy là đủ, việc quan trọng người nhận đơn sẽ nói thẳng phí tổn phải đóng là bao nhiêu chỉ vàng hay bao nhiêu cây vàng - mời thuốc gọi là thủ tục vì nhân viên cán bộ bây giờ đã giàu có, họ không cần thuốc để hút như thời gian mới ngồi vào chính quyền; nhưng mời thuốc để chứng tỏ người dân biết “kính trọng” quyền uy của họ. Thuốc mời phải là thuốc ngoại quốc đầu lọc, thuốc đen họ chê, điều này đã trở thành nếp sống văn hóa mới.

 

Mỗi ngày đúng 8 giờ sáng người công an khu vực đến nhà gọi là để thăm tôi. Hôm mồng một Tết vợ tôi lì xì 10 ngàn - nhận tiền xong hắn trở nên lễ phép - gọi tôi bằng anh xưng em. Ngoài đời có tiền thì cũng sướng - mới ngày nào trong trại cải tạo những cán bộ trẻ đáng con em gọi tù là mày xưng tao. Mỗi ngày hắn đến thăm tận nhà, tôi phải ngồi tiếp, chẳng có gì để nói ngoài những lời thăm hỏi xã giao. Uống xong ly cà phê và hút xong hai điếu thuốc (đầu lọc) - tôi mời đúng thủ tục xong, 9 giờ, hắn chào tôi qua thăm ông Phạm Thái cũng mới ở Hà Nam Ninh về đến Sài Gòn hôm 15 tháng 2 tức sau tôi hai ngày. Tên công an khu vực mỗi ngày đều làm đúng chương trình thăm viếng mỗi nhà một giờ. Đến thứ sáu thì hắn thông báo ngày thứ bảy có nhân viên công an từ phường đến, và 2 tuần một lần công an quận Tân Bình đến thăm. Việc tiếp người nhà nước đến thăm trở thành một sự phiền phức. Vừa tốn hao, vừa phải ngồi nói và nghe nói những lời giả dối với nhau. Đó là một hình thức kiểm soát mới thay cho quản chế, nhưng dù sao cũng đỡ hơn chế độ quản chế.

 

Tôi ngỏ ý xin phép về thăm gia đình ở Đà Nẵng được công an phường đồng ý cho phép tôi đi một tuần. Tôi đã hiểu các thủ tục xin giấy, nên không có trở ngại khi xin giấy phép đi đường ở phòng công an phường. Các đặc điểm của người trưởng công an phường là khi nhận giấy và thuốc lá của tôi anh ta rất lạnh lùng, không vồn vã thân thiện như lúc đến thăm tại nhà. Cuộc sống giả dối của xã hội khiến cho con người trong xã hội đó diễn xuất rất tài tình và tự nhiên.

 

Trong khi chờ đợi ngày về Đà Nẵng, tôi được tự do đạp xe đi thăm bạn bè và xem sự biến đổi của Sài Gòn. Đời sống thay đổi dễ sợ, không riêng gì cách sống và khung cảnh sống thay đổi, mà tâm tính con người cũng thay đổi. Hầu như mọi người đều trở nên quá thực tế, người ta chỉ nói đến gạo cơm, tiền quà gởi từ ngoại quốc và than thở vì vật giá leo thang. Xã hội hình thành những giá trị mới, những công nhân viên nhà nước ở vị trí làm được nhiều tiền được trọng vọng. Những người buôn bán chợ trời chụp giựt trao đổi những món quà từ ngoại quốc gởi về hay những món hàng xuất kho nhà nước bất hợp pháp trở thành những người dân có ưu thế. Họ đi lại với công nhân viên dễ dàng, và họ chiếm lãnh một khu vực chi tiêu từ nhà hàng ăn tư nhân mới được mở trở lại, đến những sàn nhảy ở các Câu Lạc Bộ và các nhà nhảy đầm ở các quận mới được mở ra. Sân khấu ca nhạc và phòng chiếu phim video mọc lên như nấm trong chương trình ba lợi ích kinh tế. Những người có thân nhân ngoại quốc gởi tiền đều đặn là những người sung sướng, nhiều người mơ ước vị trí của thành phần này, vừa có tiền chi tiêu, không làm việc, chờ đợi được đi đoàn tụ với thân nhân, thoát cũi sổ lồng. Mỗi đứa con đi vượt biên đến nơi chốn đánh giá phúc phần của gia đình, mỗi thùng quà hay món tiền gởi về đánh giá lòng hiếu thảo của con cái hay sự thủy chung của vợ chồng đã ra đi. Xe gắn máy hiệu Cub, hiệu Dream tiêu biểu cho sự sang trọng của chủ nhân. Trong khi đại đa số dân chúng càng ngày càng nghèo khổ, phải kiếm ăn bằng nhiều cách, thông thường nhất là bán quà vặt và thuốc lá lẻ, có rất nhiều em gái nhỏ tuổi 14, 15 bỏ học đi bán thân nuôi gia đình thì thiểu số người có ưu thế ăn chơi xa xỉ. Phong trào chống đối hình như lắng xuống, đa số người dân phải lo sinh kế hoặc quay cuồng hưởng thụ trong lối sống mới. Phần vì những người chống đối đã bị bắt quá nhiều mà không có được một hành động có kết quả cụ thể để tạo niềm tin. Phần Việt Cộng đã thành công khi tạo ra những tổ chức chống đối giả để bắt người có tư tưởng chống đối nên dân chúng đã nhìn các phong trào chống đối ít thiện cảm và nghiêm túc, có nhiều người nghĩ về hành động chống đối là một việc làm vừa như điên cuồng vừa không thực tế. Kỹ thuật tiêu diệt sức đề kháng của người dân như thế, vừa trấn áp cho người dân sợ, vừa làm cho người dân có tư tưởng phi chính trị.

 

Thật đáng tiếc cho chế độ cộng sản đang mất lòng dân, mất niềm tin cả hàng ngũ đảng viên, gặp khó khăn về kinh tế và ngoại giao chỉ còn chờ giờ sụp đổ, nhưng đối lực còn quá yếu, chưa có ai làm phát khởi cuộc đấu tranh.

 

Tại Đà Nẵng, bạn bè cũ đi cải tạo về sống thê thảm hơn ở Sài Gòn nhiều. Có người về đã 10 năm vẫn còn bị đối xử phân biệt, sống tận cùng đáy xã hội, một xã hội đói rách, nghề được anh em làm nhiều nhất là nghề chở khách bằng xe đạp. Trời tháng Giêng lạnh như cắt, nửa đêm còn đứng đợi khách ngoài vòng rào bến xe, mình khoác một mảnh vải nhựa mong manh. Rước khách bằng xe đạp không được vào bến xe vì không hợp pháp như phu xích lô. Những người đi xe đò thường xuyên chịu khó xách hành lý ra ngoài hàng rào bến xe ngồi sau xe đạp thồ giá chưa bằng một nửa giá xe xích lô. Nhìn bạn, nghĩ đến thân phận mình mới ở tù về chưa được một tháng, tôi trào nước mắt. Nếu không có gia đình ba tôi giúp đỡ tôi sẽ ra sao, tôi không có cả chiếc xe đạp đi rước khách trong đêm lạnh lẽo. Cái nhục của kẻ chiến bại kéo dài suốt đời chăng? Những ngày ở trong tù chỉ mong được ra khỏi trại. Tưởng rằng ra khỏi trại là trút xong mọi gian khổ, nhưng không, gian khổ nhục nhã còn dài cả đời người chưa dứt, kéo theo đời của con cháu. Người chiến sĩ đã chiến đấu, một sống hai chết đừng đầu hàng, đầu hàng khổ hơn là chết. Nhưng con người hèn yếu, ngay lúc chết mà không chết được, đã đầu hàng rồi thì ít người còn đủ can đảm để tự kết liễu đời mình - còn bao nhiêu ràng buộc tình cảm của người thân.

 

Tôi được nhiều bà con đến mừng tôi được trở về thân thể còn toàn vẹn, tóc chưa bạc, răng chưa rụng. Bà con nội ngoại nhiều người bên phía cộng sản. Người anh con dì Hai tôi, anh Thật đã nói chuyện với tôi rất nhiều. Anh Thật, một cán bộ nằm vùng ngay tại Đà Nẵng, lúc Việt Cộng chiếm Đà Nẵng anh mang lon thiếu tá, bây giờ anh làm gì, chức gì tôi không cần biết. Chúng tôi chỉ nói chuyện gia đình để tránh tranh luận. Thời xưa trước năm 1975, khi cậu tôi còn sống, mỗi lần có đám giỗ ngoại tôi là cậu và các anh con dì tôi thường cãi nhau về chính trị, bao giờ dì tôi cũng khóc khi đến màn kết cục cậu tôi cầm chiếc ghế lên định đánh vào anh và anh bỏ chạy. Cậu tôi ghét cộng sản, cậu biết các anh con dì hoạt động cho cộng sản nên cậu thường công kích. Các anh thường nhẫn nhịn, nhưng khi cậu tôi gọi Hồ Chí Minh bằng thằng thì các anh không nhịn nữa và lên tiếng cãi lại. Hầu như đám giỗ nào cũng xảy ra màn chiến tranh ý thức hệ trong gia đình.

 

Nói chuyện gia đình một lúc thì anh Thật cũng lái qua chuyện chính trị, hình như người Quảng Nam ngồi với nhau không nói chuyện chính trị thì không vui. Anh Thật nói là chế độ sai lầm khi nhốt những người như tôi quá lâu. Tôi không biết anh nói thật hay an ủi tôi. Nếu anh nói thật thì anh là cán bộ cộng sản nhưng không thuộc chính sách và chưa đọc Lénine: “Là Cộng sản phải đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù”, và trong chính sách của Lénine có viết rõ chính sách cải tạo và kỹ thuật đánh lừa người tù cải tạo, “luôn luôn làm cho chúng có hy vọng được tự do, chuyển trại thường xuyên để nuôi dưỡng hy vọng giả tạo đó, cuối cùng chúng gặp nhau và chết ở Siberia”. Nếu Cộng Sản Việt Nam không bị áp lực hoặc không vì nhu cầu nào đó, chúng tôi cũng sẽ bị giam giữ vĩnh viễn cho đến chết ở các vùng rừng thiêng nước độc ở miền Bắc hay miền Trung. Giam giữ tù, Việt Cộng không hao tốn gì cả, tù phải tự làm lấy ăn và nuôi sống cán bộ, mót hết sức lao động, khi chết thi thể người tù còn là phân bón tốt cho cây cỏ. Anh nói đến những mâu thuẫn trong nội bộ của nhóm lãnh đạo, đổ tội cho Lê Đức Thọ - anh gọi Lê Đức Thọ bằng thằng, anh nói: “Thằng Lê Đức Thọ phản quốc”. Anh kể chuyện Võ Nguyên Giáp đi Liên Sô về bị ám sát hụt do phe Lê Đức Thọ tổ chức - Giáp đi máy bay Liên Sô về đến phi trường Gia Lâm thì có điện báo của Tòa Đại Sứ Liên Sô tại Hà Nội yêu cầu máy bay đáp xuống phi trường quốc tế. Máy bay đáp không đúng nơi, nên toán xe rước Võ Nguyên Giáp tại phi trường Gia Lâm xoay trở không kịp - Giáp đi xe của nhân viên Liên Sô về tư dinh, trong khi đó xe đón Giáp tại phi trường Gia Lâm nổ - Giáp chết hụt. Anh kể chuyện Đinh Đức Thiện bị ám sát chết, vì trước đó Đinh Đức Thiện phản đối hành động bám lấy quyền lực của Lê Đức Thọ. Trong một buổi tranh luận giữa hai anh em, Đinh Đức Thiện nói với Lê Đức Thọ: “Gia đình ta mấy đời đều đóng góp vào lịch sử xây dựng đất nước và phục vụ nhân dân, bây giờ anh đi ngược lại truyền thống đó”. Đinh Đức Thiện bị một quân xa ép chết trên đường đi làm về. Thiện có thói quen trước khi về nhà ra khỏi xe hóng gió trên chỗ đồng vắng. Anh Thật còn kể cho tôi nghe về chuyến đi của Lê Duẩn qua Mạc Tư Khoa nhân lễ nhậm chức của Gorbachev năm 1985, lễ này được trực tiếp truyền hình qua đài Hoa Sen tiếp vận hệ thống truyền hình vệ tinh nhân tạo Liên Sô đến Việt Nam.

 

Trước đây Lê Duẩn sui gia thân thiết với Breznev nên mỗi lần đến Mạc Tư Khoa được Breznev đón tiếp rất niềm nở. Lần này Lê Duẩn đã phải sượng sùng vì sự lạnh nhạt của Gorbachev. Lê Duẩn giới thiệu người kế theo là Tố Hữu, Gorbachev hỏi ngay: “Ông Tố Hữu có phải là người làm thơ ca tụng Staline không?” Tố Hữu chỉ mới vâng một tiếng thì Gorbachev tiếp theo: “Ông đã được gặp Staline chưa?” Lần ra đi thất bại đó của Lê Duẩn hầu hết người Việt Nam đều biết, các đảng viên cộng sản bàn tán rất nhiều về việc đó: trở về Việt Nam vai trò Tố Hữu bị lu mờ để rồi bị loại ra khỏi Bộ Chính Trị tại đại hội kỳ 6 sau khi Lê Duẩn chết. Những chuyện kể của anh Thật, không biết có đúng hoàn toàn hay không, điều đó không quan trọng lắm. Quan trọng là anh làm cho tôi hiểu được sự mâu thuẫn trong nội bộ của lãnh đạo cao cấp Cộng Sản Việt Nam không hàn gắn được. Cộng Sản Việt Nam không còn “sợi chỉ hồng xuyên suốt” để giữ thống nhất nội bộ và họ không còn giữ gìn sự đoàn kết như giữ con ngươi của mắt như Hồ Chí Minh từng lập lại lời di chúc của Lénine.

 

Về quê thăm khu mộ gia đình xong, tôi đến nhiều nơi trong làng, đã gần 30 năm tôi mới trở lại nhưng tôi nhận rõ nhiều địa điểm, dù sau cuộc chiến tàn phá, làng tôi đã được xây dựng lại, mở nhiều đường mới và trồng nhiều cây cối xanh tươi hơn. Ngoài đồng xanh ngát thuốc lá đã cao ngang tầm đầu người. Thuốc lá là nông sản chính của quê tôi. Dân Thanh Quít giàu có hơn những dân làng khác nhờ vào thuốc lá. Mùi thuốc lá hăng hắc khắp nơi, tôi có cảm giác như mình đang say. Tôi đến nhìn rõ nền Kỳ Yên, là nơi tôi từng xem Việt Minh xử chôn sống Việt gian, tôi đứng lại nơi đầu cầu Thanh Quít nhìn qua trụ sở xã bên kia sông, lúc xưa đó là đồn Tây, nhiều buổi sáng tôi đứng ngoài rào xem Pháp cắt đầu Việt Minh, đạp thây xuống nước rồi đem đầu cắm vào một thanh tre bêu nơi đầu cầu để người qua lại xem. Chiếc đầu sau khi chặt được chải brillantine bóng láng và miệng cho ngập một điếu thuốc. Người Pháp và bọn Việt gian theo Pháp đã đem thi thể người Việt Nam ra làm trò đùa, họ tưởng là tiêu diệt Việt Minh nhưng chính là đẩy dân quê Việt Nam về phía Việt Minh.

 

Sau này làng Thanh Quít nổi tiếng nhiều cộng sản, đi dọc quốc lộ 1 chỉ ngán Sa Huỳnh và Thanh Quít, viên chức và quân nhân, ít khi lái xe qua đó sau hai giờ chiều mà không có hộ tống. Ít người biết và nhớ là Thanh Quít từng là nơi chống Việt Minh mạnh mẽ nhất trong thời chiến tranh Việt-Pháp. Ba tôi, cậu tôi, các chú bà con họ hàng lứa tuổi đó đều theo kháng chiến từ ngày đầu. Chủ trương giết hại hơn ngàn tín đồ Cao Đài ở Quảng Ngãi ảnh hưởng đến làng tôi, vì làng tôi có một thánh thất Cao Đài và nhiều người có học đã theo đạo. Những người Thanh Quít có đạo Cao Đài hay liên hệ đến thánh thất ở trong hàng ngũ kháng chiến đều bị loại và có nguy cơ bị sát hại. Cậu, các chú và ba tôi quay về làng rào làng chiến đấu để tự vệ. Trước khi Pháp từ Vĩnh Điện ra chiếm đóng đồn, giải tán lực lượng tự vệ của làng, thì làng đã đẩy lui ba cuộc tấn công của Việt Minh vào làng. Lần tấn công thứ hai tháng 11 năm 1947 nhiều nhà trong làng bị đốt cháy trong đó có nhà nội và bà ngoại tôi, và trong làng có khoảng 50 người lớn bé bị giết chết, có người bị chém bằng mã tấu, có người bị đâm và ném thây vào lửa. Chính mắt tôi đã trông thấy cảnh tượng đó khi gia đình tôi trốn dưới một cái ao.

 

Lần Việt Minh tấn công lần thứ ba vào làng, đánh thẳng vào đồn tự vệ nằm bên quốc lộ, đồn là nhà lầu của ông Năm Ngoạn, Việt Minh tấn công vào chiếm được tầng dưới nhà, bí lối mọi người thoát được lên lầu chống cự. Tôi theo ngủ với ba tôi trên lầu vào đêm hôm đó. Hai bên vũ khí đều thô sơ nên đến sáng Việt Minh không chiếm được tầng trên lầu và phải rút lui. Kết quả trong đồn chỉ chết hai mẹ con thím Cơ là vợ của chú Nguyễn Hữu Tuân, người chỉ huy lực lượng tự vệ. Thím không kịp chạy lên lầu nên bị giết và thi thể bị bằm nát thành từng mảnh. Chính những hình ảnh đó in đậm nét trong đầu tôi, cản bước tôi đi về phía cộng sản khi tôi được bạn bè lôi cuốn lúc 16 tuổi. Lý tưởng công bằng xã hội, cách mạng giải phóng dân tộc quá hấp dẫn trí óc non nớt ở tuổi đó, nhưng hình ảnh bạo tàn làm cho tôi nghi ngờ.

 



 


Chương Mười Chín

 

Tôi có ý định vượt biên từ khi ở trong tù, ra khỏi tù, ý định đó không thay đổi và trở thành một nhu cầu cần phải đi sớm chừng nào hay chừng đó.

 

Trước khi đi, tôi đến thăm Đoàn Viết Hoạt, anh được thả ra từ Chí Hòa sau tôi hai ngày. Gần 13 năm anh bị giam ở các nhà giam tại Sài Gòn, may mắn không phải đi thụ hình tại các trại lao động cải tạo. Tôi mến Hoạt từ khi mới gặp trong khu xà lim Sở Công An Thành Phố, trong lúc đa số trí thức Sài Gòn bị ru ngủ trong lý luận “một nước đã bị cộng sản hóa thì không đảo ngược lại được.”, thì Hoạt rất lạc quan, lần đầu tiên tôi nghe một người nói với tôi rằng cộng sản tạm thời thắng lợi về quân sự, nhưng sẽ thất bại trong chính trị và tình cảm dân tộc và con người. Trong lúc các bạn tù tiêu phí thì giờ bằng cờ tướng, học tử vi, kể chuyện kiếm hiệp hay tưởng nhớ quá khứ huy hoàng ăn chơi trụy lạc và ước mơ phép lạ Hoa Kỳ đến để tiêu diệt cộng sản, Hoạt làm việc, anh chia sẻ những điều hiểu biết cho những người tù trẻ tuổi, giúp họ nung đúc ý chí, rèn luyện phẩm cách, anh phân tích những điểm sai lầm phản tự nhiên của thuyết Marxism để truyền niềm tin là chế độ cộng sản không thể tồn tại, cho những người tù trẻ tuổi. Hoạt là một nhà giáo, từng du học ngoại quốc, anh quan tâm đến việc xây dựng một ý thức mới trong lớp người mới để phục vụ cho đất nước mai sau; tôi thấy anh thành công trong việc nhen lên một niềm tin cho các người trẻ và nhiều bạn tù trẻ tin nơi anh.

 

 

Hoạt nói với tôi: “Chế độ cộng sản sụp đổ là điều chắc chắn, vấn đề cần suy nghĩ là sau cộng sản là cái gì cho đất nước Việt Nam”, lời nói của Hoạt không quá sớm đối với những ai chịu khó nghiên cứu tất cả những diễn biến quan trọng xảy ra trên thế giới từ sau năm 1975. Cộng sản thường dùng thuật ngữ “thời kỳ sau Việt Nam” với ý chủ quan là khối cộng sản quốc tế lớn mạnh, nhưng ngược lại thực tế sau Việt Nam là thời kỳ suy thoái, khối cộng sản đi dần đến chỗ tan vỡ. Dù sau Việt Nam, cộng sản xích hóa thêm các nước Angola, Afghanistan, Ethiopia, Nicaragua, nhưng Liên Sô bị sa lầy trong chiến lược mới của Hoa Kỳ. Thế giới chuyển từ thế tranh chấp lưỡng cực của Cộng sản và Tư bản, đã hình thành hai trung tâm Tây Âu và Nhật Bản vững mạnh cả kinh tế lẫn chính trị. Trung Quốc tuy chậm tiến về kinh tế nhưng đóng vai trò một siêu cường và Hoa Kỳ đã đẩy mạnh tham vọng đó của Trung Quốc làm cho khối cộng sản càng chia rẽ trầm trọng hơn, sự chia rẽ không hàn gắn được.

 

Sự thống nhất của khối 7 quốc gia phát triển chia xẻ trách nhiệm với Hoa Kỳ và toàn khối Tây phương và Nhật Bản đã tấn công ào ạt về kinh tế, tạo nhu cầu tiêu thụ trong khối Cộng sản, làm cho dân chúng muốn có đầy đủ sản phẩm tối thiểu cho đời sống, không còn an phận chịu sự đè nén chèn ép của chính quyền Cộng sản. Sự phát triển khoa học và phổ biến các dụng cụ và phương tiện truyền thông làm cho thế giới thu hẹp lại. Các nước Cộng sản không thể giam hãm mãi con người và tư tưởng của dân chúng sau bức màn sắt. Những nhận thức và hiểu biết mới về con người, làm cho tư duy thuần lý, giáo điều và các cấu trúc chính trị, kinh tế trên hệ tư tưởng đó trở nên lỗi thời. Đó là nguyên nhân sự cáo chung của chủ nghĩa Cộng sản. Cộng sản chỉ còn lại hình thức tổ chức, ở nơi nào dân chúng và chính đảng viên Cộng sản đứng lên đấu tranh xóa bỏ tổ chức thì chế độ Cộng sản sẽ tiêu diệt hoàn toàn.

 

Tiến bộ vượt bực về khoa học kỹ thuật thúc đẩy sự tiến bộ về kinh tế xã hội. Cuộc cách mạng về điện tử đã thay đổi bộ mặt thế giới, những nước kém tài nguyên thiên nhiên như Nhật Bản có thể xây dựng sự tiến bộ kinh tế đưa đất nước thành một trung tâm kinh tế thế giới mà nhiều khu vực mạnh hơn cả Hoa Kỳ. Sự phát triển kinh tế của Nhật Bản cùng các nước khác như Đại Hàn, Tân Gia Ba làm cho quan niệm phát triển kinh tế kiểu xây dựng kỹ nghệ nặng của thời Lénine, Staline không còn là phương thức tối ưu. Sự tương quan giữa nước giàu và nghèo không còn tương quan bóc lột như Karl Marx định nghĩa, mà trở thành tương quan hợp tác, nước nghèo và nhỏ nếu có chính sách phát triển đứng đắn sẽ thừa hưởng được kiến thức, kinh nghiệm và sự trợ giúp của các nước giàu để nhanh chóng mở mang. Điều này đã chứng minh chính sách cô lập kiểu Cộng Sản Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông, và tham vọng phát triển kỹ nghệ nặng của Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn lỗi thời và trở thành một sự trì trệ. Xu thế chung của thời hiện đại là tạo sự hòa bình ổn định để phát triển kinh tế và xây dựng tự do dân chủ. Chính trị và kinh tế là hai mặt của một vấn đề xã hội. So sánh hai xã hội tư bản và Cộng sản qua quá trình phát triển, người ta đã thấy rõ không thể phát triển được kinh tế khi toàn thể con người trong xã hội bị câu thúc mất tự do bởi một tập đoàn quản lý kém tài năng và lạc hậu.

 

Ngày nay, các nước Cộng sản đã thấy rõ điều đó, nhưng vẫn còn cố níu kéo quyền lợi bằng một mơ ước là cải cách quản lý kinh tế theo kiểu thị trường để lấy được ưu thế của tính linh động nhưng vẫn muốn giữ độc quyền chính trị. Nhưng điều này chỉ là một mơ ước vì không thể có cải cách kinh tế mà không thay đổi chính trị - có chăng chỉ là một giải pháp tạm thời khi dân chúng nước đó chưa tập trung được sức mạnh bởi vì họ mới trải qua một giai đoạn phân tán trong chế độ độc tài.

Tóm lại, từ khi chiếm hoàn toàn nước Việt Nam, chế độ Cộng sản đã mất ưu thế của chiêu bài giải phóng dân tộc, từ khi nắm toàn bộ chính quyền họ phô diễn toàn thể thế yếu kém và lạc hậu chứng tỏ không cần thiết và không xứng đáng để lãnh đạo nước Việt Nam. Nhưng để loại bỏ, chúng ta chưa có một đối lực đáng kể. Những người quốc gia cũ, sau sự thất bại đã trở nên phân tán hơn trước, những lực lượng đối kháng nổi lên thường xuyên nhưng chỉ là những tập hợp nhỏ bị chính quyền Cộng sản tiêu trừ từ trong trứng nước. Chúng ta không thể trông cậy vào một giải pháp quân sự để lật đổ chính quyền Cộng sản vì kinh nghiệm thất bại của những tổ chức đối kháng cho thấy khó có thể có một tập hợp lớn, cũng như từ những thất bại của phong trào đối kháng phục quốc làm cho người dân hết tin tưởng trở nên thái độ phi chính trị rất tai hại. Ngoài ra, chúng ta cũng có kinh nghiệm không thể một nước đơn độc chống Cộng sản mà phải trông cậy vào đồng minh - Thất bại quân sự ở Việt Nam 1975, Hoa Kỳ và Tây Phương đã thay đổi chiến lược không sử dụng giải pháp quân sự. Hiện nay, Hoa Kỳ và Tây phương đang sử dụng ưu thế về kinh tế để buộc các quốc gia Cộng sản thay đổi chính trị, tôn trọng nhân quyền và thực thi dân chủ. Dù mỗi nước có một sắc thái riêng nhưng những nét chính cũng phải nằm trong trào lưu chung đó.

 

Nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam cũng phân hóa trầm trọng, đảng không còn là khối thống nhất, những cán bộ đảng viên hiểu biết, sống trong thái bình họ có điều kiện suy nghĩ, đối chiếu thực tế với lý thuyết để thấy con đường họ đi theo là sai lầm và phản lại tổ quốc. Cuộc vận động chính trị trong tương lai còn có thể tập hợp đông đảo những người này. Chúng ta dễ dàng phân biệt hai thành phần con người Cộng sản trong số những người muốn có thay đổi, một thành phần còn tin tưởng ít nhiều vào đường lối Cộng sản, họ nghĩ là chế độ còn cứu vãn được với những thay đổi cần thiết và một phần đã nhận thức được rằng con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa là một lỗi lầm cần phải loại bỏ càng sớm càng tốt.

 

Chúng ta có thể phát khởi một cuộc vận động cho dân chủ toàn dân nhắm vào các mục tiêu:

 

1- Đòi hỏi tự do và độc lập của các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật.

 

 2- Đòi hỏi một nền giáo dục bình đẳng cho mọi người dân không phân biệt đối xử, đãi ngộ, nội dung chương trình giáo dục phải tôn trọng tính khoa học, sự tự do, tôn trọng giá trị lịch sử và con người. Giáo dục là đào tạo con người cho đất nước, giáo dục không phải là một hệ thống đào tạo đảng viên.

 

 3- Đòi hỏi tự do tôn giáo.

 

 4- Đòi hỏi một nền kinh tế thị trường linh động, tôn trọng tài sản và công sức lao động của mọi người.

 

 5- Đòi hỏi để tư nhân tham dự vào việc quản lý và phát triển kinh tế và xã hội. Một chính quyền phải gọn nhẹ, ít tiêu hao công sức tức là sự đóng góp của toàn dân, ít can thiệp vào đời sống xã hội vì chính quyền càng can thiệp thì càng giảm bớt tính dân chủ và tự do.

 

 6- Đòi hỏi chính quyền phải có một hệ thống tư pháp độc lập, đứng ngoài sự điều khiển của đảng chính trị, tôn trọng dân quyền và nhân quyền.

 

 7- Chính quyền phải do dân bầu cử trực tiếp, đưa tới sự công nhận chế độ đa đảng. Chính đảng là một tập thể chính trị không thể nhân danh bất kỳ lý do gì để độc quyền cai trị đất nước.

 

 8- Đòi hỏi thả hết cả tù cải tạo và tù nhân chính trị của tổ chức đối kháng đi dần đến sự công nhận đối lập. Những cuộc vận động có thể bị Cộng sản đàn áp, nhưng kinh nghiệm cho thấy ngày nay các nước Cộng sản không thể che đậy hoàn toàn những cuộc đàn áp mà không bị khám phá và lên án. Nhân cơ hội Cộng sản đang có những cởi mở cần thiết để an lòng dân, chúng ta cần đẩy mạnh sự đấu tranh hợp pháp cho đến lúc trở thành phong trào mà Cộng sản không còn kiểm soát được.

 

Trong tương lai, giai đoạn xây dựng đất nước - vấn đề giáo dục vô cùng quan trọng, giáo dục không những chỉ đào tạo cho nhu cầu phát triển kinh tế, giáo dục để tạo ra một con người mới, mẫu người Việt Nam tiêu biểu, thay thế cho hình ảnh sĩ phu bị mất. Chúng ta không cần thiết phải có một mẫu người toàn vẹn như người quân tử trong Nho giáo. Mẫu người mới là con người biết quân bình quyền lợi cá nhân với quyền lợi xã hội, một con người có lòng yêu nước và thương người. Hơn 20 năm chiến tranh và thời gian Cộng sản cai trị đã làm thay đổi tận gốc rễ xã hội Việt Nam, chính sách giáo dục thù hận và đời sống kinh tế khó khăn biến con người trở thành chi li bần tiện. Hệ thống giáo dục gia đình và học đường sụp đổ. Giá trị đạo lý cổ truyền, thuần phong mỹ tục biến mất. Chính sách giáo dục tương lai phải được định rõ ràng để mục đích phục hồi lại giá trị đạo lý. Chúng ta xây dựng một xã hội trong đó quân bình giữa vật chất và tinh thần để nâng cao giá trị con người lên, triệt để bỏ chủ trương dùng bạo lực để câu thúc con người, con người phải được quan niệm bình đẳng với nhau, có bình đẳng mới có dân chủ, vì dân chủ không phải là sự ban phát của người này với người khác, của người cầm quyền với dân chúng. Bình đẳng để không có sự thôn tính, không có quan niệm người này chinh phục người khác, buộc người khác nghe theo luận cứ và sự điều khiển của mình. Chưa có bình đẳng, còn muốn chinh phục thì chưa có sự đoàn kết.

Rõ ràng là chúng ta bắt đầu chống Cộng sản trên thế mạnh. Cộng sản không yêu nước, họ yêu nước tức là yêu xã hội chủ nghĩa thì không thích hợp với Việt Nam. Trước kia ta sợ rằng người quốc gia không có tinh thần cách mạng bằng Cộng sản, người Cộng sản họ dám hy sinh đi làm cách mạng, chịu đựng gian khổ, ngày nay ngược lại, khi nắm chính quyền, người Cộng sản còn phô bày bao nhiêu xấu xa hơn người phe quốc gia. Trước kia có người xấu kẻ tốt, còn xã hội Cộng sản chỉ phát triển tính xấu - ai còn nhân tính phải che dấu và chỉ phát triển được khi bạo lực Cộng sản không còn câu thúc nữa. Trước kia chúng ta nghĩ đến Cộng sản là một cái gì đó bí mật ghê gớm lắm, bây giờ ta đã hiểu rõ Cộng sản từ lý thuyết đến tổ chức, phương thức làm việc của họ. Tóm lại, trước kia chúng ta vừa chống cộng, vừa ghét, vừa sợ nhưng có một chút khâm phục. Bây giờ, nếu không khinh thường Cộng sản thì ta cũng đã dứt khoát là cần phải loại trừ chế độ Cộng sản khỏi đất nước, khỏi xã hội loài người và việc đó, chúng ta tin tưởng là sẽ làm được. Có nhiều động lực để kết hợp thành một lực lượng chống Cộng - trước kia chúng ta chỉ có hai động lực chính là lòng căm thù của những người từng là nạn nhân hay là gia đình của nạn nhân Cộng sản và những người vì quyền lợi - Những người vì quyền lợi chống Cộng thì lập trường không bền vững và không dám hy sinh. Trước kia lòng yêu nước và tình thương con người và lý tưởng công bằng bị Cộng sản tương tranh và họ ở thế hấp dẫn hơn. Ngày nay, chúng ta hoàn toàn thuận lợi ở những giá trị tinh thần này. Chỉ có những giá trị tinh thần này mới là động lực của toàn dân. Sức mạnh tinh thần cộng thêm phương tiện vật chất và kỹ thuật tổ chức là những yếu tố tất thắng của người quốc gia - Sức mạnh tinh thần đã có; chỉ còn hai yếu tố sau, như vậy, vấn đề chống Cộng ngày hôm nay sớm muộn tùy thuộc vào khả năng kết hợp thành tổ chức và sự huy động phương tiện, phương tiện có thể từ chính của chúng ta có được hay cả sự giúp đỡ của đồng minh.

 

Kinh nghiệm của Cộng sản giúp chúng ta thấy được chế độ Cộng sản được xây dựng trên hận thù, kích thích lòng thù hận, để đem lại sức mạnh và sự thắng lợi, nhưng hận thù vừa không hợp với tình tự con người và tình tự dân tộc. Dùng hận thù phải có kỹ thuật kích thích lòng hận thù và phải có đối tượng phát tiết - khi hết đối tượng hận thù thì tổ chức cũng lung lay hay tan rã. Chúng ta không ngăn cản động lực thù hận của những người là nạn nhân của Cộng sản, nhưng trên toàn lý tưởng của cuộc đấu tranh giải trừ Cộng sản không xem hận thù là yếu tố chính, vì chúng ta giải trừ Cộng xong phải nghĩ đến xây dựng một đất nước hòa bình và thịnh vượng. Đất nước chúng ta đã không may mắn bị kéo lùi, thua xa các dân tộc trên thế giới, kể cả những quốc gia cựu thuộc địa trong vùng Đông Nam Á trước kia còn kém Việt Nam. Hận thù chỉ dùng được trong giai đoạn đấu tranh mà không sử dụng được trong giai đoạn xây dựng đất nước.

 

Chúng ta không xem hận thù là yếu tố chính thì chúng ta giải quyết được vấn đề con người của chế độ Cộng sản. Chúng ta nhằm triệt tiêu lý thuyết Cộng sản và giải trừ tổ chức Cộng sản là chính; khi lý thuyết và tổ chức Cộng sản không còn thì con người Cộng sản không còn nguy hiểm nữa. Trong cuộc đấu tranh, chúng ta còn phải tiêu diệt những người Cộng sản bảo thủ lạc hậu, nhưng những người Cộng sản đã biết từ bỏ lý thuyết và tổ chức thì họ có thể đứng vào hàng ngũ của người đấu tranh chung của cả dân tộc Việt Nam. Những người này hiện nay trong hàng ngũ Cộng Sản Việt Nam không hiếm - họ cũng đang chờ đợi cơ hội.

 

Trước kia, chúng ta chống Cộng sản trong tình thế lúng túng về mặt tư tưởng, không chứng minh được rõ ràng đó là cuộc chiến tranh ý thức hệ - nên sự giúp đỡ của đồng minh, đồng thời với lý lịch của những người lãnh đạo ít nhiều đều có quan hệ đến thực dân Pháp trở thành là một nhược điểm, bị lâm vào thế kẹt của trận chiến tư tưởng của Cộng sản đặt ra. Họ ngụy trang cuộc chiến tranh thôn tính của Cộng sản quốc tế dưới hình thức cuộc chiến yêu nước và giải phóng dân tộc. Do đó, cuộc chiến đấu giữa hai bên, người lính chiến Cộng sản họ được giáo dục hận thù và đấu tranh không khoan nhượng, họ nhìn chúng ta là một kẻ địch cần tiêu diệt. Tệ hại hơn là dưới mắt của họ chúng ta là tay sai ngoại bang. Nền giáo dục của chúng ta dạy cho con người tình thương với nhau và trách nhiệm đối với tổ quốc và xã hội. Sau mỗi trận chiến nếu thắng thế, người Cộng sản thường tiêu diệt tất cả địch thủ và kể cả người dân trong vùng chiến tranh. Sau mỗi lần chiến thắng, người chiến sĩ Cộng Hòa luôn luôn ray rứt khi nhìn xác chết đối thủ và nghĩ đó là người cùng nòi giống Việt Nam. Thời gian tù đầy, ngậm đắng nuốt cay, nhiều người tù tự kiểm lại ưu khuyết điểm, rút kinh nghiệm, tự hứa là nếu có dịp sẽ lại tiêu diệt kẻ thù không thương tiếc, họ muốn học lấy bài học mà kẻ địch đã dậy cho họ. Đó là một phản ứng rất tự nhiên, hợp lý vì nó hợp với tính của con người trong xã hội luôn luôn tranh đấu để sống còn. Con người nhất thời bao giờ cũng có những phản ứng cực đoan, thái quá, nhưng rồi những hành động không thích hợp dần dần sẽ bị đào thải theo thời gian, đó là sự điều chỉnh tự nhiên của xã hội và lịch sử.

 

Sau Cộng sản, chúng ta phải xây dựng Việt Nam như thế nào? Đâu có thể quay trở lại thời kỳ dân chủ hỗn loạn không chính sách như trước năm 1975. Những người có quan tâm đối với đất nước cần suy nghĩ. Điều này không phải là quá sớm.

Từ sau đệ nhị thế chiến, nhiều quốc gia thu hồi độc lập, nhiều quốc gia mới hình thành, tìm một mô thức để xây dựng một nước cựu thuộc địa là một vấn đề khó khăn. Nhiều nhà lãnh đạo quá cấp tiến, phản ứng ngược lại quá khứ lệ thuộc các đế quốc Tây phương, ôm ngay lấy lý thuyết Cộng sản như là một lá bài cứu nước và dựng nước. Kết quả nhiều nước đã biến thành bãi chiến trường của cuộc chiến tranh ý thức hệ, đưa xã hội lùi xa hơn thời nô lệ, nhiều nước may mắn không có chiến tranh thì đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa đưa đến chỗ bế tắc. Lịch sử đã minh chứng rõ rệt, chế độ Cộng sản không thể phát triển ở những nước kỹ nghệ hóa như Karl Marx tiên đoán. Khẩu hiệu lếu láo của của các lý thuyết gia Cộng Sản Việt Nam về việc “xây dựng xã hội chủ nghĩa không qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.” Lúc đầu mới chiến thắng tạm thời về quân sự ở miền Nam, họ muốn làm thành công để đưa ra một mô thức mới, để thực hiện tham vọng ấu trĩ và điên cuồng là Việt Nam Cộng Sản là “cường quốc về chính trị”. Kết quả là sau hơn 10 năm đẩy mạnh xây dựng qua ba cuộc cách mạng (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng tư tưởng, cách mạng khoa học kỹ thuật) nước Việt Nam tiến đến nước nghèo nhất thế giới. Khối Cộng sản tan rã, cục diện thế giới biến đổi từ cuộc tranh chấp lưỡng cực sang một tình trạng sắp xếp đa cực. Hoa Kỳ cực thịnh về chính trị vì phong trào dân chủ hóa tại các nước mới giải trừ chủ nghĩa Cộng sản nhìn về đây như là một mẫu mực về dân chủ và kỳ vọng sự trợ giúp tư bản kỹ thuật. Nhưng theo bản chất của nền kinh tế phát triển trên sự sản xuất chiến cụ, Hoa Kỳ gặp phải tình trạng suy thoái kinh tế khi thế giới đi vào kỷ nguyên hòa bình giảm thiểu cuộc chạy đua vũ trang.

 

Nhật Bản đang là một cường quốc kinh tế, cán cân mậu dịch chênh lệch giữa Mỹ và Nhật Bản đã đến lúc buộc người Mỹ phải đối phó, người Nhật gặp lại sự cạnh tranh khác từ nước Đại Hàn đang lên mà tính chất sản phẩm không khác với hàng hóa của Nhật là bao nhiêu. Nhật Bản phải quay lại tìm thị trường ở Đông Nam Á. Trung Quốc đang phát triển chậm chạp vì muốn níu kéo lại cỗ xe già chính trị Cộng sản để giữ thế ổn định nội bộ. Tuy nhiên, hàng hóa Trung Quốc cũng đang tìm thị trường tiêu thụ, họ cũng đang tìm mọi cách tràn xuống phía Nam, nếu chưa thể qua cửa ngõ Việt Nam thì họ phải xuyên thẳng đường xuống Lào và Miến Điện. Khmer Đỏ đóng vai trò con ngựa thành Troie của Trung Quốc đang bị lên án, nhưng vẫn là một lực lượng mạnh và là con bài để giải quyết vấn đề Cambodia.

Thị Trường Chung Châu Âu sẽ thống nhất tiền tệ. Nước Đức sẽ đi đến thống nhất và cường thịnh, ngoài việc ảnh hưởng vào Đông Âu và Liên Sô, các cựu đế quốc Anh, Pháp, Hòa Lan cũng sẽ tìm lại ảnh hưởng tại các cựu thuộc địa. Người Pháp vẫn còn ấm ức về cuộc thua trận và bị đẩy khỏi Đông Dương. Trước đây, Pháp từng tiếp tay cho Việt Cộng để phá người Mỹ và miền Nam Việt Nam. Chiến tranh Đông Dương kết thúc, Pháp bị Việt Cộng lừa lọc, họ càng cay cú. Họ đang hy vọng gây dựng lại ảnh hưởng để khai thác lại những quyền lợi cũ tại ba nước Đông Dương qua ảnh hưởng văn hóa còn sâu sắc và sự tiếp tay của thành phần tay sai cũ hay những người được họ huấn luyện trước đây đã trốn chạy qua Pháp cư trú sau chiến cuộc Đông Dương kết thúc năm 1975.

 

Trong khi đó, các nước Đông Nam Á đang phát triển kinh tế mạnh mẽ, muốn có thị trường tiêu thụ và sự ổn định chính trị tại khu vực.

 

Việt Cộng đang suy sụp trầm trọng đến độ tan rã, điều mong muốn gần nhất của chúng là được Hoa Kỳ giải tỏa lệnh cấm vận để kế hoạch thu hút đầu tư có kết quả và sự mong mỏi được Hoa Kỳ và Tây Phương giúp đỡ kỹ thuật và tài chánh, chúng biết là chỉ có Hoa Kỳ mới giúp đỡ cho Việt Cộng thoát khỏi cơn nguy khốn. Việt Cộng cũng biết là muốn Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận và bang giao phải có sự thay đổi chính trị triệt để và phải giải quyết vấn đề Cambodia.

 

Cambodia là một vấn đề khó giải quyết của Cộng Sản Việt Nam. Đây là một chiến trường mà Việt Cộng và Liên Xô bị sa lầy.

 

Khởi đầu, Việt Cộng có thể đã xúi giục Khmer Đỏ làm cuộc cách mạng đến quá trớn để lấy cớ tiến quân làm sứ mạng quốc tế đánh bè lũ diệt chủng Pol Pot. Đánh chiếm Cambodia, lúc đầu Việt Cộng có hai cái lợi lớn.

 

Về phương diện quân sự, chiếm Cambodia để phòng thủ miền Nam Việt Nam. Về phương diện chính trị, tạo thành một tình thế mới cho chính trường Đông Dương, trong đó, Việt Cộng là một yếu tố chính để thương thuyết, hiệp định Paris về Việt Nam và sự xâm lăng miền Nam trở thành quá khứ. Hơn mười năm xâm chiếm Cambodia, Việt Cộng đã đưa hàng triệu người Việt Nam qua khai thác và cư trú tại đây, nhất là giải quyết công ăn chuyện làm cho hàng triệu người và hàng trăm ngàn binh sĩ được duy trì khỏi phải giải ngũ sau chiến thắng quân sự ở miền Nam ngày 30-4-75. Nhưng những yếu tố thuận lợi đó, càng ngày càng trở thành bất thuận lợi, sự xâm lăng Cambodia thành một nguyên cớ để Hoa Kỳ và Tây Phương bao vây chính trị và cô lập kinh tế, một mâu thuẫn không dàn xếp được với quan thầy cũ là Trung Quốc. Thế chính trị và quân sự chủ động lúc đầu trở thành bị động, duy trì đạo quân đông đảo và một chính phủ bù nhìn bấp bênh ở Nam Vang trở thành một gánh nặng mà cả Hà Nội và Mạc Tư Khoa không kham nổi. Tình thế mắc phải đối với Việt Cộng hiện tại là nếu không giải quyết vấn đề Cambodia thì Hà Nội tiếp tục bị cô lập kinh tế đi dần đến chỗ phá sản toàn bộ kéo theo sự mất ảnh hưởng ở cả Ai Lao là nơi Việt Cộng đã đặt được ảnh hưởng từ xã ấp. Nếu giải quyết vấn đề Cambodia, Việt Cộng không có thể kiểm soát được hành lang biên giới để bảo vệ miền Nam Việt Nam, các lực lượng chống đối Việt Nam có thể nhờ vào đất Cao Miên để mở mặt trận quân sự, sử dụng chiến tranh du kích, liên lạc với bên ngoài mỡ hành lang xâm nhập nội địa Việt Nam. Giải quyết vấn đề Cambodia làm sao bảo đảm an toàn cho những người Việt Nam được Việt Cộng đem gài cấy vào sống tại nông thôn Cambodia. Làm sao bảo đảm rằng số người này có thể ở lại mà không thể bị người Cambodia tàn sát. Khó khăn của Việt Cộng là nếu công khai đặt vấn đề này để thương thuyết tức là công nhận chính sách xâm lăng và thực dân của mình, còn nếu bỏ rơi hay âm thầm rút lui thì tạo một cuộc hỗn loạn không kiểm soát được. Do đó, vấn đề Cambodia đối với Việt Cộng là tình thế tấn thối lưỡng nan; Việt Cộng chỉ còn tìm cách kéo dài thời gian để tìm yếu tố mới. Yếu tố có thể chỉ là sự thắng thế của giới bảo thủ trong đảng Cộng Sản Liên Sô để thế giới trở lại thời kỳ đối đầu. Nhưng đây sẽ là một sự trông chờ trong ảo mộng vì đặc điểm của các chế độ độc tài là một khi không còn kiểm soát được kỷ luật xã hội thì các sinh hoạt chính trị chỉ tiến tới mà không kéo lùi được. Con đường dân chủ hóa các nước Cộng Sản Châu Âu kể cả Liên Sô không thể quay lại, đúng như thuật ngữ họ đã sử dụng trước đây là “tình thế không đảo ngược được”. Thuận lợi còn lại của chế độ Cộng Sản Việt Nam hiện nay chỉ có thể có là, trên bình diện quốc tế, thực tâm Hoa Kỳ không muốn loại bỏ chính quyền Cộng Sản Việt Nam vì vẫn xem đây là một lực lượng có thể kềm hãm con đường tiến của Trung Cộng về phía Nam và các nước Đông Nam Á cũng xem là lá chắn giúp họ hết mối họa Trung Quốc. Do đó, nếu có một sự thay đổi chính trị, kinh tế đến một mức độ nào đó mà Hoa Kỳ có thể chấp nhận được trong ý hai bên thuận mua vừa bán.

 

Tình thế đa cực của thế giới hiện nay, Đông Dương và khu vực Đông Nam Á chịu nhiều ảnh hưởng của các trung tâm quyền lực thế giới kể trên, trong đó dù có ưu thế đến đâu, Hoa Kỳ cũng không thể độc quyền quyết định.

 

Bình diện của người Việt Nam thì chính quyền Việt Cộng chưa lo sợ các lực lượng đối kháng của người Quốc gia. Trong hơn 10 năm qua, hàng ngũ quốc gia thua trận chưa hình thành được một lực lượng đối kháng đáng kể. Trong nội bộ Cộng sản, tình trạng nội bộ rối ren, nhưng sự tranh chấp bên trên chỉ mới là cuộc tranh chấp quyền lãnh đạo; một số lớn đảng viên Cộng sản muốn có sự thay đổi, nhưng vẫn muốn sự thay đổi vừa phải để họ tồn tại và duy trì được quyền lực. Đảng Cộng Sản Việt Nam không còn “sợi chỉ hồng xuyên suốt” vì lý tưởng mà chỉ còn sự liên kết vì quyền lợi. Trong hoàn cảnh kinh tế đổ nát, nhân dân càng nghèo đói, nhưng đảng viên các cấp vẫn còn nhiều người đặc quyền đặc lợi. Số người muốn bỏ hẳn đi tổ chức Cộng sản vì yêu nước, vì lương tâm vẫn còn rời rạc.

 

Trong tình thế đó, Việt Cộng còn kéo dài sự cai trị dù chúng đang ngắc ngoải và tiếp tục ngoan cố trên việc thương thuyết với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, tư tưởng Cộng sản đã lỗi thời, chế độ Cộng sản sẽ bị đào thải trên khắp thế giới, xu hướng dân chủ hóa không thể nào bị chặn đứng. Tình thế Việt Nam sớm muộn gì cũng được giải quyết bằng hai cách, hoặc là chính quyền Cộng sản chủ động thay đổi, dân chủ hóa chính trị, từ bỏ độc quyền, độc tôn chấp nhận kinh tế thị trường dẫn đến tình trạng thay đổi ôn hòa; hoặc các nhà lãnh đạo Cộng sản tiếp tục ngoan cố thì không tránh khỏi cuộc cách mạng đổ máu để xóa sạch chế độ bạo tàn này. Cả hai cuộc cách mạng tùy thuộc vào nhiều yếu tố - vấn đề là làm thế nào để kết hợp được một lực lượng chính trị của người Việt Nam không Cộng sản càng sớm càng tốt. Đối lực chính trị này cần thiết trong việc giải quyết vấn đề chính trị Việt Nam và Đông Dương trong cả hai trường hợp ôn hòa hay sắt máu. Sau khi Cộng sản sụp đổ, Việt Nam đứng trước hai khó khăn chính là một nền kinh tế lạc hậu và một xã hội băng hoại hơn bao giờ hết. Hậu quả của một cuộc chiến tranh lâu dài bao giờ cũng đưa đến sự suy thoái về các giá trị xã hội, nền tảng luân lý sụp đổ.

 

Nhưng tình trạng Việt Nam hiện tại khác biệt với những hoàn cảnh hậu chiến khác trong lịch sử. Sự giao lưu giữa nền văn hóa dựa trên giáo lý Khổng Mạnh cũ một phần bị phá sản và nền văn hóa có tính thực tiễn và cá nhân chủ nghĩa của Tây Phương chưa hình thành được một hệ thống giá trị tương đối ổn định cho xã hội. Sau thời gian bị Cộng sản cai trị, sự tàn phá lại càng nặng nề. Những bài học hận thù, đấu tranh không khoan nhượng được phổ biến trong điều kiện nền kinh tế suy kiệt, làm xã hội Việt Nam biến chuyển dễ sợ. Những tính xấu của con người như lòng tham lam, thủ đoạn vặt vãnh, xảo trá, mánh mung, tính ti tiện được phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng. Con cái không còn kính trọng cha mẹ vì đảng dậy cho con cái bài học đấu tranh, và thực tế là cha mẹ không còn khả năng để lo toan đời sống kinh tế cho gia đình. Vợ chồng không còn sự tương kính nhau vì đa số đàn ông, trước là cột trụ gia đình nay trở thành mất chỗ đứng trong xã hội, sự ly dị và tan vỡ gia đình, sự thoát ly của con cái ra khỏi gia đình đều được luật pháp nhà nước khuyến khích. Tại trường học, học trò không còn kính trọng thầy giáo, tổ chức hội đoàn của học trò, gián tiếp bảo vệ những hành động xấu của học trò mà không bị thầy, cô giáo quở trách. Chính sách thang điểm thi cử, biện biệt, khiến những thành phần ưu đãi không cần học và thành phần bị biền biệt mất cố gắng. Thực tế của đời sống khó khăn, người thầy giáo không giúp nhiều cho học trò để giữ được sự tôn trọng tối thiểu. Làm sao học trò tôn trọng thầy cô giáo khi thầy cô giáo vừa dậy vừa bán cà rem hay bánh kẹo lẻ cho học trò ngay trong lớp học để làm kế độ nhật.

 

Đại học là nơi đào tạo con người cho sự phát triển xã hội cũng gặp bế tắc vì chính sách dành ưu đãi cho con em đảng viên, họ được thâu nhận dựa trên lý lịch cha mẹ và gia đình hơn là trên khả năng học vấn, vào trường không cần học cũng được chấm đậu - chính sách và thực tế này làm cho đất nước càng ngày càng thiếu những người có tài năng. Chính quyền Việt Cộng có người trung thành nhưng tham lam và kém cỏi không thể thi hành kết quả bất cứ một kế hoạch nào. Tình trạng này sẽ di lụy mãi lâu dài về sau kể cả thời kỳ hậu Cộng sản. Do đó, cần nghĩ ngay đến một kế hoạch và tập trung phương tiện mở mang tức khắc những trường đại học kiểu cộng đồng, vừa đào tạo chuyên viên ngắn hạn vừa chuyển tiếp đào tạo nhân sự dài hạn vừa giúp đỡ cho rất đông đảo thanh niên bị dang dở việc học trong thời kỳ Cộng sản cai trị có cơ hội học lại. Chương trình này vừa giải quyết cùng lúc các vấn đề chính trị, xã hội và kinh tế, đồng thời phải xây dựng lại các giá trị tinh thần văn hóa dân tộc và con người có lý tưởng.

 

Tóm lại, hai tác dụng, một phần chủ trương tàn phá xã hội của chế độ Cộng sản và một phần thực tế tình trạng kinh tế nghèo đói, cả hai tác động với nhau làm cho xã hội Việt Nam đi xuống không thể tưởng tượng được. Những điều đó, mọi người đều có thể thấy được, nhưng thấy rõ hơn hết là những người từ bên ngoài xã hội đi đến. Những người trong nhà tù mới bước ra hay những người từ ngoại quốc đi về, sẽ choáng váng và ngầy ngật về sự thay đổi chung quanh mình, kể cả những người thân thích; và sẽ có cảm giác như người say sóng và bỗng nhiên thấy cô đơn hơn bao giờ hết.

 

Suy nghĩ về một xã hội tương lai cho Việt Nam sau Cộng sản không phải là việc của một người. Dĩ nhiên đó là nhiệm vụ của những người lãnh đạo trong tương lai - nhưng thiết nghĩ mọi người dân có quan tâm và suy nghĩ cũng cần nên đóng góp những ý kiến để tham khảo, để gợi ý, để cho mọi người chuẩn bị. Mọi sự chuẩn bị đều cần thiết vì trong lịch sử của miền Nam Việt Nam, đã có nhiều người khi thời cơ đến họ nắm chính quyền nhưng không hề chuẩn bị trước là sẽ làm những gì nên đã có một thời đất nước bị thí nghiệm rối tung lên, có người gọi đó là đánh võ rừng - và những người lãnh đạo nhờ thời cơ nhưng thiếu chuẩn bị đó trở thành những người múa rối, làm một thứ hề chính trị, rồi kết quả là ngoài sự phục vụ cho lòng tham lam, họ không làm được một điều gì ích lợi, ngoài sự phá hoại.

 

Trong muôn vàn khó khăn về mọi mặt, trong tương lai sau thời Cộng sản, Việt Nam phải phục hưng những truyền thống văn hóa tốt đẹp cổ truyền, hội nhập với những tư tưởng mới, từ bên ngoài đưa vào chính sách, những lực lượng của người Việt Nam ra đi khắp nơi trên thế giới hấp thụ được để xây dựng một mạch sống cho dân tộc, giá trị tinh thần đó làm nền tảng cho những kế hoạch phát triển kinh tế tự túc tự cường, để có thể từ việc nuôi sống một số dân quá đông đảo trên mảnh đất chật hẹp, đến việc xây dựng tiến bộ dần dần, thu ngắn cách biệt với các quốc gia trong vùng và những nước tiến bộ khác trên thế giới. Chúng ta đã chậm tiến, thời gian Cộng sản cai trị đã làm đất nước lùi lại quá xa.

 

Chúng ta cần phát triển lòng yêu nước, không phải là tính cực đoan, xem đất nước chúng ta cái gì cũng nhất, nhưng lòng tự hào về một dân tộc đã có khả năng tồn tại qua bao biến cố lịch sử trước bao nhiêu âm mưu thôn tính từ người Hán ở phương Bắc, từ phương tiện vật chất Tây phương và từ chính sách nô dịch quốc tế của Cộng sản. Dân tộc Việt Nam xứng đáng để tồn tại, lòng tự hào về tinh thần nhân bản tôn trọng con người, lịch sử Việt Nam đã chứng minh chế độ nô lệ đã được bãi bỏ ở Việt Nam từ thời nhà Lý vào thế kỷ XI, trong khi các nước Tây Phương mới bãi bỏ chế độ nô lệ trong vòng 200 năm nay; tính dân chủ và bình đẳng trong xã hội - xây dựng lại lòng yêu nước và sự tự hào dân tộc không những để bảo vệ được sự độc lập và tồn tại của Việt Nam trước bao nhiêu âm mưu thôn tính có thể có. Nguy cơ chính bao giờ người Việt Nam cũng nghĩ phải cảnh giác là từ nước Trung Hoa ở phương Bắc. Lòng yêu nước và tự hào dân tộc còn là mối dây tinh thần để giữ liên hệ giữa người Việt Nam trong nước và khối người Việt ra đi đang ở nước ngoài không bị tan loãng khi hội nhập vào xã hội họ đang sống. Trong biến cố của lịch sử, sự bỏ nước ra đi hàng triệu người là một mối đau thương, nhưng chính khối người này lại trở thành một sức mạnh, một vốn liếng lớn của đất nước về cả nhân sự và tài chánh, trong sự không may, nảy sinh ra may mắn mới.

 

Lòng yêu nước còn động lực phát triển kinh tế, hỗ trợ cho các chính sách kinh tế về sau này, cụ thể là tinh thần sử dụng hàng nội hóa của người trong nước, và “hàng hóa nước nhà” của người Việt hải ngoại, sự chấp nhận các chính sách tiết kiệm cần thiết trong giai đoạn đầu ổn định đời sống xã hội và đặt nền móng cho chương trình phát triển. Phải có một chính sách giáo dục cụ thể, ngoài việc đào tạo nên mẫu người có giá trị tinh thần cao, biết yêu nước, thương người, có tinh thần trách nhiệm với xã hội, chúng ta phải loại bỏ sự ảnh hưởng của tính ích kỷ cá nhân chỉ biết ca tụng hạnh phúc nhục thể và quyền lợi cá nhân.

 

Phải đào tạo con người thực tiễn, bỏ tính lè phè, ưa tranh luận không ích lợi, phát huy tinh thần làm việc khoa học có kế hoạch, biết tôn trọng và quí thì giờ, không lẫn lộn giữa làm và thụ hưởng.

 

Về phương diện kinh tế, chúng ta đã biết được ưu và khuyết điểm của hai nền kinh tế thị trường và kinh tế chỉ huy, chế độ Cộng sản đã trả lời là sự chỉ huy kinh tế cứng nhắc không thể thành công được, ưu điểm của nền kinh tế thị trường là tính linh động. Chính phủ không thể đứng ra trực tiếp kinh doanh và cạnh tranh với tư nhân. Các xí nghiệp quốc doanh không phát triển được các ưu điểm về lý thuyết mà chỉ là một nơi để nhân viên và cán bộ lạm dụng; phải tận dụng những ưu thế của chế độ kinh tế tự do và sáng kiến của tư nhân.

 

Vai trò của chính quyền trong kinh tế là trách nhiệm hỗ trợ và tạo điều kiện và sự thoải mái cho tư doanh phát triển đất nước, chính quyền xây dựng mọi hệ thống hạ tầng cơ sở, về giao thông, bến tàu để cho tư nhân khai thác các phương tiện chuyển vận để đạt được yếu tố thời gian vì đặc điểm sinh hoạt kinh tế hiện nay là sự tranh thủ thì giờ. Sử dụng đúng thì giờ mới thành công, kinh nghiệm của chế độ Cộng sản, một trong những thất bại của họ là sự trì chậm do hệ thống chính quyền quan liêu thư lại. Do đó, một hệ thống hành chánh càng gọn nhẹ càng tốt, chính quyền càng ít can thiệp vào đời sống của người dân thì mọi việc càng được giải quyết nhanh chóng. Chính quyền chỉ giữ gìn trật tự xã hội đúng theo các sự qui định của luật pháp được ban hành một cách dân chủ.

 

Phát huy tính cần cù lao động cho mọi người thấy giá trị của lợi tức thu hoạch từ sức lao động vừa hợp với đạo lý vừa đóng góp vào sự xây dựng. Làm cho dân chúng từ bỏ lần lần càng sớm càng tốt tinh thần đầu cơ trục lợi của tình trạng kinh tế thị trường không ổn định và tính mánh mung láu cá của tình trạng kinh tế xã hội Cộng sản. Vừa phải đào tạo tay nghề, sử dụng khéo léo kỹ thuật của đôi bàn tay, vì lực lượng lao động của Việt Nam trước kia chỉ có cần cù nhưng kém huấn luyện, dân ta chưa có trình độ kỹ thuật cao, mà trình độ mỹ thuật trong tiểu công nghệ so với các dân tộc quanh vùng hẳn còn kém.

 

Việt Cộng quá tham lam khi áp dụng chính sách kỹ nghệ hóa đất nước theo kiểu Staline thực hiện ở Nga thời kỳ thập kỷ 1920 đến thời Đệ Nhị Thế Chiến. Lúc đó tương đối thích hợp vì các nước Tây phương đều tăng cường phát triển kỹ nghệ nặng. Vả lại điều kiện của Liên Sô là một quốc gia lớn, tài nguyên phong phú và có nền móng phát triển kỹ nghệ của thời trước chính biến tháng 10 để lại.

 

Trong khi xây dựng kinh tế cho Việt Nam, ngoài khó khăn của một nước bị tàn phá sau cuộc chiến lâu dài, Việt Nam thiếu hẳn ba yếu tố chính là tài nguyên, kỹ thuật và tài chánh. Ngày nay, cục diện thế giới đã thay đổi rất nhiều. Sau gương Nhật Bản, nước không có tài nguyên mà tiến bộ thành nước phát triển nhất thế giới; Đại Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba, Hongkong cũng trở thành những nước phát triển quan trọng. Điều này đã đánh dỗ lý luận và chủ trương phát triển kinh tế của Cộng sản chủ nghĩa. Karl Marx và Lénine lý luận đơn giản giao dịch giữa hai người, kẻ có lợi thì người kia có hại, hai giai cấp chủ nhân bóc lột (có lợi) thì công nhân có hại (bị bóc lột) và tương quan giữa hai quốc gia nước có lợi (đế quốc) nước bị bóc lột (thuốc địa). Thời đại phù hợp với lý luận đó đã qua. Ngày nay, người ta đã chứng minh được tương quan lưỡng lợi giữa hai người, hay nhóm người hay kể cả các quốc gia với nhau.

 

Quan niệm sai nên chính sách phát triển sai lầm. Các nước Cộng sản buông bức màn sắt không những về chính trị mà cả về kinh tế, làm cho họ tiếp tục nghèo nàn lạc hậu. Điều đó, những nhà lãnh đạo Cộng sản đã thấy, Mao Trạch Đông đã nói với Nixon vào năm 1972: “Tôi sẽ thay tất cả chiếc cầy và con trâu bằng những máy cày.” Họ thấy, nhưng vì quyền lợi riêng, quyền lợi của đảng, và những khó khăn từ bên ngoài tấn công vào cũng như những khó khăn từ bên trong, khiến họ không xoay xở được bằng một sự thay đổi có mức độ như họ muốn. Họ biết rõ là nếu có thay đổi thì sự thay đổi đó sẽ kéo theo sự đổ vỡ toàn thể không kiểm soát được và chế độ Cộng sản bị tiêu diệt, nên họ không dám tự ý thay đổi.

 

Trường hợp Việt Nam, trong tương lai, con đường lâu dài ai cũng mong muốn kỹ nghệ hóa đất nước phú cường nhưng con đường phát triển đó chưa nhất thời làm được. Chúng ta phải học hỏi kinh nghiệm của Đại Hàn, Đài Loan, phát triển theo khuynh hướng vừa kỹ nghệ nặng vừa kỹ nghệ nhẹ trong chiều hướng tận dụng nhân công vì khéo léo tay nghề vừa nhân công rẻ là ưu điểm duy nhất của nước kém mở mang trong sự cạnh tranh quốc tế. Ngoài ra, quản lý là một phần quan trọng quyết định sự thành bại của các kế hoạch phát triển.

 

Phải có chính sách huy động tiết kiệm để người dân đóng góp trực tiếp vào vốn liếng tài chánh, nhất là khối lượng tiết kiệm của người Việt Nam ở nước ngoài. Trong sự cạnh tranh của nền kinh tế thế giới hiện tại, chúng ta rất khó trông cậy vào khối lượng ngoại viện. Sự sử dụng tín dụng quốc tế cũng phải cẩn thận để khỏi lâm vào tình trạng nền sản xuất không đủ trả tiền lời tín dụng. Phải tranh thủ ngoại tệ bằng xuất cảng, nhất thời đối với Việt Nam là rất khó khăn, vì trong nước chưa đủ dùng và sản phẩm xuất cảng kém về mọi mặt trong vấn đề cạnh tranh ở thị trường. Chúng ta lại đi sau các nước Á châu khác dựa vào ưu điểm nhân công rẻ. Nhưng dù sao, vấn đề trọng yếu vẫn phải đạt được là thu hồi ngoại tệ để tăng cường thêm đầu tư mới. Một điểm rất tế nhị là vai trò kinh tế của người Hoa ở Việt Nam. Trước kia, người Hoa và Việt gốc Hoa chi phối hoàn toàn kinh tế của miền Nam Việt Nam. Sau khi chiếm miền Nam, chính sách bài ngoại và chủ trương đánh tư sản cải tạo công thương nghiệp của Việt Cộng làm cho một số đông người Hoa ra đi. Hoạt động kinh tế hầu như ngưng lại, vì hầu hết các sản phẩm kỹ nghệ, thủ công nghiệp tại miền Nam do người Hoa và gốc Hoa sản xuất. Thời gần đây, vì cần có hàng hóa tiêu thụ, Việt Cộng nới lỏng sự kiểm soát kinh tế, sinh hoạt của người Hoa ở Chợ Lớn lại phục hồi trở lại. Người Hoa có tay nghề cao hơn người Việt, kinh nghiệm làm ăn dồi dào, chịu khó hơn, họ không lấn cấn về vấn đề chính trị, họ giỏi mua chuộc cán bộ chính quyền, nên họ phục hồi kinh tế nhanh hơn người Việt.

 

Với người Hoa đã ra đi, ở nước ngoài họ cũng làm ăn lớn hơn người Việt vì có nhiều vốn. Trong lúc giao thời, nếu Việt Cộng có những thay đổi chính trị quan trọng để sinh hoạt kinh tế khởi sắc trở lại, thì người Hoa lại nắm cơ hội nhanh chóng hơn người Việt Nam. Ngoài ra, người Hoa còn được sự yểm trợ tài chánh, hoặc sự cộng tác kinh tế của các trung tâm kinh tế của người Hoa trên thế giới như Hongkong, Singapore, Taiwan, ngày nay còn ở Thailand, Indonesia, Hoa Kỳ, Canada, Malaysia, các nước Tây Âu và Úc.

 

Do đó, nếu không có một chính sách kinh tế thích hợp, người Hoa trở lại làm chủ nền kinh tế của Việt Nam trong tương lai. Ngoài ra, còn phải kể đến ảnh hưởng kinh tế của người Nhật, Đại Hàn - chúng ta không chủ trương bài ngoại và ái quốc cực đoan, nhưng cần phải thấy trước những khó khăn để hoạch định chính sách kinh tế có thể lôi cuốn đầu tư mà vẫn bảo vệ được quyền lợi của đại đa số người Việt Nam nghèo khổ.

 

Vấn đề đất đai cũng là một điểm tế nhị trong tương lai. Hai miền Nam-Bắc Việt Nam đều trải qua các cuộc cải cách ruộng đất. Miền Bắc phải trả giá cho cuộc cải cách đó bằng sinh mạng của cả triệu người, miền Nam đã trả giá bằng số tiền lớn trong chương trình ruộng cho người cầy tức là sự đóng góp của toàn dân qua chính sách thuế khóa.

 

Từ đó, trên nguyên tắc hiện nay, Việt Nam không có tư hữu đất đai với diện tích lớn. Nước Việt Nam rất hẹp, dân đông, mật độ dân cư cao hơn Trung Hoa là nước đông dân nhất thế giới. Do đó, chúng ta không nên quan niệm quyền tư hữu đất đai lớn. Chính sách tập trung nông nghiệp, tổ chức nông trường, sản xuất quốc doanh của Việt Cộng đã thất bại. Ngày nay, kỹ nghệ sản xuất nông nghiệp tiến bộ, nhiều nước không có nhiều đất đai canh tác như Nhật Bản, Đài Loan đã chứng tỏ sự thành công trên sự sử dụng kỹ thuật tân tiến và thâm canh để tự túc nông phẩm, cho ta kinh nghiệm phát triển nông nghiệp cho tương lai. Đất đai là vốn liếng chung của toàn dân và sử dụng đất đai phải được thể hiện qua việc đóng thuế.

 

Ngoài đất đai bảo đảm cho quyền cư trú và quyền canh tác của nông dân trong giới hạn luật pháp qui định, mọi đất đai dùng trong kỹ nghệ phải qua quyền hạn của chính phủ bằng hình thức thuê mướn, giai đoạn đầu khuyến khích đầu tư cho mướn giá hạ; khi kinh tế phát triển, sau thời gian do kế hoạch phát triển ấn định, giá thuế đất phải được nâng cao. Tiền thuê đất đóng góp vào ngân sách làm giảm nghĩa vụ đóng thuế của toàn dân, phù hợp với quan niệm đất đai là tài sản chung mà người dân đã nhiều lần đóng góp máu, xương và mồ hôi mới có được.

 

Một số lớn người Việt Nam đi ra nước ngoài định cư ở các quốc gia như Hoa Kỳ, Úc và Gia Nã Đại, là những đất nước rộng, người thưa - chế độ tư hữu về đất đai được công nhận rộng rãi, nếu chúng ta không có quan niệm ngay về đất đai cho trường hợp Việt Nam về sau - thì trong thời gian đầu tiên, nhiều người giầu có, sẽ làm chủ những khoảnh đất lớn, đó là một tình trạng đầu cơ trên xương máu của người dân rất bất công.

 

Tóm lại, trách nhiệm của những người cầm quyền trong tương lai rất nặng nề và tế nhị, vừa phải phục hồi lại đất nước vừa phải xây dựng cho đất nước, nên phải có những kế hoạch đứng đắn, bảo đảm cho mọi người dân tự do đóng góp trong một đường hướng mạnh mẽ là con đường tiến tới, để nhanh chóng thoát khỏi nghèo đói lạc hậu và tiến kịp với đà tiến chung - mà chiến tranh và chế độ Cộng sản đã làm trì chậm hơn nửa thế kỷ.

Những người đã ra đi khỏi nước là vốn liếng quí giá, trong tương lai chỉ cần sự đóng góp một phần của những khối óc khoa học kỹ thuật được đào luyện ở nước ngoài cũng đủ chất xám cần thiết cho việc xây dựng tương lai cho đất nước.

 

Về phương diện chính trị, con đường phải chọn rõ ràng là định chế dân chủ thực sự. Người dân phải làm chủ đất nước qua hình thức tự do lựa chọn chính trị lãnh đạo trong những cuộc bầu cử có định kỳ do hiến pháp và luật pháp qui định. Nguyên tắc tự do, chấp nhận qui luật đa số dù không hoàn hảo nhưng không có thể thức nào khác hơn.

 

Thiểu số cũng được tôn trọng là những ý kiến hay tổ chức đối lập. Có đối lập mới có dân chủ thực sự. Chế độ Cộng sản thất bại vì thủ tiêu đối lập.

 

Vị trí địa lý và lịch sử của Việt Nam là nơi đặc biệt tiếp thu nhiều nền văn hóa cũng như đã trải qua nhiều định chế chính trị. Trong tương lai, điều này trở thành một yếu tố chính yếu, khi thực tế, trong cuộc ra đi lớn lao hơn 10 năm qua, người Việt Nam ở khắp mọi nơi trên thế giới, nên sự ảnh hưởng ngược lại, Việt Nam sẽ là nơi hội tụ của nhiều nguồn tư tưởng chính trị, và nơi phản ảnh của nhiều kinh nghiệm chính trị khác nhau. Do đó, phải tổ chức đất nước như thế nào để những kinh nghiệm đó thành một hội nhập hài hòa mà không trở thành những mâu thuẫn xâu xé.

 

Trong hoàn cảnh đó, mọi tư tưởng độc tôn sẽ trở nên lỗi thời sẽ bị loại bỏ ngay. Sự tôn trọng nhiều nguồn tư tưởng chính trị và những nhóm nhỏ, lúc đầu không tránh được tình trạng manh mún, nhưng khó có con đường lựa chọn nào khác hơn. Chúng ta phải chấp nhận để sinh hoạt chính trị được tự do, công khai và dân chủ. Chúng ta phải tin vào sự lựa chọn của dân chúng, vì dân chúng Việt Nam là khối dân đã trưởng thành và có kinh nghiệm.

 

Sau thời Cộng sản, có nhiều vấn đề cần được suy nghĩ một cách khách quan, bình tĩnh, không thiên kiến, không mặc cảm. Phải có cái nhìn nghiêm túc đúng đắn trong tương lai.

 

Cộng sản hoàn toàn sai, bị lịch sử dân tộc và nhân dân đào thải, nhưng không phải những gì của ta trước thời Cộng sản là hoàn toàn đúng. Chúng ta có nhiều khuyết điểm, nên Cộng sản mới tạm thời thắng chúng ta. Nếu ta hoàn toàn đúng thì ta đã không thua cuộc chiến vừa qua. Với vấn đề phân rẽ địa phương, chúng ta đã biết nó có nguyên do từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, đến thời nhà Nguyễn, thời Pháp, các chính quyền Cộng Hòa, chính quyền Cộng sản, đều vì quyền lợi chủ trương sự chia rẽ. Tiêu biểu là cách dùng người do liên hệ đến sinh quán của lãnh đạo hay địa phương của phe nhóm đương nhiên sẽ có phản ứng ngược lại của các địa phương khác. Ngày nay, Cộng sản chủ trương đưa rất nhiều người sinh quán miền Bắc vĩ tuyến 17 vào nắm quyền cai trị tại miền Nam, chính sách này tất nhiên sẽ đưa đến một sự chống đối ngấm ngầm của những người sinh quán ở miền Nam vĩ tuyến 17. Hậu quả nhất thời sau khi Cộng sản cáo chung sẽ rất trầm trọng. Nếu chính quyền có trách nhiệm trong tương lai không có cái nhìn và chính sách tế nhị, thì sự phân chia địa phương sẽ trầm trọng hơn lên. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, những vết thương do lịch sử để lại không nên khơi lại; nên để cho nó lành dần. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc thống nhất từ phong tục tập quán, tiếng nói, chữ viết từ Nam đến Bắc, dị biệt nếu có chỉ là nhỏ. Không nên vì quyền lợi phe nhóm, vì xúc cảm nhất thời mà làm cho những việc nhỏ biến thành trầm trọng.

 

Thứ đến là vấn đề chính đảng. Chúng ta đã biết là cũng vì vấn đề lịch sử mà các đảng quốc gia không thể có tầm vóc hoạt động toàn quốc, không đủ sức thuyết phục một đa số cử tri toàn quốc. Đảng Cộng sản là chính đảng lớn nhất nước, mạnh nhất nước, đã nắm chính quyền toàn quốc thì đã phô bày ra bao nhiêu nhược điểm, đã không xây dựng được đất nước, họ trở thành một đảng phá hoại, một đảng cướp lớn nhất. Từ đó, sau thời Cộng sản, phản ứng của người dân tất nhiên là họ không thích các hình thức đảng phái, hội đoàn. Đây cũng là một phản ứng và cảm xúc nhất thời có tính tiêu cực. Chúng ta cũng biết rằng sinh hoạt dân chủ rất cần thiết; một xã hội trưởng thành, lành mạnh, ổn cố là một xã hội có những chính đảng ổn định, những hội đoàn lành mạnh. Chính trị dân chủ đi đôi với sinh hoạt chính đảng và hội đoàn vững mạnh, phổ thông. Có dân chủ khi người dân ý thức tham gia sinh hoạt chính trị, đóng góp sinh hoạt xã hội - tham gia ứng cử, bầu cử, phát biểu ý kiến dưới mọi hình thức bỏ phiếu, viết báo, diễn thuyết, biểu tình v.v... Do đó, nhiệm vụ của những người làm chính trị, người nắm chính quyền, các đảng phái là phải kiện toàn các chính đảng từ lý thuyết, đường lối, phương thức hành động và tổ chức để lấy lại niềm tin của dân chúng, khuyến khích dân chúng tham gia chính trị, gia nhập chính đảng, hội đoàn. Chính đảng và hội đoàn phải nhận trách nhiệm xây dựng dân chủ cho đất nước, trước tiên phải có hoạt động dân chủ từ trong đảng phái, hội đoàn mình. Hoạt động công khai và công nhận kết quả bầu cử theo đa số. Bỏ tập quán mỗi khi không được bầu đa số thì tách ra làm hệ phái mới, lập hội đoàn mới. Phải làm cho chính đảng, hội đoàn là nơi dân chúng tin cậy, không phải là những tổ chức làm cho dân sợ, dân ghét.

 

Quan trọng nhất là vấn đề tôn giáo. Cộng sản chủ trương tiêu diệt tình cảm cá nhân, phá bỏ quan hệ gia đình, vượt trên ranh giới quốc gia và bài xích tôn giáo. Phản ứng tự nhiên của con người sau chế độ Cộng sản là cá nhân chủ nghĩa sẽ mạnh hơn, hạnh phúc gia đình sẽ được chú trọng hơn; biên giới các quốc gia sẽ được vạch lại giữa các dân tộc có văn hóa, truyền thống lịch sử khác nhau và tôn giáo sẽ được người ta sùng tín hơn. Nhưng có điều đáng cho ta suy nghĩ là cũng chính vì cái phản ứng tự nhiên đó sẽ đưa tới tinh thần cực đoan hơn. Ví như tinh thần quốc gia rất tốt nhưng tinh thần quốc gia cực đoan sẽ dễ đưa đến mâu thuẫn giữa các quốc gia, các chủng tộc và tạo nên chiến tranh.

 

Con người có đức tin vào tôn giáo rất tốt, giáo lý nào cũng dạy con người làm lành lánh dữ, giúp người và giúp đời. Cộng sản phê phán sự mê tín và nhầm lẫn mê tín và tôn giáo, nên triệt hạ tôn giáo. Cộng sản muốn con người nuôi thù hận để đấu tranh với nhau không khoan nhượng nên bài xích tôn giáo, xem tôn giáo là thuốc phiện, là lợi khí để người cầm quyền làm cho con người mất ý chí tranh đấu. Nhưng những người lãnh tụ Cộng sản từ Karl Marx, Engels, đến Lénine, Mao Trạch Đông không hiểu tôn giáo là một phương thức giải thoát cho tâm hồn con người. Nếu không tin vào những sự cứu rỗi hay giải thoát cho cuộc đời sau thì lòng tin vào tôn giáo cũng giải thoát cho con người khỏi những áp lực đời sống hiện tại. Con người sẽ khổ sở như thế nào khi không có một niềm tin để hướng tới. Có những lúc con người thật sự sợ hãi, thật cô đơn, lúc đó lòng tin vào tôn giáo rất cần thiết. Con người sẽ ra sao khi không có niềm tin, khi biết mình chết là hết. Chết nghĩa là một bóng đen bao trùm xuống rồi hết.

 

Chính Cộng sản mâu thuẫn khi buộc con người hy sinh hiện tại cho tương lai, nhưng không phải tương lai cho họ mà cho con cháu. Lý luận này mới nghe thì lý tưởng, nhưng thật ra là không tưởng. Cộng sản dựa trên duy vật mà đòi đảng viên phải có tinh thần phục vụ cao, đòi hỏi hy sinh, trong khi sự hy sinh đó không cho bản thân họ nên thật mâu thuẫn. Xã hội Cộng sản đầy rẫy bất công, tham nhũng, áp bức chính là hệ luận của những luận cứ của lý thuyết Cộng sản. Con người không có niềm tin nào cho tương lai của họ nên họ thực tế chỉ biết lo cho hiện tại. Xã hội gồm toàn những người thực tế, chỉ biết lo toan cho mình và đấu tranh không khoan nhượng với người khác, nên xã hội đó trở nên xấu xa. Xã hội Cộng sản làm sao tồn tại được.

 

Tôn giáo ít ra giúp cho con người giải thoát khỏi những hệ lụy gay gắt và áp lực của đời sống. Có tôn giáo là điều rất tốt cho con người. Tôn giáo bổ túc cho những định chế xã hội khác làm cho đời sống con người dễ chịu hơn.

 

Tin vào tôn giáo nào cũng tốt. Nhưng nếu chỉ tin vào độc nhất tôn giáo của mình cũng là một hình thức độc tài. Lịch sử con người đã xảy ra rất nhiều lần chiến tranh tôn giáo cũng chỉ vì hình thức độc tài đó: bó buộc người khác tin giống như mình. Do đó, một điều để suy nghĩ là sau thời Cộng sản, làm thế nào đừng có những hình thức độc tài khác. Mỗi người có quyền tin theo ý riêng mình nhưng phải tôn trọng đức tin của người khác.

 

Xã hội Việt Nam được duy trì và phát triển trong tinh thần hội nhập ba tôn giáo chính: Nho, Thích và Lão. Đến thế kỷ 16, đạo Gia Tô bắt đầu được truyền bá.

 

Sau những lần trầm và thăng, Gia Tô giáo cũng có ảnh hưởng vững chắc trong xã hội Việt Nam.

 

Đa số trong các giáo hội Gia Tô giáo là Thiên Chúa giáo La Mã, phần còn lại là Tin Lành và các giáo hội Cơ Đốc.

 

Hòa Hảo và Cao Đài phát xuất từ tín ngưỡng thờ Trời, Đất, Phật, Thánh, Tiên và Tổ Tiên. Hai tôn giáo này, ngoài truyền bá đức tin còn là hai tổ chức chính trị quân sự chống ngoại xâm và chống Cộng sản. Trong vòng nửa thế kỷ tuy ngắn ngủi, nhưng Cao Đài và Hòa Hảo đã có số lượng tín đồ rất đáng kể nhưng đặc biệt là chưa phổ quát toàn quốc.

 

Lịch sử tôn giáo Việt Nam gắn liền với lịch sử chính trị của đất nước.

 

Phật giáo là quốc giáo thời Lý, Trần, nhưng qua thời gian đã hội nhập trở thành một tôn giáo riêng cho dân tộc. Phật giáo bàng bạc trong đời sống. Mỗi làng đều có một hay nhiều chùa. Nhưng chùa vừa thờ Phật, vừa thờ các Thánh Thần. Giáo hội Phật giáo mới được thành lập khởi đầu bằng Giáo Hội Tăng Già Trung Việt, Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt và Hội Phật Học Nam Việt. Đa số người Việt Nam thờ Phật, kính tăng; nhưng số người đi lễ chùa, qui y, có pháp danh, gia nhập và sinh hoạt giáo hội không phải là đa số người thờ Phật.

 

Thời xưa, người dân có trình độ học vấn kém. Các vị sư sãi là thành phần hiếm hoi những người có học tại các địa phương. Mỗi làng, nhà chùa được xem là một trung tâm văn hóa của làng, sư sãi có ảnh hưởng hướng dẫn đời sống dân chúng.

Đất nước thường bị ngoại xâm, chùa chiền còn là trung tâm sinh hoạt của những tổ chức kháng chiến.

 

Thời Pháp thuộc, Phật giáo và chùa chiền cũng nằm trong trường hợp đó. Các tăng sĩ thường đứng về phía đa số dân chúng chống ngoại xâm và chống cường hào ác bá.

 

Tuy nhiên, ngay cả thời Pháp thuộc cũng không có chính sách đàn áp Phật giáo. Chính quyền thực dân và Nguyễn Triều tay sai có đánh vào ngôi chùa, có bắt sư sãi cũng chỉ vì lý do nhà sư tham gia các tổ chức cách mạng và chùa chiền đó là nơi hoạt động cách mạng. Các chùa và sư bị đánh bị bắt không vì lý do tín ngưỡng.

Chính quyền Ngô Đình Diệm nâng đỡ đặc biệt để phát triển giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã nhưng cũng không có chính sách đàn áp hay tiêu diệt Phật giáo.

So sánh giữa Thiên Chúa giáo và Phật giáo dưới thời Pháp thuộc và các chính quyền Cộng Hòa Miền Nam thì một bên được ưu đãi và một bên không có ưu thế. Nhưng lẽ thông thường, những người có quyền thế và được ưu đãi thường hay có lạm dụng và quá trớn. Những quá trớn của Giám Mục Ngô Đình Thục và những người tay sai trong chính quyền Ngô Đình Diệm đưa đến cuộc đấu tranh của Phật giáo năm 1963. Tiếp theo đó, những cuộc đấu tranh đòi dân chủ của Phật giáo nguyên tắc là đúng đắn, vì các chính quyền miền Nam Việt Nam từ năm 1954 đến 1975 là những chính quyền dân chủ nửa vời. Muốn có dân chủ phải có đấu tranh. Không phải chỉ riêng một Phật giáo đấu tranh đòi dân chủ, mà ngay từ cuộc đấu tranh năm 1963, ngoài Phật giáo còn có các tôn giáo khác (ngoài Thiên Chúa giáo) và các tổ chức chính trị đã bị chính quyền Ngô Đình Diệm loại trừ.

 

Có nhiều người cho rằng vì các vụ đấu tranh của Phật giáo làm cho miền Nam suy yếu và mất về tay Cộng sản. Kết luận như vậy không đúng. Ngày nay chúng ta đã thấy dùng độc tài để chống lại tổ chức độc tài Cộng sản là một cách giải quyết không đúng. Chỉ có dân chủ thực sự mới thắng Cộng sản. Nhưng chúng ta có thể nói chắc là Cộng sản đã lợi dụng được nhiều trong những cuộc đấu tranh chính trị tại miền Nam trước ngày 30-4-1975. Có rất nhiều cán bộ Cộng sản đã len lỏi vào hàng ngũ lãnh đạo của Phật giáo để sách động và thủ lợi. Những người này đã lộ diện sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Có dư luận cho rằng những tu sĩ Phật giáo là cán bộ Cộng sản. Điều đó không đúng. Cộng sản đã bắt giam giữ tù đày hầu hết những người lãnh đạo Phật giáo và nhiều người đã chết trong tù và nhiều người đến nay còn bị giam giữ.

 

Chúng ta không thể trách được rằng Phật giáo không kiểm soát được giáo hội để cán bộ Cộng sản xâm nhập. Chính quyền Ngô Đình Diệm, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu dày đặc an ninh, mật vụ, cảnh sát mà Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Đinh Xáng, Phạm Ngọc Thảo còn len lỏi vào được và đều nắm những chức vụ quan trọng, chưa kể rất nhiều nhân viên tình báo không nổi tiếng khác.

 

Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc trong văn hóa dân tộc, nhưng không phải dân tộc chỉ có một nguồn tư tưởng Phật giáo. Những tư tưởng xem Phật giáo là dân tộc, dân tộc là Phật giáo, hay những chủ trương đưa đất nước trở về thời Lý-Trần trong đó Phật giáo là quốc giáo là những tư tưởng quá khích, đã không thực hiện được mà chỉ gây hiềm khích chia rẽ. Những tư tưởng đó mới xem như là ủng hộ Phật giáo nhưng thực ra là có hại. Qua kinh nghiệm độc tôn của Cộng sản thất bại, mọi chủ trương độc tôn khác đều không thực hiện được và đều lạc hậu.

 

Có nhiều người giở lại lịch sử để tìm lý luận chống Thiên Chúa giáo. Chính Việt Cộng cũng đã làm điều đó. Họ đồng hóa Thiên Chúa giáo và ngoại xâm. Thực sự lịch sử giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã truyền đạo cùng với những quân đội Tây phương chiếm thuộc địa. Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Việt Nam cũng nằm trong trường hợp đó. Lịch sử giáo hội Thiên Chúa giáo khởi đầu bị triều đình nhà Nguyễn và đa số dân chúng không chấp nhận và loại trừ.

 

Từ thời Pháp thuộc, giáo hội được bảo vệ và được ưu đãi nên phát triển rất nhanh. Hai mươi bốn năm ở miền Nam, giáo hội Thiên Chúa giáo cũng nhận được tất cả ưu thế của chính quyền. Do đó, vị trí Thiên Chúa giáo trong dân tộc như địa vị cô dâu, nhưng cô dâu lại nắm hết quyền lợi trong gia đình chồng trong khi những người anh em chồng thì nghèo đói. Do đó, giáo hội Thiên Chúa giáo và chính quyền miền Nam bị đa số dân chúng chống đối là một điều tự nhiên.

 

Nhưng tư tưởng bác ái của Kitô giáo rất phù hợp với văn hóa Việt Nam nên nếu phát triển một cách hài hòa và bình đẳng, giáo hội sẽ không gặp sự chống đối quyết liệt. Ngày nay, cộng đồng Thiên Chúa giáo là một cộng đồng lớn mạnh vững chắc trong xã hội Việt Nam. Mọi âm mưu triệt phá giáo hội là điều không tưởng; nhưng ngược lại, cũng giống như mọi tôn giáo khác, âm mưu độc tôn tôn giáo, chỉ xem giáo hội mình là duy nhất và ước muốn biến tôn giáo mình thành quốc giáo cũng là điều không thể có được. Trong nhà tù Cộng sản, rất nhiều tu sĩ của các tôn giáo đều bị giam chung với nhau không phân biệt; họ sống rất hài hòa với nhau và đều nhìn thấy kẻ thù chung là chủ nghĩa Cộng sản vô thần. Không ai trong những tu sĩ ở tù xem tôn giáo mình là duy nhất, và không ai còn khích bác tôn giáo bạn, xem những hoạt động của tôn giáo bạn là nguyên do đưa đến sự thất bại của miền Nam trước Cộng sản.

 

Có một số người theo cung cách cũ của xã hội miền Nam trước 30-4-75 muốn gây sự khích bác chống đối nhau giữa các tôn giáo như là một phương thức để tạo chỗ đứng cho cá nhân họ. Gây xích mích chia rẽ giữa các tôn giáo là sách lược của Cộng sản và những nhà lãnh đạo độc tài của miền Nam cũ. Những người này chỉ biết quyền lợi cá nhân và phe nhóm, không nghĩ đến quyền lợi chung của dân tộc.

Ai cũng biết thời đại sau Cộng sản, con người đã chán ghét độc tài và bạo lực. Ai cũng hiểu là thời đại ngày nay không thể tiêu diệt một tổ chức, loại bỏ một tư tưởng dù là của thiểu số nhỏ. Tình trạng thực tế ở Việt Nam, các tổ chức tôn giáo đều có số lượng tín đồ lớn, đều có tổ chức sâu rộng. Không có lực lượng nào tiêu diệt được; không có tổ chức nào có thể thôn tính nhau. Trong tình thế này, chủ trương độc tôn là ấu trĩ và là ảo tưởng.

 

Do đó, chúng ta cần tránh những tư tưởng tôn giáo cực đoan, phải cảnh giác ngay với những thành phần chủ trương cực đoan trong giáo hội. Cộng sản có thể cho cán bộ xâm nhập vào các đoàn thể chính trị, tôn giáo. Những cán bộ này có lúc họ sẽ chống Cộng hơn ai hết, đòi bắn, đòi giết Cộng sản hết mình để làm cho các tổ chức trở thành đơn độc, ấu trĩ, vì ngày nay cả thế giới không ai tán thành chủ trương bắn giết tiêu diệt đẫm máu. Người ta đã thấy kinh nghiệm chế độ Cộng sản có thể hóa giải mà không tiêu diệt.

 

Những cán bộ Cộng sản xâm nhập vào các tôn giáo sẽ tỏ ra là tín hữu trung kiên nhất, hô hào phổ biến những hành động quá trớn để làm giảm uy tín của các tôn giáo.

 

Tình trạng các tổ chức chính trị quốc gia còn yếu kém, các tổ chức tôn giáo ảnh hưởng sâu rộng; chính quyền Cộng sản Việt Nam đang e ngại các tôn giáo hơn là lo sợ các tổ chức chính trị. Họ sẽ nhắm vào các tôn giáo để phá hoại và khích bác tạo sự chia rẽ lẫn nhau.

 



 


Chương Hai Mươi

 

Tình cờ trước khi đi, tôi gặp một số bạn của thời trung học. Đặng Thao đến thăm tôi tận nhà. Cha của Thao là một giáo sư Việt văn của một trường trung học tư thục. Thao ngồi sát tôi, Thao làm thơ và đưa cho tôi đọc. Tôi không làm được thơ nhưng rất thích đọc thơ. Tôi khâm phục và yêu mến thi sĩ, họ là người được Thượng Đế ưu đãi cho một tâm hồn nhậy bén, phong phú và khả năng diễn tả làm rung động lòng người. Từ chỗ thơ, tôi được Thao cho mượn nhiều truyện đọc và có hôm Thao đưa cho tôi đọc cuốn ”Bàn Về Vấn Đề Thanh Niên” của Lénine, một số bài thơ của Tố Hữu và thỉnh thoảng lại một tác phẩm khác của các nhà lãnh đạo Cộng sản, một tuyển tập của Mao Trạch Đông. Thuở còn bé được đọc lén những tác phẩm của Cộng sản quả là thích thú và nhiều xúc cảm. Sau khi đưa tôi đọc. Thao hỏi ý kiến tôi về những vấn đề liên hệ trong sách, tôi trả lời Thao là tôi thấy điều Lénine và Mao Trạch Đông viết đáng suy nghĩ nhưng với tôi, Cộng sản luôn có một giới hạn mà tôi không vượt qua được. Cái giới hạn đó hình thành trong tôi không phải bằng lý trí mà bằng tình cảm, bằng những kỷ niệm ăn sâu vào ký ức của tôi lúc còn thật bé chưa cắp sách đến trường ở quê tôi làng Thanh Quít. Tôi kể cho Đặng Thao nghe về những điều tôi thấy lúc bé và tôi thù người Pháp, khinh người Việt Nam theo Pháp và ghét Việt Minh. Từ đó, giữa tôi và Thao có giới hạn- Thao không thuyết phục tôi nữa. Năm 1966, tôi được tin Đặng Thao vào khu khi đang học Sư Phạm Huế. Đầu năm 1976, Thao đến thăm tôi tại nhà, lúc đó, Thao là Trưởng Ban Chấp Pháp Quận Gò-Vấp, biết tôi trốn trình diện, Thao khuyên tôi cố tránh đừng để bị bắt, và theo Thao thời gian qua rồi mọi việc sẽ xóa hết và tôi có thể trở lại đời sống bình thường. Tôi biết Thao đến thăm tôi để hàm ý xác nhận với tôi là Thao đúng và tôi sai, hoặc Thao là kẻ chiến thắng và tôi là kẻ chiến bại. Ngay lúc đó tôi biết Thao là cán bộ Cộng sản nhưng chưa hiểu biết hết chế độ vì đối với Cộng sản không có việc thời gian sẽ xóa hết, vì theo lý thuyết Cộng sản, họ đấu tranh không khoan nhượng đối với kẻ thù, đã là kẻ thù của họ, họ sẽ đuổi tận giết tuyệt hay câu thúc mãi mãi trong nhà tù cải tạo, chỉ có khi nào chế độ đó bị loại bỏ thì mới xóa được.

 

 

 Lần này, Thao lại đến thăm tôi khi tôi đi tù về, Thao đã thôi ngành công an để chuyển qua ngành giáo dục. Chúng tôi chỉ nhắc lại những chuyện thời thơ ấu, vì chỉ có tình bạn đậm đà với những kỷ niệm, tôi không muốn gợi lại chuyện tù đày của tôi và có lẽ Thao cũng tránh. Sau tuần cà phê thuốc lá đầu tiên, thì Thao muốn uống rượu, tôi phải nhờ người nhà đi mua rượu cho bạn, Thao nói mỗi ngày có thể uống hai lít rượu và anh than phiền là không có rượu ngon.

 

 Tôi hỏi Thao:

 

- Tại sao bạn ra khỏi ngành công an, tự xin hay bị loại trừ?

 

 Không có vẻ tức giận với câu hỏi có phần soi mói của tôi, Thao nói:

 

- Tôi tự ý xin ra, tôi thấy ngành công an không hợp, bạn có nhớ lúc nhỏ, tụi mình đứa nào cũng không ưa cảnh sát?

 

 Tôi không buông tha nên tiếp tục hỏi:

 

- Cảnh sát thì khác, còn công an của bạn là cán bộ cách mạng phải khác chứ, tinh thần cách mạng của bạn, mơ ước một xã hội công bằng của bạn từ lúc nhỏ, bây giờ có dịp thi thố hoài bão.

 

 Thao không trả lời ngay câu nói châm chọc đó, rất thành thật hỏi tôi:

 

- Lúc bạn làm trong chính quyền, bạn có thưc hiện ước mơ của mình không?

 

 Tôi đáp:

 

- Ai cũng biết ước mơ và thực tế xã hội bao giờ cũng có khoảng cách rất xa, đi làm gặp nhiều trở ngại, nhưng ít ra tôi cũng làm được một phần những gì mà lúc trẻ mình gọi là hoài bão. Cụ thể khi tôi làm việc, tôi biết là tôi có thể giúp được nhiều người, dù không chủ quan nhưng tôi nghĩ ít nhất mình cũng có ích một phần chứ không phải là người có hại cho xã hội.

 

 Thao thở dài nói:

 

- Cũng vì lý do đó tôi chuyển qua nghề dạy học, không tiếp tục ở công an nữa.

 

 Tôi hỏi Thao dạy học có sống nổi không? Thao trả lời là nhờ vào vốn liếng của người cha để lại trước khi chết. Cuối cùng buổi gặp gỡ, Thao khuyên tôi nên ra đi. Thao nói không có chỗ đứng nào cho tôi ở đất nước này. Tôi đồng ý với bạn là hiện tại tôi khó ở lại Việt Nam. Tôi muốn tìm một việc để chờ đợi vận hội mới như tôi tin tưởng, cũng chưa được và bấp bênh. Tôi có thể bị bắt lại bất cứ lúc nào vì lý lịch cải tạo không tốt của tôi. Tôi không thể nói với Thao là tôi tin sẽ có những biến chuyển trong tương lai mà trong đó mọi người có lòng với đất nước dân tộc phải dấn thân thêm một lần nữa để xoá sạch Cộng sản xây dựng dân chủ.

 

 

 Tôi không thể ngồi chờ đợi giải pháp ra đi có trật tự đang được thảo luận giữa người Mỹ và Việt cộng. Tất cả những người cải tạo về đều đặt hy vọng vào đó. Tôi không muốn chờ đợi người ta ban phát tiện nghi cho mình. Tôi phải tự quyết định lấy đời tôi, một lần quyết định sai lầm đã phải chịu đựng một giá quá đắt. Tôi phải vượt biên.

 

 Một người em gái họ đến thăm tôi, rủ tôi đi nghe đêm đọc thơ tiền chiến của sinh viên Sài Gòn tổ chức. Theo phong trào cởi mở, các loại thơ đỏ của Tố Hữu và thơ con cóc của Hồ Chí Minh, Lê Đức Thọ, Xuân Thuỷ, thơ đặt theo hoá đơn của Huy Cận, Xuân Diệu bị xếp xó. Báo Tuổi Trẻ đã đăng nhiều thơ của các thi sĩ trẻ, họ làm thơ ca tụng tình yêu (không còn ca tụng Đảng và lao động), thơ hay, kỹ thuật cao. Thơ Quang Dũng và Hữu Loan được giới trẻ yêu chuộng, giống như thời kỳ trẻ, chúng tôi yêu thơ Quang Dũng, những bài thơ vừa hung vừa lãng mạn, như đời của một thanh niên chỉ biết hiến thân cho đất nước không cần đến công danh, thành bại hay lập trường chính trị, giai cấp hay đảng phái. Phong trào nói thẳng nói thật là dịp để văn nghệ sĩ giải bày tâm tình của họ sau thời gian bị câu thúc vì kỷ luật tổ chức, hay vì miếng cơm manh áo, tương lai, sự nghiệp, công danh. Nguyễn Văn Tý viết bày tỏ tâm hồn thực với tác phẩm đầu tay là bài Dư Âm, Tý thú nhận là với bài Dư Âm ông đã phải viết hằng trăm lần kiểm điểm, tự phê tính lãng mạn đi quá khuôn khổ lập trường của một nghệ sĩ xã hội chủ nghĩa, nhưng ông vẫn yêu bài nhạc kỹ thuật non nớt đó hơn là những bản nhạc làm theo khuôn khổ đảng đặt ra trong chức vụ chủ tịch hội nhạc sĩ, như bài “Dáng Đứng Bến Tre” mới vừa được phổ biến.

 

 Bích, cô em họ tôi, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Triết, dạy triết tại trường trung học lớn nhất tỉnh nhà. Cô đẹp người, học giỏi, tính tình cứng cỏi nên không tìm được một ý trung nhân. Trước kia tôi tưởng Bích chỉ là người có tinh thần cấp tiến, muốn đấu tranh cho sự công bằng xã hội, tôi không ngờ Bích là một đảng viên Cộng sản, đã có lúc vào mật khu để tham gia huấn luyện hoạt động nội thành. Việt cộng chiếm miền Nam, đầu tiên, Bích được đề bạt như Chánh văn phòng của Hồ Nghinh, Bí Thư Tỉnh Uỷ Quảng Nam-Đà Nẵng. Thời gian đầu hồ hởi phấn khởi vì cách mạng, Bích sáng tác nhiều thơ ca tụng “bác Hồ”, và dấn thân làm việc trong tinh thần cách mạng. Dần dần Bích nhìn ra sự thật; một lần tranh luận với Hồ Nghinh về chính sách cải tạo người chế độ cũ, Bích tưởng đó là một chương trình học để người “lầm đường hiểu rõ chính sách, hiểu rõ cách mạng, từ bỏ thói hư tật xấu để học tinh thần phục vụ nhân dân”. Nhưng Hồ Nghinh đã cho Bích thấy rõ đó là một chính sách nhằm tiêu diệt và vô hiệu hoá kẻ thù giai cấp. Tiếp tục đến chính sách cải tạo công thương nghiệp, đánh tư sản, Bích không ngờ chính quyền mới chỉ thi hành việc triệt tiệu người tư sản để cào bằng xã hội làm cho mọi người nghèo khổ, chỉ có giai cấp đảng viên là càng lúc càng giàu. Bất công xã hội ngày càng đầy rẫy hơn trước.

 

 Bích nói:

 

- Xã hội miền Nam trước nổi tiếng là tham nhũng, nhưng không bằng chế độ mới, bây giờ cán bộ có quyền hạn tuyệt đối, không ai chỉ trích, họ lộng hành; một Phường-trưởng miền Nam có tham nhũng cũng chỉ sống qua ngày, bây giờ một Phường-trưởng là một ông vua con có quyền sinh sát, đưa người đi cải tạo, tóm thâu mọi quyền lợi trong phường nên trở nên thật giàu.


 Muốn ghẹo Bích một tí, tôi hỏi:

 

 - Tại sao em bênh vực cho chế độ cũ như vậy, trước kia cô là nhân viên chính phủ VNCH, lại hoạt động cho Cộng sản. Bây giờ cô ân hận sao?

 

 - Em làm việc gì, em không bao giờ ân hận, mình nghĩ phải thì làm, thấy sai thì bỏ, thế thôi.

 

 Tôi biết cô em họ bướng bỉnh, mạnh bạo như con trai, tôi chưa kịp nói gì thì Bích tiếp:

 

- Lúc nhỏ em thấy mến anh. Đến khi anh không đi theo ngành Sư Phạm mà thi vào trường Hành Chánh thì em ghét anh lắm, em nghĩ anh mê công danh, thích bon chen, ăn trên ngồi chóc thiên hạ. Khi anh trở về làm việc tỉnh thì em đã hoạt động trong hội Liên Hiệp Sinh Viên Học Sinh rồi, anh Hà Trọng Xuân, bạn của anh, móc nối đưa em vào tổ chức tại Đại Học Huế.

 

 Đa số thanh niên, sinh viên học sinh người Quảng Nam đều quan tâm đến các vấn đề đất nước. Một số đã có lập trường quốc gia vững chắc thì đứng hẳn vào chuyến tuyến chống Cộng bằng cách tham gia đảng phái chính trị do quan hệ gia đình, hoặc tình nguyện vào các trường huấn luyện sĩ quan, thi vào trường Hành Chánh. Số khác cũng do quan hệ gia đình móc nối đứng hẳn vào tổ chức Cộng sản. Những người này đã tham dự tích cực vào những biến động chính trị tại miền Trung trong những phong trào tranh đấu Phật Giáo những năm 1964-1966. Viện Đại Học Vạn Hạnh trở thành trung tâm đầu não của hoạt động chống Chính Phủ Cộng Hòa, Sinh viên Cộng sản và thân Cộng từ các tỉnh miền Trung vào Sài Gòn trọ học.

 

 Để câu chuyện giữa tôi và Bích không đi sâu vào các vấn đề chính trị, tôi hỏi Bích:

 

 - Cô nghĩ tôi ham mê danh lợi nên thi vào trường Hành Chánh, vậy khi tôi làm việc, cô có thấy tôi có nhiều danh lợi không?

 

 - Anh chỉ là một Don Quichote thời đại, anh có lý tưởng, nhưng một đời anh chỉ đánh cối xay, người ta đua nhau làm giàu, còn anh lo làm việc. Bây giờ em cũng giống như anh lúc đó nên em hiểu và thương anh trở lại như lúc nhỏ. Mình có chút lòng muốn đóng góp cho xã hội, thì chính quyền là cơ hội mình có thể giúp được nhiều người. Nhưng cũng chính ở chính quyền càng mau chán vì biết được tận gốc những điều bất công của xã hội, thấy quả tình mình khó xoay chuyển được một hiện tượng trong xã hội nó đã trở thành có hệ thống và nề nếp. Anh có tưởng tượng được chỉ là một Ty-trưởng Giáo Dục mà có đủ quyền hạn để làm mọi hành động bỉ ổi và được bảo vệ không?

 

 Lúc em làm ở Tỉnh Uỷ em mới biết được nhiều chuyện, lúc đầu em cho đó là những hiệng tượng riêng rẽ, nhưng rồi em nghĩ không thể dùng lý luận hiện tượng, bản chất để biện minh cho những xấu xa được. Những sự xấu xa tồi tệ đầy rẫy và liên tục thì hiện tượng đồng hoá thành bản chất. Em đụng chạm với Hồ Nghinh nhiều lần vì cương vị Bí Thư Tỉnh Uỷ, hầu như ông ta chỉ lo triệt hạ và trả thù những người chế độ cũ, và trịệt phá tất cả những gì của xã hội miền Nam cũ dù những cái đó có lợi cho dân. Có những lúc em hoang mang tự hỏi con đường mình đi có đúng hay không, có những lúc em biện luận, an ủi, chịu đựng và hy vọng vào thời gian, hy vọng vào ngày mai một cách lơ mơ, vu vơ không có gì là chuẩn xác. Có những lúc em không kềm được tính nóng rồi em đụng chạm. Lần đụng chạm mạnh nhất là trường hợp tên Trưởng-ty Học Vụ Nguyễn Văn Dạng. Em không thể tưởng tượng được những xấu xa bỉ ổi lại xảy ra trong ngành giáo dục, em là nhà giáo nên em càng đau xót. Dù em đã tự nguyện đứng về phía chính quyển Cộng sản nhưng em cũng phải công bình. Trước kia, chính quyền miền Nam có nhiều khuyết điểm đến đâu, nhưng về phía giáo dục cũng không không đến nổi tệ, cũng có người bán điểm thi lấy tiền, hoặc nhân viên văn phòng kiếm tiền vặt vãnh nhưng không có hiện tượng trầm trọng gây thương tổn đến luân lý.

 

Thấy Bích cao hứng, tôi hỏi thẳng vào chuyện:

 

- Có gì bi phẫn mà cô mà cô nói hăng hái như vậy, mà chưa cho tôi thấy trường hợp cụ thể?

 

- À mà quên, em lại đi xa đề tài em đề cập đến trường hợp Nguyễn Văn Dạng, Ty-trưởng Học Vụ mà hắn có quyền đưa những giáo sinh mới tốt nghiệp trường Sư Phạm về làm việc tại Văn-phòng Ty, hắn chỉ lựa chọn toàn các em có nhan sắc; ai cũng muốn làm việc tại Ty vì nhàn và gần nhà, đi xa vừa khổ và không đủ tiền lương sống. Lợi dụng hoàn cảnh đó, sau thời gian ngắn làm việc tại Ty, Dạng bắt đầu đem quyền hạn ra dụ dỗ hoặc cưỡng ép các cô giáo chuyện tình ái, nếu em nào không thuận thì hắn đầy đi dạy học ở một trường đèo heo hút gió. Chuyện ai cũng biết mà Tỉnh Ủy cứ coi như không. Một hôm em nói thẳng với Hồ Nghinh, yêu cầu ông ta có thái độ nhưng ông ta cũng lờ đi. Nhóm trẻ tụi em xấu hổ lắm, mình suốt đời tin tưởng vào cách mạng sẽ đem lại công bằng và no ấm cho toàn dân. Bây giờ dân thì đói hơn thời chiến tranh, còn bị cường quyền bạo lực chèn ép hơn thời lệ thuộc ngoại bang. Tụi em tổ chức rình bắt ngay tại trận, khi tên Dạng cưỡng bức một cô giáo ngay tại Văn-phòng Ty. Việc không thể còn che dấu được, đưa ra xử tại Tỉnh Ủy, ngay tại phiên họp, hắn vẫn giữ thái độ nghênh ngang và nhận lỗi qua loa, anh có biết hắn “bị phạt” ra sao không ? Hắn đổi qua làm Chủ-nhiệm Liên Hiệp Vận Tải của tỉnh, chức vụ này còn lớn hơn và kiếm nhiều tiền hơn là Ty-trưởng Học Vụ. Và cũng từ đó, tụi em bắt đầu bị khó dễ, em chán nên đưa đơn xin thôi việc. Em bỏ luôn tỉnh đi thẳng vào huyện Tuy Phong tỉnh Thuận Hải dạy học.

 

Tôi hỏi tiếp:

 

- Cô dạy được bao lâu và vì sao lại nghỉ dạy?

 

- Em vào đến Tuy Phong hoàn toàn xa lạ, em muốn như vậy, em muốn ít ra cũng làm được công việc gì hữu ích. Làm một cô giáo tại huyện nhỏ buồn và kham khổ lắm nhưng em chịu được. Lương không đủ tiêu, tiện tặn chỉ trong 10 ngày là hết. Em sống nhờ vào số vốn dành dụm gần 10 năm trời dạy học thời trước. Em cảm thấy việc làm của em càng ngày càng vô ích. Phần lớn học trò ở đồng quê phải bận công việc đồng áng giúp gia đình, không có thì giờ để soạn bài vở, còn số ít con cán bộ thì tụi nó không chịu học, vào lớp chỉ quấy phá bạn bè và chọc ghẹo thầy cô giáo. Đối với thành phần học sinh này, chúng em bất lực, không thể la rầy được, rầy la thì bị Hội Liên Hiệp và Đoàn Thanh Niên bảo vệ, cho điểm xấu thì cha mẹ chúng cậy thế cán bộ quyền hành tại địa phương đến thẳng trường cãi cọ với mình. Đó là em cũng là đảng viên mà vẫn bị khó khăn trong nghề nghiệp như vậy, còn thầy cô giáo không là đảng viên thì còn bị chèn ép nhiều hơn, nên cuối cùng họ cũng không cần dạy học nữa, họ đến trường cho có, bài vở chỉ hỏi qua loa rồi cho điểm cao cho học sinh vừa ý, còn thì giờ phải lo sinh kế. Chỉ có ai còn chút lương tâm nghề nghiệp là cảm thấy đau khổ mà thôi. Em sống cạnh người dân em biết, họ đau khổ lắm, không những làm vất vả không đủ ăn còn bị chèn ép đủ thứ, cán bộ tên nào cũng là vua con, tên nào cũng trở thành thứ cường hào ác bá nhân danh cách mạng. Bây giờ cứ nhớ tới hai tiếng cách mạng là em xấu hổ. Nhưng vẫn cố bám lấy trường lớp để dạy tới năm 1984 thì trường đóng cửa, thầy cô giáo và học sinh vượt biên gần hết. Em thấy nổ lực cuối cùng của mình cũng không đi đền đâu nên em bỏ luôn nghề dạy học và xin ra khỏi đảng để trở về Sài Gòn sống.

 

Nhân Bích nhắc đến chuyện vượt biên, tôi hỏi ý kiến Bích:

 

- Nếu anh vượt biên, em có đi cùng anh không?

 

 Bích trả lời ngay không suy nghĩ:

 

- Anh vượt biên là đúng, vì anh ở lại cũng không làm được gì, mà còn quá nhiều bấp bênh; nhưng em thì không, nếu muốn đi em đã đi lâu rồi, đâu cần anh phải rủ. Trước đây em tin vào cách mạng, ngày nay em đã hiểu rõ chế độ Cộng sản, chỉ trích thì đúng mà làm không đúng. Em đã bỏ đảng, nhưng em thấy một phần có trách nhiệm và xấu hổ những gì đảng Cộng sản đã làm cho đất nước rách nát tàn hại như ngày hôm nay. Em phải ở lại.

 

Ý kiến của Bích đã làm tôi nhớ lại những gì chú Bình đã nói với tôi hơn 10 năm về trước: “Đừng tin tưởng tụi nó (Cộng sản) làm được gì cho đất nước”. Tôi tin là những gì người trẻ tuổi, những người có học, và những người còn lương tâm trong hàng ngũ Cộng sản họ đều như vậy. Người đảng viên Cộng sản đều sống với hai tư cách, tư cách một đảng viên: họ phải luôn luôn giả dối để sống, tư cách một người trung trực, họ phải che giấu, chỉ bộc lộ những khi họ thấy không nguy hiểm. Đó là những mầm mống đối kháng chỉ chờ cơ hội là bùng nổ thành lực lượng chống chế độ Cộng sản.

 

Tôi ra đi mà nhớ chú Bình, nhớ Đặng, nhớ Bích, nhớ Phố, nhớ Đoàn Viết Hoạt, nhớ Hụê Nhật, nhớ anh Cao Xuân Biên, nhớ Ánh cùng tất cả những người bạn trong trại cải tạo. Những người Việt Nam cùng một thế hệ, đứng bên này hay bên kia chiến tuyến luôn luôn nghĩ đến đất nước và mơ ước ngày đất nước thanh bình thật sự và thịnh vượng, cho người dân được yên ổn làm ăn bằng sức lao động của mình mà không bị một câu thúc ép buộc nào, những con người luôn luôn muốn tìm cho tổ quốc một con đường tiến tới và sẵn sàng dấn thân, nhưng mỗi lần dấn thân là học được bài học đau thương mà vết tích hằn rõ trong cả linh hồn và thể xác . Tôi nhớ đến lời nói của một người bạn của những năm đầu trong tù. Cộng sản là một bài học chua cay, mà khi học xong rồi thì kinh nghiệm không bao giờ có cơ hội áp dụng.

 

Bây giờ tôi đã học bài học chua cay đó, nhưng với một tin tưởng là đất nước sẽ qua một giai đọan mới, mà vận hội mới đã bắt đầu ló dạng bằng những ánh sáng tươi đẹp như một buổi bình minh mùa xuân, trong đó hy vọng là có cơ hội đóng góp bàn tay của mọi người từ Hội, Hụê Nhật, Hoạt, Cao, Ánh, Đèn đến những người như chú Bình, như Bích, có thể cả Đặng Thao nếu Đặng biết tìm một lối tranh đấu mới mà không cần hai lít rượu để quên mỗi ngày. Trong vận hội mới đó, hận thù không còn chỗ phát triển mà phải dành cho tình yêu thương giữa con người với nhau và tình yêu đối với đất nước và dân tộc.

 

Tôi thú thật là tôi đã quá mệt mỏi, con người tầm thường như tôi thì 12 năm trong tù quá nặng, nhưng tôi tin vào bạn bè của tôi, những người đã quen biết và những người chưa quen biết, những con người Việt Nam: sau những biến động quá lớn của lịch sử dân tộc, biết rút kinh nghiệm từ bỏ những thiếu sót và những thành kiến cũ, để cùng nhau bước qua một giai đoạn mới, trong đó chủ nghĩa Cộng sản bị vứt bỏ, tổ chức Cộng sản bị giải tán, và mọi người có thể sống hài hòa với nhau để xây dựng đất nước.

 

Tôi hy vọng vào những người đã ra khỏi đất nước. Ở ngọai quốc có điều kiện để họ nhìn thấy rõ vấn đề hơn, tìm hiểu rõ Cộng sản và không còn sợ Cộng sản nữa. Trước kia, chúng ta có khuyết điểm là thù ghét Cộng sản nhưng quá sợ Cộng sản - xem Cộng sản là một chủ thuyết không thể thay thế và lực lượng Cộng sản không thể bị đánh bại. Từ tâm lý sợ hãi đó, cả Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không nghiên cứu và làm được gì khi Liên Xô và Trung Quốc mâu thuẫn lẫn nhau. Lúc đó còn có người xem sự mâu thuẫn đó là một chiến lược để đánh lừa khối Tây phương. Tính cẩn trọng là tính tốt, nhưng quá cẩn trọng để lo sợ là một hình thức khiếp nhược và đầu hàng. Tôi sợ rằng cái tính e dè đó lan truyền thành một thứ bệnh trong hàng ngũ người quốc gia để rồi họ không chuẩn bị gì cả để mất thời cơ. Trong khi Cộng sản đang rữa nát từ bên trong mà người quốc gia cứ e sợ không khác gì Tư Mã Ý sợ tượng gỗ của Khổng Minh để mất nhiều cơ hội chiếm thành .

 

Tôi cũng e rằng người quốc gia lại quá trông chờ vào Mỹ mà không chuẩn bị sức mạnh cho riêng mình. Để rồi đến một lúc nào đó, nếu Mỹ không còn cấm vận đối với Việt Cộng và bang giao thì nhiều người sẽ thối chí bỏ cuộc. Qua sự bỏ rơi miền Nam năm 1975, ai cũng hiểu Mỹ là đồng minh, nhưng họ vẫn quyết định trên quyền lợi của đất nước Mỹ - điều đó hẳn nhiên – Tuy đã nhìn ra điều đó, nhưng thói quen trông chờ vào Mỹ vẫn chưa bỏ được, hầu hết những lực lượng chống đối sau ngày 30-4-75 đều đặt trên cơ sở lý luận Mỹ sẽ đánh đổ Cộng sản và người Việt Nam chỉ chờ nắm cơ hội. Có thể Việt Cộng nhìn ra điều đó nên chúng vẫn bình chân không thay đổi đường lối tuy đang gặp nhiều khó khăn .

 

Tóm lại, sự kết hợp lực lượng của người quốc gia lúc này là cần thiết, nếu chưa trực tiếp đánh đổ được chế độ Cộng sản cũng tạo niềm tin cho người trong nước nổi dậy trong đó có cả cựu cán bộ và đảng viên Cộng sản, những người đã giác ngộ nhìn thấy rõ Cộng sản không còn hợp thời và không còn cần thiết nữa, đã là mối họa và một trở ngại cho sự phát triển. Hoặc nếu không thì ít ra sự kết hợp đó tạo thành một đối lực đáng kể buộc Cộng sản phải thay đổi dần đi đến chế độ dân chủ thật sự là con đường tất yếu của trào lưu tư tưởng con người thời đại cuối thế kỷ 20.

 

Viết xong tại San Jose tháng năm 1990

Nguyễn Chí Thiệp

 



 


Những nhận xét về

Hồi Ký

TRẠI KIÊN GIAM

của

Nguyễn Chí Thiệp

 

 

Trại Kiên Giam có giọng văn điềm tĩnh, không căm thù, nhiều tính ghi nhận về các sự kiện trong đời ông và xã hội giai đoạn này, trong đó có nhiều hoàn cảnh tan vỡ và cảm động khi nhiều người trong gia đình và bạn thời Trung Học của ông hoạt động cho Cộng sản. Có nhiều suy nghĩ và phê phán chính xác về các chế độ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Cộng sản. Có những nhận xét sâu sắc về các nguyên nhân sụp đổ của chế độ Sài Gòn và hướng suy tàn tất nhiên của chủ nghĩa Cộng sản …

Đây là tác phẩm xuất sắc, cần được trân trọng trong mọi tủ sách gia đình.

(Giao Điểm số 91)

 

Tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, nhân viên cao cấp VNCH, tù nhân cải tạo - Nguyễn Chí Thiệp thật đủ điều kiện để viết hồi ký cải tạo với cái nhìn rộng hơn nhiều người khác …

… theo ghi nhận của nhiều người đây là một tập hồi ký cải tạo giá trị, không giống với nhiều tập chỉ kể khổ và sự tôn vinh đã từng xuất hiện.

(Văn Học số 75)

 



Bằng một giọng văn điềm tĩnh tự chế, ông đã ghi nhận một cách khách quan những sự kiện liên quan đến cá nhân ông cũng như xã hội trong chuỗi thời gian dài dằng dặc ngót bốn nghìn ngày đêm trên quê hương …

Cả một bối cảnh hoành tráng, với đủ mọi điển hình xã hội: hèn nhát, anh hùng, đau khổ, đói nghèo, xâu xé, hợp đoàn … phơi lộ dưới ngòi bút của Nguyễn Chí Thiệp như một cuốn phim đầy màu sắc, sôi động. Điều cần ghi nhận, sau khi đã qua hơn 500 trang sách, là niềm tin của tác giả vào tương lai tươi sáng của dân tộc, một tương lai tự do, dân chủ và phú cường nhất định sẽ đến. Chính sự lạc quan này đã giúp cho tác phẩm vượt lên trên cái căm thù tủn mủn và tạo một ấn tượng tốt trong lòng người đọc.

Trại Kiên Giam là một tác phẩm được xứng đáng trân trọng, gìn giữ .

(Hợp Lưu số 6)

 

Trong bối cảnh tranh tối tranh sáng như thế này, có thể một số người Việt ở Hải Ngoại sẽ hờ hững với tác phẩm “Trại Kiên Giam” nhưng chắc chắn bạo quyền Hà Nội sẽ run sợ bởi tác phẩm Trại Kiên Giam sẽ góp thêm tư liệu sống động cho bản cáo trạng mang tên “Những tội ác của chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam …” với hướng đi những người Việt Nam còn giữ được lửa đấu tranh nên hân hoan đón nhận tác phẩm Trại Kiên Giam.

Đào Văn Bình

 

 Anh đã đem máu, nước mắt và ngọn lửa tâm thức để viết nên những trang hồi ký. Ngọn lửa tâm thức đã nung nấu anh một quyết tâm sống còn trong địa ngục trần gian do cộng sản dựng nên để tiêu diệt tầng lớp đối kháng, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù tích cực hay thụ động… Trại Kiên Giam là một hồi ký chính trị luận đề, một thiên khảo luận chính trị nhưng cũng chứa đựng nhiều chi tiết thật cảm động, có thể khởi hứng thú cho nhiều tác phẩm văn chương

Xuân Đỗ

 

“…Từng trang sách được lần lượt đọc! Có đoạn xin thú thật với anh - đã làm tôi nức nở… Chúng tôi xin trân trọng cám ơn anh vì anh đã cho chúng tôi biết thêm rất nhiều về những gì mà chúng tôi đã vô tình nghĩ “đã biết rồi…”. Tôi xin gởi đến anh một lần nữa sự xót xa của tôi và tất cả gia đình cùng họ hàng tôi và nhiệt liệt cám ơn anh vô cùng, vô cùng…

(Bà Kim Chi độc giả Houston, Texas)

 

“…Đã gần 20 năm nay, tôi mới được đọc một cuốn sách như Trại Kiên Giam, tôi đoán đây là cuốn sách đầu tay của anh, nhưng tôi chưa thấy một tác phẩm Việt Nam nào có thể so sánh với Trại Kiên Giam về mọi mặt…

( Ông Phan Hạ Tùng/ Virginia)

 

“…Nếu cần sự so sánh ví von, tôi coi tác phẩm này sẽ vút lên cao như bông pháo hoa huy hoàng màu sắc và vang rền những làn sóng âm thanh của một đêm giao hội, tương phùng với một điều kiện là trái tim của độc giả phải có khả năng châm lửa.

Trại Kiên Giam chẳng phải là một cuốn hồi ký thuần tuý đơn điệu. Nó bề thế và sinh động, nó chứa chan phẫn nộ mà cũng không thiếu vắng lạc quan. Phải đây là cuốn bạch thư tố cáo những hành động phi nhân của một tập đoàn thường tự nhận theo chủ nghĩa cộng sản văn minh, giàu trí tuệ. Nó là bản kế hoạch khoa học của một người trí thức yêu nước muốn quang phục tổ quốc yêu dấu. Nó là bài phóng sự dài ghi nhận các sự kiện hết sức chính diện và hiện thực của nguyên mẫu. Nó là thiên anh hùng ca của một tập thể kiên nghị, bất khuất, thông minh và tháo vát. Tác giả đã có ý giới thiệu cho chúng ta tiềm năng lẫm liệt của một lớp tuổi có truyền thống hào hùng. Trại Kiên Giam là một sản phẩm của một cán bộ Việt nam Cộng Hoà có thể tự hào, tin cậy. Nguyễn Chí Thiệp đã kinh qua nhiều tình huống không thể tưởng tượng nỗi bởi anh luyện Thiền. Tôi muốn cộng thêm vào thành tố cơ bản ấy ý thức chính trị rất trong sáng, bền bỉ của anh, tức là anh phải tin tưởng mãnh liệt lắm vào tiền đồ đất nước; anh phải có lập trường, quan điểm thiết thật, nhiên hậu mới vượt qua nghịch cảnh phũ phàng.

Bao thử thách tôi rèn hình thành một bản lãnh, một nhân cách Nguyễn Chí Thiệp…

 

Lê Nhật Thăng

(Trích “Trại Kiên Giam. Tác phẩm của một chiến sĩ”.)

 







 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn