BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73182)
(Xem: 62205)
(Xem: 39378)
(Xem: 31132)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Trại Kiên Giam (Chương 1 --> Chương 12)

08 Tháng Mười Một 201212:00 SA(Xem: 2542)
Trại Kiên Giam (Chương 1 --> Chương 12)
52Vote
41Vote
30Vote
20Vote
10Vote
4.73

Tựa



 

Vài cảm nghĩ và nhận xét về cuốn Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp

 

Duy Lam

- Tự Lực Văn Đoàn

- Hội viên danh dự INT-PEN

- Giải Thưởng Tự Do Phát Biểu 1992 Hellman - Hammett.

 

Qua những giai đoạn biến động của lịch sử một quốc gia, thường là những cuộc chiến tranh, những người trong cuộc có thể là những nhà văn, người trí thức, nhà báo, hoặc nhiều khi chỉ là những nạn nhân của thời cuộc và những cuộc tranh chấp, đôi khi chỉ là những người dân bình thường, đã cảm thấy bị thôi thúc bởi ý muốn cầm bút viết lại những kinh nghiệm sống họ đã trải qua.

 

Sau cuộc Đệ I và Đệ II Thế chiến và cuộc chiến tranh Việt Nam, thể hồi ký đã có những giai đoạn nở rộ. Những chứng liệu này do chính nhân chứng thuật lại đã trở thành những tài liệu rất quý và giá trị cho những nhà xã hội học, những nhà tư tưởng, nhà văn dùng làm tài liệu tham khảo, để phân tích tổng hợp chiếu rọi những ánh sáng mới vào những chiều hướng đã được bộc lộ hoặc ngấm ngầm của lịch sử hầu tương lai tránh được những lỗi lầm của dĩ vãng; hay dựng lên những tác phẩm lớn có chiều sâu nhờ những khoảng cách thời gian thích hợp nên cái nhìn bao quát trở nên chính xác với thực tại hơn.

 

Ta hãy nhớ đến những bài báo đầu tiên về cuộc chiến tranh Sebastopol mà Tolstoi phóng viên chiến trường đã viết và bộc lộ tài năng nhà văn của ông, hoặc tác phẩm Bác Sĩ Jivago của Pasternak, quần đảo Goulag của Alexander Solzhenitsyn, nhưng ta cũng phải nhắc đến cuốn nhật ký của Anne Frank, một cô gái mới lớn phải cùng gia đình ẩn trốn cuộc bắt bớ khủng bố và tàn sát tập thể của Đức Quốc Xã và đã cầm bút cặm cụi ghi lại những kinh nghiệm hãi hùng và bi thảm đã xảy ra cho cô và những người thân trong gia đình. Khi ghi lại những dòng nhật lý cảm động Anne Frank đâu có ngờ là sau này đã làm xúc động biết bao nhiêu độc giả trên thế giới.

 

Vì vậy những người dân thường, những nạn nhân của các biến động lịch sử cầm bút viết hồi ký chẳng bao giờ nghĩ là họ có ý muốn hoặc tham vọng làm văn, hiểu theo nghĩa thông thường của từ này, mà họ chỉ bị thôi thúc bởi các nhu cầu muôn thuở của con người là dù trong hay sau nghịch cảnh ghi lại những kỷ niệm đã sống, trước hết là để bộc lộ những tiếng kêu bi thiết có tính cách phản kháng tiêu cực hoặc tích cực trước sự nghiền nát những tình cảm cao quý của con người của bánh xe lịch sử có vẻ như phi ngã, phi nhân, hoặc để xác nhận lòng ham chuộng tự do phát biểu một cái quyền tối thượng của con người kể từ khi có ngôn ngữ văn tự, và cũng nhiều khi chỉ là để cố gắng chuyển lại cho xã hội đời sau cái tiếng nói thật nhỏ bé nhưng lại bao hàm một sức mạnh ghê gớm của ý thức con người trước viễn tượng đe dọa kinh khiếp của những vũ khí hủy diệt nhân loại như Faulkner đã nhấn mạnh vào phần cuối bài diễn văn nhận giải thưởng Nobel của ông.

 

Vì vậy tôi khá ngạc nhiên khi nghe và đọc thấy cái quan niệm cho rằng các cuốn hồi ký của những người tù chính trị được viết và xuất bản ở hải ngoại không phải là những tác phẩm văn chương!

 

Nỗ lực viết hồi ký đã ghi lại thật trung thực những cái gì thực sự đã xảy ra - những kinh nghiệm sống thiết thân như tôi đã trình bày ở trên - thực ra chỉ nhằm chính yếu là để hành sử cái quyền tự do phát biểu của con người, cái quyền mà hơn suốt 16 năm qua những người tù chính trị và nói rộng ra hơn 65 triệu người Việt Nam đã bị cộng sản tước bỏ và còn đàn áp một cách tàn nhẫn phi nhân nhất, hầu để không một tiếng nói nào dù nhỏ bé có thể lọt qua bức màn tre đến được thế giới tự do ở bên ngoài và như vậy cũng giảm thiểu tối đa mọi cố gắng đối thoại truyền thông, cái mối liên hệ thật cần thiết cho các khối tự do trên thế giới trong một thế giới đang tiến những bước vũ bão đến những căn bản liên lập.

 

Như vậy, theo tôi, các cuốn hồi ký nằm trên bình diện khác biệt với bình diện làm văn và đứng ở vị trí của văn chương để đánh giá các tài liệu và ghép chúng phải tuân theo những tiêu chuẩn giá trị về sáng tác như kết cấu, kỹ thuật viết, văn thể, sử dụng từ ngữ, hình ảnh, thời tôi e không thích hợp và cũng không hợp lý lắm.

 

Nói thế không phải là tôi phủ nhận đã có những trường hợp những nhà văn viết hồi ký về những năm tháng tù đày và cũng thực sự đã là nhà văn thời viết bất cứ cái gì cũng là viết văn vì với những kinh nghiệm sẵn có, những cuốn hồi ký này đã đạt được nhiều hay ít cái giá trị văn chương. Cũng có những trường hợp các nhà văn tuy không đi tù nhưng dựa vào những kinh nghiệm kể lại của người khác, hoặc các cuốn hồi ký của những người tù chính trị đã hứng khởi sáng tác những tác phẩm văn chương có giá trị.

 

Riêng tôi, tôi vẫn luôn luôn tin là những biến động bi thảm đã xảy đến cho đất nước Việt Nam trong suốt 16 năm qua mãi mãi còn là một kho tàng vô tận và quí giá cho tất cả chúng ta - trong đó có những nhà văn và nhân chứng trong cuộc - hầu sẽ còn tiếp tục có nhiều tác phẩm đủ loại được hình thành dựng lên từ đó, hồi ký, thơ, văn, kịch, các pho sách khảo luận...

 

Đó là một trách nhiệm của tất cả những người có ý thức có liên hệ xa gần trực tiếp hay gián tiếp đến chữ nghĩa nghệ thuật! Trách nhiệm hiểu như một lời nguyện của tất cả những người còn sống, những người được hưởng tự do, đối với tất cả những người đã chết tức tưởi trong các trại cải tạo hay trong những chuyến vượt biển nhưng trước khi nằm xuống trở về lòng đất hoặc vùi thây trong biển cả đã không bao giờ ngừng chuyển đến cho chúng ta những thông điệp qua hình thức những dòng văn thơ nhạc trong tù, hoặc những lời nhắn nhủ trối trăn với những người thân bạn bè trước khi dấn thân vào biển cả: những biểu lộ cao đẹp và đáng cho chúng ta trân trọng gìn giữ và khai triển vì đó là những chứng liệu hùng hồn của ý muốn mãnh liệt không áp lực nào đàn áp nổi cản nổi của những con người ham chuộng tự do phát biểu vì sống tự do dù có phải chịu những nghịch cảnh kinh khiếp và dù phải hy sinh cái quý nhất của con người đó là mạng sống của chính mình.

 

Sau khi đã trình bày một cách khái quát về quan niệm của tôi về cuốn hồi ký của các người tù chính trị, tôi xin nói thẳng ngay là trong những cuốn hồi ký tôi đã được đọc cho đến nay ở hải ngoại cuốn “Trại Kiên Giam” là một cuốn sách hay và có nhiều đoạn thật xuất sắc, viết với một cách diễn tả thẳng thắn và chân thành không khoan nhượng với những bạn đồng cảnh và với chính mình tức là với sự thật y như đã xảy ra. Vì vậy có thể nói nếu thực tại ở các trại cải tạo được mang ra làm tiêu chuẩn đánh giá thời “Trại Kiên Giam” đã đạt được những mức độ giá trị về thể viết hiện thực rất cao. Quả thật đó cũng là một điều hiếm thấy trong một số hồi ký tôi đã đọc, trong đó lòng thù hận đôi khi đã kéo ngòi bút người viết quá xa khiến giọng văn quá cường điệu mặc dù đã tạo được những tác động gây xúc động đáng kể nơi độc giả, nhưng mặt khác đã làm cho sự thật đã được thể hiện kém trung thực vì nếu nhắc đi nhắc lại nhiều qua nhiều hồi ký khác nhau sẽ có thể trở thành nhàm chán, không nói là đã khiến nhiều độc giả tinh ý nghi ngờ thắc mắc về sự xác thực của những dữ kiện hoàn cảnh đã được mô tả khi đối chiếu nhiều điểm có vẻ như mâu thuẫn nhau giữa nhiều cuốn hồi ký của nhiều tác giả.

 

Ngoài giá trị hiện thực của “Trại Kiên Giam” theo tôi quan trọng vào hàng đầu với thể viết hồi ký, cuốn sách này của anh Nguyễn Chí Thiệp còn có nhiều ưu điểm rất đáng khen và rất giá trị khác...

 

Trước nhất, anh Thiệp đã dựng lại những cảnh sống rất linh động kể cả những tâm cảnh của chính anh với biến chuyển tình cảm tâm lý khá gọi là tế nhị và hữu lý. Anh cũng có một trí nhớ thật tốt và cái óc nhận xét sắc bén đối với khung cảnh bên ngoài và cả những biểu lộ tâm lý nơi tất cả những nhân vật anh lần lượt gặp gỡ, kể cả những bạn tù cải tạo lẫn những cán bộ cộng sản và luôn cả những người dân thường làm nền cho các cảnh sống kế tiếp nhau anh đã trải qua. Cái óc quan sát không bỏ qua chi tiết nhỏ nhặt nhất là một đức tính cần thiết cho một nhà văn để tạo chiều sâu tâm lý cho các nhân vật, và ngay từ những trang đầu “Trại Kiên Giam” đã lôi cuốn tôi vì cái hơi thở của thực tại đã tỏa ra từng dòng chữ. Đối với độc giả, chỉ cần đọc ít trong đầu dù một tác phẩm hư cấu hay hồi ký, ngay những độc giả bình thường có thể cảm nhận ngay có bao phần sự thật trong tác phẩm và tác giả đã đạt nhiều hay ít khi mang đời sống và sự thật đến cho độc giả qua trung gian của từ ngữ...

 

Tôi nghĩ đến anh Thiệp còn có ý muốn đi xa hơn để làm một nhà văn thời ưu điểm này đã cho anh một cái vốn căn bản rất thuận lợi.

 

Tôi đặc biệt chú ý đến những trang mở đầu chương I thuật lại những ngày đầu tiên sau biến cố tháng 4-1975. Tôi ít thấy ở các cuốn hồi ký khác và cả những truyện ngắn, truyện dài của nhiều tác giả cái “không khí” rất sinh động mà cũng rất phức tạp rối rắm đã được anh Thiệp viết rất đạt và còn đầy những nhận xét tinh tế như: ”... Những người tò mò ra đường thưa thớt vẫy tay, chào ngượng ngập, e dè...”. “Thỉnh thoảng người cán bộ đứng hầu quạt phải tiếp ông cụ già (Tôn Đức Thắng) một ly nước hoặc một viên thuốc...” “Khi nhắc đến Hồ Chí Minh tỏ ra nghẹn ngào, cụ ngừng đọc, rút khăn lau nước mắt. Mọi người trên khán đài lấy khăn ra lau nước mắt...


Một ưu điểm của anh Thiệp là khi viết lại về những nhân vật bằng xương bằng thịt, rất sống và rất người, anh đã khéo léo và tế nhị những luận điểm rất quan trọng mà anh muốn minh chứng mà không làm câu chuyện khô khan. Riêng tôi, tất cả những nhân vật anh nhắc tới, trong có cả những nhân vật tôi quen biết và cả nhiều nhân vật tôi không hề biết, đã có thể nói lôi cuốn sự chú ý kéo dài của tôi từ đầu đến cuối cuốn hồi ký. Là một nhà văn, tôi cũng hiểu rất rõ nhân vật quan trọng đến như thế nào, để tạo thực tại cho một cuốn tiểu thuyết nhất là một cuốn hồi ký.

 

Nhân vật chú Bình, cuộc đối thoại giữa ông này và tác giả có thể coi là một đoạn hay và sâu sắc và có thể làm sườn cho một truyện ngắn hay truyện vừa. Đoạn này làm tôi liên tưởng đến nhân vật ông tướng trong truyện Tướng Hồi Hưu của Nguyễn Huy Thiệp, nhưng sự giác ngộ của chú Bình làm cho ta cảm nhận và thông cảm nhanh hơn và cũng có phần gần gũi với ta hơn, có lẽ vì những yếu tố căn bản tương đồng về gia thế, học vấn và môi trường sinh trưởng.

 

Sự hướng về những giá trị nhân bản của một xã hội tự do sau khi đã trải qua một sự phản tỉnh rất thật về tâm lý và cũng sau khi đã khám phá ra mình bị chế độ cộng sản lừa dối phản bội, đã là một ý hướng người đọc đón tiếp với sự bao dung rất có ý nghĩa.

 

Nhân vật cô Bích, cô em họ của tác giả, một cán bộ cộng sản được nêu ra trong chương hai mươi cũng tạo cho tôi những cảm nhận lý thú, sau nhiều năm cách biệt tác giả gặp lại đã ghi nhận những biến đổi đáng kể của Bích, từ một sinh viên lý tưởng chịu cộng tác và nằm vùng cho cộng sản, và sau một thời gian làm giáo viên sau 1975 cô đã thấy hết sự sa đọa và thối nát của chế độ cô đã dứt khoát xin ra khỏi đảng và còn biết xấu hổ khi nhớ tới tiếng Cách mạng. Câu nói của Bích: ”... Trước đây em đã tin và theo cách mạng, ngày nay em đã hiểu rõ chế độ cộng sản chỉ trích đúng mà không làm đúng. Em đã bỏ đảng nhưng em cảm thấy một phần trách nhiệm và xấu hổ những gì đảng đã làm cho đất nước rách nát tàn hại như ngày nay. Em phải ở lại...


Ý thức minh bạch và dứt khoát của một phụ nữ về trách nhiệm của mình sau khi đã lầm lỗi đáng để ta suy ngẫm: ở bên này ở bên kia phòng tuyến ý thức hệ từ trước đến nay đã bao nhiêu kẻ có quyền hành đã che đậy và từ bỏ trách nhiệm với đất nước để bám giữ lấy quyền hành. Thật không bằng một phụ nữ có học thức tương đối nhưng có can đảm ở lại không vượt biên vì cảm thấy còn có thể làm gì để sửa lại lỗi lầm. Ta có thể tin là còn nhiều người suy nghĩ và làm như cô Bích.

 

Cuốn hồi ký của anh Thiệp còn làm nổi bật được cái dòng liên tục của sự đối kháng của những người tù chính trị nhất là những lớp trẻ qua đủ mọi hình thức, từ tích cực bạo động, đến tiêu cực qua những cuộc tổ chức lãn công. Những điểm làm tôi xúc động là khi đọc đến tất cả những hình thức đối kháng phong phú và đa dạng qua thơ văn nhạc và làm báo trong tù. Độc giả có thể thấy hết sức mạnh của văn nghệ đến con người tự do có ý thức khi đọc tới cả trăm đoạn tác giả nêu ra những nhân vật những hoàn cảnh trong đó với những nỗ lực đáng kể, anh em tù chính trị đã xoay xở để duy trì và phát triển cho riêng anh em cái tiếng nói có lúc hùng hồn bi tráng, có lúc trữ tình; cái tiếng nói của con người tự do trong những hoàn cảnh cực độ (situations extremes). Bởi vì nếu con người tự do không giữ nổi cho mình cái bản sắc nó phân biệt họ với những con người máy bị tha hóa mất nhân tính - những con người súc vật - thời sự đồng hóa toàn thể hay một phần là điều khó có thể tránh.

 

Chỉ khi đọc tới những mạng sống đã mất đi trong cùm kẹp chỉ vì những cố gắng duy trì sự tự do phát biểu của con người tự do và ý thức sâu đậm là mình tự do dù thân xác bị tù hãm, ta mới thấy hết được cái quan trọng của tư tưởng đối với những giá trị tinh thần cao quý phải bảo vệ dù phải trả một giá rất lớn. Tuy chua xót vì tiếc rẻ khi đọc đến những đoạn này (trang 420, trang 453) và đôi khi có thể tự hỏi tại sao chỉ để ca mấy bài hát và đọc cho nhau nghe vài bài thơ góp công phu để làm một tờ báo thật sự đâu có gì quan trọng lắm để phải hy sinh vài mạng anh em và lãnh án thêm; nhưng nghĩ cho kỹ một mặt khâm phục sự dũng cảm của những người tù chính trị, một mặt khác ta cũng có thể giật mình khám phá ra một sự thật là tự do chỉ quý khi ta mất nó và tự do khi tràn đầy và ngay trong tay mà phí hoài không tận dụng để đấu tranh cho tự do của những người cùng dòng máu Việt Nam ở đất nước Việt Nam vừa xa xôi vừa gần gũi lại càng trở nên một nhu cầu khẩn thiết đến mức nào.

 

Tôi muốn viết nhiều hơn về nhiều ưu điểm khác của cuốn hồi ký này của anh Thiệp, nhưng tôi không muốn dài dòng và chỉ bảo đảm là độc giả đọc cuốn sách này sẽ còn gặp nhiều khám phá khác nữa.

 

Tuy giọng văn có vẻ khô khan trần trụi và nhiều đoạn tả chân thật cụ thể tạo cho người đọc cảm giác nặng nề, nhưng nếu đọc qua mấy trang đầu các bạn sẽ thấy dần dần bị cuốn hút vào dòng văn miêu tả của cuốn sách và muốn biết thêm sâu hơn nữa về số phận bi thảm của những nhân vật đa dạng cứ lần lượt xuất hiện trong trí tưởng các bạn. Các bạn cũng có thể tức giận, bất mãn, khâm phục và đôi khi khinh miệt một số nhân vật và rồi các bạn sẽ hòa nhập hẳn vào cái thế giới đầy ám ảnh trong đó sự đối kháng của các lớp người cộng sản và người tự do diễn ra căng thẳng kịch liệt không khoan nhượng và các bạn có thể gập sách lại và thêm tin tưởng là cuối cùng cuộc chiến ai thắng ai đã nghiêng về phía những người tự do, và cuối cùng những giá trị nhân bản cao đẹp đã được bảo toàn, dĩ nhiên với cái giá là những sinh mạng và sự đau khổ của biết bao con người, trong đó có cả những bạn đồng ngũ, đồng nghiệp, bạn tù, kể cả những người các bạn đã có dịp quen biết hoặc nghe tiếng. Dĩ nhiên, cũng còn những người vô danh mà các bạn không hề quen, một bà mẹ già, một người trẻ phục quốc chết tức tưởi vì tra tấn, một em bé có lòng thương tặng người tù 4 trái trứng gà và nhiều người khác nữa, mà sự khí khái can trường hoặc tình thương ngây thơ sẽ khiến bạn cảm động sâu xa. Tôi muốn nhắc đến câu nói của Hemingway tôi đọc đã lâu và thích và cũng đã nhiều lần nhắc lại với các bạn tù nhân chính trị trong 12 năm sống qua các trại cải tạo, kể cả trại Xuân Phước, trại Kiên Giam mà anh Thiệp đã dùng làm tên của hồi ký, mặc dù tôi chỉ nhớ một cách khái quát nội dung: Bánh xe lịch sử nghiền nát bao con người! Trong số này có những kẻ mạnh và xương sẽ lành lại, nhưng nhiều kẻ đã chết và trong số này lại là nhiều kẻ can đảm nhất và dịu hiền nhất...


Duy Lam

California, tháng 5-1992

 



 


Phần Mở Đầu

 

Quyết định không ra đi trước ngày 30-4-75 là một quyết định sai lầm lớn nhất trong đời tôi. Tôi phải trả một cái giá đắt gồm 16 tháng trốn lánh trong lo âu hồi hộp, 12 năm đầy đọa từ nhà tù này đến nhà tù khác, một lần vượt biển và một năm rưỡi ở trại tỵ nạn.

 

Tôi mất hơn 15 năm, cuối cùng tôi cũng phải tìm đến Mỹ, điều tôi có thể làm được trước khi miền Nam bị Cộng sản xâm chiếm. Vừa đến nơi một người bạn đã cảnh giác tôi - Đừng xem nước Mỹ là một thiên đường - Tôi không hề xem nước Mỹ là một thiên đường - chỉ có ở nước Cộng sản mới có thiên đường vì ở đó có nhiều tầng địa ngục. Tôi đã ở tận cùng các địa ngục đi ra. Tôi không đi tìm một thiên đường, nhưng tôi đã biết là phải chọn giữa một hoàn cảnh cực kỳ xấu và một hoàn cảnh ít xấu hơn, chỉ giản dị thế thôi.

 

Thực tại cuộc sống đã trả lời điểm tranh luận của các nhà triết học là: vật chất hay tinh thần. - Vật chất là yếu tố cần thiết để tạo ra cuộc sống, nhưng khi vật chất đầy đủ một cách tương đối thì con người cần nhu cầu cao hơn, là sự thỏa mãn tinh thần. Có thể đó là sự khác nhau giữa con người và con vật. Karl Marx đã đem cả đời để đọc để viết, kiến thức của ông bao gồm cả kho tàng triết học Đức, kinh tế học Ăng Lê và xã hội học Pháp, ông đã dùng duy vật biện chứng để truyền bá duy vật sử quan. Những khám phá về thặng dư giá trị một thời tưởng như là kinh điển, tất cả đều là những lầm lẫn của bộ óc được xem là phi thường. Khi con người dùng cái trí, dù cái trí được rèn luyện, được xem là lỗi lạc vẫn bị giới hạn, và khi sự phán đoán dựa trên lý trí nếu càng sai lầm càng tai hại, chỉ có cái tâm là không giới hạn. Có thể đó là sự khác biệt giữa các tôn giáo và Cộng sản chủ nghĩa. Các tôn giáo dùng tình thương để truyền bá giáo điều. Karl Marx và Lenine muốn lập nên một tôn giáo nhưng tôn giáo dùng hận thù làm động lực chính.

 

Trong một hướng khác của cuộc sống, ở các trại tù Cộng sản (gọi là trại lao động cải tạo), người tù cũng chứng minh được giá trị tinh thần vượt trên giá trị về vật chất bằng chính bản thân họ, không ai tưởng tượng được có những người tù đã sống được đến hơn ba năm trong xà lim tối với một chén cơm nhỏ, chén khoai mì và nước muối mỗi ngày. Sống hay chết của những người tù trong xà lim Kiên Giam trại Xuân Phước (A-20) chỉ giải thích được là ai còn niềm tin vào giá trị tinh thần nào đó mới có thể kéo dài sự sống, ai mất niềm tin thì chết. Niềm tin đó có thể từ tôn giáo, từ một ý thức chính trị là chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ và dân tộc Việt Nam sẽ được phục hưng hay niềm tin vào sự yêu thương giữa con người và con người. Đó là những bài học đơn giản, thực nghiệm bằng máu và nước mắt để đả phá cái lý luận cốt lõi của triết học Cộng sản, triết học duy vật.

 

Nay, lý thuyết Cộng sản đã bị vứt vào sọt rác của lịch sử và chế độ Cộng sản đã sụp đổ. Hệ thống Cộng Sản quốc tế rã ra từng mảnh và lần lần bị xóa bỏ. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Cộng Sản Đông Âu dễ dàng và nhanh chóng đến nỗi làm cho người ta phải sửng sốt bàng hoàng, những nhà lãnh đạo các cường quốc nhiều khi còn không dấu được sự lúng túng trong việc thay đổi chính sách ngoại giao. Thật đơn giản, chế độ Cộng sản không bị đánh sụp bằng những đạo quân hùng mạnh, với những vũ khí tối tân từ bên ngoài, mà bị đánh sụp bằng những cuộc biểu tình của dân chúng tại nước họ trong đó có cả những người từng là đảng viên Cộng sản. Chế độ Cộng sản chỉ còn là ngắc ngoải tại Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam, cái đau đớn của người Việt Nam và trớ trêu của lịch sử dân tộc Việt Nam là chiến trường ác liệt nhất của cuộc chiến tranh ý thức hệ. Người quốc gia dù chỉ được lãnh đạo một cách lờ mờ, vẫn kéo dài cuộc chiến đấu nghiêng ngửa gần 30 năm, để rồi sau khi người chiến sĩ chống Cộng Việt Nam, chiến trường chống Cộng cuối cùng sụp đổ thì kẻ thù chung của nhân loại cũng từ từ bị hủy diệt trong tan rã.

 

Ngày 30-4-1975 Saigon sụp đổ, tôi nghĩ giải pháp đẹp nhất cho người chiến sĩ tự trọng là tự xử không đầu hàng giặc; tôi hèn, không đủ can đảm để làm một chiến sĩ tự trọng, nên tôi phải kéo lê tấm thân càng ngày càng tàn tạ từ nhà tù này đến nhà tù khác, mỗi ngày phải nuốt nhục cúi đầu. Giải pháp hào hùng nhất cho người chiến sĩ kiên cường sau một lần thất bại là tạm lui, ẩn nhẫn chờ thời, trui rèn tài đức để phục hận, tiêu diệt quân thù đem vinh quang về cho tổ quốc. Tôi không đủ bản lãnh để làm một chiến sĩ kiên cường nên khi ra khỏi nhà tù tôi vội vã bỏ nước ra đi. Lần ra đi không phải để chạy trốn, không phải để tìm cho mình một điều kiện vật chất mà mình thiếu. Mười hai năm tù, thiếu thốn những vật chất tối thiểu, có những lúc thèm ăn một cục muối, một cục đường, một hơi béo. Thèm, từ ngữ diễn tả cảm giác rất sơ đẳng gần như hạ tiện của con người; Tôi đã từng thèm rất nhiều thứ; nhưng rồi cũng quen, đúng quen, sự thỏa hiệp kỳ diệu với hoàn cảnh, để cho con người tù sống, và giải thích được lý do tại sao người tù trong chế độ Cộng Sản có thể sống được trong những điều kiện mà khi kể lại người bình thường rất khó tin, cứ tưởng là người tù khoa trương sự thật.

 

Thời gian ở tù tôi sống chung với hàng ngàn, hàng ngàn chiến sĩ bất khuất của hàng trăm tổ chức chính trị và vũ trang chống lại chính quyền Cộng sản sau tháng 4-1975. Nhiều lúc phải hổ thẹn trước tư cách của một đứa em nhỏ hay sự bình thản khi nhận lãnh án tù từ 20 năm hay chung thân của một người trước kia là nông dân, là công nhân hay là một binh sĩ, những người không từng được hưởng một ân huệ nào của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa nếu không nói là chính họ là nạn nhân của những bất công trong chế độ đó. Chính là nhờ sự hổ thẹn đó, tự thấy mình có lỗi, cũng từ đó tôi tạo được niềm tin, tin vào tương lai của dân tộc, một dân tộc Việt Nam kỳ diệu, không ai hiểu nổi tại sao tồn tại được. Ngoại nhân không ai hiểu được dân tộc Việt Nam tại sao tồn tại khi chỉ tìm hiểu hoặc tiếp xúc một thành phần xã hội nào đó, nhất là thành phần trí thức và thành phần nắm quyền. Họ không hiểu được sức sống của dân tộc Việt Nam là sức mạnh tiềm tàng trong quảng đại dân chúng. Sức mạnh tiềm tàng đó trong điều kiện lịch sử được kết hợp lại thành một lực lượng có lãnh đạo tốt thì sẽ đánh đuổi được ngoại xâm và xây dựng đất nước phú cường; ngược lại, khi chưa có điều kiện tập hợp thì nó tiềm phục làm sức sống cho dân tộc tồn tại ươm chồi chờ điều kiện trỗi dậy thành rừng gỗ quí. Tôi vội vã ra đi vì tôi nghĩ là trong nước chưa có điều kiện tập hợp. Tôi nghĩ đến những người ra đi trước, làm gì không có chiến sĩ kiên cường khi thất bại tạm lui ẩn nhẫn chờ thời và, sức mạnh của lòng yêu nước thiết tha của con người Việt Nam trong những người Việt Nam hải ngoại. Tôi nghĩ là thời gian gần mười lăm năm, điều kiện vật chất và gia đình được đầy đủ, tương lai con cái được bảo đảm xán lạn, mỗi người Việt Nam lưu vong hải ngoại đều xác định được rõ thế nào là tình yêu nước, và ai cũng mơ ước một ngày về xây dựng quê hương để tự chứng tỏ mình là một chiến sĩ kiên cường, không phải là kẻ trốn chạy, không tổ quốc.

Bây giờ 1990, viết về nhà tù Cộng sản hay tranh luận lý thuyết Cộng sản quá chậm. Tôi chỉ mong ghi lại đây như là một chứng tích của một đời đã qua. Bằng lời lẽ thô thiển mộc mạc, ghi lại để nhớ ơn cha mẹ, vợ, chị, các em và những người thân đã giúp cho tôi có thể sống được và làm kỷ niệm đối với bạn bè đã cùng sống với nhau những ngày gian khổ.

 

Nguyễn Chí Thiệp 

 




Chương Một

 

Những chiếc trực thăng Chinook và UH-1 cuối cùng khuất dạng về hướng biển, trời Saigon trở lại vắng và buồn, thỉnh thoảng đâu đó vang lên một tràng đạn lẻ tẻ, đường đạn vạch lên khung trời xám mờ đục. Thật xa, một vài tiếng đại bác cầm chừng. Mọi nhà đóng cửa, hoặc cánh cửa sắt kéo lại chỉ để khoảng trống một người đi, trên đường chỉ có những người lính tan hàng mặc áo trận, quần đùi lặng lẽ và hối hả từ ngoại ô đi vào thành phố. Những người không di tản kịp dìu dắt nhau trở về nhà, mặt ai nấy buồn xo thất vọng, lo âu. Saigon hồi hộp chờ Quân Đội Giải Phóng vào tiếp thu. Đài phát thanh ban lệnh của Tướng Nguyễn Hữu Hạnh kêu gọi các đơn vị giữ vững vị trí.

 

6 giờ 30 chiều, ba tôi không mở đài BBC như mọi ngày, ông hoàn toàn thất vọng vì biết chính quyền Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa nên không cần theo dõi tin tức thời sự. Đài phát thanh BBC là cơ quan truyền thông ảnh hưởng trong đời sống dân Việt Nam nhất. Những người có quan tâm ít nhiều đến tình hình chính trị đều nghe và tin vào tin tức, và lập luận của đài. Có thể nói đối với miền Nam Việt Nam vào thời đó, đài BBC có sức mạnh làm sụp đổ một chính phủ, làm thay đổi được một cục diện chính trị. Không hiểu vì vô tình hay cố ý, thời gian từ sau ngày Ban Mê Thuột thất thủ, hầu như đài BBC đều loan những tin tức bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa.

 

Tỉnh Quảng Tín chưa mất, họ đã loan các tin tỉnh đã mất trong bản tin tức tối 25-3-1975. Phóng sự “cuộc giao lưu của hai nền văn minh Honda và xe đạp” tại Đà Nẵng ca ngợi Việt Cộng như một đoàn quân chính nghĩa.

 

Sau khi tuyến phòng thủ Xuân Lộc vỡ, chính phủ Vũ Văn Mẫu yêu cầu phái đoàn quân sự Mỹ DIA, DAO rút lui, ba tôi không tiếp tục nghe đài BBC, ông chỉ ngồi thở dài.

 

7 giờ sáng ngày 30-4-75, đài Saigon loan tin Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng không điều kiện và lệnh của Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cho các đơn vị trưởng quân đội Việt Nam Cộng Hòa tiếp xúc với cấp chỉ huy “quân giải phóng” để bàn giao địa điểm. Tôi đã khóc, cả nhà tôi khóc, dù tin đó không đột ngột. Một tháng trước đây, khi nhận được cú điện thoại của người bạn từ Đà Nẵng cho biết “quân giải phóng” đã vào thành phố, tôi cũng đã khóc, đầu gối mềm nhũn ra, đứng không vững.

 

Ngày 25-3-75, từ Saigon tôi về Đà Nẵng để đưa gia đình ba mẹ và các em tôi vào Saigon. Cuộc di tản kinh hoàng ra khỏi thành phố quê hương tôi, đã ảnh hưởng đến tinh thần của tôi. Tôi chán nản cùng cực. Một trong những lý do khiến tôi không rời Saigon ngày 30-4-75.

 

10 giờ kém 15, toán quân Bắc Việt đầu tiên kéo vào trung tâm Saigon qua ngả đường Hùng Vương, Thị Nghè, đi đầu là những xe tăng T.54 và thiết giáp PT-76. Cần anten trên mỗi xe có gắn cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thỉnh thoảng một xe gắn cờ Đỏ Sao Vàng của Bắc Việt. Chiếc tăng đi đầu đậu lại trước nhà tôi vì trên cầu Thị Nghè còn một chiếc M-41 án ngữ. Một tràng đại liên của người lính dũng cảm cuối cùng nào đó từ M-41 làm số người tò mò ra đứng hai bên đường chạy rạt vào các nhà và các hẻm. Một người lính Cộng Sản ngồi trên xe tăng và hai người lính Cộng Hòa tan hàng đi trên đường chết ngay lúc đó. Có lẽ đó là những người lính bất hạnh chết cuối cùng tại giờ kết thúc cuộc chiến. Đoàn xe tăng Cộng Sản lùi một đoạn và chuẩn bị tư thế tác chiến. Hai phát đại bác của họ làm cháy chiếc M-41, trong đó có người lính thiết giáp chiến đấu để tự sát. Một người lính Biệt Động Quân tan ngũ bị thương lết vào nhà tôi xin băng bó.

 

“Quân giải phóng tiếp tục vào thành phố, sau đoàn xe tăng và thiết giáp, họ đi bằng Molotova, xe Bắc Kinh, xe Jin, GMC và xe Jeep. Những người tò mò lại ra đường đứng thưa thớt vẫy tay, chào ngượng ngập và e dè. Một vài người chỉ trỏ vào một người ngồi trên xe Jeep trông dáng mập mạp, oai vệ, khác với vẻ ốm yếu tiều tụy của các quân nhân “giải phóng” khác, thầm thì với nhau: “Tướng Dương Văn Nhật”. Từ lâu vẫn có tin đồn Tướng Dương Văn Minh có người em là Dương Văn Nhật bên hàng ngũ Cộng Sản. Người ta đồn Tướng Dương Văn Nhật chỉ huy trận Bình Giả năm 1964. Hôm nay, người ta lại đồn Tướng Dương Văn Nhật vào tiếp thu Saigon, nhận sự đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh.

 

Trong xã hội miền Nam thường có những tin đồn đãi, và người ta tin ở những tin đồn hơn là sự giải thích của các cơ quan thông tin của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Khi một chính quyền không được dân chúng tin cậy, đó là hiện tượng phổ thông. Những tin đồn thường không có lợi cho chính quyền Cộng Hòa, có thể đó là một lối tuyên truyền của Cộng Sản, và những tin đồn chỉ phát xuất từ một số người vô công ngồi rồi, ăn nói vô trách nhiệm. Cũng có những lời đồn là sự thật, sự thật về các bê bối trong thâm cung bí sử của các nhân vật lãnh đạo mà không ai dám nói công khai. Cuộc chiến ý thức hệ vô tình cũng như cố ý làm thành cuộc nội chiến. Về phía Cộng Sản, họ che dấu hình thức chiến tranh ý thức hệ thành cuộc chiến tranh giải phóng để tạo chính nghĩa, và phía Việt Nam Cộng Hòa, không đủ khả năng thuyết phục dân chúng chiến đấu chống Cộng Sản, một thứ ngoại xâm tư tưởng, sử dụng người Việt làm phương tiện.

 

Đài truyền hình Saigon phát hình ảnh chiếm Dinh Độc Lập, chiếc T-54 ủi sập cánh cổng chính không một kháng cự, người lính từ trên xe nhảy xuống cầm cờ Giải Phóng chạy vào Dinh, lên tầng lầu đứng vẫy, biểu dương chiến thắng. Sau đó, cờ được kéo lên trụ cờ ở nóc Dinh. Tôi cố kềm hai dòng nước mắt lăn vô ích trên má.

Chính phủ Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Phía Cộng Sản, một người sĩ quan không được giới thiệu tên; bên đầu hàng, tôi nhận ra các ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Văn Hảo, Lý Quý Chung và một số người khác.

 

Kết thúc 21 năm chiến đấu bằng sự đầu hàng vô điều kiện sau một tháng đổ sụp của một đội quân không chiến đấu, từng tỉnh, từng sư đoàn bỏ chạy trước khi quân địch đến.

 

Chỉ có Sư đoàn 18 Bộ Binh giữ trận tuyến Xuân Lộc và Sư đoàn 5 Bộ Binh giữ trận tuyến Chơn Thành được vài ngày.

 

Trận chiến 21 năm tàn khốc, có khi giành nhau từng tấc đất, ngọn đồi, rồi kết thúc bởi một sự sụp đổ mà trong đó người thua không biết vì sao mình thua nên ấm ức, dằn vặt, tiếc nuối. Kẻ chiến thắng cũng không hiểu sao mình chiến thắng. Sau này đọc hồi ký của Tướng Văn Tiến Dũng càng thấy rõ điều đó, Chính Trị Bộ Bắc Việt dự tính năm 1976 mới tổng tấn công mà năm 1975 họ đã chiến thắng, cũng như hồi ký của Tướng Trần Văn Trà cho biết quyết định tấn công là quyết định của các tướng ở chiến trường miền Nam, trong khi bộ phận đầu não ở Hà Nội không có một triển vọng chiến thắng quân sự trong một thời gian ít ra là 2 năm.

 

Càng đọc, càng nghe, càng đau, đau cho cá nhân mình, đau cho bạn bè đã nằm xuống, và đau cho thân phận nhược tiểu. Người ta cần đánh, người ta bơm vũ khí lương thực để đánh. Người ta không cần đánh, người ta rút bỏ mọi phương tiện, tổ chức các cuộc rút lui để khóa tay người chiến sĩ. Hệ thống truyền thông được sử dụng làm tan rã hàng ngũ và họ cũng không quên sỉ nhục những người từng được họ ca tụng như chiến sĩ anh hùng đã chiến đấu bên cạnh họ. Trong gần 30 năm chiến đấu chống Cộng Sản, người chiến sĩ chống Cộng Việt Nam như là “hiệp sĩ mù nghe gió kiếm”, đỡ gạt, tự vệ, tấn công giới hạn khi bị địch tấn công, mà không nhìn được tận mắt kẻ thù, không nhìn rõ ý nghĩa cuộc chiến, không lập được kế hoạch chiến đấu với đầu óc của mình nên không tự lực chiến đấu và cũng không tự mình làm thua trận.

 

Suốt đêm 30-4, Đài Truyền Hình Saigon chiếu những bộ phim tuyên truyền về những cuộc hành quân xuyên Trường Sơn, người bộ đội Bắc Việt hành quân dưới bom đạn của Mỹ, những thanh niên xung phong nam nữ đội bom mở đường cho bộ đội tiến quân, cảnh những thanh niên dầm nước lũ của các con suối dưới trời mưa tầm tã kê vai gánh những thanh sắt thành chiếc cầu tạm cho quân xa vượt qua. Vốn đã khâm phục về sự chịu đựng gian khổ của quân Bắc Việt, những hình ảnh tuyên truyền đó làm tăng sự khâm phục của người miền Nam.

 

Meeting mừng chiến thắng và diễn quân mừng ngày Lao Động 1-5-1975 được tổ chức thật nhanh và thành công, người Saigon túa nhau đi xem, họ được tận mắt thấy những hỏa tiễn 122 ly, pháo 130 ly, phương tiện hỏa lực từ sau trận Mậu Thân đã nhiều lần làm họ khiếp đảm.

 

Phim “Sống Như Anh” về cuộc đời của một “thần tượng” mới, “thần tượng Nguyễn Văn Trổi”. Vì chỗ bà con trong họ với chú Trọi (tên thật, sau khi chết hệ thống tuyên truyền Việt Cộng đổi tên là Trổi), tôi biết chuyện phim 9/10 là ngụy tạo giả dối. Chú Trọi hiền lành, từ làng quê, tránh chiến tranh vào Saigon làm nghề thợ điện, chú ở nhà một người cùng làng trong khu Trương Minh Giảng, đó là một cơ sở Việt Cộng nằm vùng. Chú được móc nối giao công tác đặt mìn cầu Công Lý để nhằm giết MacNamara. Công tác thất bại, bị bắt, bị án tử hình. Sau khi chú Trọi bị xử bắn, đài Bắc Kinh loan tin là chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đổi tên công viên Bắc Kinh thành công viên Nguyễn Văn Trổi - Chính phủ Cu Ba loan tin đổi tên Đại Học La Habana thành Đại Học Nguyễn Văn Trổi - Cả một chiến dịch tuyên truyền của Cộng Sản quốc tế làm Nguyễn Văn Trổi thành anh hùng chống Mỹ. Truyện, phim viết về Nguyễn Văn Trổi thành một thần tượng anh hùng. Thời gian những năm đầu mới chiếm miền Nam, đâu đâu cũng thấy tên Nguyễn Văn Trổi, bệnh viện, công viên, đường phố, trường học. Trong cuộc chiến đấu, Cộng Sản tạo nên những thần tượng để tuyên truyền. Lúc nhỏ ở vùng Cộng Sản trong đoàn ngũ nhi đồng, tôi được dạy Bác Hồ là người nhà Trời, Bác Hồ có hai con ngươi ở mắt, người thường có một con ngươi, người ta chỉ cho trẻ con chúng tôi hình Bác Hồ trong con mắt có hai điểm sáng nổi bật trong tròng đen của mắt. Sau này lớn lên tôi mới biết, khi chụp ảnh dưới một góc sáng nào đó, mắt người nào cũng có hai điểm sáng. Tôi cũng được kể chuyện Bác Hồ bắt gián điệp, Pháp gài một tên gián điệp huấn luyện ở Ăng Lê, tên Tạ Đình Đề về xâm nhập để ám sát Bác Hồ. Tên gián điệp đó đến nhà Bác, nằm ở trên máng xối, chờ cơ hội giết Bác. Bác biết (vì không có gì Bác không biết trước), Bác bình tĩnh giở nồi cơm và bới hai chén, dọn thức ăn, ngồi xuống ung dung, gọi tên gián điệp ra ăn cơm với Bác. Sau nhiều lần bị khám phá như vậy, tên gián điệp khâm phục Bác xin quy hàng, sau thành ra một cán bộ trung kiên của Bác. Nhiều nữa, người ta kể rất nhiều huyền thoại Hồ Chí Minh.

 

Ông Hồ Chí Minh đi làm cách mạng, về nước ông gặp được nhiều thuận lợi. Thứ nhất, là đảng viên của Cộng Sản quốc tế, ông có tầm nhìn rộng rãi về tình hình và những biến chuyển thế giới sau Đệ Nhị Thế Chiến. Thứ hai, dân chúng Việt Nam đang thiết tha độc lập, lợi dụng được lòng yêu nước của toàn dân, ông dễ dàng áp dụng sách lược cách mạng của Lenine ngụy trang cuộc chiến tranh ý thức hệ, cuộc cách mạng vô sản chuyên chính dưới chiêu bài giải phóng dân tộc. Hệ thống tuyên truyền của Việt Cộng càng ngày càng tô điểm hình ảnh của ông thành một người phi thường. Đúng như ước vọng của người dân còn nặng óc tôn quân văn hóa nông nghiệp, họ luôn luôn nghĩ đến một người lãnh đạo phi thường, một đức minh quân với những quyền uy thiên phú.

 

Chủ trì cuộc diễn binh là Chủ tịch Tôn Đức Thắng, bên cạnh có Lê Đức Thọ, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trần Văn Trà ... Trừ các tướng mặc quân phục; phía chính trị, ông Tôn Đức Thắng đến Lê Đức Thọ, mọi người đều mặc áo sơ-mi cụt tay, bỏ ngoài quần, rất bình dân; một đoàn thiếu nhi quàng khăn đỏ và các lẵng hoa. Chủ tịch Tôn Đức Thắng đọc thật vất vả bài diễn văn chào mừng chiến thắng độ hai trang giấy, giọng run run và nhiều lần cà lăm, cụ già đọc chữ không thông có thể vì mắt mờ không thấy rõ chữ, hoặc dịch không kịp chữ quốc ngữ. Thỉnh thoảng người cán bộ đứng hầu quạt phải tiếp ông cụ già một ly nước hoặc một viên thuốc.

 

Khi nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, giọng cụ Tôn Đức Thắng tỏ ra nghẹn ngào, cụ ngừng đọc, rút khăn lau nước mắt. Mọi người trên khán đài lấy khăn lau nước mắt.

 

Thành phố Saigon đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh. Người và các sản phẩm tràn ra chợ trời Trương Minh Giảng, ở đó có thể mua đủ thứ hàng từ các kho bị đánh cướp trong “ngày giải phóng”, và hàng từ các vật dụng trong nhà của dân Saigon. Saigon bình yên và ít biến cố nên người dân ít giữ tiền, sau vài ngày thảng thốt ban đầu, người ta bắt đầu nghĩ đến thực tế, phải có đồng tiền thay thế lương bổng, và các lợi tức gia đình - muốn có tiền chỉ còn cách duy nhất là đem đồ đạc trong nhà ra bán, giữ lại tối thiểu vật dụng còn thì bán hết, bán để lấy tiền, bán vì sợ có thể bị ghép tội, như các loại máy chữ, máy quay phim, máy ảnh được đem ra bán nhiều nhất với giá rẻ. Người ta phân vân chưa biết “chính quyền cách mạng” sẽ làm gì, chỉ có phán đoán và truyền những ước đoán của mình cho người khác. Người ta đi sắm xe đạp, may áo quần đen, bỏ giầy đi mua dép râu. Cái hiểu biết quá đơn sơ về Cộng Sản nên đa số chỉ nghĩ là phải khổ và chịu khổ được, chịu ăn mặc xấu xí được là có thể sống yên thân trong chế độ Cộng Sản. Chợ trời trao đổi buôn bán tấp nập. Các khu phố chính Lê Lợi, Tự Do, Lê Thánh Tôn, Gia Long đóng cửa im ỉm, nhiều nhà xác nhận sự hiện diện của gia đình bằng cách bắc cái ghế, đặt một cái mâm trên để vài chén chè, vài đĩa xôi để bán, trông như cảnh ma chay tập thể với những món đồ cúng đơn sơ.

 

Trên các lề đường, hình thức sinh hoạt kinh tế mới mẻ, những quán cà phê vỉa hè, những chỗ vá xe đạp và quán làm và bán dép râu. Xe hơi bỏ ngổn ngang trên đường phố chỉ bị gỡ lấy lốp xe để làm dép râu. Nhưng những người làm dép râu không phát đạt được lâu, chỉ thời gian đầu có những người lo xa, những người có chương trình về quê canh tác, những viên chức sĩ quan đi học tập cải tạo. Đa số dân Saigon không chịu mang dép râu đội mũ tai bèo.

 

Các quán cà phê vỉa hè thì do các em nữ học sinh hay nữ sinh viên, các em gái con nhà đàng hoàng mở ra để có sinh hoạt qua ngày chờ những biến chuyển khác từ chính quyền ban xuống. Quán cà phê cũng còn do các em vũ nữ sau khi vũ trường đóng cửa hay các em gái giang hồ tạm ngưng hoạt động ở các động, các đường hẻm, vì sợ - ai cũng sợ, sợ chính quyền cách mạng và lo âu không biết cuộc đời họ sẽ thay đổi ra sao.

 

Người lính giải phóng trông ngờ nghệch, lúng túng trước cảnh rộn rịp và to lớn của Saigon, phần lớn họ rất trẻ. Trong hàng ngũ cán binh của Cộng Sản nổi bật hai lớp tuổi, thành phần thật già và thành phần thật trẻ. Tuổi trung niên thật hiếm, có lẽ hầu hết đã chết trong cuộc chiến. Nhìn vẻ ngờ nghệch, quê mùa của lính cách mạng, có người tức tối vì miền Nam thua một địch thủ không xứng đáng, nhưng cũng có người khâm phục, cho đó là sức mạnh của kỷ luật. Đài Truyền Hình Saigon phát hình cuộc phỏng vấn Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ, cựu Tổng Trưởng Quốc Phòng Việt Nam Cộng Hòa. Ông Vỹ thán phục tinh thần kỷ luật của Quân Giải Phóng, ông tưởng tượng nếu quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào thủ đô Hà Nội thì theo ông, chắc chắn sẽ xảy ra bao cảnh cướp bóc, hãm hiếp, giết người. Nghe ông Vỹ so sánh, tôi thấy xót xa cho những người lính Cộng Hòa mà ông Vỹ gọi là “ngụy quân”, từ ngữ của kẻ chiến thắng chỉ người chiến bại. Nếu một người dân bình thường nào đó so sánh và phát biểu, tôi không đau đớn, vì người dân đó, hoặc do một thiên kiến, hoặc do một sự hiểu biết không đầy đủ, cục bộ; đằng này sự phát biểu từ một người từng là lãnh đạo quân đội Việt Nam Cộng Hòa, lãnh đạo từ khi nó còn là Quân Đội Quốc Gia; người giữ chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng lâu nhất. Nếu một quân đội vô kỷ luật thì trách nhiệm của ông Tổng Trưởng Quốc Phòng như thế nào? Tôi chỉ là một sĩ quan biệt phái, thời gian quân vụ của tôi chỉ là thời gian huấn luyện ở Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ra làm việc nhiều khi sát cạnh với người quân nhân tại các quận, nhiều lúc tôi cũng chiến đấu như người lính để bảo vệ quận khi bị tấn công hay pháo kích, làm việc ở Tỉnh Quảng Nam nơi có nhiều đơn vị quân đội Việt Nam và đồng minh đóng như Trung Đoàn 51BB, Sư Đoàn 2, Sư Đoàn 3, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Bộ Binh Hoa Kỳ, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, Sư Đoàn Thanh Long Đại Hàn - 18 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân Tiểu Khu. Trong suốt sáu năm ròng từ 1966 đến 1973, thời kỳ chiến trường sôi động nhất, nhưng những vụ do binh sĩ sách nhiễu dân chúng hầu như chỉ có lẻ tẻ, không ở mức độ quan trọng. Tôi nhớ lúc nhỏ, làng tôi có một đồn do một Đại Đội Pháp và Commando đóng, những vụ hiếp dâm, đốt nhà, cướp của xảy ra ngày một.

 

Đất nước chúng ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh quá gần nhau, là một cuộc chiến thời Pháp-Việt và cuộc chiến do Bắc Việt xâm lăng. Bản chất hai cuộc chiến khác nhau nhưng ít người nhận thấy, Cộng Sản họ cố tình đồng hóa hai cuộc chiến làm một - họ đồng hóa vai trò của người Mỹ giống như người Pháp, nên những xấu xa của những người lính viễn chinh Pháp họ gán cho người Mỹ, và những xấu xa của quân đội thuộc địa Pháp kể cả những người lính Commando hay Partisan của người Việt Nam vào lính Việt Nam Cộng Hòa. Những thay đổi, những tiến bộ của người lính Việt Nam Cộng Hòa không ai chịu nhìn nhận. Với những thiên kiến họ làm trầm trọng hóa những lỗi lầm nho nhỏ, vô tình hay cố ý phụ họa theo tuyên truyền của địch.

 

Người dân thành phố vô tình và người dân thôn quê bị Cộng Sản tuyên truyền mới nghĩ khác hơn. Tôi không thể tưởng tượng được người ngộ nhận đó là ông Tướng Tổng Trưởng Quốc Phòng. Nhận xét của ông Vỹ có thể do sự hèn nhát, muốn nói cho vừa lòng những người Cộng Sản phỏng vấn ông, hoặc với tinh thần một người lính thuộc địa, từng mang quốc tịch Pháp, những người thực dân đã dày xéo đất nước gần 100 năm, thời còn là binh sĩ hay sĩ quan cấp nhỏ, ông đã từng bắt chước theo quân đội mẫu quốc của ông về các hành động hãm hiếp, cướp bóc, nên luôn luôn nghĩ binh sĩ dưới quyền của ông cũng xấu như vậy.

 

Thật đáng thương cho những người lính Cộng Hòa đã chết trên chiến trường và sắp chết trong ngục tù Cộng Sản, họ phải chiến đấu dưới quyền chỉ huy của những tướng lãnh như ông Vỹ. Thương cho người Sĩ Quan Nhảy Dù chỉ huy đơn vị trấn đóng ở sân Hoa Lư tự sát sau khi cho binh sĩ giải tán sáng 30-4; thương cho những thương binh Việt Nam Cộng Hòa bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa một ngày sau khi Việt Cộng chiếm Saigon, trên vết thương của họ vẫn còn nhuốm máu; thương cho những người chiến sĩ đã chết mà mộ của họ đang bị đào xới trả thù.

Ấp Ba Xã Thạnh Mỹ Tây tổ chức học tập chính sách - các gia trưởng đều được mời đi dự phiên họp. Bài học đầu tiên của chính quyền mới nên mọi người đều muốn nghe, muốn biết những gì thuộc chính sách để đối phó lại, và coi bản thân mình sẽ được đối xử ra sao. Ngồi bàn chủ tọa có Út Ba, người cán bộ miền Nam từ mặt trận về; chị Tư Nở tổ trưởng phụ nữ, cán bộ nằm vùng, trước buôn bán bánh da lợn trong Chợ Thị Nghè - Hai Nên thư ký ấp, trước làm công cho Thiếu tá Bê, Ủy Viên An Ninh; anh Năm Cần đạp xích lô, cán bộ nằm vùng. Trước mặt đông đảo bà con mặt tên nào cũng vênh váo ta đây là kẻ chiến thắng, chỉ riêng Hai Nên, khi được giới thiệu vẫn còn bẽn lẽn. Người được Út Ba giới thiệu tên là Thành, Thượng úy, cán bộ từ Quận Thạnh Mỹ Tây xuống. Đề tài học tập là: “Đế quốc Mỹ là kẻ thù của dân tộc”. Bằng một giọng Bắc ngọng lẫn lộn chữ L và chữ N, chữ D và R, hắn đọc tương đối lưu loát bài thuyết trình nội dung đại ý “lược trình về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam anh hùng từ đời Hùng Vương đến hiện tại, thời đại Hồ Chí Minh là thời đại anh hùng nhất, vì Bác Hồ và Đảng Lao Động lãnh đạo toàn dân đánh thắng liên tiếp ba đế quốc: Pháp, Nhật và Mỹ, trong đó đế quốc Mỹ là tên đầu sỏ mạnh nhất, tên hung nô của thời đại ...”.

 

Người ta bắt đầu làm quen với những từ ngữ “thời đại Hồ Chí Minh anh hùng”, “đỉnh cao trí tuệ loài người”, “cái nôi văn minh của nhân loại”. Bài thuyết trình còn nhấn mạnh “là hiện nay thế giới có ba cường quốc, Liên Sô là cường quốc quân sự, đế quốc Mỹ là cường quốc kinh tế, và Việt Nam là cường quốc chính trị”, vì Việt Nam là nước đất không rộng người không đông, đã đánh thắng đế quốc Mỹ làm gương cho các nước khác trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập ... Tất cả những vinh quang hiển hách đó là nhờ sự lãnh đạo của Bác Hồ muôn vàn kính yêu. Nói tới đây, Thượng úy Thanh tỏ ra xúc động, anh xin lỗi cử tọa rút khăn ra và bắt đầu sụt sịt khóc. Anh nói, anh cũng như mọi người dân miền Bắc, ai cũng kính yêu Bác Hồ, dù Bác mất đã lâu, khi nhắc đến anh vẫn xúc động - anh ân hận là khi Bác mất, anh bận công tác ở chiến trường B không về Hà Nội được để dự đám táng Bác. Thấy Thượng úy Thanh khóc, những tên khác trên bàn chủ tọa cũng lấy khăn lên thấm nước mắt.

 

Cuối bài thuyết trình nói về tay sai đế quốc Mỹ gồm “bọn tư sản mại bản”, “phong kiến bóc lột”, “quan liêu quân phiệt” cần được cải tạo trong diễn trình cách mạng gồm hai giai đoạn: Cuộc Cách Mạng Dân Chủ Nhân Dân và Cách Mạng Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ...

 

Mọi người về trong im lặng, dường như ai nấy càng ưu tư hơn với số phận mình. Bắt đầu nghe từ ngữ “cải tạo”. Cải tạo có phải là tẩy não không? Tư sản mại bản là những ai? Là những người có tài sản tiền của, nhưng đến độ nào thì được ghép vào tư sản mại bản? Thuyết trình viên không giải thích rõ, người nghe dù không hiểu cũng không hỏi, vì sợ - không khí sợ hãi càng ngày càng đè nặng trên tâm lý mọi người - quân nhân công chức Việt Nam Cộng Hòa thì thấy rõ hơn, nhóm từ ngữ “quan liêu quân phiệt” bao gồm toàn thể trong đó.

 

Hy vọng mỏng manh của một số người về một hình thức chính quyền Cộng Sản ôn hòa như các nước Đông Âu hay Nam Tư tan tành. Kiến thức lờ mờ về chế độ Cộng Sản, khiến nhiều người chỉ phân biệt một cách đơn giản là Cộng Sản Trung Quốc sắt máu, Cộng Sản Liên Sô thì tương đối ôn hòa, Cộng Sản Đông Âu thì đỡ hơn hết. Năm 1974, nhiều báo Mỹ nói về Cộng Sản Nam Tư, và tiếc rẻ là Tổng Thống Truman bỏ cơ hội biến Hồ Chí Minh thành một Tito ở Á Châu khi từ khước hai thư xin viện trợ của ông Hồ. Những sự hiểu biết không đầy đủ như vậy khiến sự sai lầm càng trầm trọng hơn. Người ta không phân biệt được là chính sách Cộng Sản Quốc Gia của Nam Tư là chính sách đối ngoại, một may mắn của lịch sử Nam Tư khiến Staline không thể đem quân chiếm Nam Tư như các nước Đông Âu khác, nên Tito đã độc lập được với Mạc Tư Khoa. Vấn đề nội chính Tito cũng áp dụng đấu tranh giai cấp và giết người hàng loạt trong những tấm mồ tập thể.

 

Tâm lý đứng núi này trông núi nọ, tình hình chính trị tồi tệ của miền Nam, sự kém hiểu biết về Cộng Sản làm nhiều người không còn sợ Cộng Sản. Có người nghĩ là miễn có hòa bình để chấm dứt các đau khổ chiến tranh gây ra, còn nếu một chính quyền Cộng Sản thế nào đó giống như Cộng Sản Đông Âu người ta có thể chịu được với sự hy sinh ít nhiều về đời sống vật chất, chịu đựng kham khổ lúc ban đầu. Hình thức tuyên truyền về người Cộng Sản răng đen, mắt ốc nhồi, cầm mã tấu vấy máu trẻ em trở thành nhàm chán, hình ảnh tuyên truyền quá đáng về 7 người lính Cộng Sản đu cành đu đủ không gẫy trở thành phản tác dụng. Do đó, hình ảnh “Saigon tắm máu” nỗ lực cuối cùng chống Cộng Sản trên mặt trận tuyên truyền không đạt nhiều kết quả, trong khi đó đài BBC, và tin của người dân chạy đường bộ vào đến Saigon thì Việt Cộng tiếp thu các tỉnh miền Trung một cách ôn hòa.

Saigon bắt đầu xôn xao vì tin tức chính sách giãn dân để rút dân số Saigon còn 500.000 và chính sách cải tạo.

 

Những gia đình nghèo trong các khu đông đúc, những ngày đầu nhận “gạo cứu đói” được nằm trong danh sách giãn dân đầu tiên. Thành phần dân nghèo thành thị thức tỉnh ngay với quyết định đó. Bao nhiêu năm sống lam lũ trong xóm nghèo lao động, chịu sự bất công của xã hội - sự cách biệt về lối sống, ít nhiều họ vẫn mơ ước cuộc cách mạng làm đổi đời, cuộc cách mạng công bằng xã hội, những ngày đầu họ “hồ hởi, phấn khởi” thấy chính quyền cách mạng chiếu cố bằng sự cấp phát mấy lon gạo cứu đói. Giờ đây mấy lon gạo cứu đói là lý do buộc họ phải ra khỏi thành phố về quê sản xuất theo chính sách. Họ có cảm tưởng bị đánh lừa. Họ đâu có thể phân bì với chị Tư Nở bán bánh da lợn, cô Hai Nên trông con cho gia đình Thiếu tá Bê, anh Năm Cần đạp xích lô, những người này được vào ban lãnh đạo ấp, được chiếm những ngôi nhà lầu khang trang của những người di tản. Trong ngày đầu tiên giới thiệu trụ sở ấp, những người đó đều tự giới thiệu thành tích rải truyền đơn, ném lựu đạn, nuôi cán bộ, giao liên trong trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân. Người dân nghèo mới vỡ lẽ, cách mạng đem lại vinh quang và công bình cho người nghèo trong tổ chức của họ - còn dân nghèo muôn đời vẫn là người chịu đựng trước tiên những đau khổ - áp bức, theo chính sách phải đi ra khỏi thành phố trước cả mấy ông “ngụy quân”, “ngụy quyền”.

 

Thời gian trăng mật qua nhanh, người Saigon mau chóng nhìn ra những sự thật. Từ thái độ khâm phục kháng chiến trước 75, đến sợ sệt rõ ràng trong những ngày đầu tiếp xúc đến quen thuộc và khinh thường. Người ta khinh thường vì sự ngây ngô, dốt nát của cán binh Cộng Sản, trong dân chúng người ta truyền nhau rất mau các câu chuyện cười có thật về những người chiến thắng này. Chuyện cán bộ mua cá lóc về bỏ bồn cầu tiêu nuôi, khi bấm nút cá biến mất; chuyện thấy quạt trần tưởng máy chém; bình ga nấu bếp gọi là bom Mỹ; chuyện cán bộ mua nịt vú về làm lọc cà phê; lấy băng vệ sinh phụ nữ làm khẩu trang chạy Honda; cán bộ vào quán đòi uống sữa Honda; người ta ùn ùn chạy đi xem bảng hiệu “xưởng đẻ lớn” được thay cho bảng “Bệnh Viện Sản Khoa Từ Dũ”. Sợ người ta đi xem đông quá nên chính quyền cách mạng phải thay bằng một tên khác là “Viện Bảo Vệ Bà Mẹ và Trẻ Em”. Người ta bắt đầu đánh giá chính quyền cách mạng qua công tác xóa nạn mù chữ tẻ nhạt, vì công việc này kết thúc tại miền Nam từ năm 1955, 1956; Hội Phụ Nữ hội thảo về đề tài Nam Nữ Bình Quyền, kích động phụ nữ đấu tranh với mẹ chồng không kết quả, nhiều phụ nữ phát biểu là họ hoàn toàn độc lập với mẹ chồng và nhiều khi thấy ngượng khi lấn lướt chồng.

 

Hình ảnh những cao ốc công sở treo đầy quần áo đàn bà, chủ tịch huyện vừa ôm con vừa giải quyết hồ sơ với hai chân ngồi chồm hổm trên ghế, những bãi cỏ trong cơ sở hay tư gia bị đào lên để trồng khoai mì... Tất cả những hình ảnh và việc làm trên khiến cho người Saigon thấy được là họ đã bỏ xa những người chiến thắng đến 50 năm. Miền Nam bỏ xa miền Bắc 50 năm, vì trong 21 năm chia cách, miền Nam tiến mà miền Bắc thì lùi. Người miền Nam sống trong một xã hội tiến bộ mà ít người thấy. Người ta chỉ nhìn thấy những khía cạnh tiêu cực của miền Nam, còn phần tiến bộ không chú ý đến, bỏ qua hoặc không có đối tượng để so sánh. Người bên ngoài mới đến miền Nam thì thấy rõ. Phạm Văn Đồng lần đầu tiên đến Saigon, ngồi xe quan sát một hồi, y bảo xe ngừng lại ngay giữa đường Tự Do, bước xuống xe để nhìn quanh một lúc như tận hưởng tất cả sung sướng của kẻ chiến thắng, y thốt lên: “Hiện đại quá, hiện đại quá!”. Lê Duẩn nói với những người thân tín: “Với tài sản đế quốc Mỹ bỏ lại miền Nam, không bao lâu đất nước ta sẽ tiến bộ”.

 



 


Chương Hai

 

Theo quân Bắc Việt, cán bộ các ngành vào tiếp thu các cơ sở ở miền Nam, những người Cộng Sản Tập Kết được ưu tiên vào Nam thăm gia đình. Người ta đã nói nhiều đến sự nghèo đói và dốt nát của cán bộ miền Bắc, nói đến những sự giúp đỡ của bà con miền Nam đối với thân nhân miền Bắc vào thăm. Người Nam nhận họ, người Bắc nhận hàng.

 

Trước khi vào Nam, các cán bộ phải học tập những điều phải làm, phải nói để bà con miền Nam tin là miền Bắc là ưu việt, là xã hội phát triển tiến bộ. Những buổi sinh hoạt công khai cán bộ cứ theo chỉ thị mà nói, mà vẽ nên cái thịnh vượng của miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, còn miền Nam chỉ là phồn vinh giả tạo. Từ đó đồng bào miền Nam đã được nghe nói miền Bắc cái gì cũng có dư thừa như tủ lạnh thì chạy đầy đường, kem thì dư quá phải đem phơi khô không hết. Cán bộ miền Bắc làm nhiệm vụ của mình đối với Đảng, đối với nhà nước, nhưng với bà con trong gia đình thì họ thì thầm nhỏ to nói hết sự thật. Họ dặn dò bà con không nên bán đồ đạc trong nhà, nếu có tiền thì mua thêm, nên mua vàng bạc nữ trang cất giấu vì tiền giấy không có giá trị và bị thay đổi thường xuyên, không nên tồn trữ cồng kềnh sẽ bị kiểm tra tịch thu. Phải bám lấy Saigon và tỉnh lỵ, không đi vùng kinh tế mới, nếu buộc phải làm thì trì hoãn. Lời dặn bám Saigon và tỉnh lỵ không đi kinh tế mới là lời dặn có ích cho dân miền Nam.

 

Trong buổi giao thời, lòng hoang mang lo sợ, nhiều người chuẩn bị rời thành phố về quê, bởi lẽ thay đổi cuộc sống đột ngột, hầu hết cứ tưởng ở Saigon không phương kế sinh nhai, cực khổ gì cũng phải tìm mảnh vườn, đám ruộng làm nếp sống cơ bản. Vả lại, ai cũng nghĩ lệnh của nhà nước Cộng Sản là nghiêm lệnh không thể không thi hành.

 

Bà con miền Bắc còn dặn không bao giờ tự giác nhận tội, tự giác nhận lãnh công tác như lời tuyên truyền khuyến dụ vì “tự giác là tự sát”. Theo bài học sơ khởi của bà con, cái hạng nhất là thái độ “ù ơ ví dầu” “nước chảy hoa trôi” dù có bị phê bình là tiêu cực, luôn luôn nhất trí, không cãi lại, vì cãi lại là phản động - “nhất trí nhưng cứ mỗi người một ý ”, nhất lý, nhì ù lì, đó là những thái độ sống thích ứng do bà con có kinh nghiệm truyền cho.

 

Chú Bình đến nhà tôi vào buổi chiều có mưa nhẹ, mới 5 giờ chiều mà mọi nhà đều đóng cửa. Đường Hùng Vương, Thị Nghè một trong những con đường chính từ miền Đông và miền Trung vào Saigon vắng tanh, thỉnh thoảng mới có một xe bộ đội hay công an chạy qua. Chỉ có những con chó đói của những gia đình di tản bỏ lại chạy đi bới những đống rác một cách tuyệt vọng, chỉ thời gian ngắn mà Saigon đã dè sẻn miếng ăn, không vất bừa bãi như trước.

 

Khi thấy bóng dáng người cán bộ Việt Cộng mặc áo mưa, đội nón cối đi lại trước nhà, ba tôi tái mặt, ông bảo tôi mở cửa sau đi ra khỏi nhà. Mấy hôm nay có nhiều trường hợp bắt bớ, nhất là những tên công an Liên Khu 5 vào Saigon bắt những viên chức phục vụ các tỉnh miền Trung. Tuy tôi đã rời Quảng Nam hơn hai năm nhưng tôi người địa phương ngoài đó, biết đâu không ở trong danh sách truy tìm của họ. Ai cũng biết tính quá khích của Việt Cộng ở các tỉnh miền Trung. Cán bộ Việt Cộng có nhiều quyền sinh sát nên họ tàn sát tùy tiện bừa bãi nhiều trường hợp chỉ là những hiềm thù cá nhân. Trong những ngày đầu tháng 4-1975, các tỉnh miền Trung từ Quảng Nam đến Phú Yên đã tắm máu, nạn nhân là viên chức cấp thấp như xã ấp, cảnh sát không chạy được về Saigon trước khi toàn miền Nam sụp đổ.

Ba tôi ra mở cửa, người khách giới thiệu lý lịch một lúc ông mới nhận ra bà con. Chú Bình là chú họ của tôi. Lúc nhỏ gia đình khá giả, chú được cho vào “vùng tự do” để học ở trường Lê Khiết - Quảng Ngãi. Năm 1954 chú tập kết ra Bắc. Ba tôi tiếp khách một cách lạnh nhạt, ông không thích “những người bên kia” dù là bà con trong thân tộc. Sợ mếch lòng khách, tôi bước ra cố gắng vồn vã chào hỏi. Câu hỏi đầu tiên của chú làm tôi ngạc nhiên:

 

- Tại sao cháu không đi Mỹ? Về đến Đà Nẵng, gặp chị (mẹ tôi) nói cả gia đình ở lại Saigon. Cháu không đi nước ngoài thật vô lý.

 

Tôi không biết nói thế nào cho phải. Chú nói tiếp:

 

- Cháu có biết có nhiều cán bộ đi theo đoàn quân về Nam chỉ muốn mặt trận cầm cự được thời gian để họ kịp ra hồi chánh, rồi chạy đi ngoại quốc không? Thà ra ngoại quốc hốt cứt ngựa còn hơn là ở lại trong nước.

 

Tôi vẫn dè dặt:

 

- Đã có hòa bình rồi, ở lại trong nước mà sống như người dân bình thường, họ nỡ giết chết sao?

 

Chú xẵng giọng:

 

- Làm sao sống như người bình thường được, Xã Hội Chủ Nghĩa không có người dân nào là dân bình thường cả. Tất cả đều phải ở trong một bộ máy, người bị gạt ra khỏi guồng máy là phản động, phải bị chuyên chính, phải đi cải tạo thôi. Cháu là viên chức cao cấp của chính quyền, sao không hiểu gì chế độ Cộng sản hết.

Bị chê trách kém hiểu biết về Cộng Sản, tôi cảm thấy hơi tự ái nên tôi cãi lại:

 

- Cháu cũng có biết là Cộng Sản độc tài, tàn ác, vô nhân đạo, nhưng chạy ra ngoại quốc thấy nhục và phiêu lưu quá, vả lại chính sách 10 điểm của Mặt Trận Giải Phóng và Hiệp Định Paris có quy định là không trả thù.

 

- Cháu đừng nghĩ trả thù chỉ là giết chết - họ sẽ không giết nhưng họ sẽ đưa đi các trại tập trung cải tạo không có ngày về. Chú tưởng người như cháu không nên tin vào sự hứa hẹn trong chính sách hòa hợp hòa giải của chính phủ Lâm Thời Miền Nam Việt Nam - mà chính phủ này có quyền hạn gì đâu - tất cả đều được quyết định từ ngoài Bắc. Cháu có biết là khi tin miền Nam được hoàn toàn giải phóng, dĩ nhiên ngoài Bắc người ta mừng rỡ, nhưng bên cạnh những người vui mừng chiến thắng có những người đã khóc. Những người họ mong chờ miền Nam ra giải phóng cho họ khỏi đời sống tối tăm như trong ngục tù.

 

Những lời trách móc của chú Bình làm cho tôi cảm thấy sững sờ và càng tăng thêm lo sợ.

 

Bữa cơm xoàng trong gia đình làm chú xúc động. Thấy mấy em nhỏ vào bữa cơm chào mời lễ phép chú khóc. Ngoài Bắc đã mất những hình ảnh đó từ lâu rồi. Giáo dục miền Bắc chỉ dạy trẻ con trung với Đảng, hiếu với dân, họ muốn vô hiệu hóa gia đình nên chỉ dạy trẻ con tinh thần đấu tranh, đấu tranh từ bản thân đến cha mẹ, anh em. Phần vì chủ trương đường lối, phần vì cuộc sống, cha mẹ không gần gũi con cái trong sinh hoạt của chúng nên trẻ em ngoài Bắc rất mất dạy, chúng không còn biết tôn trọng cha mẹ hay thầy cô giáo. Nhiều đứa trẻ mới 13, 14 tuổi đã biết chọc cô giáo với những lời lẽ tục tĩu. Tình trạng nhà ở chật chội, những gia đình đông đúc sống chui rúc, nên trẻ con suốt ngày đánh lộn, chưởi bới nhau, học hành chỉ là một hình thức không có phẩm chất bao nhiêu.

 

Chú Bình bảo tôi ngây thơ và hiểu biết về Cộng Sản quá ít khi tôi hỏi về chủ trương một trăm năm trồng người của ông Hồ tạo dựng con người Xã Hội Chủ Nghĩa, để xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Chú nói Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa là làm cách mạng để thay đổi quan hệ sản xuất trong xã hội, cách mạng văn hóa thay đổi tương quan giữa người và người. Nên phải đả phá nếp sống cũ, thay vào tư tưởng mới, con người hy sinh cá nhân cho tập thể . Tập thể, một chủ thể mơ hồ được gọi là nhân dân, nhưng nhân dân không phải là mọi người mà là Đảng. Vì Đảng là tổ chức tiền phong của giai cấp công, nông dân - thành phần cốt lõi của nhân dân.

 

Đảng chủ trương phá bỏ luân lý cũ, phá vỡ trật tự xã hội, đưa trẻ con ra ngoài xã hội, nhưng Đảng lại quá tham lam, họ muốn sử dụng đứa trẻ mà không cưu mang nó, bắt gia đình phải nuôi nó, Đảng chỉ dạy cho nó hận thù và những phương pháp đấu tranh. Họ phủ nhận tình thương giữa con người với nhau.

 

Kết quả là tạo nên những quái thai của thời đại. Chú nói những con người Cộng Sản thế hệ kháng Pháp còn chịu ảnh hưởng của luân lý cũ nhưng họ phải giấu kín cái đức tính đó, còn người Cộng Sản ở thế hệ mới lớn lên sau Hiệp Định Genève, gọi là thế hệ trẻ thì hoàn toàn hư hỏng.

 

Tôi hỏi: “Sau khi chiếm được miền Nam, chính sách đối với lớp trẻ thế nào?”

 

Chú Bình: “May ra họ tin vào lớp trẻ dưới 10 tuổi và dĩ nhiên là con cái của gia đình trong sạch, không nằm trong giai cấp bị chuyên chính tức là những gia đình liên hệ tới chế độ cũ và gia đình trí thức, tư sản”.

 

Tôi thấy nhói ở tim và buốt trong óc. Những tài liệu đọc về Cộng Sản đều đúng, nhưng tôi không tin mấy, vì nó quá tàn nhẫn và dã man đến độ khó tin, nhưng là sự thật. Những đứa em nhỏ, những đứa con của tôi, chắc chắn sẽ không được tiếp tục học lên lớp cao, và sẽ bị khó dễ rất nhiều trong việc đi tìm ngành nghề cho đời sống. Lúc đó tôi mới biết hết hậu quả của một quyết định sai của tôi. Ở lại, không những tôi bị tù đầy, mà gia đình tôi cũng bị trả thù bằng chính sách phân biệt đối xử. Tôi đã nghĩ một cách sai lầm là nếu tôi có bị hoàn cảnh lịch sử bỏ rơi, thì con em tôi còn nhỏ có thể được lớn lên như là một người Việt Nam bình thường. Tôi bắt đầu thấy chính sách trả thù của Cộng Sản còn độc ác hơn là tắm máu.

Chú Bình tiếp: “Ở miền Bắc người ta đều hiểu sai về miền Nam, hệ thống tuyên truyền của Hà Nội đã mô tả xã hội miền Nam cực kỳ xấu xa, lạc hậu và nghèo đói”. Khi được phép vào Nam chú lo lắng không biết lấy gì để đem về làm quà cho bà con - vì chú không có dư dả. Chú thím bàn nhau mãi mới quyết định trích phần tiền nhỏ nhoi để dành mua được 5 khăn tay, 4 hộp sữa nhãn hiệu Liên Sô viện trợ và hai ký muối, 5 khăn tay để làm quà cho 5 người cháu ruột ở Đà Nẵng, 4 hộp sữa và 2 ký muối làm quà cho gia đình anh ruột và gia đình tôi. Khi lên xe đò chú giữ nâng niu món quà, tưởng tượng thân nhân sẽ vô cùng sung sướng. Đường quốc lộ số 1 lồi lõm đầy hố bom Mỹ, xe chạy tung bụi mờ mịt, có đoạn xe phải băng xuống ruộng vì khoảng quốc lộ đã bị bom phá nát không đi được. Qua khỏi Thanh Hóa chú mất cái khăn tay. Đường còn xa, bụi dơ bẩn, không thể nào không dùng một cái khăn. Đầu óc chú cứ phân vân, nếu dùng một cái khăn tay thì một người cháu ở Đà Nẵng không có quà. Chú phấn đấu với bản thân, khi xe ngừng ở Vinh để hành khách rửa mặt giải lao, chú quyết định xé ngang vạt áo sơ-mi làm khăn lau để đảm bảo đủ 5 cái khăn cho 5 đứa cháu. Một quyết định lúc đó đối với chú thật quan trọng, chú phải hy sinh một cái áo “còn tốt” của chú để bảo vệ quà đủ cho người thân ở miền Nam. Xe qua Bến Hải vào đến Quảng Trị, chú Bình thoáng chút nghi ngờ, đường quốc lộ rộng thênh thang, thẳng tắp, rồi thành phố Huế khang trang hiện ra, chú tự hỏi nếu đời sống miền Nam cơ cực làm sao nhà cửa, phố xá, quốc lộ đều to lớn, mới mẻ nói lên một cảnh ngược lại những gì chú được học từ bấy lâu nay. Về đến Đà Nẵng, chú bắt đầu thấy rõ là mình bị lừa gạt. Về đến nhà người anh, chú sững sờ trước một ngôi nhà đồ sộ hai tầng, chú sợ lầm địa chỉ, đi tới, đi lui cả buổi không dám gọi cổng. Cuối cùng chú “đánh liều” bấm chuông cửa. Hơn 20 năm chú còn nhận ra người anh ruột. Cuộc sống của gia đình người anh, một thương gia hạng trung ở Đà Nẵng đã làm chú choáng ngộp, phương tiện vật chất, xe hơi, xe Honda của các cháu, TV, tủ lạnh, quạt máy đầy đủ tiện nghi, tương quan trong gia đình tôn ti trật tự cha con, chồng vợ, anh chị em không khác thời nhỏ chú được dạy và giờ đây chú mới lại tìm thấy. Chú Bình đã khóc ngon lành trước sự kinh ngạc của mọi người. Các món quà lúc đầu chú không dám đưa ra, nhưng cuối cùng để cho mọi người hiểu chú đem ra tất cả để trình bày mà không cần giữ lại 2 lon sữa và 1 kg muối cho gia đình tôi. Mọi người thương chú và cười ra nước mắt. Đồng thời lúc đó gia đình còn phát giác chỉ cho chú một điểm nhỏ của sự lừa bịp có hệ thống: Những lon sữa có nhãn hiệu Liên Sô thật ra là sữa Foremost sản xuất tại miền Nam, người ta đem về Bắc bóc giấy in nhãn hiệu Liên Sô dán vào nhưng chữ F đóng nổi ở dưới đáy hộp không xóa được.

 

Những ngày còn ở lại Saigon, mỗi chiều chú thường tới nhà tôi để nói chuyện, để trao đổi nhau những ý nghĩ của chúng tôi những người còn trẻ, tuổi tác gần nhau, có chút quan tâm đến đất nước, dù chú và tôi đã ở hai chiến tuyến và hiện chú là kẻ chiến thắng, tôi là người chiến bại.

 

Tôi lần lượt nêu những thắc mắc của tôi. Chú trả lời theo những sự hiểu biết của chú, có thể chủ quan, nhưng không xa sự thật.

 

Tôi hỏi chú, dư luận cho là nếu Bác Hồ còn sống thì sau khi chiếm miền Nam, chính sách sẽ cởi mở hơn vì Bác Hồ là người yêu nước và thương dân.

 

Chú Bình đáp ngay không do dự: “Bác Hồ là người yêu nước, có thể đúng, nhưng phải là nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. Bác Hồ là người cách mạng rất quá khích, càng về già Bác càng quá khích hơn, Bác tha thiết muốn hoàn thành giải phóng miền Nam. Bác có hai ước mong là chiến thắng miền Nam thống nhất đất nước, và giảng hòa được sự mâu thuẫn giữa Liên Sô và Trung Quốc. Bác chết thì sự ước mong của Bác là được gặp hai vị tiền bối là Karl Marx và Lénine”.

 

Chú hỏi tôi: “Cháu có biết tại sao Bác Hồ chết không?”

 

Tôi lắc đầu, chú nói ngay: “Vì Trận Mậu Thân”. Bác Hồ tin tưởng lần đó miền Bắc sẽ chiến thắng nên Bác ra lệnh cho dồn hết lực lượng để Tổng Tấn Công. Kết quả thảm hại, có sư đoàn bị tiêu diệt chỉ còn hơn 30 người chạy được về hậu phương. Được tin thất trận, Bác Hồ đã thổ ra huyết, từ đó Bác yếu dần cho đến chết vào mùa Thu năm 1969.

 

Sau thất bại Mậu Thân, Bộ Chính Trị họp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm bản phúc trình xin rút quân để hòa đàm, vì ông ta nhận định không thể chiến thắng quân sự ở miền Nam.

 

Bác Hồ gọi ông Giáp nói: “Tôi đã đọc tham luận của chú. Chú theo tôi chiến đấu đã lâu, nay chú đã mệt mỏi, chú cần được nghỉ ngơi”. Tướng Giáp được lệnh lên nghỉ mát sáu tháng ở Việt Trì, đó là hình thức cải tạo dành cho các nhân vật đầu não.

 

Tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú, nói chuyện với chú Bình biết được nhiều sự việc quan trọng, nếu những việc chú trình bày có chủ quan không chính xác đến 100% thì ý nghĩa của nó khiến tôi cũng có thể nắm được điểm chủ chốt của xã hội miền Bắc mà không phải tốn nhiều thì giờ tìm hiểu.

 

Tôi hỏi dò:

 

- Hình như người ta đồn Tướng Giáp không còn nhiều thực quyền.

 

- Không những không còn nhiều, mà đã mất hết thực quyền. Tướng Giáp có uy tín nhiều trong quân đội, dư âm của chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn còn, vì người ta mãi khoa trương, nên nếu loại bỏ Tướng Giáp lòng quân và lòng dân sẽ hoang mang. Vả lại họ đang tranh thủ dư luận thế giới ủng hộ, mặt trận ngoại giao của họ rất quan trọng và quyết định chiến thắng. Trong hàng ngũ lãnh đạo miền Bắc, Tướng Giáp được công luận Tây phương biết đến nhiều nhất. Nếu loại bỏ Tướng Giáp, báo chí Tây phương sẽ viết ầm lên - dư luận sẽ bất lợi. Tướng Giáp còn bị tố cáo liên hệ đến một âm mưu chống đảng, có nguy cơ bị tước mất đảng tịch.

 

Tôi ngạc nhiên hỏi:

 

- Miền Bắc cũng có âm mưu chống đảng hay sao?

 

- Chống đảng là một hiện tượng hiếm có trong Xã Hội Chủ Nghĩa. Tướng Đặng Kim Giang và một số sĩ quan cao cấp ở Bộ Quốc Phòng như Tướng Đỗ Đức Kiên Cục Trưởng Tác Chiến, Nguyễn Minh Nghĩa Cục Trưởng Quân Báo, Lê Minh Nghĩa Chánh Văn Phòng Bộ Quốc Phòng, Ung Văn Khiêm, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao bị tố là có âm mưu chống lại đảng.

 

Ông Khiêm không bị giam vì không có bằng chứng xác thực, nhưng bị hạ tầng công tác và bị cô lập, các Tướng thì giam ở Hỏa Lò.

 

Những người trên không chủ trương dùng quân sự để thôn tính miền Nam, trái với chủ trương của Bác Hồ và những người lãnh đạo cao cấp như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh. Năm 1972 Mỹ ném bom khốc liệt, miền Bắc hết sức chịu đựng, dân chúng thán oán, chính quyền đã xử tử nhiều người để trấn an dư luận. Nhưng nếu Mỹ tiếp tục ném bom, có lẽ bộ chính trị phải đầu hàng. Nhưng Mỹ ngưng đúng lúc để miền Bắc tồn tại và ngày nay chiến thắng. Ngoài Bác Hồ ra, Trường Chinh là người quá khích. Nếu Trường Chinh làm Tổng Bí Thư hay Bác Hồ còn sống, chắc miền Nam đổ máu nhiều hơn.

 

Tinh thần quá khích của Bác Hồ thể hiện qua chính sách dùng người. Bác ra chỉ thị “Hồng trước chuyên sau”, “Hồng” tức là lòng trung thành với Đảng, “Chuyên” là khả năng chuyên môn.

 

Chính sách nhân sự đó làm cho miền Bắc càng khủng hoảng quản lý. Có hai hệ thống đảng, mỗi cơ quan có một đảng ủy, và hệ thống chính quyền - mỗi cơ quan, mỗi cơ sở dầy đặc cán bộ, chưa kể những lủng củng vì tranh chấp lãnh đạo, tranh chấp quyền lực, vì kém khả năng, vì tính cách thư lại, tính cách tập trung, nặng họp hành, trình báo giấy tờ, bộ máy chính quyền cồng kềnh hao tốn tiền của mà không đạt được hiệu năng. Dân thì đói nhưng nhà nước thì lãng phí, nhà nước hô hào tiết kiệm tăng năng suất, công nhân cứ làm việc qua loa hết giờ vì làm nhiều họ vẫn không có lợi, họ vẫn đói.

 

Bác Hồ cũng thực hiện chính sách nhân sự như các vua chúa thời trước. Chúa Trịnh dùng lính Tam Phủ Thanh Nghệ Tĩnh làm lính tâm phúc thì Bác Hồ cũng dùng người Khu Tư để lãnh đạo, người Bắc nói “Khu Tư lãnh đạo, Khu Năm quản lý”. Lực lượng công an, Bác chỉ thị phải có 50% là người Nghệ Tĩnh.

 

Qua lần nói chuyện với chú Bình tôi rõ hơn về Hồ Chí Minh, khởi đầu ông là người yêu nước như những người đồng thời với ông, ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng đất nước khỏi ách thực dân Pháp. Khi ông đọc Karl Marx và Lénine, ông tin là con đường cách mạng vô sản có thể đoàn kết toàn dân đuổi Pháp và xây dựng thành công một xã hội công bằng. Ông gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp, qua Liên Sô để học ở Trường Huấn Luyện Cán Bộ Quốc Tế Cộng Sản. Ông trở thành người Cộng Sản Quốc Tế mơ một thế giới đại đồng không có cảnh người bóc lột người. Nhưng con người luôn luôn bị giới hạn, giới hạn bởi hoàn cảnh môi trường sống, giới hạn bởi trí óc và lòng ham muốn quyền lực.

 

Khi trở thành người Cộng Sản Quốc Tế, nhìn Chủ Nghĩa Tư Bản là kẻ thù. Ông không thấy được Chủ Nghĩa Tư Bản không giẫy chết mà có nhiều tiến bộ và biến cải. Các nước tư bản lần lần giải quyết được nhiều vấn đề xã hội, hóa giải những mâu thuẫn đối kháng trầm trọng. Nhất là sau thời Đệ II Thế Chiến, phong trào giải thực buộc các đế quốc phải trao trả thuộc địa, nhiều quốc gia độc lập không cần phải đấu tranh bằng võ trang. Tương quan giữa nước phát triển và nước chậm phát triển được cải tiến nhiều, không còn là mối tương quan bóc lột lộ liễu nữa.

 

Quan trọng nhất là cuộc Cách Mạng Khoa Học Kỹ Thuật trên thế giới đã thay đổi tất cả bộ mặt của nhân loại làm cho đời sống của người công nhân ở xã hội tư bản được nâng lên, hàng hóa sản xuất cần người tiêu thụ mà khách hàng quan trọng của nhà tư bản không ai khác hơn là chính công nhân của họ.

 

Sự cách biệt về đời sống của nhân dân và công nhân thu ngắn lại, tương quan giữa chủ và thợ không còn là tương quan đối kháng mà sự hỗ tương lưỡng lợi. Người ta tìm được công thức hợp tác hai bên cùng có lợi.

 

Trên bình diện các quốc gia cũng vậy, không còn tương quan giữa đế quốc và thuộc địa - mà các quốc gia tiến bộ thấy cần phải giúp cho các quốc gia kém mở mang tiến bộ, trong sự tiến bộ đó, nước phát triển cũng tìm ra nguồn lợi của họ. Từ những thay đổi đó, lý thuyết Cộng Sản trở nên lỗi thời, hết đối tượng đấu tranh, nên chế độ Cộng Sản không phát triển và bành trướng ở các quốc gia kỹ nghệ hóa nên chỉ còn đất dụng võ ở các quốc gia nghèo đói, và các quốc gia chưa được độc lập.

 

Độc lập dân tộc là ước vọng thiêng liêng nhất của mọi người dân ở nước bị đô hộ. Đảng Cộng Sản Việt Nam của ông Hồ nắm được cơ hội đó tại Việt Nam nên đã thành công bước đầu. Nhưng độc lập dân tộc chỉ là một bước chiến lược. Xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội mới là cứu cánh. Nhưng Xã Hội Chủ Nghĩa đã lỗi thời, nên Đảng Cộng Sản thành công trong việc đánh ngoại xâm, nhưng thất bại trong việc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc. Miền Bắc tồn tại trong nghèo đói vì còn chiêu bài chống ngoại xâm ở miền Nam.

 

Đến nay, sau khi thắng miền Nam như Lê Duẩn đã nói Đảng Cộng Sản giương cao hai ngọn cờ, ngọn cờ độc lập dân tộc và ngọn cờ xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Thực tế ngọn cờ xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội núp bóng ngọn cờ độc lập dân tộc. Chiến thắng quân sự ở miền Nam nói theo từ ngữ là đỉnh cao của ngọn cờ giải phóng thì ngọn cờ xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội chắc chắn sẽ thất bại.

 

Một hôm khác nói chuyện với chú Bình, tôi hỏi về tình hình các đại học.

 

Chú hỏi tôi: “Cháu có tưởng tượng một người lao công quyết định giáo án của giáo sư đại học không?”

 

Tôi lắc đầu không biết.

 

Chú nói: “Tụi nó (Đảng Cộng Sản) ngồi xổm trên đại học. Vấn đề là mỗi năm giáo chức phải soạn giáo án rồi trình cho Đảng Ủy duyệt xét. Khi duyệt xét giáo án, nếu người giáo viên không có đảng tịch thì phải đứng ngoài. Trong khi Đảng Ủy gồm nhiều thành phần đảng viên trong đại học, trong đó có cả những người lao công quét dọn và những chị bán căng-tin. Chương trình học kém chất lượng, học sinh được tuyển lựa trên lý lịch nhiều hơn trên trình độ học vấn. Do đó “Cái bằng cấp đại học không còn có giá trị”.

 

Tôi hỏi: “Nếu cần tìm hiểu về miền Bắc, cần đọc sách gì?”

 

Chú Bình: “Chỉ cần đọc cuốn “Dưới Bóng Cờ Vẻ Vang Của Đảng, vì sự nghiệp cách mạng, vì chủ nghĩa xã hội” do Lê Duẩn viết. Trong hệ thống Cộng Sản, lời phát biểu của Tổng Bí Thư là chỉ thị, trong có những khẩu hiệu, các tác giả khác cứ theo đó mà viết, viết khác không có lợi, nhiều khi còn bị tội phản động”.

 

Nhân nói về sách vở, tôi hỏi qua về vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Chú nói: “Vụ Nhân Văn Giai Phẩm là cơn ác mộng mà hiện nay không ai dám nhắc tới”. Các tác giả thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống lại quan điểm lãnh đạo văn nghệ do Trường Chinh và Tố Hữu đề xướng.

 

Quan điểm của Nhân Văn Giai Phẩm được đa số đảng viên ủng hộ, khi thấy cuộc tranh chấp có nguy cơ làm tan vỡ tổ chức. Bác Hồ chỉ thị cho Trường Chinh dùng hệ thống nhân dân để chống lại. Các tổ dân phố, các hội đoàn nhân dân được đảng viên công an hướng dẫn thảo luận kết tội nhóm Nhân Văn Giai Phẩm là phản đảng và lập kiến nghị lên Bác thu đảng tịch, khai trừ đảng và đưa đi học tập cải tạo.

 

Bác Hồ không chỉ là thần tượng, Bác là vị Hoàng đế đầy oai quyền, tên của Bác là một từ ngữ úy kị - tiếng Người (viết hoa) chỉ dành riêng cho Bác.

 

Tôi hỏi: “Vậy bao nhiêu phần trăm dân chúng miền Bắc ủng hộ Đảng Cộng Sản?”

 

Chú Bình: “Chỉ có đảng viên cấp cao, những người có đặc quyền, đặc lợi thực tâm ủng hộ đảng - còn những người khác chỉ làm nhiệm vụ. Mỗi người đảng viên Cộng Sản thường có hai con người, con người đảng viên phải làm việc, suy nghĩ, nói theo lệnh của tổ chức, và con người thực của họ, họ phải che dấu thật kỹ con người thật, nếu không khi phát hiện một dấu hiệu sai lệch sẽ bị nâng quan điểm là phản động, họ sẽ bị trừng phạt. Trong chế độ Cộng Sản cố len lỏi để khỏi sai phạm, sai phạm phải cố che dấu để khỏi bị phát hiện, bị phát hiện phải chạy chọt cho khỏi bị bắt. Nếu đã bị bắt thì hết phương cứu”.

 

- Tại sao người ta bất mãn mà không có chống đối tích cực?

 

- Không chống đối vì sức đối kháng đã bị tiêu diệt. Nghệ thuật cai trị của Cộng Sản là tiêu diệt sức đề kháng của nhân dân. Chính sách công an nhân dân, và nhân hộ khẩu nhằm thi hành mục tiêu đó. Kiểm soát người thật chặt, quản lý phân phối thực phẩm thật kỹ, cột chặt mọi người vào tổ chức đảng, tổ chức chính quyền, nếu bị gạt ra khỏi hai hệ thống đó, người dân sẽ muôn vàn đau khổ. Dân phải sợ và phải bám lấy chính quyền, bám lấy đảng, hình thức cao nhất trong sự chống đối là một câu hỏi mỉa mai kín đáo, một câu chuyện tiếu lâm. Đó là sự chống đối vô hại, nếu đi xa hơn sẽ bị tù.

 

Nhân tôi đề cập đến tình trạng tham nhũng làm sụp đổ miền Nam. Chú hỏi tôi:

 

- Cháu nghĩ miền Bắc có tham nhũng không?

 

Tôi trả lời một cách chung chung:

 

- Tham nhũng là một tệ hại có bất kỳ trong thời gian nào, chính quyền nào, nhưng cháu nghĩ miền Bắc có phê bình, tự phê, có đảng kiểm soát, chắc tình trạng tham nhũng sẽ ít đi.

 

Chú Bình:

 

- Chú không biết định thế nào là tham nhũng nhiều ít, chú kể một câu chuyện, sau đó cháu tự lượng định lấy. Chắc cháu biết thi sĩ Xuân Diệu, ông ta không có công tác gì nhiều, “Cái cần câu cơm” của ông là bài thuyết trình “Đạo Đức Bác Hồ” và “Tiết Kiệm Để Sản Xuất”. Hai bài thuyết trình nối với nhau bởi một đoạn kể chuyện Bác Hồ dạy người cần vụ đặt miếng xà-phòng sau khi tắm lên viên gạch để xà-phòng ráo nước, cứng, lâu hao mòn.

 

“Một hôm nhà máy phân bón nơi tôi làm việc, được chỉ thị đón nhà thơ Xuân Diệu đến thuyết trình. Đảng cử đồng chí giám đốc và tôi đi đón, trên đường thi sĩ Xuân Diệu nói: “Tôi nói chuyện với nhà máy thì cũng quá trưa, vậy trưa nay nhà máy cho tôi ăn gì nào? Thôi để các đồng chí dễ quyết định, tôi gợi ý các đồng chí nhé, tôi bị bệnh bao tử, các đồng chí cho tôi ăn cơm nếp nhé, mà chẳng lẽ ăn cơm nếp suông, lẽ nào các đồng chí không cho tôi ăn món mặn? Gà nhé? ừ, cơm nếp với gà, mà gà trống thiến thì nhất”. Chúng tôi hứa với thi sĩ về sẽ hội ý với các đồng chí trong ban lãnh đạo nhà máy mới quyết định, nhưng chắc là không trở ngại. Một lúc sau, thi sĩ Xuân Diệu lại lên tiếng: “Có ăn trưa rồi thì phải có uống chứ? Mà ngay lúc tôi nói cũng phải có gì cho tôi giải lao nhé, thôi để tôi gợi ý cho các đồng chí là cho tôi uống bia nhé? Uống nước lã tôi hay đau bụng”. Bia là tiêu chuẩn cao, giám đốc trở lên mới có, cán bộ kỹ thuật như chú chưa có tiêu chuẩn bia, đồng chí giám đốc phải hứa dành phần bia tiêu chuẩn của mình để đãi khách. Thi sĩ mới yên tâm. Sau buổi nói chuyện có ăn và uống, thi sĩ Xuân Diệu nhờ nhà máy đưa về Hà Nội, về đến nhà thi sĩ mời chúng tôi vào nhà, tại phòng khách thi sĩ nói: “Tôi đã làm việc với nhà máy, vậy nhà máy phải có tình gì với tôi chứ; đây các đồng chí xem, cái tủ chè này là nhà máy dệt Nam Định biếu tôi sau buổi nói chuyện đấy, có người đã trả tôi 800 đồng chưa bán, tượng Bác Hồ bằng thạch cao do nhà máy Pin Văn Điển biếu đấy nhé, 200 đồng tôi chưa bán. Nhà máy biếu tôi cái gì nào?”

 

Đó không phải là hình thức tham nhũng, nhưng nó rất thê thảm. Một xã hội đói khó đến như một viên chức cao cấp, vừa là một thi sĩ nổi tiếng mà phải gạ gẫm từng bữa ăn, món quà - chắc chắn nếu có điều kiện thì vấn đề tham nhũng không thể nào ít đi được.

 

Sau khi phân tích nhiều khuyết điểm của chế độ, tôi hỏi rằng có thể do chiến tranh, không thể sản xuất được, kinh tế yếu kém, đời sống nhiều khó khăn v.v... Vậy theo ý chú, nếu loại bỏ hết trở lực, liệu chế độ Cộng Sản có thể mang tiến bộ gì cho đất nước, hạnh phúc cho toàn dân không?

 

Chú đáp: “Đừng mong đợi tụi nó (CS) làm gì cho đất nước. Chú là đảng viên, chú được đi nhiều nơi, chú có suy nghĩ - các khuyết điểm của chế độ Cộng Sản là bản chất không phải là hiện tượng, vậy nên nếu có hy sinh cũng vô ích mà thôi”.

 

Chú so sánh khu kỹ nghệ Thái Nguyên với khu kỹ nghệ Biên Hòa. Khu kỹ nghệ Biên Hòa máy móc hiện đại, còn khu kỹ nghệ Thái Nguyên thì vất đi. Khu kỹ nghệ Thái Nguyên trang bị máy móc cổ lỗ của Trung Quốc, máy móc từ thời Nhật chiếm Mãn Châu. Khi trang bị máy mới thay máy cũ, Mao Trạch Đông gạ bán cho miền Bắc, sợ mếch lòng đàn anh Bác Hồ phải nhận với giá 800 triệu miền Bắc thời giá năm 1958, Bác Hồ và Chính trị bộ đau lắm, nhưng không dám nói ra, ngoài việc chỉ thị cho báo Nhân Dân viết ca ngợi “Tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi” giữa hai nước “núi liền núi, sông liền sông”.

 

 

Khu kỹ nghệ Biên Hòa - Thủ Đức cũng không có gì đặc sắc, cũng đủ làm lóa mắt cán bộ kỹ thuật miền Bắc. Đa số các xưởng đều do người Trung Hoa làm chủ, làm theo lối gia công, họ mua sản phẩm bán chế rồi làm ra thành phẩm bán ra thị trường quốc nội. Lối sản xuất như vậy là một hình thức phục vụ cho kỹ nghệ Đài Loan - Hồng Kông - Tân Gia Ba. Nhân công sử dụng đa số là người Việt gốc Hoa.

Máy móc trang bị không phải là máy mới, phần lớn là máy cũ, giúp cho Đài Loan cải tiến kỹ nghệ của họ. Nghĩa là nền kỹ nghệ Đài Loan phát triển cần phải trang bị máy mới, những máy cũ thay vì bỏ phải hao tốn, họ giúp cho người Trung Hoa Chợ Lớn đầu tư đem các máy cũ về trang bị ở Việt Nam. Người Trung Hoa lợi ba bốn mặt. Cụ thể như nhà máy cán sắt Vinacasa của Lý Long Thân, trang bị một lò hai cực cổ lỗ sĩ, các kỹ sư cũng không biết được chế tạo thời kỳ nào - chuyên nấu sắt phế thải, dùng phế liệu để đổi ra sắt cây bán trên thị trường xây dựng.

 

Lối đầu tư kỹ nghệ như vậy, không giúp ích nhiều cho sự phát triển của quốc gia bản xứ.

 

Người Trung Hoa nắm hết quyền lợi về kinh tế ở Việt Nam, điều đó ai cũng biết. Không những họ nắm chỉ vì đầu tư vào chính sách kỹ nghệ chế biến, độc quyền thu mua nông sản và phân phối nông sản, làm chủ thị trường thương mại và 18 ngành xuất nhập cảng.

 

Người Trung Hoa được lãnh đạo bởi một Hội Đồng Ngũ Bang Hoa Kiều (Bang Triều Châu, Hẹ, Quảng Đông, Hải Nam, Phúc Kiến). Hội Đồng Ngũ Bang ấn định các chính sách thương mại, ấn định giá cả thị trường, cử người quan hệ mua chuộc các viên chức chính quyền tới Tổng Thống. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có Mã Tuyên. Thời Nguyễn Văn Thiệu có Lý Long Thân. Vấn đề người Hoa ở Việt Nam là một đề tài lịch sử rất lớn, nước Việt Nam hơn ngàn năm lệ thuộc Trung Hoa mà không bị đồng hóa vì tổ tiên ta có những chính sách uyển chuyển khi giao dịch, biến đổi những điều học được của người Hoa thành một văn hóa riêng biệt. Sau khi lập quốc giành độc lập, luôn luôn đề phòng Bắc xâm, nhưng giao hảo trong thế tương nhượng, chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng nội trị ổn định vững mạnh. Sau mỗi lần chiến thắng, tổ tiên ta thả tù binh, dâng biểu cầu hòa, cầu phong, chịu triều cống để tránh chiến tranh. Dù sau chiến tranh ta chiến thắng cũng làm khổ nhân dân, tốn hao tài nguyên, huống gì Trung Hoa là một nước lớn, mối đe dọa ngàn đời trước và cả về tương lai. Chịu hòa hiếu với chính quyền Trung Hoa, nhưng trong nước thì giữ độc lập và không để cho người Trung Hoa xâm nhập. Khi bị nhà Thanh chiếm đóng, người Hoa tràn xuống các nước Đông Nam Á, họ không di cư lẻ tẻ mà thành đoàn đông đảo, có cả quân lực, họ chiếm nhiều lãnh thổ ở Đông Nam Á như Tân Gia Ba là nước Tàu ở hải ngoại, hơn 30% dân số Mã Lai là người Hoa, dòng vua đang cai trị Thái Lan là người gốc Hoa, nhưng người nhà Minh chiếm cứ lãnh thổ Việt Nam đều bị đồng hóa thành người Minh Hương, kể cả dòng họ Mạc Cửu chiếm vùng Hà Tiên định lập quốc cũng bị Chúa Nguyễn thu phục và đồng hóa. Ngày nay người Minh Hương là người Việt, dù trong cộng đồng đó họ vẫn còn giữ một số nết văn hóa Trung Quốc.

 

Từ khi nước Việt Nam bị Pháp đô hộ, để được Trung Quốc công nhận quyền cai trị Việt Nam, hiệp ước Pháp-Hoa ký ở Thiên Tân, người Pháp dành cho người Trung Hoa nhiều quyền lợi.

 

Từ đó, người Trung Hoa ở Việt Nam biến thành một cộng đồng rất mạnh, tuy dân số chưa tới 2 triệu, nhưng họ nắm tất cả quyền lợi kinh tế.

 

Sau Hiệp Định Genève, người Pháp rời Việt Nam, người Trung Hoa ở miền Bắc được qui định do thỏa ước giữa hai đảng Cộng Sản Trung Hoa và Việt Nam, trong đó có điểm: người Trung Hoa hoạt động trong hàng ngũ Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Người Trung Hoa ở miền Nam khoảng hơn một triệu người được chính quyền Ngô Đình Diệm buộc phải nhập Việt tịch, để đồng hóa họ trong Cộng Đồng Việt Nam, nhưng qua thời gian thi hành quyết định đó không thành công, trái lại còn tăng thêm ưu thế cho người Trung Hoa, vì với quyền lợi nhập Việt tịch họ có quyền chính trị. Điều kiện nhập Việt tịch không làm thay đổi nếp sống của người Trung Hoa ở miền Nam, trong đời sống hàng ngày họ vẫn dùng tiếng Trung Hoa, phong tục tập quán của Trung Hoa, họ có tất cả các cơ sở xã hội riêng biệt, như trường học, bệnh viện, nghĩa trang, hội đoàn thương mại. Nếu có phải làm nghĩa vụ quân dịch thì họ bỏ tiền ra mua, tạo thêm bất công trong quân đội. Ai cũng biết những người quân nhân mặc sắc áo Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến đang chặt thịt heo quay ở các cửa hàng ở Saigon - Chợ Lớn là những lính kiểng.

Vấn đề người Hoa cũng làm nhức óc chính quyền Cộng Sản. Những ngày mới chiếm Saigon, Việt Cộng đã triệt hạ tức khắc không cho những người Hoa treo cờ Trung Cộng và tiếp theo là những mâu thuẫn về chính trị đưa tới vụ nạn kiều, rồi chiến tranh biên giới, nhưng tất cả đều chưa giải quyết. Mỗi chế độ chính trị ở Việt Nam hay mỗi triều đại, sự lệ thuộc vào ngoại quốc ít hay nhiều là do sự nhận viện trợ nhiều hay ít khi tranh đấu đoạt quyền.

 

Do đó, sự tranh đấu để tồn tại, nguy cơ từ phương Bắc vẫn là mối lo tâm phúc của người Việt. Nhưng chúng ta đã có kinh nghiệm lịch sử của cha ông để lại, mỗi giai đoạn lịch sử hoàn cảnh đổi thay, phương thức thi hành có thể thay đổi nhưng tựu trung có những điểm chính:

 

- Củng cố một lực lượng quân sự đủ mạnh để có thể chiến đấu tự vệ, bẻ gẫy tất cả những cuộc chiến xâm lăng từ Trung Hoa đến.

 

- Một chính sách ngoại giao mềm dẻo, hòa hoãn để tránh chiến tranh.

 

- Không để người Trung Hoa nắm hết đặc quyền đặc lợi về kinh tế. Người Trung Hoa sinh sống ở Việt Nam được đối xử bình đẳng với người Việt, nhưng họ phải hội nhập vào đời sống, họ phải trở thành người Việt bằng cách nói tiếng Việt, phong tục tập quán giữa người Việt Nam và Trung Hoa không khác biệt, chỉ có tiếng nói là quan trọng, không nên để người Trung Hoa mở trường học quá bậc trung học, cộng đồng người Trung Hoa ở Việt Nam nên lấy kinh nghiệm hội nhập của người Minh Hương.

 

Đối với người làm chính trị và nắm quyền tại Việt Nam bất cứ thời đại nào, đem đất nước dâng cho Trung Hoa, mang quân Trung Hoa về xâm lấn hay vì quyền lợi riêng dành cho người Trung Hoa đặc quyền về kinh tế là phản quốc.

 

Một hôm tôi mời chú đi chơi quanh phố chợ Saigon. Chú đã đi gần hết các thủ đô các nước Cộng Sản; Prague thủ đô Tiệp Khắc, nơi hàng hóa tương đối đầy đủ cũng không bằng 1/4 hàng hóa ở chợ Bến Thành. Ở các nước Cộng Sản hàng tiêu thụ rất thiếu và kém phẩm chất. Dân chúng phải sắp hàng chờ đợi cả ngày mới tới phiên được vào mua hàng. ở Mạc Tư Khoa chờ đợi cả hai ba ngày mới mua được đôi giày, nhưng khi được nhận giày thì mang không vừa chân, phải đem bán ra chợ trời với giá rẻ rồi tìm mua một đôi khác vừa chân với giá đắt hơn.

 

Hàng hóa theo chế độ phân phối nên luôn luôn thiếu hụt, vì yếu tố thời gian trở thành gánh nặng và tính chất bình quân trong phân phối không hợp với nhu cầu - một người không cần lốp xe đạp vẫn được phát phiếu, người cần thì không đủ. Chợ trời là hình thức rất phổ biến tại các nước Xã Hội Chủ Nghĩa.

 

Tại Liên Xô, người ta có thể mua một máy cày tại chợ trời, nhưng các nông trường bị hỏng máy cày thì phải đợi hàng nhiều năm từ ngày trình báo mới được cung cấp.

 

Một chủ nhiệm hợp tác xã đứng trước hai sự lựa chọn khi một máy cày bị hỏng:

 

- Thứ nhất, báo cáo xong chờ phân phối. Thời gian chờ đợi có thể đến hai năm, Hợp tác xã không sản xuất đủ chỉ tiêu, anh ta có thể bị kết án về tội phá hoại nền kinh tế.

 

- Thứ hai, mau mắn dùng quỹ Hợp tác xã mua một máy cày trên thị trường ở chợ trời giá gấp 4 hay 5 lần giá phân phối, anh sẽ có nguy cơ bị truy tố về tội sử dụng quỹ Hợp tác xã không đúng nguyên tắc. Bề nào cũng có thể bị đi tù.

 

Chúng tôi vào quán cơm bình dân ăn cơm; khi ăn chú Bình nhìn về bàn một người đàn ông mặc áo Treillis xanh, quần đùi, trước mặt anh ta là một đống vỏ Bia 33 chừng 5 hay 6 chai.

 

Tôi chợt nhớ không mời chú uống bia. Tôi nói:

 

- Xin lỗi chú, cháu không uống được bia nên vô tình không mời chú uống bia, chú uống bia nhé?

 

- Bộ mình cũng có tiêu chuẩn bia sao? Có thì uống chứ.

 

- Chú nói gì tiêu chuẩn, mình mua uống thì trả tiền chứ tiêu chuẩn gì, chú uống bao nhiêu cũng có, miễn đủ tiền trả.

 

- Có thật không? Chú hỏi lại.

 

- Thật, mời chú uống. Tôi gọi Bia 33.

 

Ngồi ăn uống, chú vẫn như ngẫm nghĩ điều gì, chú hỏi tôi:

 

- Người đó làm gì mà uống nhiều bia quá vậy?

 

Nhìn lối ăn mặc của người ngồi bàn đối diện, tôi nói:

 

- Có lẽ một phu xích lô hay phu ba gác.

 

Chú vẫn không tin vào lời nói của tôi, nhân lúc người kia nhìn qua, chú chào xong bước qua bàn hỏi:

 

- Xin lỗi ông bạn nhé, tôi hỏi nếu không phải thì ông bạn thứ lỗi. Ông bạn làm gì mà tiêu chuẩn bia nhiều vậy?

 

Người kia cười ha hả nói:

 

- Tiêu chuẩn gì, chắc ông ở miền Bắc vào, tôi làm gì hả, tôi đạp xích lô, tôi có tiền tôi uống, không có tiêu chuẩn gì hết. Trước kia chạy xe khá, tôi uống 10 hay 12 chai, bây giờ làm ăn khó tôi chỉ uống 5 chai.

 

Chú vẫn chưa tin hỏi tiếp:

 

- Thực anh làm phu xích lô?

 

- Không thực thì sao tôi ngồi ung dung như thế này, nếu tôi làm quan quyền chế độ cũ, tư sản này nọ thì đang lo sốt vó, có thì giờ đâu mà thong dong nhàn hạ.

 

Nói xong, người kia kêu tính tiền, đứng lên, ra lề đường đẩy chiếc xích lô rồi nhảy lên đạp thẳng như để chứng minh cho chú, anh ta là phu xích lô thật.

 

Ở ngoài Bắc cũng như tất cả các nước Xã Hội Chủ Nghĩa đều qui định tiêu chuẩn và chế độ khẩu phần lương thực, thực phẩm và các vật dụng cần thiết.

 

Ở nhà ăn tập thể chế độ ăn có 3 cấp; đại táo, tức bếp lớn nấu ăn cho toàn thể nhân viên binh sĩ cấp dưới; tiểu táo, bếp nhỏ, dành cho các cấp chỉ huy, sĩ quan; đặc táo, dành cho cấp cán bộ cao cấp hoặc thủ trưởng cơ quan, mỗi chế độ nhà bếp có tiêu chuẩn lương thực thực phẩm khác nhau về số lượng cũng như về chất lượng. Chữa bệnh cũng có chế độ khác nhau, sĩ quan từ Chuẩn úy lên Thượng úy nằm ở Bệnh viện Quân Đội Nhân Dân 308, có 12 ngày thuốc miễn phí. Từ Đại úy đến Thượng tá nằm bệnh viện Việt Xô, tiêu chuẩn 30 ngày thuốc miễn phí. Đại tá trở lên được chữa trị ở ngoại quốc. Ngoài chiến trường, Trung đoàn trưởng có một Y sĩ và một cần vụ phục dịch, một tư lệnh Sư đoàn có một Bác sĩ và một cần vụ. Đồ dùng cũng phân biệt, binh sĩ, cán bộ cấp dưới mang dép râu (Bắc Việt gọi là dép lốp), cán bộ trung cấp mang sandale. Công an mang sandale nhựa trong - cán bộ trung ương được cấp phát giày và xà-cốt loại da tốt do nước Mông Cổ viện trợ. Marx chủ trương làm cách mạng xóa bỏ giai cấp, nhưng chế độ Cộng Sản lại dựng lên một hệ thống giai cấp thật chặt chẽ và cách biệt ngay giữa đảng viên với nhau, chưa kể giữa đảng viên và người dân được gọi là trong sạch, thành phần bị chuyên chính, tức giai cấp đối nghịch bị tiêu diệt hay làm nô lệ trong các trại tập trung cải tạo.

Giai cấp lãnh đạo ở miền Bắc là một triều đình tập hợp chung quanh vị Hoàng đế là lãnh tụ, cấu kết quyền lợi, dua nịnh lãnh tụ để bảo vệ quyền lợi hiện có và con đường tiến thân.

 

Người ta ca tụng lãnh tụ một cách lố bịch, lộ liễu, cả cái sai của lãnh tụ cũng được bảo vệ. Trong lối viết quốc ngữ, “Bác Hồ” đã viết sai chữ K thay vì chữ C trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh”. Bác dùng chữ F thay cho chữ Ph, thì các chữ đó được coi là đúng. Người ta còn viết cả lý luận cho là ngôn ngữ được sáng tạo do những con người ưu việt, lãnh tụ là con người ưu việt, vậy những gì lãnh tụ viết đều là khuôn mẫu đúng - thật lố bịch.

 

Ông Hồ làm Kách Mệnh, ông Hồ làm lãnh tụ chính trị thành công, điều đó không ai chối cãi - nhưng lãnh tụ không có nghĩa là cái gì cũng phải giỏi.

 

 

Ông Hồ làm thơ, nhưng thơ ông Hồ là loại thơ con cóc. Đọc cuốn “Ngục Trung Nhật Ký” thì ông Hồ chỉ là người “đạo thơ” vô liêm sỉ - những câu Đường Thi nổi tiếng được ông Hồ cóp nhặt lại của những người xưa. Vậy mà khi người ta viết Văn Học Sử, đưa ông Hồ thành thi sĩ vĩ đại nhất, người ta viết sách và dạy học trò “Ngoài Bác Hồ, Tố Hữu là một đại thi hào của nước ta”. Bác Hồ nhất, Tố Hữu nhì, vì Tố Hữu có công làm nhiều thơ ca tụng Bác từ hồi đảng còn trong trứng nước.

Tố Hữu được ông Hồ chọn làm người lãnh đạo văn nghệ. Từ đó Tố Hữu trở thành một cây cổ thụ che lấp cả bầu trời văn học nghệ thuật, những ai đứng ngoài cái bóng đó đều bị chặt, người khôn ngoan biết thu mình dưới bóng thì sống èo uột như cây non không ánh sáng. Người ta chỉ phổ biến thơ con cóc của các “đại thi hào” Xuân Thủy - Lê Đức Thọ - Trường Chinh. Những thi sĩ thật như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Tế Hanh, Chế Lan Viên phải bẻ cong ngòi bút sáng tác theo đơn đặt hàng để được nhận tiêu chuẩn sống qua ngày. Những người không theo quy luật đó, bị ghép vào tội phản động hay nhẹ hơn là lệch hướng sáng tác thì phải đi cải tạo như Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm. Hoặc phải về sống nghèo khổ hơn nơi thôn quê làm ruộng, rẫy như Quang Dũng, Hữu Loan.

 

Đời sống của giới trí thức khoa bảng cũng buồn thảm, Trần Đức Thảo đi cải tạo, rồi giữ bò ở nông trường Ba Vì, Phạm Huy Thông, Trần Văn Giàu, Ngụy Như Kontum, Nguyễn Mạnh Tường kẻ về hưu, người làm những nhiệm vụ văn hóa giáo dục không quan trọng. Có người vì nhu cầu sống hàng ngày phải đi hầu hạ các công tử con lãnh tụ. Con trai Văn Tiến Dũng, con trai Võ Nguyên Giáp, không hề phải vào quân đội, tụ tập thành băng đảng buôn lậu, ăn chơi đàng điếm ngay tại thủ đô Hà Nội nhiều khi gây nhiệt náo. Công an bó tay vì sợ đụng chạm thế lực. Mỗi băng các công tử lại cần một vài nhà thơ trí thức để ngụy trang làm đẹp. Thỉnh thoảng các công tử lại tổ chức cho các nhà trí thức nói chuyện văn chương, văn nghệ để có tiếng là các cậu hoạt động văn hóa. Còn các nhà trí thức thì dựa vào các cậu để có thêm ly cà phê hay “tô phở chui có người lái” mỗi ngày.

 

Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, cuộc chiến đấu yêu nước chống Pháp đã tập trung bao nhiêu tinh hoa của dân tộc ở lại miền bắc. Hầu hết các trí thức khoa bảng, hầu hết các văn nghệ sĩ nổi tiếng thời tiền chiến, những người đã có công tạo dựng nên nền văn chương Việt Nam phong phú, kiến tạo ngôn ngữ Việt Nam thành trong sáng bước nhanh chóng từ giai đoạn Hán văn qua văn chương biền ngẫu và tân văn giản dị. Với nhân lực đó, suốt 24 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa không có được một tác phẩm trung bình về giá trị nghệ thuật.

 

Trong thời gian ngắn ngủi giao lưu Nam Bắc, người Saigon đều biết ông Cù Huy Cận, Thứ trưởng Bộ Văn Hóa, đã khóc sau khi nghe bản “Ngậm Ngùi” thơ của ông, Phạm Duy phổ nhạc. Sau đó thì ông bị kiểm điểm. Nhạc sĩ Văn Cao cũng khóc sau khi đọc tác phẩm của Tạ Tỵ viết về ông - lúc đó người miền Bắc mới thấy nếp sống hài hòa của nhân dân miền Nam, nơi mà họ tưởng là bị nô lệ, cần họ đưa cánh tay gầy guộc ra giải phóng; họ nghe người miền Nam gọi “Bác Hồ” là “Cụ Hồ”, tiếng gọi thông thường cho người lớn tuổi, không như ở miền Bắc, đảng đã chỉ thị cho nhân dân dùng những từ thô bỉ để gọi những người lãnh đạo miền Nam. Đời sống kinh tế miền Nam phong phú, trong chiến tranh có chết chóc, có đổ nát nhưng miền Nam vẫn lớn mạnh về mọi phương diện, trong đó có thân nhân của họ. Không phải chỉ chú Bình mới đem từ miền Bắc những món quà về cho thân nhân rồi mới thấy mình bị lường gạt mà tất cả những người Cộng Sản tập kết từ Nam đều gặp trường hợp đó. Thi sĩ Tế Hanh về làng thấy con cháu sống trong ngôi nhà gạch xây, cứ nằng nặc truy vấn con cháu làm gì cho CIA - truy vấn cho có vẻ người cách mạng thuần thành, nhưng rồi lại khóc như đứa trẻ khi biết mình bị lừa.

30 năm đem nhiệt tâm, tưởng là phục vụ cho nhân dân, rồi thấy mình bị lừa đảo. Thời gian 30 năm ngắn ngủi, nhưng hết cả cuộc đời mình. Cái đau khổ sau cuộc chiến không những chỉ có kẻ chiến bại mà còn đau đớn sâu xa ở những người được mệnh danh là chiến thắng. Tất cả đều là chiến bại - chỉ có một số ít kẻ chiến thắng ở điện Cẩm Linh, ở Trung Nam Hải và bọn tay sai chóp bu ở Hà Nội.

 

Bao nhiêu năm tương tàn vì cuộc chiến để cuối cùng toàn dân Việt Nam - Nam, Bắc đều là kẻ chiến bại - có cái đau khổ nào lớn hơn. Đất nước có bao giờ nhục nhã lớn như lần này. Tôi hỏi chú Bình tại sao chú là đảng viên, chú bị nhồi nhét bao nhiêu năm lý thuyết Cộng Sản, đời sống thực tế ràng buộc trong guồng máy tổ chức, sao chú vẫn còn giữ được bản chất con người.

 

Chú nói Đảng muốn một chuyện mà Đảng có làm được hay không là chuyện khác. Những kết quả của Đảng đối với con người chỉ là bề ngoài. Mỗi người sống trong xã hội Cộng Sản thường có hai bản thể, con người của Đảng và con người thật. Một con người của Đảng tức con người bề ngoài, con người giả dối sống theo qui luật đó vì sợ, vì miếng cơm manh áo, vì tiến thân, nhưng con người thật nó tiềm ẩn, phải giấu giếm, con người này chờ cơ hội bộc lộ, khi về miền Nam nhiều cán bộ Cộng Sản đã bộc lộ, nhưng bộc lộ riêng rẽ cá nhân. Nếu có cơ hội các sự bộc lộ đó thành bộc phát mà hệ thống bạo lực của Đảng không đàn áp nổi - thì lúc đó mới biến chuyển.

 

Những qui tắc luân lý xã hội, con người và gia đình đã ăn sâu vào đời sống người Việt - những người lớn tuổi đều chịu những ảnh hưởng của những giá trị xã hội đó, và nó tồn tại trong mỗi người, Đảng không cướp đi được. Chỉ có lớp trẻ sinh sống lớn lên trong xã hội chủ nghĩa, thế hệ mà Đảng Cộng Sản và Hồ Chí Minh xây dựng mới là thành phần đáng lo ngại. Đảng chỉ dạy cho họ trung với Đảng (Bác Hồ), hiếu với dân (Bác Hồ) và tinh thần đấu tranh, sự hận thù giai cấp. Đây mới là sự suy thoái của dân tộc Việt Nam.

 

Số người tập kết trở về hầu hết đều nhận ra sự thật đều bất mãn, mỗi người phản ứng một cách, kẻ nóng nảy xin phục viên về với gia đình, kẻ thực tế bám lấy chính quyền nhưng xoay ra thủ lợi, kiếm ăn riêng rẽ bằng mọi hình thức tùy theo vị trí của họ.

 

“Khôn cũng chết dại cũng chết chỉ biết là sống”, câu ngạn ngữ của đồng bào miền Bắc. Làm việc tích cực quá cũng chết, vì bị thúc đẩy làm việc tích cực hơn, đạt chỉ tiêu hay vượt chỉ tiêu thì năm sau chỉ tiêu cao hơn. Con người trong Xã Hội Chủ Nghĩa bị thúc bách làm việc mãi, hết đợt thi đua này đến đợt thi đua khác. Đảng bắt mọi người phải tiến tới, đạt chỉ tiêu. Nếu không đạt được chỉ tiêu bị kiểm điểm phê bình, hạ công điểm, rút tiêu chuẩn, nếu nặng sẽ nâng lên quan điểm vào tội phá hoại. Đằng nào cũng chết, chỉ có biết là sống, biết cách làm báo cáo cho hay, dù làm láo, biết tranh thủ người nhận báo cáo tức là phải gian dối có hệ thống - phải biết phô trương trình diễn. Đảng cũng chỉ cần có thế, còn thực tế thì dân có đói, có chết cũng mặc.

 

Cá nhân cũng phải sống như vậy, nhận công tác cũng không thể làm nhiều quá, mà cũng không nên làm ít quá, làm đủ. Một người thợ máy phải biết đầu cơ nghề nghiệp, thỉnh thoảng làm cho máy hỏng và chỉ anh ta mới biết sửa chữa hư hỏng đó thì anh ta sẽ có nhiều lợi, hơn là anh ta duy trì máy chạy tốt mãi.

 

Đó là xã hội miền Bắc, kinh tế nghèo nàn nhưng phí phạm, uổng dụng, kém hiệu năng; tương quan con người không phải bình đẳng mà có nhiều hệ cấp; con người không thể sống ngay tình, chân thật mà phải lươn lẹo, mánh mung, xảo trá.

 

Chú Bình có lần đến Bá Linh, chú định vượt qua Tây Bá Linh để về miền Nam, nhưng chú e ngại, không biết miền Nam thế nào. Tài liệu tuyên truyền về miền Nam quá xấu, nên chú không thể bỏ cái xấu để đi đến cái mà người ta nói nó xấu hơn trong khi phải hy sinh nhiều.

 

Người miền Bắc đã quá mệt mỏi không còn sức đề kháng, chỉ trông vào đồng bào miền Nam. Trước khi trở về Bắc chú nói riêng với tôi: “Nếu có cuộc tranh đấu mới để lật đổ chế độ Cộng Sản, chú sẽ không ngần ngại đứng vào chiến tuyến mới, dù có vợ hai con ở Hà Nội, là đảng viên, có công ăn việc làm và sắp được đi Liên Xô để tiếp tục học cấp Tiến Sĩ”.

 

Những ngày tiếp xúc với chú, đối với tôi thật ích lợi, chú đã giúp tôi hiểu chế độ Cộng Sản nhanh chóng và tôi dứt khoát chọn một thái độ.

 

Tôi bị bắt tù cải tạo hơn 12 năm, không liên lạc với chú Bình; năm 1988 tôi được thả, chú Bình qua Nga học rồi trốn luôn bên đó. Ở Hà Nội, thím bị tước đảng tịch, đuổi ra khỏi biên chế và hai người con của chú không được tiếp tục học lên đại học và phải đi nghĩa vụ lao động trên Hòa Bình.

 



 


Chương Ba

Chính sách học tập cải tạo ban hành cho binh sĩ và nhân viên chính quyền từ Chủ sự trở xuống là ba ngày, tổ chức ngay tại mỗi Phường, sau bài học học viên viết lý lịch, làm thu hoạch được cấp giấy chứng nhận học tập đóng dấu chữ ký của Cao Đăng Chiếm, Thứ trưởng Bộ Nội Vụ đặc trách miền Nam.

 

Nhiều người thở phào như trút được gánh nặng nghìn cân. Nhân viên, binh sĩ học tập xong thoải mái đã đành. Sĩ quan và các cấp chỉ huy cũng cảm thấy nhẹ gánh. “Cách mạng” đối với lính như vậy thì sĩ quan có thể cần học tập nhiều hơn, gấp 10 lần cũng không sao.

 

Do đó, khi thông báo học tập 1 tháng cho cấp chỉ huy từ Giám đốc trở lên đối với nhân viên trung ương và từ Phó quận trưởng, Trưởng ty các cấp chỉ huy địa phương, quân nhân từ cấp Tá trở lên, mọi người đều đi trình diện đông đủ. Sau đợt cấp Tá 1 tháng, tiếp theo sĩ quan cấp Úy, thời gian học tập là 10 ngày.

 

Thật là nhịp nhàng, hợp lý; Lính 3 ngày, Úy 10 ngày, Tá và Tướng 1 tháng. Thật là “nhân đạo đúng chính sách hòa hợp hòa giải, theo qui định của Hiệp Định Paris không trả thù”.

 

Người đi trình diện học tập ở các trường học, mang theo ít vật dụng tối cần thiết và số tiền ăn một tháng là 13 ngàn đồng. Mọi chi tiết đều thật hợp lý hợp tình. Có anh em sợ 13 ngàn không đủ vì theo vật giá hồi đó, nhưng theo thời buổi cách mạng ăn uống phải kham khổ. Vợ thương chồng bảo đem thêm tiền lỡ có cần chi thêm, chồng gạt đi, cần phải tiện tặn nuôi con, đã hơn một tháng không có lương.

 

Thông báo qui định ngày trình diện là 14-15-16 tháng 6. Tôi đã có ý định không đi trình diện nhưng tôi chưa nói ý định của tôi với gia đình.

 

Sáng dậy chuẩn bị áo quần, ít lương thực cần thiết chào cả nhà ra đi. Ba tôi tiễn tôi ra đến cửa - ông đứng không vững, phải tựa người vào cửa sắt. Vợ tôi đi theo tiễn ra đến địa điểm trình diện.

 

Lề đường Phan Thanh Giản hai bên trước trường Gia Long đều đông người, cả người đi trình diện lẫn thân nhân đi tiễn. Ai nấy đều không quan tâm tới nhau nên chỉ đưa tay chào lấy lệ. Khoảng 8 giờ một người bộ đội trong trường bước ra - bảo xuống địa điểm trường Trưng Vương. Địa điểm Trưng Vương đã làm việc khi tôi tới nơi. Người bộ đội đứng tuổi ngồi sau bàn đặt trên lề đường Nguyễn Bỉnh Khiêm phía sở thú. Tấm bảng đen để bên cạnh trên ghi các chi tiết ấn định thành phần đi học tập từ Phó Quận trưởng đến Tổng Thống, Ty trưởng đến Bộ trưởng, Dân biểu, Nghị sĩ các cấp. Vòng kẽm gai kéo giăng ngang đường qua đến bờ rào trụ sở Hội Đồng Bình Định Phát Triển Trung Ương cũ. Một người lính Việt Cộng trẻ cầm khẩu AK ngồi trên ghế đẩu nhìn bâng quơ, không dấu được vẻ lúng túng trước đám đông. Những người đi trình diện sắp hàng kéo dài đến cuối ngã ba Thống Nhất-Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuần tự từng người một, bước đến khai qua chức vụ để vào học tập. Thân nhân họ đứng hai bên đường. Kẻ tiễn người đi đều lo âu, họ nhìn nhau hơn là nói chuyện. Nhiều cặp vợ chồng trẻ quyến luyến tay trong tay đứng bên lề, người chồng chưa dứt khoát ngồi xếp vào hàng.

 

Tôi xách túi áo quần đến ngồi dựa vào gốc me ngay cổng vào Sở Thú, vợ tôi đứng liền bên cạnh. Trời tháng 6 Saigon vẫn âm u, hơn 9 giờ sáng hơi gió còn lành lạnh, tôi có cảm tưởng từ 30-4-1975 trời buồn không có hôm nào trong sáng.

 

Không khí yên lặng nên nghe rõ mồn một lời đối đáp tại bàn đăng ký vào trường.

 

- Anh làm chức vụ gì?

 

- Dạ tôi là Giám đốc.

 

- Đi vào.

 

- Anh làm gì?

 

- Dạ tôi là Dân biểu.

 

- Đi vào.

 

- Anh làm gì?

 

- Tôi là Tổng trưởng.

 

- Tổng trưởng là gì? Có như Chánh tổng không, anh không thuộc diện học tập.

 

Ngần ngừ một lúc, người trình diện như nhớ ra điều gì quan trọng.

 

- Dạ Tổng trưởng như là Bộ trưởng ạ.

 

- Như Bộ trưởng à, anh làm lớn thế, đi vào.

 

- Anh làm gì?

 

- Dạ Tổng thư ký.

 

- Tổng thư ký à, nhìn vào bảng thông cáo, Tổng thư ký không thuộc diện học tập - đi về.

 

- Dạ Tổng thư ký cũng là chức vụ chỉ huy ạ.

 

- Anh chỉ huy hả, anh chỉ huy bao nhiêu thư ký?

 

- Dạ ở Bộ tôi hơn 1.000 thư ký, tôi chỉ huy cả nhiều Giám đốc nữa.

 

- Vậy đi vào; lẩm bẩm sao Tổng thư ký không có trong thông cáo nhỉ?

 

- Anh làm gì?

 

- Dạ Chánh sự vụ.

 

- Chánh cái gì hả? Không thuộc diện học tập.

 

- Dạ trước kia tôi có làm Quận trưởng và Phó Tỉnh trưởng.

 

- Quận trưởng à, thì vào.

 

- Anh làm gì?

 

- Phó Thị trưởng.

 

- Phó Thị trưởng là gì? Không thuộc diện học tập.

 

Sợ mất cơ hội người trình diện nói nhanh:

 

- Dạ tôi cũng đã làm Phó Quận trưởng trước khi làm Phó Thị trưởng ạ.

 

- Phó Quận hả, vào.

 

Người được vào lách nhanh qua cửa, chân nhảy tung tăng cho kịp người đi trước và như sợ không được nhận vào học.

 

Một chiếc xe đậu lại bên lề trái đường Thống Nhất. Một người trung niên cao dong dỏng bước xuống xe, nhìn quanh thấy bạn, ông ta đưa cuốn sách trên tay nói lớn với bạn: “Bây giờ moa học món này là hợp thời”. Người bạn của ông bắt tay cười héo hắt, không vui. Tôi nhìn lại đó là ông Phạm Minh Dưỡng, Thứ trưởng Bộ Kinh Tế đặc trách Công Kỹ Nghệ và cuốn sách trong tay ông là cuốn chữ Hán, tôi đọc được là “Quốc Ngữ Hội Thoại”. Ông Dưỡng học tiếng Bắc Kinh, trước kia ông học ở Pháp, có vợ đầm, chắc Pháp và Anh Văn đã giỏi, và cũng đã qua rồi cái thời Pháp và Mỹ ảnh hưởng ở Việt Nam, bây giờ ông thấy học tiếng Bắc Kinh là hợp thời. Đúng là người trí thức biết lo xa. Thật chua xót, thân phận nước nhược tiểu, người trí thức thức thời là người biết nắm thời cơ, cơ hội tốt đẹp nhất là những đường dây ảnh hưởng của cường quốc. Đau thật.

 

Việc trình diện và nhận người tiếp tục:

 

- Anh làm gì?

 

- Dạ tôi Quốc vụ khanh.

 

- Quốc vụ khanh là gì?

 

- Dạ Quốc vụ khanh như là Tổng trưởng.

 

- Anh vào đi. Ngụy quyền các anh nhiều chức vụ rắc rối quá.

 

Tôi thấy ông Nguyễn Xuân Phong, Trưởng phái đoàn hòa đàm La Celle Saint Cloud, mới được bổ chức vụ Quốc vụ khanh trong chính phủ Nguyễn Bá Cẩn và mới được Tổng Thống Trần Văn Hương triệu hồi để tham khảo.

 

Tôi nói với vợ tôi: “Em trông ông Nguyễn Xuân Phong mới ở Paris về mà đi học tập, anh đâu có oan gì”. Vợ tôi không đáp lại câu nói của tôi. Tôi biết nàng đang buồn và thầm trách tôi không quyết định ra đi trước 30-4-1975. Từ khi tôi nói với nàng tôi học tập ít ra là 5 năm mới có thể về, 5 năm thời gian suy đoán tôi cho là lâu lắm và nghĩ có thể chịu đựng được. Vợ tôi nghe và khóc, từ đó nàng không nói gì. Tối hôm qua khi nói đến 5 năm, thằng con trai tôi 7 tuổi đã ôm chầm lấy tôi mà khóc: “Ba đi học tập 5 năm hả ba?” Tôi thấy ruột quặn đau ...

 

Một chiếc xe nhà đỗ lại, bốn năm người bước xuống, tôi nhìn ra là những Dân biểu có tiếng thuộc khối Độc Lập - những Dân biểu mà trước đây tôi rất tôn trọng; là nhân viên chính quyền nhưng tôi ghét các Dân biểu gia nô, biểu gì nghe nấy, biểu quyết lấy tiền; tôi thích những Dân biểu đối lập đúng đắn, vì có đối lập mới có dân chủ, nhưng phần lớn những người đối lập cũng không có tư cách gì hơn những gia nô, họ chống đối bừa bãi, cũng chỉ là gia nô cho một khuynh hướng chính trị khác, hoặc tôn giáo để mong kiếm phiếu bầu vào kỳ sau.

 

Nhưng bốn người Dân biểu đối lập trước mặt tôi là những người đối lập đúng đắn. Ông Tr. V. T. hướng dẫn bốn người đến bàn trình diện, ông nói:

 

- Chúng tôi là những Dân biểu đối lập chính quyền Thiệu, chúng tôi xin vào học tập trước.

 

Giọng nói người sĩ quan Việt Cộng rất rõ:

 

- Anh đối lập hả, miền Nam không thằng nào đối lập với thằng Thiệu bằng thằng Kỳ, mà thằng Kỳ đâu có yêu nước. Các anh tranh quyền với nhau, heo trắng, heo đen cũng là heo thôi.

 

Tôi nghe lùng bùng lỗ tai, tôi như chợt nóng lên rồi lạnh đi vì xấu hổ. Vừa buồn cho những người mình kính trọng mà có lời nói hớ hênh để thằng Việt Cộng mất dạy nó xỉ vả.

 

Một toán người đi bộ thành hàng từ hướng Thống Nhất đi lại. Tôi nhìn ra vài người bạn làm Bộ Xã Hội cũ.

 

- Chúng tôi là nhân viên Bộ Xã Hội, có giấy của bà Bộ trưởng Dương Quỳnh Hoa giới thiệu xin vào học tập trước.

 

Người bộ đội nhận giấy kiểm điểm nhân số và mọi người tuần tự đi vào.

 

Tôi buột miệng:

 

- Đ.M. đi tù mà cũng tranh giành, xin xỏ, ưu tiên.

 

Anh bạn ngồi trong hàng ngước lên nhìn tôi không nói. Tôi ngượng vì tính nóng và lời chửi tục của mình.

 

Mọi người tiếp tục đi vào. Mặt trời đã ngang đỉnh đầu, tôi thấy buồn ngủ, dặn vợ tôi trông túi, tôi ngủ một tí. Tôi kéo sập chiếc nón trên đầu xuống thấp để che ánh sáng, dựa lưng vào gốc me nhắm mắt ngủ. Trước khi tôi ngủ, tôi chợt ao ước tất cả chỉ là giấc mộng, giấc mộng Nam Kha. Đúng, tôi cũng làm việc đúng 10 năm như thời gian của điển tích, tại sao đây không phải là giấc mộng, ngủ dậy thấy mình vẫn là học sinh thời trung học, khoảng thời gian vui sướng nhất trong đời tôi là thời gian tôi học trung học ở trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng.

 

Tôi tỉnh giấc khoảng sau 15 phút ngủ. Tất cả là thực, không phải là mộng. Nhìn lại Ngô Đình Nhung và Phạm Bá Thắng, hai người bạn cũ đã vào trong trường Trưng Vương. Tôi đứng lên nói với vợ tôi đi về. Vợ tôi trố mắt ngạc nhiên nhưng không nói gì.

 

Đi bộ ra ngã tư Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hùng Vương, tôi dặn vợ tôi về nhà như là tôi đã đi học tập rồi - nói với ba tôi biết là tôi không đi. Tôi dặn nàng ngày mai lên nhà người em họ tôi khu Trương Minh Giảng để tôi sắp xếp việc nhà.

 

Tổ chức học tập xem như hợp lý, thời gian 3 ngày, 10 ngày, 30 ngày tùy theo cấp bậc, thực ra cũng là chỉ đánh lừa được một số người. Trong tình trạng hoang mang nửa tin nửa ngờ, người ta thường sợ những bất hạnh không dám nghĩ tới, cố tin vào những giải pháp ít xấu hơn cho mình. Sự việc Việt Cộng di chuyển ngay những người trình diện ra khỏi các trường học làm cho gia đình có thân nhân rúng động, người ta cũng đoán được là phải đi cải tạo lâu dài. Những người ở miền Bắc vào đã cho thân nhân của họ biết là sĩ quan từ cấp Tá trở lên khó hy vọng ngày về.

 

Nhưng rồi thông cáo 10 ngày học tập các sĩ quan cấp Úy cũng đi trình diện, dù không tin, mọi người không biết mình làm gì khác lúc đó.

 

Sau khi đã tập trung các cấp chỉ huy của chính quyền và quân đội, các ban tiếp quản các bộ phủ tổ chức học tập ngắn ngày cho tất cả nhân viên cấp dưới.

 

Sau nhiều lần bác khước, tôi cũng được nhận vào lớp học tập ở Bộ Nội Vụ nhờ chứng minh cái nghị định cuối cùng bổ nhiệm tôi là chuyên viên đặc nhiệm, tức là không có chỉ huy ai. Tôi phải có một cái giấy chứng nhận học tập cải tạo để có thể thay đổi chỗ ở và đi lại, vì tất cả giấy tờ của tôi đều bị thu giữ sau khi trình diện lần đầu tiên ngày 4-5-1975.

 

Đề tài vẫn là “Đế Quốc Mỹ và bè lũ tay sai gồm bọn tư sản mại bản, bọn phong kiến áp bức, bọn quan liêu quân phiệt là kẻ thù của dân tộc ta”.

 

Thuyết trình viên là bộ đội người miền Nam tập kết, trạc 50 tuổi, hắn giới thiệu cấp bậc Thượng tá, thành viên phái đoàn quân sự của Mặt Trận Giải Phóng trong ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên ở Camp Davis.

 

Trước khi vào bàn, hắn dài dòng về những phiên họp mà hắn có dự tại trại Davis, lời lẽ, điệu bộ, vẻ mặt hiu hiu biểu lộ sự đắc chí tự hào. Nội dung đề tài viết sẵn không thay đổi, cũng đầy các khẩu hiệu thời đại Hồ Chí Minh anh hùng, đỉnh cao trí tuệ loài người, cái nôi văn minh nhân loại... Chỉ có thêm là hắn kể một anh dân Cuba nào đó ước mơ ngủ dậy trở thành người Việt Nam. Rồi đến màn khóc “Bác Hồ”, hắn khóc tức tưởi, sụt sịt cả nước mắt lẫn nước mũi. Người nghe hơn một lần nhìn thấy cảnh đó nên không ai xúc động.

 

Khóc xong hắn kể lại hôm ướp xác “Bác Hồ”. Hắn nói: “Trong hội trường Ba Đình nơi quàn xác Bác ai cũng khóc, đồng chí Lê Duẩn khóc, đồng chí Trường Chinh khóc, đồng chí Phạm Văn Đồng khóc... tất cả các đồng chí lãnh đạo đều khóc, chúng tôi đại diện các đơn vị về dự đám táng ai cũng khóc. Bên ngoài dân chúng Hà Nội và các tỉnh đứng dài đến 3km5, tất cả đều khóc. Thủ tục ướp xác phải mổ bụng Bác, mà không ai làm được, các bác sĩ khi cầm dao mổ thì khóc rất lâu rồi xin chịu tội, thà nhận khuyết điểm chứ không ai nỡ cầm dao đâm vào thi thể Bác. Đồng chí Lê Duẩn phải động viên từng đồng chí bác sĩ, nói đó là nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó, nhưng các bác sĩ đều khóc và không làm được. Mãi đến đồng chí bác sĩ thứ 139 mới lấy hết can đảm đâm một dao vào bụng Bác, lưỡi dao mổ vừa xuyên qua bụng thì đồng chí bác sĩ đó ngất xỉu luôn vì xúc động và cảm thấy mình có tội với Bác...”. Kể xong hắn khóc một hồi nữa mới vào đề tài.

Hai ngày sau khi thảo luận từng nhóm, sau đó mỗi học viên phải trình bày tội lỗi của mình cũng như tố cáo tội ác của Mỹ và bè lũ tay sai, ngày thứ ba viết lý lịch, kiểm điểm nhận tội với nhân dân và cách mạng.

 

Tự nhận đứng trong hàng ngũ “ngụy quyền” làm việc tích cực là có lỗi với cách mạng và nhân dân, phát biểu xong tôi cảm thấy quá xấu hổ, nhưng không làm gì khác hơn được.

 

Nhận tờ giấy chứng nhận cải tạo ba ngày tạm thời yên thân lo chuyển chỗ ở. Qua mười ngày học tập sĩ quan cấp Úy không ai về, mà gia đình không biết thân nhân bị giam ở đâu. Saigon như phủ khăn tang, không những gia đình có người đi cải tạo buồn mà người dân bình thường không can hệ đến chính quyền cũ cũng buồn. Các chị có chồng đi học tập kéo nhau đến các trường để nghe ngóng, trường sở vắng tanh, chỉ một người bộ đội lăm lăm khẩu AK sau vòng kẽm gai. Đâu đâu cũng nghe bàn tán xù xì với nhau - kẻ nói đưa tù đi Côn Sơn, người nói đưa ra Hà Nội, rừng Trường Sơn, tất cả chỉ là đoán mò vì trong tháng đầu chưa có ai nhận được thư của thân nhân gởi về. Các chị hẹn nhau ở chợ Bến Thành kéo đi biểu tình đòi thân nhân, các chị kéo đến Ủy Ban Quân Quản đóng ở Tòa Đô Chính cũ, mới ra khỏi chợ tới trước rạp Vĩnh Lợi đã bị xe xịt nước giải tán, mấy chị dẫn đầu bị bắt lên xe công an đưa đi mất dạng.

 

Ngày 20 tháng 7 năm 1975, giáo dân Bùi Phát kéo ra đường biểu tình đòi thi hành Hiệp Định Paris bị đàn áp bằng B.40, nhiều người bị bắn chết. Mặt nổi dân Saigon chỉ nhóm lên những phản ứng như vậy rồi tắt, nhưng bên trong âm thầm nhiều hình thức chống đối bắt đầu hình thành. Tiêu cực là những tin đồn đãi, sấm ký; tích cực bằng hình thức ám sát cán bộ, bộ đội lẻ tẻ. Khởi đầu những trường hợp bắt bớ, nhiều nhà tù mới dựng lên vì các trại giam cũ không còn chỗ nhốt người.

 

Mẹ Việt Nam suốt đời thương xót mong ngóng những đứa con đi xa - Cụ Lợi là người Huế, đã ngoài 80 tuổi, trước năm 1975 cụ sống với gia đình người con trai là Đại-tá Biệt Động Quân với những cháu nội cũng là những sĩ quan cấp Úy, ngưòi con cả của cụ là một giám đốc cảnh sát. Ai cũng bảo cụ sướng, con cháu thàng công hạnh phúc một nhà, nhưng cụ vẫn buồn, vẫn như ngóng trông một hình ảnh nào đó, càng về già cái chết gần kề, cụ càng buồn. Ngày “giải phóng” cụ lanh lợi hoạt bát trở lại, cụ ra vào ngóng trông, cái ngóng trông bồn chồn, không như sự mong ngóng bâng quơ như trước. Rồi mọi người trong cư xá mới biết nguyên do, hai người con trai của cụ từ miền Bắc vào tiếp thu Saigon, một người là Cục Trưởng, một người là Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn. Ai cũng bảo cụ Lợi có phước, thời buổi nào cũng có con làm lớn trong chánh quyền.

 

Nỗi vui không bao lâu thì cụ buồn trở lại, lần này cụ buồn rũ rượi, hai con và ba đứa cháu của cụ đi trình diện học tập, cụ nghe nói họ đi 10 ngày hoặc một tháng sẽ trở về, một tháng trôi qua, con cháu cả thẩy 5 người không ai về. Không phải lần đầu xa con nhưng lần này cụ linh cảm điều gì hay là cụ nghĩ cụ đã quá già già, e rằng ngày nằm xuống không đủ mặt con cháu.

 

Cụ nhắc nhở hai người con cách mạng làm bảo lãnh cho anh cho cháu, con trai cụ cứ ậm ờ hứa hẹn.

 

Qua một tháng theo thông cáo, con cháu cụ không ai về, cụ vừa buồn vừa tức, thời buổi chi con người gian dối, làm vua làm quan cha mẹ dân, cần phải giữ chữ tín để dân tin cậy, đằng này chỉ lừa gạt. Đời cụ hơn 80 tuổi, đã sống trải qua nhiều thời kỳ đổi thay của lịch sử cũng như trong gia đình cụ. Cụ Lợi ông trước làm đến lãnh binh, cụ ông mất sớm để lại cho cụ 4 người con trai lúc cụ chưa đến 30 tuổi. Một bàn tay tảo tần với vài mẫu ruộng Vua ban và một cái vườn trồng cây ăn trái trong nội thành Huế, cụ đã ở vậy nuôi con - đứa nào cũng thành danh, nói không phụ, một phần nhờ người con cả đã sớm thi đậu đi làm để phụ giúp cụ nuôi dạy các em . Cụ không được đi học nhưng cụ dạy các con những điều cụ đã được dạy: Trung hiếu, tiết, nghĩa, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, những điều gia giáo cụ nhớ đến đâu nói đến đó để rèn dạy các con.

 

Gặp người con Thiếu tướng về thăm, cụ hỏi: “Sao con không lãnh hai anh con về để mẹ trông, không biết mẹ chết hôm mai thế nào đây, thời gian hứa hẹn một tháng qua rồi, chính quyền gì mà lạ, cái chính quyền mà dối dân e không có bền đâu”.

 

Dường như mỗi lần bị mẹ hối thúc là người con thiếu tướng bực mình, hôm nay mẹ lại nói cá lời có vẻ “phản động”, anh Thiếu tướng tức giận nói:

 

 - Hai anh và tụi nhỏ đều có nợ máu, họ phải học tập lâu dài cho hết tội rồi mới lãnh được.

 

Cụ Lợi nghe nói nợ máu nợ mủ, cụ hơi giận nói:

 

 - Anh nói gì nợ máu, chúng nó đi lính thì phải đánh nhau, như anh phải đánh nhau mới lên quan lên tướng - chúng nó có giết người cướp của đâu mà anh nói nợ máu.

 

- Nợ máu với nhân dân, với cách mạng, mẹ có biết là vì quan hệ với tụi ác ôn đó mà tôi chậm vào đảng, chậm thăng chức hay không?

 

- À thì ra anh sợ mất công danh, ai nợ máu với ác ôn, không có nợ máu ác ôn ai giúp tôi nuôi anh ăn học.

 

- Mẹ đẻ tôi ra, mẹ phải nuôi, mà mẹ có muốn đẻ tôi ra đâu, cha mẹ hưởng khoái lạc rồi đẻ ra tôi ra, cha mẹ có ý thức đẻ tôi ra đâu.

 

- Thôi anh đi đi, anh đi khuất mắt tôi, tôi tưởng người không học mới ăn nói như anh, ai ngờ anh nói thế.

 

- Bà đuổi tôi, bà có chết tôi cũng không về đâu, tôi không khóc đâu.

 

Lúc đó người con cục trưởng mới nói vào:

 

- Sao chú nói thế, rồi thì mẹ sẽ hiểu, học tập cải tạo lâu dài anh em mình không bảo lãnh được, Sao chú nói mẹ chết chú không khóc. Hồi Bác Hồ chết, chú khóc những bảy ngày, nhiều nhất đơn vị, ai cũng khen chú có hiếu với Bác, từ đó đường công danh của chú rộng mở hơn.

 

- Thì anh cũng khóc đến năm ngày.

 

Người con Thiếu tướng trả lời.

 

Cụ Lợi không nghe hai người con đối đáp, vì tai cụ ù lên, mắt cụ nhòa - nhưng hàng xóm nghe thấy hết cuộc cãi nhau của mẹ con cụ - người trong cư xá mới biết đượn thêm là ở ngoài Bắc khóc Bác Hồ là để thăng quan.

 

Cụ Lợi nằm bệnh chỉ nửa tháng qua đời, cuộc đời cụ lúc nào cũng trông ngóng những đứa con ở xa, cụ trông con suốt cả đời, nhưng lần này cụ Lợi ngã gục hẳn vì cụ quá già, quá mỏi mòn không còn đủ sức để chờ những đứa con cải tạo trở về.

 

Hôm đám cụ, bà con lối xóm đi thật đông, không có người con mang quân hàm Thiếu tướng Việt Cộng, lần này anh giữ đúng lời hứa, mẹ chết anh không về khóc.

 



 


Chương Bốn

 

Có giấy chứng nhận học tập ba ngày, tôi cần phải tránh xa Saigon một thời gian, nhất là tránh sự truy tìm của Công An Liên Khu 5 vào Sài Gòn bắt những người thuộc đảng phái chính trị và nhân viên chính quyền cũ. Toán Công An Liên Khu 5 đóng ở nhà số 101 đường Trần Quốc Toản (tức Nguyễn Đình Chiểu cũ). Chúng đã bắt rất nhiều người, có người chúng nhốt vào con-nết, chở về tới Đà Nẵng thì ngất xỉu.

 

Tôi lên vùng Đức Lập tỉnh Quảng Đức, nơi đó một người bạn tôi có ông bố là dân Pháp làm quản lý cho một đồn điền cà phê. Ở Đức Lập tôi còn mục đích dò đường để nếu có thể sẽ vượt biên giới bằng đường bộ qua Thái Lan. 

 

Tôi cố thích nghi hoàn cảnh để làm quen với lao động chân tay và cũng để làm quen với dân chúng quanh vùng. Tình hình dân chúng rất thuận lợi, vì dọc theo quốc lộ 13, từ Đức Lập đi Ban Mê Thuột hầu hết là dân Thiên Chúa Giáo di cư. Đồng bào cho biết dọc biên giới quân đội Bắc Việt đóng dày đặc, 5 sư đoàn quân Bắc Việt được đóng trên vùng cao nguyên, từ Kontum đến Quảng Đức, chúng đóng cả hai biên giới Việt Lào và Việt Miên. Chúng lập ra nông trường sản xuất. Nhiều toán vượt biên bằng đường bộ bị bắt, từ đó ở những tỉnh cao nguyên, công an Cộng Sản thường kiểm soát khách sạn, nhà ngủ đỡ ở bến xe, dân Saigon lên là chúng bắt nếu không chứng minh được việc đi lại có lý do chính đáng. Người nào có mang những loại thực phẩm như cơm xấy, lương khô Trung Quốc, thuốc ngừa rét, bản đồ, địa bàn là đủ chứng cớ để kết tội vượt biên. Chỉ ở được non một tháng, chúng tôi phải quay về Saigon. Đồn điền cà phê bị quốc hữu hóa, tôi bị công an xã gọi làm lý lịch, chúng nghi là sĩ quan trốn học tập cải tạo, giấy học tập 3 ngày không đủ sức thuyết phục bọn chúng tin là tôi học tập đủ.

 

Về Sài Gòn tôi tìm đường xuống miền Tây. Người quen giới thiệu cho tôi đi thẳng về vùng đất của Việt Cộng cũ, xã Minh Long, Chương Thiện. Minh Long nằm ở địa đầu U Minh Thượng, cửa ngõ ra cánh đồng Phong Dinh Rạch Giá. Vùng này trước đây, quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng ít khi hành quân tới, dân chúng là dân bám trụ sống lam lũ tay súng tay cày. Sau 1975, họ là kẻ chiến thắng, ai nấy đều lo xây dựng lại nhà cửa, mở thêm ruộng rẫy. Ngoài lúa, họ lập rẫy trồng dứa và khoai, chỉ mấy tháng sinh hoạt đã ổn định. Rời thôn quê lúc 8 tuổi ra thành phố, nhưng cốt cách nông dân vẫn còn tiềm ẩn trong tôi, không mấy chốc tôi đã làm các công việc khơi mương đắp bờ với cây cuốc rất thành thạo, trừ cái dáng dấp thành thị chưa xóa đi được nên đồng bào ai cũng gọi tôi là ông thầy giáo.

 

Ruộng bỏ hoang lâu ngày nên đóng nhiều phèn và đỉa lềnh mặt nước, đặt chân xuống nước một chốc là đỉa bám lại đầy chân trông thật ghê. Nông thôn miền Tây buồn đơn điệu, ruộng và kinh rạch nối tiếp nhau. Nông dân hăng say làm việc ngày đêm, len kinh tháo nước giải phèn, phát cỏ, đắp bờ làm rẫy. Cá, rùa, rắn ngày nào cũng bắt được thật nhiều, ăn không hết. Cuối năm 1975, mùa lúa đầu tiên đầy hứa hẹn, những cánh đồng lúa vàng, nặng trĩu nhánh bông. Dân Minh Long chuẩn bị ăn Tết hòa bình đầu tiên thật lớn.

 

Biến cố bất ngờ là mọi sinh hoạt chậm lại, đi đâu đâu cũng nghe người ta bàn tán rồi chửi thề bất mãn - xã Minh Long phổ biến chánh sách nông nghiệp, khởi đầu là mọi gia đình phải kê khai nhân khẩu, phân biệt tuổi tác rõ ràng và kê khai diện tích canh tác.

 

Bà con nông dân kéo đến hỏi mục đích kê khai, mấy chục năm họ đánh giặc giữ đất, nay giặc hết, đất yên, nông dân ra sức cày cấy làm ăn, làm gì phải khai báo, Xã giải thích đó là lệnh từ trên huyện, bà con đốc thúc Chủ Tịch Xã là Sáu Lự đưa họ lên huyện, Sáu Lự cũng kêu trời, anh ta cũng là một nông dân sở tại, làm Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Xã, nhưng gia đình anh cũng canh tác nhiều mẫu ruộng. Anh cũng không hiểu chính sách của nhà nước cách mạng.

 

Rồi các chỉ thị tiếp theo giải thích rõ thuế nông nghiệp và chánh sách thu mua, lúa thu hoạch xong phải đóng 70% vào thuế nông nghiệp nhà nước, phần còn lại thì trừ vào phần ăn của gia đình tính theo tiêu chuẩn người lớn mỗi tháng 15kg gạo, trẻ con 10kg, số còn lại nông dân phải bán cho cán bộ thu mua.

 

Cán bộ nông nghiệp về xã giải thích về chính sách thuế khóa, vì đất nước còn nghèo, trước kia miền Bắc phải cắn hạt gạo làm tư để tiếp tế cho chiến trường miền Nam, nay hòa bình nhân dân miền Nam phải đóng thuế để giúp miền Bắc xây dựng - ngoài ra còn phải trả nợ cho Trung Quốc, vì theo lời Bác Hồ dạy, dân Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Trung Quốc có đề nghị tiếp viện người, nhưng bác Hồ không vay sức người vì nợ máu xương trả không được, nợ vật chất người Việt Nam trả nổi.

 

Cán bộ có tốn lời giải thích cách gì cũng không được nông dân thuận lòng. Những người nông dân trước kia đội gạo nuôi cách mạng “kháng chiến đánh Mỹ, đánh ngụy” - giờ đây đất nước thanh bình, họ phải làm chủ ruộng vườn, giản dị như vậy thôi. Có người bắt đầu so sánh, trước kia vào thời Mỹ-Diệm, quân cách mạng chưa mạnh, Mỹ-Diệm cũng chỉ thu thuế mỗi mẫu ruộng, mỗi năm ba giạ lúa - sao bây giờ cách mạng lại thu đến 70% . Có những cuộc cãi vã đôi co giữa đám cán bộ và nông dân.

 

Tôi nghĩ đến cái sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, khi người nông dân họ nghĩ kháng chiến là chống lại quân ngoại xâm, họ ủng hộ hết mình, nhưng cũng chính những người đó khi họ thấy chính quyền thi hành chính sách thuế khóa nông nghiệp quá cao là họ chống đối . Họ cho rằng chính họ là người nuôi cách mạng kháng chiến đến chiến thắng mà bây giờ họ là người bị phản bội trước tiên. Kết quả chánh sách thuế nông nghiệp năm đó thất bại, người nông dân chỉ gặt một số thóc lúa đủ chi dụng trong gia đình, còn bao nhiêu họ bỏ ngoài đồng, nhà nước muốn gặt thì cứ gặt hái lấy.

 

Tình trạng bỏ lúa ngoài đồng xảy ra cho khắp các tỉnh miền Tây năm đó. Mà không riêng gì lúa, các nông sản khác cũng tương tự như vậy.

 

Xã không có thầy dạy trẻ. Sáu Lự đề nghị tôi giúp xã dạy học, tôi bằng lòng, dù tôi không muốn làm gì cho chính quyền mới, nhưng việc dạy học cho hàng chục đứa trẻ từ 7, 8 tuổi đến 14, 15 tuổi bị mù chữ là điều không thể thoái thác.

 

Những đứa trẻ 14, 15 tuổi được huấn luyện sử dụng súng ống, lựu đạn mà không em nào biết đọc, biết viết.

 

Tôi thấy thương hại chúng nó, người ta đã nhân danh cách mạng, nhân danh giải phóng để đẩy trẻ em ra chiến trường, bị thương, cụt chân tay, bị thương khi tham dự chiến đấu cũng có, bị thương khi huấn luyện cũng có. Tuổi thơ bị cướp mất không được đền bù.

 

Có thể các em không ý thức được nỗi bất hạnh đó nên chúng vẫn có hạnh phúc, hạnh phúc hiện ra trong đôi mắt trong sáng vui tươi của các em, nhưng tôi là người bên ngoài, tôi có điều kiện để so sánh. Tôi vẫn thấy thương các em, dù tôi đang là kẻ chiến bại, đang trốn lánh và các em là kẻ chiến thắng.

 

Sáu Lự, Chủ tịch UBND xã, người tính bộc trực chất phác, hắn hăng hái trong việc tổ chức lớp học. Hắn đi du kích từ năm 13 tuổi, năm nay gần 30, thuở nhỏ ao ước được đến trường, nhưng không bao giờ thực hiện được giấc mơ bình thường đó. Đến nay hắn muốn cho con hắn và những đứa trẻ trong xã được đi học. Tôi hứa với hắn là tôi sẽ cố gắng dạy cho các em biết đọc, biết viết hoặc cho đến khi nào xã có giáo viên chính.

 

Với sự giúp đỡ của Sáu Lự, tôi cố hoàn thành được một căn phòng lợp lá dừa, 4mx6m thành một phòng học, bàn ghế thì làm bằng tre ghép lại, chỉ có tấm bảng đen là xã phải cử người lên tận huyện mới mua được.

 

Cuộc đời không trôi chảy, cuối năm 1975, huyện cử người làm Bí thư xã, Sáu Lự chỉ được làm Xã đội trưởng du kích.

 

Ba Trà, Bí thư xã là cán bộ tập kết, sắp về hưu, y muốn về Minh Long lập vườn rẫy chuẩn bị tuổi già. Y là cán bộ biết tổ chức, y củng cố lại xã với sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, Ban Bí Thư, Ủy ban Hành Chánh, các Ủy viên, hầu hết đều là người ở huyện cử xuống, không như thời kỳ Sáu Lự, tất cả làm việc thân mật có tính cách gia đình.

 

Năm Hùng là Trưởng ban Giáo Dục mời tôi lên xã, y hạch hỏi lý lịch xong, hỏi tôi giấy bổ nhiệm làm giáo viên. Tôi trả lời đây chỉ là lớp học tạm tổ chức, Sáu Lự nhờ tôi dạy tạm chờ đến khi xã có trường và giáo viên.

 

Năm Hùng nhìn tôi thẩm định, khi tôi trả lời xong hắn không nói gì về việc giáo dục mà bất ngờ hỏi tôi: “Anh chắc là sĩ quan ngụy, sao anh không đi học tập cải tạo?”.

 

 Tôi đưa giấy chứng nhận học tập cải tạo ba ngày, trong đó ghi “chuyên viên Bộ Nội Vụ”, hắn hỏi tôi chuyên viên là gì, tôi đáp là người lo các công việc hành chánh giấy tờ mà không có chỉ huy người khác. Tôi trả lời qua quít cho xong, nhưng hắn tiếp tục hỏi tôi giấy hoãn dịch. Thằng này chắc là cán bộ nằm vùng nên rất rành.

 

Vài ngày sau tôi bị mời lên gặp Ba Trà, hắn đưa giấy để tôi viết lý lịch. Hắn giải thích để công an xác nhận rồi bổ nhiệm tôi làm giáo viên chính thức.

 

Viết xong lý lịch tôi suy nghĩ chắc ở không xong. Bọn chúng đã nghi ngờ, thế nào cũng bị mời đến công an. Tôi nhờ Sáu Lự đưa tôi đến bến xe, ra Rạch Giá để về Saigon.

 

Trên đường về, những đồng lúa chín vàng bị bỏ rục ngoài đồng, tôi vừa tiếc vừa thấy khoan khoái, không có cảm giác ghen tị như ngày mới đến, ngược lại thấy nó gần gũi thân thương lạ lùng, một hy vọng nhen nhúm trong tôi khi nhìn thấy cái căn nguyên sự sụp đỗ của địch, khi những đám lúa vàng này và những nông dân chất phác mộc mạc không đứng về phía Cộng Sản nữa.

 

Gần Tết Bính Thìn, Saigon bỗng dưng rét ngọt ngào, buổi sáng muốn ra đường phải mặc áo ấm. Những gia đình có chồng con đi cải tạo buồn thê thiết, vừa thấy trống vắng, nhớ nhung, tủi thương, vừa hờn giận, nhiều người trách than cha, chồng mình không di tản. Những gia đình có thân nhân di tản đã gửi thư, đã đánh điện về, họ đã định cư ổn định ở Mỹ, Úc, Gia Nã Đại và hứa hẹn ngày đoàn tụ - xa xăm cách trở đại dương mà còn hy vọng ngày gặp mặt. Trong khi những người ở lại muốn gần gũi gia đình, muốn được chết cùng gia đình, để chia xẻ vui buồn khổ nhục với thân nhân, thì một lần ra đi hầu như biền biệt. Chưa ai nhận được thư từ của người cải tạo, vợ vừa thương vừa giận chồng, con trách móc cha. Trách rồi càng thương hơn. Saigon rét ngọt ngào như thế này thì ở rừng sâu núi thẳm, nơi xó xỉnh nào đó của trại tù, không biết người đi học tập làm sao chịu nổi. Có người ra đi chỉ mang theo vài bộ quần áo mỏng manh, đi vào mùa Hè có ai nghĩ xa để phải mang theo áo lạnh, người ta nghe đồn học ở thành Ông Năm Hốc Môn, ở Long Giao, ở Katum, Trảng Lớn. Những người vợ cải tạo rủ nhau bỏ cả những buổi chợ trời kiếm cơm độ nhật để đi tìm, nhưng đến những địa điểm chỉ đứng ngoài nhìn vào, bên trong những căn cứ quân sự cũ im lặng như tờ, chỉ có nhiều vòng rào kẽm gai được kéo thêm và những người lính Việt Cộng cầm AK mặt lạnh lùng. Họ như câm, không người nào trả lời câu hỏi, chỉ lấy mũi súng xua đuổi người tới gần.

 

Saigon với nhiều tin đồn đãi. Tin đồn, một hình thức phát tin, nửa hư nửa thực khi có khi không, người phát tin không có trách nhiệm về mức độ chính xác . Tin đồn phát xuất từ chợ trời, Saigon có nhiều chợ trời, nhưng phong phú nhất vẫn là chợ trời Trương Minh Giảng và chợ trời Hàm Nghi.

 

Tin đồn có nhiều loại, có tính cách thần kỳ như mặt trời xoay với đám mây ngũ sắc chung quanh, giây bí hóa rồng ở Bà Quẹo, trăn lấy vợ ở Long An, heo nói tiếng người ở Thị Nghè, có tin tức về quân sự như quân đội VNCH đã chiếm lại Ban Mê Thuột, chiếm Hà Tiên, giật cầu Nha Trang, đổ bộ Bình Tuy, chiếm Trảng Bom, núi Bà Đen, mật khu Hắc Dịch, mật khu Lòng Tàu với những tên tuổi cũ như Thống tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng Bùi Thế Lân, Tướng Mã Sanh Nhơn, Tướng Lưu Yểm. (các Đại tá đều được lên Tướng.)

 

Tin Bộ trưởng Ngoại Giao Trần Văn Lắm và Tướng Lê Nguyên Khang về Camp David ở Tân Sơn Nhất họp với Việt Cộng để bàn chuyện quân Bắc Việt rút lui trả miền Nam lại. Người đưa tin quả quyết là chính mắt anh ta thấy tướng Lê Nguyên Khang ngồi trên xe chạy từ Tân Sơn Nhất qua đường Công Lý (nay đổi là Nam Kỳ Khởi Nghĩa), khi qua đám đông, Tướng Khang đưa chiếc cặp vẽ hình cờ Việt Nam Cộng Hòa. Nhiều người đạp xe lên Tân Sơn Nhất xem. Dĩ nhiên không thấy gì khác ngoài quang cảnh buồn hiu hắt của một phi cảng trước kia nhộn nhịp phi cơ đủ loại lên xuống, lúc này chỉ thỉnh thoảng mới có một chiếc từ ngoài Bắc đưa quan chức cao cấp vào, phi đạo đã thu bớt lại vì nhiều nơi đơn vị bộ đội trú đóng đã đào nền bê tông lên để trồng thêm khoai mì. Cái tinh thần tự túc chiến đấu của người bộ đội trong rừng Trường Sơn, mỗi khi dừng quân tại đám rừng khoai mì, nhổ củ nấu ăn rồi cắm cây xuống để trồng lại, hoặc có rãnh thì trồng thêm - kho lương thực vô tận của quân đội Bắc Việt trong chiến tranh, người Mỹ và Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng Hòa không ước tính được, trước đây người ta không hiểu sao mức dội bom khủng khiếp trên các tuyến đường xuyên Trường Sơn, quân Bắc Việt xâm nhập vẫn có đủ tiếp vận. Thực tế họ chỉ tiếp tế súng ống, đạn dược, nhiên liệu tối thiểu để chạy xe, một phần lương thực, còn nguồn cung cấp lương thực chính họ lấy tại miền Nam qua hệ thống kinh tài và những cánh đồng khoai mì bạt ngàn dọc đường chuyển quân. Nay tinh thần tự túc đó đang được áp dụng tại thành phố, các doanh trại, phi trường, đất trống quanh các công thự, nhà ở đều được xới lên trồng khoai mì. Việc đất nước quan trọng biến thành việc bếp núc vụn vặt và trở thành một sự phá hoại tài sản quốc gia. Cái lợi nhỏ nhoi mà cái hại thì quá lớn. Đó là một trong những dấu hiệu đầu tiên cho những người có quan tâm đến đất nước nhìn thấy được nguồn gốc sự thất bại trong việc quản lý kinh tế và xã hội của chính quyền Cộng Sản.

 

Những tin đồn cứ mãi loan đi làm cho mọi người vừa hoang mang vừa ấp ủ hy vọng. Ngủ, sáng thức dậy thì có tin mới, người đưa tin bao giờ cũng nói thêm là chính họ nghe từ đài BBC. Người ta không tin tưởng chính quyền Cộng Sản, nên tin gì ngược lại quyền lợi chính quyền được chấp nhận một cách dễ dàng. Người ta bắt đầu loan tin những trận đánh tưởng tượng từ những vùng xa, mỗi nơi đều tưởng tượng ra những mật khu, những trận địa do các Tướng lãnh chỉ huy hoặc các Đại tá bây giờ được nâng lên hàng Tướng lãnh, dù những ông Tướng, ông Đại tá ấy đã khăn gói, chen lấn giành nhau đi trình diện và đang nằm gậm nhấm nỗi buồn của kẻ mất nước tan nhà trong trại tù.

 

Người ta nói cho nhau những tin tức thật là vô lý đến trẻ con cũng không tin được. Hầu như mọi người ít còn sáng suốt, lười biếng suy nghĩ. Người ta nói với nhau rằng Mỹ sẽ thả một loại bom và tất cả Việt Cộng đều bị mê, còn người không Cộng Sản vẫn tỉnh, sau khi đó, cứ việc bắt những đứa ngủ mê trói lại là xong hết.

 

Những loại tuyên truyền như vậy, khởi đầu nó có thể có một kết quả làm cho người dân đã chán ghét chế độ không tin vào chế độ và mong muốn nó mau sụp đổ, nhưng không có hành động gì cụ thể tiếp theo thì trở thành vô ích, chỉ tổ làm cho cho đầu óc con người mơ tưởng viễn vông, lười suy nghĩ phân tích, chỉ giết chết thì giờ và ý chí bằng sự chờ đợi vô vọng.

 

Trước đây, Việt Cộng dùng những tuyên truyền như vậy để gây hoang mang trong dân chúng, phá hoại sự tin tưởng vốn đã mỏng manh của dân chúng vào chính thể Cộng Hòa. Việt Cộng làm có nhiều kết quả, vì đi theo sự tuyên truyền đó, có những vận động tranh đấu chính trị ở trong các thành phố và mặt trận quân sự ngoài chiến trường. Chính quyền Việt Cộng lúc mới chiếm miền Nam tổ chức rất chặt chẽ, cán bộ còn trung thành với đảng, việc tung tin như vậy trở thành vô ích vì sau đó không có hành động gì tiếp theo, ngoài ra nó còn có hại vì người dân lúc đầu thì họ dễ tin, nhưng cứ nghe mãi thật nhàm chán, sau đó nếu ai muốn gây dựng một lực lượng đối kháng, tổ chức tuyên truyền cũng trở thành trò đùa bỡn. Những vấn đề chính trị quan trọng cũng bị thành trò diễu cợt thì dân sẽ có thái độ phi chính trị rất tai hại cho tương lai tổ chức lực lượng chống Cộng Sản xây dựng lại đất nước.

 

Tháng 10-1975, có quyết định đổi tiền. Dân miền Nam không ngạc nhiên. Ai cũng biết một chế độ mới không ai sử dụng hệ thống tiền bạc chế độ cũ; nhưng người ta không biết sẽ đổi như thế nào. Rồi người ta cũng ước đoán và truyền nhau những ước đoán của mình:

 

- Có thể cách mạng sẽ bỏ không dùng tiền bạc như kiểu chính quyền Kampuchia.

- Có thể sẽ bỏ hết tiền cũ phát đồng đều mỗi gia đình một số tiền bằng nhau như kiểu Tiệp Khắc năm 1948.

- Có thể sẽ phát tiền dựa vào số nhân khẩu của gia đình.

 

Rất nhiều sự suy đoán và tin đồn, rồi người ta nghĩ ra nhiều cách đổi tiền miền Bắc để cất giữ và thị trường giao hoán tiền tệ hai miền ở Đà Nẵng và Huế trở nên mạnh mẽ.

 

Ngay từ đầu, Huế, Quảng Trị đã nhập vào Liên khu 4, áp dụng lối sống của miền Bắc XHCN, sử dụng tiền miền Bắc.

 

Người ta không giữ tiền nhiều, mua hàng và quý kim tồn trữ, nhưng có trở ngại là hàng hóa tồn trữ có nguy cơ bị kiểm kê và ghép tội tư sản hay đầu cơ. Giữ quý kim như vàng sợ bị tội.

 

Thông báo giới nghiêm, nhà nước chưa tuyên bố lý do, thì dân đã biết là đổi tiền. Nhiều người có tiền chạy đôn chạy đáo đi mua hàng hóa, vật giá lên thật nhanh, tiền xem như giấy lộn.

 

Nhà nước đổi tiền theo giá 500 đồng bạc VNCH ăn 1 đồng bạc ngân hàng và tối đa gia đình được đổi 200, số còn lại ký gởi. Ký gởi vào nhà nước cách mạng thì dân cũng hiểu là không bao giờ được lấy ra. Nếu có lấy thì những tiêu chuẩn khó khăn không ai làm được. Ký gửi là một từ ngữ đẹp để che giấu cho hành động cưỡng đoạt.

 

200 đồng bạc cho mỗi gia đình, phải ngồi sắp hàng cả tuần mới có. Những ngày đầu là đổi cho gia đình cách mạng, công nhân viên. Và cán bộ cách mạng bắt đầu vố làm ăn khấm khá đầu tiên. làm ăn công khai, giúp “bà con ruột thịt” miền Nam đổi hộ số tiền quá 100 ngàn tiền cũ ấn định đó. Đổi xong chia theo tiểu chuẩn cán bộ lấy 75%, 80%, 90% tùy từng vùng từng thời điểm.

 

Nhiều gia đình tự tử vì giữ nhiều tiền bạc quá, nay xem như mất hết. Có người ôm cả bao bạc nhạy từ lầu 3, 4 xuống, xác dập nát mềm nhũn và bạc giấy còn mới tinh bay trong gió như bươm bướm.

 

Chợ trời thêm đông và thêm nhiều chợ mới xuất hiện. Chợ Hàng Xanh, Bà Chiểu, chợ Bà Hạt, chợ Bảy Hiền. Người dân Saigon, sau lần đổi tiền như đã kiệt, tài sản, kể cả áo quần cũng đem ra chợ bán. Người miền Bắc vào mua hàng đã đông đúc, bây giờ càng đông đúc hơn, tư nhân có, tập thể có, các hợp tác xã vào mua đủ mọi máy móc. Sau khi tháo gỡ các xưởng máy chở về Bắc, lập cơ quan thu mua, chính Phó thủ tướng Đổ Mười điều động việc thu mua cho nhà nước, người ta mua từ xe Honda, tủ lạnh, quạt máy, TV, máy lạnh, xe hơi. Trong khi dân không có tiền, nhà nước tung tiền giấy không bảo chứng ra mua hàng, có khác gì đem giấy đổi hàng. Tiền giấy ngân hàng đúng là chỉ giá trị hơn giấy lộn, vì mới đổi 1 đồng ăn 500 đồng, giá tô phở là 2 đồng bạc mới, dân gọi theo tiền cũ là 1000, chỉ một tháng sau giá tô phở đã lên đến 10 đồng.

 

Dân nghèo, bạc hạ giá, hàng hóa lên là đương nhiên. Nạn ngăn sông cấm chợ, nông phẩm các tỉnh miền Tây cấm chuyên chở lên Sài Gòn - người ta nghĩ là nhà nước cách mạng làm áp lực để dân phải hồi hương và đi kinh tế mới. Nhưng cũng do nạn sứ quân mỗi tỉnh ban hành chánh sách riêng của tỉnh họ, vì kinh tế mỗi tỉnh tự túc .

Tỉnh Biên Hòa, Long Khánh chặt cây ăn trái trồng lúa, Lâm Đồng, Đà Lạt phá vườn rau trồng lúa. Đọc báo Nhân Dân, tin gia tăng sản xuất tỉnh nào cũng đạt năng xuất cao, vượt chỉ tiêu.

 

Tuyến xe miền Tây toàn dân buôn chui, mỗi người đi mua bán từng 4 hay 5 kg thịt heo, 10 kg gạo, vài ba ký tôm khô. Trạm kiểm soát Ba Càng, Nha Mân ở hai tỉnh Vĩnh Long và Sa Đéc tiêu diệt ngành buôn bán lẻ tẻ theo xe đò.

 

Dân Saigon thiếu gạo trầm trọng, nhà nước cấp thứ gì ăn thứ đó, gạo hẩm, bo bo, bột mì, mì sợi cũng không đủ. Người dân miền Tây làm bún, bánh tráng, bánh tét, bánh ú đem lên Saigon bán - vì những loại thực phẩm nấu chín nhà nước chưa đưa vào qui hoạch. Bữa cơm của dân Sài Gòn đủ loại, cơm độn mì sợi, độn khoai, độn đậu, nhiều khi nồi đậu xanh độn một ít cơm. Mua được cái gì nấu ăn cái đó. Không chọn lựa.

 

Bác Hồ dạy cho cán bộ đảng viên Cộng Sản phải lo cho dân từ hũ mắm tới lọ cà. Ai cũng nghĩ đó là Bác nói cái tinh thần hy sinh của cán bộ cho hạnh phúc của dân chúng. Nhưng bây giờ người miền Nam biết Bác Hồ nói thật - nói với nghĩa đen của nhóm từ ngữ, đúng là lo hũ mắm, lọ cà, vì thịt cá không có, nếu có thì chỉ dành cho cán bộ đảng viên, còn dân thì chỉ ăn mắm, ăn cà, mà cũng không được tự lo lấy; vì mắm cà hay bất cứ lương thực, thực phẩm nào cũng đưa vào qui hoạch nhà nước. Những cửa hàng lương thực, thực phẩm mọc lên ở các cấp với những bảng hiệu sơn màu đỏ như máu, màu đỏ của cờ cách mạng, màu đỏ biểu tượng cho tinh thần đấu tranh, màu đỏ qui ước chỉ khối Cộng Sản. Người dân thực tế họ biết rằng càng nhiều cửa hàng thì càng ít lương thực, sản phẩm nào được đưa vào qui hoạch, người dân càng khó mua.

 

Thỉnh thoảng lúc 2 hay 3 giờ sáng, tổ trưởng dùng loa hay đập cửa các hộ gia đình để đi nhận cá phân phối. Khi mọi người tụ tập đầy đủ, cán bộ phòng lương thực quận bắt đầu bài học chính trị: “Dưới thời Mỹ-Ngụy nhân dân ta bị bóc lột tận xương tủy, chúng vơ vét hết của cải của nhân dân ta, thậm chí đến con cá là thực phẩm tầm thường nhất, nhân dân ta cũng không được ăn. Ngày nay, nhờ ánh sáng cách mạng, nhờ Bác Hồ muôn vàn kính yêu và đảng Cộng Sản bách chiến bách thắng với chủ thuyết Marxism vô địch đã đánh đuổi được tên đế quốc đầu sỏ, tên sen đầm quốc tế là đế quốc Mỹ với bè lũ ngụy quyền tay sai, đem lại hòa bình và ấm no cho toàn dân. Bác Hồ dạy, đảng phải chăm lo từ hũ mắm, lọ cà cho nhân dân, hôm nay phòng lương thực quận đem cá về phân phối tận tay cho đồng bào… Nhưng trước khi đi vào thực tế chia chác, tôi cần thống nhất với bà con mình, là cá được đưa qua nhiều khâu nên có sự hao hụt và phí tổn chuyên chở, cán bộ nhà nước như chúng tôi là đầy tớ của nhân dân, tức là đầy tớ của bà con đây, nên cán bộ không lấy tiền công dù phải thức đêm hôm với bà con, nhưng phí tổn chuyên chở, hao hụt phải tính vào giá thành, nếu bà con thắc mắc ngày mai đề xuất lên quận …”.

 

Lần đầu tiên nhận phân phối cá, những con cá lóc bằng cổ tay đứa trẻ sơ sinh, đồng bào chỉ biết nhìn nhau nhún vai lắc đầu. Nhún vai, lắc đầu là động tác có tính thời đại của đồng bào miền Nam, một hình thức phản kháng mà không sợ bị bắt.

 

Sống trong nước chậm phát triển, sản phẩm tiêu dùng không đầy đủ, dân Việt Nam quá quen với chế độ phân phối, tùy mỗi giai đoạn chính phủ đặt các loại sản phẩm vào chế độ phân phối để bảo đảm cho mỗi người dân được mua một số lượng sản phẩm tối thiểu nào đó, để bảo đảm giá thị trường, tránh đầu cơ hay không lọt vào tay địch, nhưng các mục tiêu trên thường không đạt được. Chế độ phân phối hàng hóa trở thành đặc quyền đặc lợi của nhân viên chánh quyền. Người ta không lạ gì chế độ phân phối gạo ở miền Trung đã sinh ra nhiều vụ tai tiếng lớn, không kể những lạm dụng cấp cò con. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa có vụ án chở gạo bán ra Bắc của Bộ trưởng Kinh Tế Trần Văn Mẹo và Ưng Bảo Toàn, có dính tới Ngô Đình Cẩn và Nguyễn Văn Bửu . Thời Đệ Nhị Cộng Hòa có vụ một Tư Lệnh Quân Đoàn 2 chở gạo bán cho Việt Cộng ở Pleiku, vụ Tài Mậu ở Quảng Ngãi của Đại tá Lợi, chở gạo bán ở Trà Bồng. Vụ độc quyền gạo ở các tỉnh Phan Rang, Phan Thiết của bà Huyết cô của Tổng Thống Thiệu.

 

Liên hệ đến nông nghiệp, có vụ độc quyền phân bón của Công ty Phân Bón Cửu Long do anh em cột chèo của Tổng thống Thiệu chủ trương và chính ông ta bảo trợ. Có độc quyền, có phân phối là có lạm dụng, dân chúng không hưởng được sự bảo đảm của chánh phủ, hầu hết sản phẩm mua trên thị trường chợ đen. Về sau, người ta dám can đảm gạt qua những chỉ trích để chấp nhận kinh tế thị trường, sản phẩm lưu động uyển chuyển và giá cả được điều chỉnh nhanh chóng qua thị trường cung cầu. Rõ ràng thị trường kinh tế tự do cạnh tranh cũng có những khuyết điểm nhưng nhìn chung vẫn tốt hơn chế độ phân phối.

 

Trong xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế chỉ huy, mọi sản phẩm đều đi vào quy hoạch nhà nước, và những ước mơ của Hồ Chí Minh, đảng lo từ hũ mắm lọ cà, nên chính quyền can thiệp thô bạo vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Người ta mơ tưởng đảng hay nhà nước tập trung tất cả sản phẩm để phân phối thật công bình cho nhân dân, nhưng đó chỉ là ước mơ. Trước hết đảng và nhà nước cũng chỉ là một tổ chức của con người, những con người đầy lòng tham và được tuyệt đối quyền hạn. Sự phân phối theo nhu cầu hay bình quân đều không có cơ sở để định mức. Chế độ phân phối càng bị thiếu hụt giả tạo làm trầm trọng thêm sự khan hiếm, cộng thêm sự chậm chạp của hệ thống thư lại gồm nhiều hệ cấp trình báo. Tóm lại, càng nắm quyền phân phối sản phẩm dân càng thiếu, càng bất công. Hơn ai hết, người dân Việt Nam sống giữa những biến động xã hội, nhiều lần thay đổi chế độ, người ta càng thấy càng thay đổi người dân càng khổ hơn trước và càng nói cách mạng thì viên chức chính quyền càng tham nhũng, lộng hành hơn trước.

 

Tin tức từ thân nhân cán bộ Cộng Sản cho biết từ 1975 qua đến đầu 1976 Bộ Công An đã đưa thêm vào miền Nam 200 ngàn công an để lo về an ninh nội chính. Miền Nam dày đặc công an. Mỗi tổ dân phố có một Công an Khu vực, một Công an Kinh tế và một Công an Thuế vụ. Chưa kể hệ thống Công an Nhân dân gồm:

 

- Tổ trưởng Dân phố.

- Tổ trưởng Thanh niên.

- Tổ trưởng Thiếu nhi

- Tổ trưởng Phụ nữ.

 

Mỗi tuần các Tổ trưởng này phải báo cáo tình hình trong tổ theo nhận xét của họ lên Công an Khu vực và các Ủy viên ngành dọc ở trên phường. Chính sách Công an Nhân dân nhân, nhân hộ khẩu và phân phối lương thực, thực phẩm là chìa khóa cai trị nắm vững từng người dân một. Thêm vào hệ thống báo cáo trên, các chủ tiệm cà phê, tiệm ăn lớn nhỏ đều phải viết báo cáo hàng ngày về số khách đến ăn uống trong đó phải ghi nhận hai loại khách thường xuyên và khách bất thường, cũng như khách nào thường xuyên quan hệ với nhau.

 

Những tiệm cà phê, giải khát đông khách, vì các hàng quán này khách thường hay ngồi lâu nói chuyện; thì công an quận sẽ thay hẳn chủ quán, họ buộc chủ quán phải dời đi nơi khác. Quận cử nhân viên như công an đến bán như quán cà phê Hà Nội ở đường Nguyễn Thiện Thuật, quán Da Vàng ở Nguyễn Huỳnh Đức, người bán là nhân viên công an, người giữ xe đạp, thu ngân, dọn bàn, bưng nước đều là nhân viên công an phụ trách.

 

Công an mặc thường phục đi kiểm soát thường xuyên, có hai hay ba người tụ tập. Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, công an cũng có quyền tách mỗi cá nhân riêng biệt rồi đưa giấy bắt họ khai, họ phải khai đã nói với nhau những gì, nếu lời khai không trùng lấp nhau đều bị bắt vì lý do phản cách mạng. Sự quen biết, bạn bè đối với dân Saigon bây giờ trở thành cái nạn, nhiều người ở tù vì những quan hệ sơ sài với những người bị theo dõi, bị bắt. Cách duy nhất để người dân Saigon tránh phần nào sự bắt bớ là ít ra đường hoặc trước khi nói chuyện với bạn bè phải đồng ý với nhau trước là mình nói chuyện gì đến khi bị kiểm tra khai cho thống nhất.

 

Nhà tù nhiều hơn trường học, mỗi quận đều có những nhà tù mới, nhà nước sử dụng các khách sạn, cao ốc để nhốt tù - và cả những biệt thự kín đáo mà dân Saigon không biết - chỉ những người bị giam trong tù mới được biết hầu hết các nhà tù ở trong Saigon, vì sự chuyển đổi trại tù gặp những người tù ở nhiều nơi.

 

Đại khái Bộ Nội Vụ có trại giam ở Tổng Nha Cảnh Sát, Quân khu 7 có trại Tô Hiến Thành, nhà giam của Phòng Nhì ở Tổng Tham Mưu cũ ở đường Ngô Quyền, trại tù binh cũ ở Ngã Năm Bình Hòa. Sở Công An có trại 168 Trần Hưng Đạo, trại Chí Hòa, trại Phan Đăng Lưu, trại Đại Lợi. Quận Tân Bình có trại Đại Lợi; Phú Nhuận có building đường Huỳnh Quang Tiên; Bình Thạnh có bót Hàng Keo; quận 6 có Trại Tế Bần, quận Nhà Bè có trại Nhà Bè, quận I có trại Mạc Đĩnh Chi; quận 2 có trại ở đường Trần Hưng Đạo Ty Cảnh Sát quận 2 cũ, quận 3 có trại giam Ty Cảnh Sát cũ đường Lê Văn Duyệt. Ngoài ra những nhà giam ở các Villa kín cổng cao tường không xác định được vị trí.

 

Tháng 11-1975, vụ Phục Quốc Vinh Sơn bị khám phá. Công an tấn công vào nhà thơ Vinh Sơn ở đường Trần Quốc Toản, bị kháng cự, 1 công an bị chết. Trong nhà thờ có tổ chức làm bạc giả và hệ thống phát thanh. Khoảng từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1975 dân chúng Saigon có thể bắt được một số các buổi phát thanh từ 10g tối. Nhón Phục Quốc Vinh Sơn dùng hình ảnh Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ để tuyên truyền và triệu tập quần chúng. Ông Nguyễn Cao Kỳ được họ nâng lên làm Thống tướng hay Thống chế. Lời kêu gọi dân chúng nổi dây được đọc bằng giọng Bắc nhừ nhựa giống giọng Tướng Kỳ. Saigon lúc bấy giờ nhiều tin tức đồn đãi về hoạt động của Tướng Kỳ và Tướng Lân ở núi Bà Đen.

 

Sau vụ Vinh Sơn, các khu Công giáo và nhà thờ bị lục soát bắt bớ, Giáo dân và Giáo sĩ bị bắt rất nhiều không tính được.

 

Tết Bính Thìn qua trong buồn tẻ, thiếu thốn và đầy tình thương nhớ cùng luyến tiếc. Người dân Saigon không thể ngờ chỉ hơn 6 tháng mà đời sống kinh tế của họ xuống thê thảm như vậy. Hầu như đồ đạt trong nhà đều đã bán hết, có nhiều gia đình phải gỡ cả tôle và gạch hoa trong nhà đi bán. Nhà cửa ở Saigon không còn giá trị là một tài sản nữa mà đúng hơn là nơi dung thân ở thế nào cũng được. Tủ, bàn ghế, giường nệm đều bán sạch. Một căn nhà lợp tôle trong ngõ hẻm đắt giá hơn căn nhà xây ngoài đường - vì nhà xây không gỡ bán được và có thể bị chiếm bất cứ lúc nào. Sau khi chiếm nhà các gia đình đi di tản, vượt biên, cán bộ Việt Cộng dòm ngó tới những căn nhà còn chủ ở lại. Những căn nhà rộng lớn có ddi.a điểm tốt thì chiếm làm công sở như Phường, Ấp, trạm Y tế. Quận đội, Phường nội. Gia đình bị chiếm nếu biết điều tuân hành thì được chỉ định một căn nhà xấu hơn để ở, nếu không tuân theo thì chủ nhà, nhất là người đàn ông, sẽ bị chụp mũ là phản động và bắt đi học tập. Việt Cộng biết rất rõ người đàn ông là cột trụ của gia đình ở miền Nam. Cô lập người đàn ông thì gia đình đó sụp đổ.

 

Trong chế độ Cộng Sản, nhất là trong giai đoạn họ còn trấn áp để trị an, bất cứ một cán bộ nào ở cấp thấp nhất như Phường, Tổ đều có thể đề nghị đưa một người dân đi cải tạo. Không cần phải chứng minh tội trạng của đương sự, vì họ chỉ cần ghi tội danh phả động một cách tổng quát và khi về đến Công an thì đã có tội, “bị bắt là có tội” vì Đảng không bao giờ sai lầm, đó là lý luận của những viên chức gọi là Chấp pháp của ngành công an.

 

Trong khi bắt dễ như vậy mà thả ra thì rất khó - lệnh tha thường phải do Bộ Nội Vụ hay Thành Ủy, một trong những lý do tại sao nhà tù Cộng Sản càng lúc càng đông người, ngay cả trường hợp cơ quan bắt người muốn tha cũng khó - bên diện tù Hình sự, gặp nhiều em chỉ vì ham chơi phá phách, cha mẹ quen như chế độ cũ đến Phường gửi con nhờ cải tạo cho con sợ, đến khi đứa bé bị đưa vào trại rồi, chính quyền sở tại cũng không xin tha được, lúc đó quyền tha đã thuộc cơ quan Quản lý trại giam - nhiều em đã chết trong tù vì trường hợp này.

 

Ngày mùng 2 Tết tiếng nổ long trời từ căn cứ Sóng Thần, tiếng nổ làm dân Saigon tỉnh dậy chạy ra đường mừng rỡ vì họ nghĩ có biến, có người la lên “quân ta về” trong khi bộ đội, công an, cán bộ cách mạng thì chạy trốn - nhưng tiếng nổ đơn độc không biết do sự phá hoại của một thành phần đối kháng hay một tai nạn do bất cẩn. Nhưng qua hiện tượng đó cho thấy chỉ mấy tháng mà người dân Saigon đã chán cách mạng và họ lại muốn có thay đổi.

 

Qua sự kiện này người dân Saigon cũng nhìn thấy tinh thần của cán binh Việt Cộng, nghe tiếng nổ cán bộ Việt Cộng chạy trốn như chuột, không ai còn ý nghĩ về một quân đội Cộng Sản lì lợm, kiên cường nữa, và dân Saigon càng thấy những từ ngữ tuyên truyền của Cộng Sản là láo khóet, có người thấy bộ đội, cán bộ nghe tiếng nổ chạy trốn tức tối hét lên: “ĐM, tụi nó hèn thế mà mình thua, đau quá”.

 

Vài tháng sau Tết Bính Thìn, xẩy ra vụ nổ ở hồ Con rùa đường Duy Tân, vụ nổ đơn độc một lần nữa làm dân Saigon mừng hụt - nhiều người bị bắt sau đó, đa số liên hệ đến vụ này là người Thái ở Tùng Nghĩa và người Tày ở Phú Lâm.

 

Họ dự trù một vụ đánh úp Sàigòn, hiệu lệnh là tiếng nổ ở hồ Con Rùa, nhưng khi di chuyển nhân sự và vũ khí họ bị bắt trước.

 

Chuẩn bị co cuộc bầu cử Quốc Hội cả nước tháng 4-1976, Việt cộng cho bắt tất cả nhà văn, nhà báo. Việt Cộng xem nhà văn nhà báo cũng là nhân viên của chính quyền, không phải là tư nhân như trong thể chế tự do.

 

Văn nghệ sĩ và nhà báo bị bắt không sót một người vì trong hàng ngũ này Việt cộng đã có nhiều cán bộ nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh (nhà văn), Cung Văn, Huỳnh Bá Thành (nhà báo), Nguyễn Diệu Liên Tâm, nhân viên Bộ Dân Vận Chiêu Hồi. Nguyễn Diệu Liên Tâm là con một viên chức Bưu điện Đà Nẵng, y thị du học Úc Đại Lợi - vào đảng Cộng Sản, nằm vùng tại Bộ Dân Vận Chiêu Hồi. Sau năm 1975 là một cán bộ nồng cốt của ngành công an, vì công an Việt cộng ít có người có đủ tiêu chuẩn như y, trẻ tuổi, du học ngoại quốc, sinh trưởng ở miền Nam - làm việc trong chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa, Nguyễn Diệu Liên Tâm và Huỳnh Bá Thành được kể như hai cán bộ xuất sắc nhất của Việt cộng trong ngành công an, không phải chỉ ở Sài Gòn mà cả nước. Hai tên này phá vỡ rất nhiều tổ chức đối kháng và bắt giam nhiều người nhất, có công nhất trong việc triệt hạ nhà văn nhà báo miền Nam. Giới văn nghệ sĩ trình diễn được yên thân hơn, nhưng hầu hết phải bỏ nghề vì cấm trình diễn, nghệ sĩ nào được trình diễn trở lại đều phải qua sự bão lãnh và giới thiệu của nữ kịch sĩ Kim Cương là cán bộ Cộng Sản nằm vùng trong giới nghệ sĩ miền Nam.

 

Sau khi đã cô lập sĩ quan, công chức và những người liên quan đến chế độ cũ cùng những đảng phái, tôn giáo, Cộng sản đã biết được tinh thần chống đối hay bất hợp tác của dân chúng miền Nam nên chúng chủ trương dùng bạo lực và nhà tù để trấn áp.

 

Cán bộ công an mặc thường phục làm công tác trinh sát hình sự và trinh sát chính trị được rải ra khắp các thành phố, tỉnh lỵ, thị trấn và nhất là Saigon đầu não của mọi sinh hoạt xã hội của miền Nam.

 

Nhân viên trinh sát chính trị được tuyển dụng trong thành phần sinh viên học sinh tranh đấu, con cái của các cán bộ Cộng Sản nằm vùng hay tập kết để dễ trà trộn hay xâm nhập. Đối với cán bộ từ Bắc vào, chúng huấn luyện cách sống miền Nam, kiểu cách ăn nói, sinh hoạt giống như thanh niên miền Nam, biết nhảy đầm, nghe nhạc, xem ciné, ngồi quán cà phê. Sau này có dịp ở chung với thành phần đối kháng sau ngày 30-4-75, phần lớn tổ chức của họ bị phá vỡ trong trứng nước là do họ thiếu kinh nghiệm, kết nạp cán bộ trinh sát chính trị của Việt cộng vào tổ chức, hay bị theo dõi, khám phá từ những cuộc hẹn hò ở các quán cà phê và quán giải khát.

 

Ngoài ra Mai Chí Thọ, Giám Đốc Sở Công An Thành Phố còn cho lập thêm những tổ chức đối kháng ma, để làm mồi câu những người có tư tưởng chống đối lộ diện. Thọ còn cho cán bộ treo cờ quốc gia. Tôi được một người dẫn đi xem một tiệm may ở đường Võ Tánh nối dài, giả làm như lén lút may cờ VNCH. Loan đồn tin thất thiệt, dựng nên hoạt động giả trá, sau đó cán bộ trinh sát chính trị được tung ra để tuyên truyền lôi kéo người vào tổ chức Phục Quốc ma. Rồi thì bắt tất cả, người đồng ý tham dự bị bắt vì tội tham gia tổ chức phản động, người không đồng ý tham gia cũng bị bắt vì tội không báo cáo. Tội danh lúc bị bắt khác nhau nhưng khi hỏi cung và kết án thì căn cứ thành phần xã hội, trình độ học vấn và tuổi tác của nạn nhân mà quyết định cải tạo lâu hay chóng.

 

Thời gian đầu vượt biên được kể là tội chính trị và bị xử phạt nặng, có nhiều trường hợp kêu án chung thân những người cầm đầu tổ chức. Từ cuối năm 1975, dân Saigonn và miền Nam đã vượt biển ra đi với nhịp độ đáng kể. Lúc đó tổ chức vượt biên rất khó vì chưa được sự “cộng tác” của công an biên phòng trong dịch vụ bán bãi, và những người ngư dân hay nông dân còn thử chờ đợi. Người dân bình thường nếu một chính quyền và xã hội tạm sống được họ không cần phải đối kháng hay chạy trốn.

 

Nhiều chuyến vượt biên thành công được kể truyền miệng từ người này đến người khác với sự khâm phục. Người nào cũng ao ước được ra đi.

 

Do đó công an Việt Cộng làm thêm nhiều vụ khám phá các tổ chức vượt biên. Mai Chí Thọ cho nhân viên đứng ra tổ chức móc nối rồi giả như đưa đi vượt biên, đến Phú Lân hay cầu Xa Lộ thì chận bắt. Bắt người vượt biên Sở Công An có nhiều lợi cụ thể là tịch thu vàng, quý kim người vượt biên mang theo, tịch thu nhà cửa, và giam giữ những người mà chúng cho là có tinh thần chống đối. Tóm lại vì lý luận tư tưởng là nền tảng điều hướng cho hành động, nên Cộng Sản không những bắt bớ giam cầm người có hành động phạm pháp, mà còn bắt bớ giam cầm những người chúng đánh giá có tư tưởng chống đối nên không ngần ngại tổ chức chống đối giả, tổ chức vượt biên giả để nhằm câu cho dân chúng phạm tội để chúng bắt.

 

Sống trong tình trạng căng thẳng bất cứ lúc nào cũng có thể bị bắt đó là tình trạng tinh thần của người dân miền Nam trong chế độ Cộng sản.

 



 


Chương Năm

 

Tuần lễ đầu tiên ngay sau khi chiếm miền Nam Việt Nam, Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam được nhiều quốc gia công nhận. Khởi đầu là Tây Đức đến Anh Quốc và đa số các nước Tây phương, các nước công nhận chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam lên đến 76 nước, nhiều hơn số quốc gia công nhận chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và dĩ nhiên hơn số quốc gia công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Sự kiện ngoại giao này làm cho những người lãnh đạo Hà Nội lúng túng, vì Phạm Văn Đồng đã tuyên bố hai miền Nam Bắc Việt Nam chưa thống nhất. Miền Bắc tiếp tục cách mạng xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa và miền Nam Cách Mạng Dân Chủ Nhân Dân - cụ thể là về kinh tế miền Bắc có hai thành phần kinh tế và miền Nam năm thành phần kinh tế, còn công nhận hợp doanh, cá thể và tư sản dân tộc. Thời gian chuyển tiếp dự trù 5 năm . Chính phủ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam không hiện diện tại Saigon, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát chỉ xuất hiện với tính cách cá nhân trong Ủy Ban Quân Quản thành phố Saigon-Gia Định (đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh). Không có trụ sở văn phòng của chính phủ này. Bàn giấy của Huỳnh Tấn Phát đặt tại phủ Thủ Tướng cũ, cùng với Văn phòng đại diện của Đảng tại miền Nam. Có thể người lãnh đạo Hà Nội sợ chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam xuất hiện công khai tại Saigon, rồi với việc 76 quốc gia thừa nhận sẽ đưa tới việc bang giao, lập Tòa Đại Sứ sẽ trở thành một thực tế chính trị, biến miền Nam trở lại thành một nước ngoài sự kiểm soát của họ.

 

Hội Nghị Hiệp Thương hai miền Nam Bắc để “thống nhất đất nước về mặt nhà nước” được tổ chức vào cuối năm 1975. Trường Chinh, Trưởng phái đoàn đại diện miền Bắc, Phạm Hùng, Trưởng phái đoàn đại diện miền Nam.

 

Hai Ủy viên của Chính trị bộ đảng Lao Động Việt Nam (sau đổi là đảng Cộng Sản) đại diện hai miền để nói chuyện thống nhất, thực chất là họ đã thống nhất rồi, vì chính phủ Cộng Hòa Miền Nam và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chỉ là một bộ mặt lừa bịp, những người lãnh đạo chính thức của hai tổ chức này đều là đảng viên cao cấp của Cộng Sản Hà Nội.

 

Trên bàn Hội Nghị Hiệp Thương được chiếu trên màn ảnh TV, bài diễn văn của Phạm Hùng biết ơn đối với Đảng và nhân dân miền Bắc giúp miền Nam giải phóng và nhân dân miền Nam mong được thống nhất đối với miền Bắc. Bài diễn văn của Trường Chinh ca ngợi tính anh hùng của người miền Nam và hoan hỉ đón nhận miền Nam vào sự thống nhất với miền Bắc. Để kết thúc hiệp thương bằng câu hỏi của Trường Chinh “Có ai phản đối đề nghị thống nhất hay không?”

 

Thế là đất nước Việt Nam đã thống nhất về mặt nhà nước. Bầu cử Quốc Hội thống nhất vào tháng 4-1976. Phiên họp đầu tiên của Quốc Hội thống nhất vào tháng 6-1976 đổi tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, dùng quốc kỳ, quốc ca và quốc huy của Bắc Việt làm quốc kỳ, quốc ca và quốc huy của đất nước thống nhất.

 

Sự hiện diện và hình thức cùng cá nhân của những người dự Hội Nghị Hiệp Thương là câu trả lời minh bạch và lần cuối cùng, có thể là thừa, cho những ai từng có ảo tưởng là có người quốc gia trong hàng ngũ Mặt Trận Giải Phóng miền Nam. Nếu người ta chịu khó nghiên cứu lý lịch của những người lãnh đạo mặt trận và chính phủ thì: Trần Văn Trà vào đảng Cộng Sản lúc 17 tuổi, năm 1945 được cử vào Nam cùng với Lê Duẫn để chỉ huy Quân khu 7. Trần Nam Trung, tướng lãnh Bắc Việt, Trần Độ, tướng Bắc Việt chỉ huy tiếp vận chiến trường Điện Biên Phủ; Nguyễn Thị Bình, Bí thư của Nguyễn Thị Thập, Chủ Tịch Liên Hiệp Phụ Nữ; Nguyễn Thị Định cán bộ nằm vùng, Bí thư Tỉnh Ủy Bến Tre. Huỳnh Tấn Phát, đảng viên đảng Tân Dân Chủ, nhưng đảng này đã sát nhập vào đảng Cộng Sản năm 1945 gồm một số người trí thức miền Nam như Huỳnh Tấn Phát, Mai Văn Bộ, Ung Văn Khiêm, Trần Bạch Đằng, Lưu Hữu Phước. Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch bù nhìn. Thọ được kết nạp đảng Cộng Sản vào thập niên 60. Chưa kể toàn bộ Trung Ương Cục Miền Nam do Nguyễn Chí Thanh điều động, sau khi Thanh chết, Lê Đức Thọ thay thế. Phạm Hùng là nhân vật thứ tư trong Bộ Chính Trị của đảng Lao Động. Những bộ mặt khác như Trịnh Đình Thảo, Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa chỉ làm bù nhìn tô điểm cho chủ trương lừa bịp của Mặt trận và Chính Phủ Lâm Thời do Hà Nội lập ra.

 

Ai có kinh nghiệm đều biết trong bất cứ cuộc đấu tranh nào, ở bất cứ nước nào đảng viên Cộng Sản là người có lãnh đạo và rèn luyện nên họ có thể làm xoay chuyển hướng đấu tranh hoặc lãnh đạo tập thể đấu tranh đông đảo người nhưng ô hợp. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hay Chính Phủ Lâm Thời được lãnh đạo bởi một số lượng đông đảo đảng viên Cộng Sản cao cấp, người ngoài đảng chỉ là thiểu số.

 

Trước năm 1975, người trong và ngoài nước tin tưởng rằng có thành phần quốc gia trong Mặt Trận có thể vì hai lý lẽ, thứ nhất họ bị đánh lừa vì sự ngây thơ, thứ hai họ cố tình đưa ra một luận cứ để vấn đề chiến tranh Việt Nam giải quyết bằng một hình thức đòi hỏi Chính Phủ Liên Hiệp giữa hai phe tham chiến.

 

Ngày nay sau khi Cộng Sản đã chiếm miền Nam, thống nhất Việt Nam thành một quốc gia Cộng Sản trong khối Đệ Tam Quốc Tế do Liên Xô lãnh đạo, đáng lẽ vấn đề Mặt Trận Giải Phóng miền Nam không còn cần đặt ra nữa. Nhưng trong các lập trường chính trị của người Việt chống Cộng trong và ngoài nước vẫn còn nhiều người ảo tưởng liên hiệp với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để chống lại Cộng Sản. Vấn đề này cần được nhận rõ là:

 

- Có một số ít người trí thức miền Nam bị Cộng Sản lôi kéo và đưa làm bù nhìn trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Những người này không có quyền hạn quyết định bất cứ việc gì từ chính trị đến quân sự.

 

- Có khuynh hướng tranh chấp quyền hành và quyền lợi của những tên lãnh đạo cao cấp Cộng Sản. Tranh chấp, mâu thuẫn là điều rất thông thường trong bất cứ đảng Cộng Sản nào, khi lực lượng đối kháng chính yếu của họ đã bị tiêu diệt. Nếu có sự tranh chấp của những tên trùm Cộng Sản trước ở trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam với những tên ở Trung Ương phải được xem là sự tương tranh nội bộ, không phải là sự tranh đấu của nhân dân miền Nam chống Cộng Sản. Việc những đảng viên Cộng Sản cấp tiến dù ở Bắc, Trung hay Nam đứng lên đòi thay đổi chính sách đưa tới sự sụp đỗ chế độ Cộng Sản thì đó là một vận động lịch sử khác.

 

Để chuẩn bị cho Hội Nghị Hiệp Thương và bầu cử Quốc Hội cả nước. Từ tháng 10-1975, cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hai màu xanh đỏ có sao vàng không còn kéo lên tại các cơ quan của Việt Nam ở miền Nam. Hiện tượng này dân miền Nam lại giải thích theo ước muốn chủ quan của mình là Việt cộng đã rút dần để thi hành Hiệp Định Paris. Người ta đồn đãi rồi rủ nhau đến trụ sở Ủy Ban Quân Quản ở Tòa Đô Chính cũ, Văn phòng đại diện Đảng miền Nam ở Phủ Thủ Tướng, Bộ Tư lệnh quân khu 7 ở Tổng Tham Mưu để chứng kiến tận mắt những cột cờ trống trơn.

Đồn đãi, ước đoán chủ quan, phấn khởi rủ nhau đến các quán cà phê chuyện gẫu, rồi hy vọng, đó là lối sống của đàn ông Saigon; còn phụ nữ, xuống đường nhập vào sinh hoạt chợ trời, len lỏi những chuyến xe miền Tây, tuyến miền Trung để buôn hàng chuyến, buôn hàng xách, buôn lậu nông sản (trà, cà phê, hồ tiêu, tỏi, gạo, thịt, cá đều vào quy hoạch nhà nước, cấm tư nhân buôn bán) để tìm kế nuôi gia đình, nuôi người chồng đang thất cơ lỡ vận hoặc chờ đợi chồng con đi trình diện học tập cải tạo mà chưa có tin tức.

 

Sau khi Hội Nghị Hiệp Thương Nam Bắc “thành công vĩ đại”, cờ đỏ sao vàng biểu tượng cho khủng bố, giết chóc, hận thù đấu tranh, máu lửa tung bay khắp miền Nam, phủ một không khí đe dọa, đè nặng trong lòng mọi người.

 

Kiểm tra dân số, lập danh sách cử tri, học tập bình nghị trả quyền công dân cho những người có giấy cải tạo 3 ngày để chuẩn bị bầu cử Quốc Hội.

 

Mỗi quận huyện là một đơn vị tuyển cử, các ứng viên đều do đảng Cộng Sản đề cử đúng theo luật bầu cử ấn định. Người dân không khó khăn chọn vì lá phiếu bầu đã in rõ mỗi đơn vị tuyển cử một hay hai tên ứng cử viên cuối cùng sẽ được gạch đi theo hướng dẫn của cán bộ. Đảng đã phân biệt rõ ràng, những đảng viên Cộng Sản là người phải được lựa chọn, còn những người từng theo đóm ăn tàn tranh đấu, xuống đường tại miền Nam cũ như Ni sư Huỳnh Liên, Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm, Kiều Mộng Thu, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, Hoàng Phủ Ngọc Tường thì nằm ở thành phần gạch bỏ. Những người này sau được trả công rẻ hơn, được bầu vào Hội Đồng nhân dân các tỉnh. Rồi khóa sau mới có người được bầu vào Quốc Hội theo công lao đóng góp và được kết nạp vào Đảng.

 

Chính sách nhân sự của Cộng Sản rất rõ rệt, nếu vì một nhu cầu tuyên truyền một tên A, tên B nào đó được thổi phồng lên, rồi đề cử làm vai trò bù nhìn ở các tổ chức, ngay cả những chức vụ Chủ tịch bên trong có đảng viên Cộng Sản giật giây. Chính sách trả công của đảng Cộng Sản cũng được quy định rõ ràng tùy ở mức độ đóng góp, những Dân biểu, Nghị sĩ, Sĩ quan, Viên chức có móc nối cộng tác với Cộng Sản trước ngày 30-4-75 đều được trả công bằng nhiều hình thức tùy theo công lao, được miễn đi học tập cải tạo (Lý Quý Chung, Phan Xuân Huy, Ngô Công Đức, cựu Đổng lý Phan Đăng Lân …), hoặc đi học tập ngắn ngày 3,4 tháng đến trên dưới một năm. Điều này rõ rệt nhất là số sĩ quan, viên chức đi cải tạo được thả về đợt Tết Bính Thìn, tức là chỉ học tập khoảng 4, 5 tháng, được Cộng Sản công khai công bố đó là những thân nhân gia đình liệt sĩ, đảng viên cao cấp hoặc là những người “từng đóng góp cho cách mạng”. Trước khi thả những người này, các phường khóm ở Saigon được học tập chính sách đối với những người “có công với cách mạng” và Việt Cộng tổ chức đón rước những người học tập trở về tại vườn Tao Đàn. Cuộc tiếp đón chỉ lưa thưa gồm thân nhân của họ, dân chúng né tránh không đi đón. Người dân miền Nam rất sòng phẳng và thẳng thắn, họ khinh bỉ những người “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản”, đứng trong hàng ngũ quốc gia mà bí mật cộng tác với địch.

 

Những tên Cộng Sản nằm vùng được đãi ngộ xứng đáng hơn. Được đắc cử Dân biểu, được tuyển dụng vào ngành Công an, Tình báo, những tên này biết rõ xã hội miền Nam, phong tục tập quán của miền Nam, nên hoạt động đắc lực trong việc phá vỡ những tổ chức Phục quốc và bắt bớ những người trốn lánh học tập.

 

Trò hề bầu cử Quốc Hội được tuyên bố là “thắng lợi vĩ đại” của nhân dân cả nước, bầu Quốc Hội thống nhất đất nước lần thứ hai, sau khóa I Quốc Hội cả nước bầu năm 1946.

 

Dân miền Nam lại thêm một lần nữa đóng vai trò trình diễn dân chủ giả hiệu. Mấy chục năm ròng rã người dân được dạy cho những từ ngữ dân chủ tự do và những bài học tập sơ khởi về những chuyện bầu cử. Nhưng tất cả chính quyền Cộng Hòa hay Cộng Sản đều làm chuyện bịp bợm, những cuộc bầu cử từ năm 1946 đến nay cũng chỉ là những màn kịch dở, những trò hề, các chính quyền (Cộng Sản hay Cộng Hòa) đều “dạy” cho dân biết những ý niệm tự do dân chủ rồi chính những chính quyền đó tráo trở đi ngược lại điều họ nói, thực hiện trò chơi xảo trá. Chính trong hoàn cảnh đó, mà người dân Việt Nam tiến bộ nhanh chóng nhận thức về chánh trị, họ tiến nhanh hơn những người đi làm chính trị đã “dạy” cho họ. Những thế lực chính trị đều vì đặc quyền đặc lợi riêng tư, đảng phái phe nhóm đi ngược lại những điều dân biết, dân thích và dân mong muốn.

 

Đi ngược lại lòng dân, sự tiến bộ của dân tộc và trào lưu tiến hóa chung, những chính quyền lạc hậu dần dần bị loại bỏ, tạo ra các bất ổn xã hội, và trong đó chính quyền Cộng Sản là chánh quyền lạc hậu nhất, không thể nào bền vững nếu không có sức mạnh của bạo lực. Sự ổn định của bạo lực chỉ là tạm thời, một khi bạo lực không còn dùng được về sự tiến bộ của tư tưởng con người hay sự rã nát từ trong tổ chức bạo lực đó, thì chính quyền Cộng Sản phải tan rã. Trong niềm tin đó nhân dân miền Nam tiếp tục đứng lên, hết tổ chức này đến tổ chức khác, dù còn non nớt bị phá vỡ từ trong trứng nước, nhưng dân miền Nam không sợ, không nản chí, vẫn tiếp tục đứng lên. Hết đợt bắt bớ khủng bố này đến đợt khác. Cộng Sản dùng mọi hình thức trừng phạt nghiêm khắc, tử hình, chung thân, dân chúng vẫn không sờn lòng, vẫn xem án tù như trò đùa, nhà tù như nơi tạm nghỉ, vì sức đề kháng của miền Nam, âm thầm nhưng bền bỉ. Tiếp tục bắt, nhà tù, trại cải tạo chật ních người vì xây dựng nhà tù mới không kịp, chỉ trong vòng hơn một năm từ mùa Hè 1975 đến cuối năm 1976, tù trình diện cải tạo, tù phản động mới đến cả triệu người. Sức mạnh tiềm tàng của dân tộc Việt Nam ở đó, dân tộc Việt Nam tồn tại nhờ sự hy sinh của những người vô danh trong mọi giai tầng xã hội. Dân tộc Việt Nam không tồn tại do những người trí thức, vì quyền lợi, vì đê hèn, sợ sệt đầu hàng, lập Hội trí thức yêu nước, đem trí óc nặn ra những lý luận để biện minh cho chế độ Cộng Sản, để ru ngủ những người dân trong sự chịu đựng mà họ gọi là hành động khôn ngoan hoặc nhằm triệt tiêu sức đề kháng, dập tắt niềm hy vọng và ngọn lửa đấu tranh của toàn dân bằng lập luận “một đất nước bị Cộng Sản hóa rồi không quay trở lại được nữa”. Dân miền Nam đã bằng hành động đáp lại lập luận đó.

 

Trước 1975, Hà Nội nhận viện trợ quân sự và kinh tế của Trung Quốc-Liên Xô và khối Đông Âu. Mâu thuẫn Trung-Xô không ảnh hưởng đến Hà Nội. Càng mâu thuẫn nhau Trung Quốc và Liên Xô đều tăng cường viện trợ lôi kéo Bắc Việt về với họ. Cộng Sản Việt Nam được kể như đảng lớn và mạnh thứ ba trong khối Cộng Sản.

 

Sau cuộc chiến Việt Nam, Việt Cộng không thể tiếp tục đu đây giữa hai đàn anh, tình thế bắt buộc họ phải chọn và họ đã đứng hẳn với Liên Xô. Sự lựa chọn đó đã làm cho Trung Quốc tức giận nên có những biện pháp trả đũa.

 

Khởi đầu bằng những hình thức đòi nợ .Trung Quốc đòi Việt Cộng trả tất cả số gạo họ đã cho vay trong vòng hai tháng. Sau đó cắt giảm các hàng mục viện trợ, gây ra vụ nạn kiều và chiến tranh vùng biên giới.

 

Mâu thuẫn giữa Hà Nội và Bắc Kinh có hai điểm rõ rệt trước hết về truyền thống lịch sử, dân Việt Nam dù bất cứ thời nào, đều biết Trung Hoa là mối đe đọa thường xuyên đến nền độc lập của Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh, Việt Cộng vận dụng dân chúng bằng chiêu bài chống ngoại xâm, họ lập cả Viện Sử Học đề làm công tác đề cao tinh thần yêu nước. Lịch sử Việt Nam gần 100 năm thuộc Pháp, 1000 lệ thuộc Trung Hoa. Đối với người Việt Nam, kẻ ngoại xâm truyền thống không ai khác hơn là Trung Hoa. Dù cho cơ quan tuyên truyền của Bắc Việt phân biệt sự xâm lăng từ miền Bắc là do các thời đại phong kiến Trung Quốc, hiện tại Trung Quốc và Việt Nam là quan hệ anh em núi liền núi, sông liền sông. Trong hai cuộc chiến từ l945-l954 và l960–l975, Trung Quốc đã giúp Việt Cộng từ người lẫn của để đi đến chiến thắng. Nhưng tình thế chính trị thế giới xoay chuyển – mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô không hàn gắn được như lời tuyển bố của Lý

Tiên Niệm "Hai chính phủ Liên Xô-Trung Quốc có thể nói chuyện về những vấn đề chưa giải quyết như vấn đề biên giới, nhưng quan hệ giữa hai đảng Cộng Sản Trung Quốc và Liên Xô phải 800 năm nữa mới nói chuyện".

 

Nếu Hồ Chí Minh còn sống chắc chắn cũng từ bỏ nguyện vọng cao nhất của ông ta là đứng trung gian hòa giải hai đảng đàn anh vì sự tuyên bố có tính quyết liệt đó.

 

Trong sự chọn lựa bắt buộc giữa hai đàn anh. Việt Cộng phải chọn Liên Xô vì ít ra Liên Xô cũng ở xa hơn. Lệ thuộc một nước sát biên giới vẫn nguy hiểm hơn, và Liên Xô dầu sao cũng già có hơn Trung Quốc.

 

Sau khi chiếm miền Nam, những mâu thuẫn bắt đầu không giải quyết được. Họ bắt tất cả cán bộ tình báo Hoa Liên của Trung Quốc. Cán bộ cao cấp nhốt ở nhà giam Bộ Nội vụ (TNCSQG), nhà giam Sở Công An, Phan Đăng Lưu, Chí Hòa, cán bộ hạ tầng và thân nhân của họ bị tập trung vào một trung tâm ở Gò Dầu Hạ.

 

Ngay từ cuối năm 1975 và đầu năm l976, những bài học tập, thái độ của cán bộ Cộng Sản đối với người Hoa v.v... là dữ kiện cho những người có quan tâm về tình hình chính trị nhận định là mâu thuẫn Hà Nội và Bắc Kinh khó tránh khỏi chiến tranh, nhất là mâu thuẫn giữa Hà Nội và Nam Vang. Khmer Đỏ là tay sai của Bắc Kinh đã đưa tới những đụng độ quân sự ở biên giới Việt-Miên. Hầu hết người Việt Nam đều không ưa thích người Trung Hoa, người Việt Nam sợ Trung Quốc, sợ bị

Trung Quốc chiếm, lịch sử dân tộc Việt Nam và lịch sử của những cuộc chiến tranh chống Bắc xâm để bảo vệ tổ quốc. Hiện tại, đã đứng giữa những cái xấu, người dân Việt Nam còn e sợ mô thức xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa của Trung Quốc, vì mô thức đó đẫm máu hơn tại các nước Cộng Sản Âu châu. Người miền Nam trông mong chiến tranh xảy ra để hy vọng có sự chuyển đổi nào đó.

 

Những người Cộng Sản đặt quyền lời của đảng tùy theo mỗi giai đoạn, cho nên họ nhanh chóng chuyện đổi từ địch ra bạn hay từ bạn ra địch. Đối với họ chỉ có kẻ thù giai cấp là vĩnh viễn và kẻ nội thù được xem nguy hiểm nhất của họ để họ cần triệt tiêu. Họ từng khom lung cúi đầu xưng tụng Trung Quốc là anh em vĩ dại, rồi vì quyền lợi họ xem Trung Quốc là thù nghịch rồi có lúc vì quyền lợi họ lại sẽ quỳ mọp xưng thần.

 

Người Việt Nam chân chính, theo truyền thống dân tộc, không hiểu chiến, không tự cao, luôn luôn giữ mối giao hảo tốt với lân bang, không xem Trung Quốc là kẻ thù, nhưng cũng không ôm đồm làm bạn, luôn luôn gìữ hoa hiếu nhưng cũng luôn luôn đề phòng và sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ tổ quốc.

 

Về mặt tư tưởng trong khối Cộng Sản cũng có nhiều chuyển biến. Trước hết Đại Hội lần thứ 22 các đảng Cộng Sản Đông Âu có khuynh hướng đòi độc lập với Liên Xô. Các nước Đông Âu là nơi bị áp đặt chế độ Cộng Sản. Tương quan giữa Đông Âu và Liên Xô là tương quan giữa nước bị trị và nước xâm chiếm. Tương quan kinh tế là sự lệ thuộc có tính cách gia công mà Hiến Pháp Liên Xô ghi nhận một cách mỹ miều là sự phân công lao động quốc tế.

 

Mất viện trợ Trung Quốc, Việt Cộng trông cậy vào sự giúp đỡ của Liên Xô và Đông Âu - chỉ có Liên Xô tiếp tục viện trợ cho Việt Cộng để nhằm độc quyền khai thác về phương diện quân sự một điểm chiến lược của Liên Xô ở Thái Bình Dương, về chính trị lôi kéo một quốc gia đông dân thứ 2 trong khối Cộng Sản, có một đảng Cộng Sản mạnh nhất vào với Liên Xô và về kinh tế khai thác nguồn lợi sản phẩm vùng nhiệt đới mà khối Cộng Sản đang thiếu.

 

Các nước Đông Âu từ chối thẳng thừng sự trợ giúp. Trong một phiên họp của khối Commecon năm l976, lúc đó Việt Cộng còn là quan sát viên, kế hoạch phát triển kinh tế Việt Nam do Lê Thanh Nghị trình bày bị bác khước phần tài trợ. Sau này Việt Cộng gia nhập Commecon cũng không được giúp đỡ nhiều vì ngay bản thân các nước Đông Âu cũng khó khăn về kinh tế, họ không sản xuất đủ tiêu dùng và tài sản xuất cảng không đủ trả tiền lời khoản nợ quốc tế đến hàng chục tỷ đô la.

 

Mặt khác các đảng Cộng Sản lớn ở Tây Âu như Cộng Sản Pháp, Cộng Sản Ý và Cộng Sản Nhật Bản phê phán và từ bỏ chủ trương chuyên chính vô sản. Trong lý thuyết Cộng Sản nếu chuyên chính vô sản và tập trung dân chủ bị phê phán tức là lý thuyết Cộng Sản bị đánh vào tận cốt lõi.

 

Định ước Helsinski ký vào năm 1976, giữa hai khối Nato và Varsovie buộc các nước Cộng Sản tôn trọng nhân quyền mở đầu cho sự cởi mở trong khối Cộng Sản và kỷ nguyên chính trị mới.

 

Một thay đổi quan trọng trong đường lối của Mỹ đã làm thay đổi sâu xa bộ mặt thế giới là thuyết 4 thế giới của Brezinski thay thế cho thuyết Domino trong chiến lược toàn cầu Mỹ.

 

Thuyết Domino buộc Hoa Kỳ phải viện trợ kinh tế và quân sự và còn can thiệp quân sự bằng chiến tranh cục bộ để bảo vệ các nước nhược tiểu, để các nước này không lọt vào tay Cộng Sản làm sụp đồ hệ thống các quốc gia tự do trên thế giới.

 

Chiến lược này làm cho Hoa Kỳ tốn nhiều tiền nhưng chỉ đem lại sự chỉ trích ngay tại các nước nhận viện trợ. Thuyết Domino làm Mỹ trở thành "sen đình quốc tế” hay "tên can thiệp” như luận điệu của khối Cộng Sản và làm cho Liên Xô trở nên mạnh với lý thuyết "ba dòng thác cách mạng" (sự hình thành của các quốc gia Cộng Sản, phong trào giải phóng dân tộc, và phong trào đấu tranh đòi dân chủ dân sinh ở trong các nước Tư Bản). Sự sa lầy trong cuộc chiến tranh địa phương làm cho Hoa Kỳ mất uy tín trên thế giới, mâu thuẫn với đồng minh, và làm cho dân chúng Hoa Kỳ không ủng hộ chính phủ của họ

 

Tình thế của Hoa Kỳ khi tham chiến ở Việt Nam là một ví dụ rõ ràng nhất.

 

Thuyết 4 thế giới, khiến Hoa Kỳ rảnh tay trong các cam kết, không cần can thiệp hay bảo vệ quốc gia nhỏ, viện cớ là các quốc gia này tự quyết định lấy vận mang của dân tộc họ, rất hợp với tư tưởng chính trị thời đại. Hoa Kỳ lại rảnh tay làm hai công việc quan trọng. Thứ nhất là tập hợp các quốc gia phát triển (gọi là loại quốc gia số l - thế giới thứ 1) để có một sự thống nhất, và đoàn kết tương đối giữa các nước tư bản. Hội nghị Nassau năm 1976 khai sinh ra Hiệp Hội 7 Quốc Gia Phát Triển ( Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản). Thứ hai, Hoa Kỳ và các quốc gia phát triển thống nhất chính sách đối ngoài để "đẩy mạnh sự chia rẽ trong khối Cộng Sản" trong khi các quốc gia Cộng Sản đã có mầm chia rẽ (thế giới thứ 4), cũng như bảo vệ những quốc gia có tiềm nàng kinh tế (thế giới thứ 2) có quan hệ sống còn với nền kinh tế của các nước tư bản.

 

Khối Cộng Sản đã ước tính sai, khi dự trù đối đầu với Hoa Kỳ tại một chiến trường tiêu hao sau Việt Nam là Angola. “Sau Việt Nam" từ ngữ chính trị mà Cộng Sản thường rêu rao để chỉ thời kỳ hưng thịnh của họ, nhưng thực tế sau Việt Nam là thời kỳ suy sụp của khố Cộng Sản.

 

Liên Xô giúp đỡ vũ khí và đem 12 ngàn quân Cuba giúp mặt trận MPLA đánh bại hai đối thủ PNLA và UNITA chiếm trọn xứ Angola và dự trù Hoa Kỳ sẽ đương đầu ở đó để ngăn chặn Liên Xô chiếm Phi châu là nơi có những tài nguyên và điều kiện dân chúng thấp kém dễ truyền bá thuyết Cộng Sản. Trong những ngày đầu sau khi chiếm miền Nam, Bắc Việt đã vội đưa quân qua Angola, một tiểu đoàn đầu tiên Bắc Việt xuống tàu Liên Xô vào tháng 6-75 (Đài VOA và BBC). Nhưng Hoa Kỳ đã không can thiệp hay chỉ can thiệp qua trung gian của Nam Phi giúp UNITA duy trì cuộc chiến tranh du kích tiêu hao. Sau đó Ethiopia, Afganistan, Nicaragua tiếp tục lọt vào tay Cộng Sản vẫn không có sự can thiệp của Hoa Kỳ và Tây Phương. Trái lại Liên Xô đem 60 ngàn quân xâm lăng Afganistan cũng như Việt Nam xâm lăng Kampuchia làm cho các nước Cộng Sản sa lấy trong cuộc chiến phi nghĩa, tiêu hao, bị mất uy tín chính trị, và cái cớ cho Hoa Kỳ và Tây phương mở cuộc chiến tranh mới về chính trị và kinh tế, tức cấm vận để bao vây kinh tế và cô lập chính trị vì sự vi phạm nhân quyền.

 

Một điểm quan trọng về chính trị nữa là thuyết 4 thế giới chủ trương thả nổi các nước nhược tiểu (thế giới thứ 3) thúc đẩy tham vọng của Trung Quốc muốn trở thành môt siêu cường lãnh đạo thế giới thứ 3 - Đặng Tiếu Bình chủ trương thuyết thế giới, và muốn cải cách có giới hạn Trung Quốc để chứng tỏ rằng các nước trong thế giới thứ 3 không thể đi theo con đường Cộng Sản vì xây dựng xã hội chủ nghĩa không phát triển được đất nước, và cũng không theo được mô thức Tư bản chủ nghĩa vì chưa có điều kiện. Vậy Đặng Tiếu Bình vạch ra một mô thức mới, đó là con đường phát triển kiểu Trung Quốc, chính trị mạnh, và kinh tế cởi mở, nhưng đây cũng chỉ là một mơ ước vì không thể nào thành công khi cởi mở kinh tế mà vẫn cứng rắn về chính trị.

 

Việc tương tranh quyền lãnh đạo giữa hai khuynh hướng “thực dụng” do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo (với tư tưởng mèo trắng mèo đen cũng được quí hồ bắt được chuột thì thôi) và khuynh hướng "giáo điều" do Giang Thanh đứng đầu. Dù đang nắm quyền xử lý Quốc vụ viện Trung Hoa (Thủ tướng) Đặng Tiểu Bình vẫn bị đài Bắc Kinh gọi là 'kẻ cầm quyền lớn nhất trong Đảng đi con đường Tư bản chủ nghĩa mà không biết hối cải”. Cái chết của Chu Ân Laỉ năm 1976 làm Đặng Tiểu Bình mất chỗ dựa, bị loại ra khỏi 6 chức vụ từ Đảng, Quân ủy và Nhà nước chỉ còn giữ đảng tịch. Nhưng dù phe nào thắng thế ở Trung quốc cũng đưa đến việc chống Liên Xô quyết liệt vì tư tưởng chống Liên Xô phát khởi từ Mao Trạch Đông mà hai phái “thực dụng" và "phàm là" (giáo điềm của Trung quốc đều phải đưa vào Mao Trạch Đông để chứng minh tinh thần chính thống của họ và đều phục vụ cho nhu cầu biến Trung Quốc thành một siêu cường giữa hai siêu cường đã có là Mỹ và Liên Xô. Trong tình thế đó, một khi một bên loại bên kia ra khỏi chính quyền, thì về phương diện đối ngoại họ phải giải quyết vấn đề Việt Nam, vì Việt Nam đang tự biến mình thành đồng minh thân thiết của Liên Xô, một mũi đao đâm vào cạnh sườn Trung Hoa đồng thời cũng là nút chận sự bành trướng của Trung Quốc vào vùng Nam Thái Bình Dương. Do đó, chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam không tránh khỏi. Những nhà lãnh đạo Hà Nội cũng nhận thấy điều đó, nhưng cái thế đi với Liên Xô không thể khác được, và sự lôi kéo của Liên Xô đối với Hà Nội rất dứt khoát. Một chi tiết nhỏ phản ảnh điều đó, khi Võ Nguyên Giáp đại diện cho Hà Nội đi thăm Mạc Tư Khoa, họ Võ đọc diễn văn có đề cập Việt Nam là nước đông dân thứ ba trong khối XHCN đã bị Suslov sửa lại trong bài diễn văn của ông ta sau đó là nước Việt Nam là nước đông dân thứ hai trong khối XHCN sau Liên XÔ. Hà Nội cứ nhiều phái đoàn qua Trung Quốc mong cải thiện mối giao hảo trong thế đu dây của mình nhưng hoàn toàn thất vọng vì sự dứt khoát của hai phía Liên Xô và Trung Quốc. Tố Hữu đã làm 4 câu thơ đăng trên báo Nhân Dân:

 

Tình bạn ngày nay đã khác xưa

Chỉ e sớm nắng lại chiều mưa

Chợ trời nhân nghĩa e thừa thiếu

Hàng hóa lương tâm vẫn thiếu thừa

 

Nhận định đúng thời cuôc. Hà Nội chuẩn bị để đối phó với Trung Quốc và Đại hội kỳ IV của đảng Cộng Sản Việt Nam vài tháng 11-1976 thảo luận chủ yếu về đề tài đó.

 

Trong tình thế toàn dân bất mãn với chế độ Cộng Sản, mong muốn sự tác động từ bên ngoài thúc đẩy những cuộc nổi dậy từ bên trong để lật đổ bạo quyền. Nhiều tổ chức chống đối vừa mới nhen nhúm đã bị công an bắt sạch, vì một bên kỹ thuật nắm chính quyền của công an Cộng Sản quá tinh vi, một bên dân chúng thiếu lãnh đạo và rèn luyện nên thực tế chưa đủ sức đối đầu - Những tổ chức đối kháng chưa làm nên những thành tích để làm hại chính quyền Cộng Sản về vật chất rõ rệt, nhưng những lực lượng đối kháng có giá trị lịch sử, chứng tỏ hùng hồn là chính quyền Cộng Sản không được lòng dân, không phải là một nhu cầu của xã hội Việt Nam. Chính quyền Cộng Sản dùng bạo lực để đàn áp càng lộ mặt thật giả nhân giả nghĩa ngụy tạo thế đứng lịch sử của Cộng Sản trước sự nhận định của nhân loại và người dân trong nước. Nhân dân thế giới thấy rõ ràng tại sao Đảng Cộng Sản Việt Nam mới được đa số dân Việt Nam ủng hộ trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chỉ một thời gian quá ngắn ngủi sau khi chiếm trọn quyền đã bị dân Việt Nam đối kháng mạnh bạo như vậy.

 

Cùng lúc đó để triệt tiêu tư tưởng chống đối, Cộng Sản xây dựng trí thức và nhà báo miền Nam đầu hàng như các ông Lê Văn Thới, Trần Thúc Linh, Trần Kim Thạch, Phạm Hoàng Hộ, Lý Quý Chung, Chu Phạm Ngọc Sơn tung ra một luận điệu hồ đồ là “một nước bị Cộng Sản cai trị không bao giờ lập lại được”. Luận điệu này cũng có tác dụng làm cho một số người tiêu cực trong hàng ngũ trí thức miền Nam tham gia sinh hoạt Hội trí thức yêu nước. Có nhiều người có trình độ học vấn, có công trình nghiên cứu khoa học, nhưng thiếu tâm hồn thiết tha với sự tồn vong của dân tộc, thiếu lòng yêu nước, thiếu một niềm tin, họ đã đầu hàng và làm công một cách rẻ tiền cho chế độ, đem hiểu biết của mình phục vụ cho nhu cầu trấn áp của bạo quyền. Trong suốt bao nhiêu năm tháng đầu tiên Cộng Sản xâm chiếm miền Nam, nhà khoa học - nhà giáo Phạm Hoàng Hộ - đã viết hàng loạt bài ca tụng rau muống là bíp-tết xanh, khoai mì là một thức ăn quý, cần phải ăn từ củ cho tới lá mới hợp cách; hạt bột khoai mì là hạt trân châu cả thế giới tư bản đang làm giả mạo để bán ở các tiệm ăn lớn..v..v.. Nhà báo Lý Quý Chung kiên trì phân tích “tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa”, cứ mỗi huy chương vàng của các lực sĩ Liên Xô, Đông Đức, Ba Lan từ Thế Vận Hội Montréal đều được nhà báo Lý Quý Chung phân tích thành những giá trị siêu việt của tư tưởng, phong cách thể thao Mác-Lê. Không biết khi “đặt hàng” Việt Cộng có đủ khả năng để đi vào các điểm chi tiết hay không, nhưng những nhà trí thức miền Nam đầu hàng giai cấp muộn màng đó (nếu đầu hàng giai cấp sớm đã trở thành đảng viên Cộng Sản) ra sức dùng ngòi bút ca tụng và tô hồng chế độ đến người đọc phải ngượng ngùng cho giá trị của chữ nghĩa. Nhưng người dân Việt Nam thực tế, người ta hiểu rõ giá trị của thịt bò là thịt bò, rau muống là rau muống, rau muống không thể là thịt bò xanh (bíp-tết xanh). Có người ao ước một lúc nào đó có dịp để đói với nhà trí thức Phạm Hoàng Hộ dăm ba ngày, rồi dọn mâm cơm với thịt bò và mâm khoai mì với rau muống để nhà trí thức chọn lựa món ăn. Dân Saigon và dân miền Nam cũng đã thực tế trước mắt được xem những đội bóng đá với tác phong XHCN tại sân Cộng Hòa (đổi là Thống Nhất) và dân Sài Gòn cũng như các cầu thủ luôn luôn ấm ức vì trước trận đấu là Đảng chỉ thị cho sở Thanh Niên buộc cầu thủ miền Nam phải thua, phải để cho “miền Bắc ưu việt” thắng. Tuyên truyền và thực tế đối chiếu, thật giản dị. Việt Cộng và bọn văn nô càng cố gắng tuyên truyền càng tỏ ra lố bịch trước sự nhận định sáng suốt trưởng thành của người dân miền Nam. Người miền Nam tiếc rẻ những cái gì đã mất, có mất rồi mới biết quý, mới ân hận là mình không biết giữ gìn… rồi có người buột miệng “Đ.M thằng cha Thiệu, cái gì cũng bậy, mà cuối cùng nó nói được cái câu đúng quá xá: “Đất nước mất thì mất tất cả” và “đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”.

 

Chánh sách giãn dân cưỡng bách những gia đình đông con nghèo khổ, những gia đình thân nhân đi cải tạo phải đi vùng kinh tế mới, phong trào Thanh niên xung phong đưa những nam nữ thanh niên đi khai thác những vùng núi non rừng thiêng nước độc. Kế hoạch đào kinh vét mương thủy lợi huy động hết mọi tầng lớp dân chúng Saigon. Tập thể dục buổi sáng 8 động tác cơ bản, học tập chính sách nhà nước, họp tổ, đọc báo từng tổ dân phố, động viên thanh niên, lạc quyên, đóng góp… không lúc nào cách mạng hết việc làm. Các tổ trưởng đoàn kết, tổ dân phố, tổ trưởng thanh niên, phụ nữ đi lại như mắc cửi.

 

Mặt khác Saigon vẫn tiếp tục những tin đồn đãi và chợ trời nhộn nhịp, công an đi tảo thanh, bắt bớ, bắt tại nhà, bắt trong quán cà phê, chặn xe bus, đón trên đường xét giấy tờ, Saigon náo nhiệt, hỗn độn và nhiều đe dọa như thế suốt cả năm 1976. Không còn chỗ đứng cho người đàn ông của miền Nam. Chỉ còn hai con đường lựa chọn hoặc tham gia một tổ chức Phục quốc hoặc tìm đường ra nước ngoài.

 



 


Chương Sáu

 

Đang ngồi uống cà phê ở quán ngay dưới nhà tôi trú ngụ. Nhìn quanh thấy nhiều khách lạ, tôi thấy không yên, đứng dậy định đi ngay ra đường Trương Minh Giảng nơi chợ trời đông đảo để thoát qua bên khu Kiến Thiết. Tôi trả tiền dượm bước đi thì ngay sau lưng tôi có tiếng gọi:

 

- Anh Nguyễn Chí Thiệp đứng lại, nếu chạy tôi bắn.

 

Chưa kịp có phản ứng thì đã thấy chung quanh có bốn năm người chĩa K-54 vào tôi. Ngay cổng vào nhà hai tên xuất hiện với hai khẩu AK-47, và sau nhà tôi đi ra hai tên khác với hai khẩu AK-47. Một tên bước đến bên tôi móc còng khóa hai tay tôi về sau lưng, tôi biết hắn là Đỗ Hữu Cảnh, Luật sư.

 

Chúng dẫn tôi vào phòng khách, đọc lệnh bắt và xét nhà với tội danh là “trốn học tập cải tạo”. Tôi đưa giấy chứng nhận cải tạo tại cơ sở 3 ngày. Cảnh sửa lại “tham gia tổ chức phản cách mạng”. Tôi phản đối rằng không thể bắt tôi với một lý do mơ hồ như vậy, hắn bảo tôi trả lời tại Sở Công An Thành Phố, hắn chỉ làm nhiệm vụ. Tôi thấy không cần phải đối chất thêm vì biết Cộng Sản khi đã bắt người thì không cần oan hay ưng. Tôi chỉ phản đối trên lý lẽ thôi. Còn việc chúng bắt tôi là điều tôi đã nghĩ tới từ lâu nếu tôi không đi thoát được. Chúng khám nhà rất tỉ mỉ. Giường nệm bị tháo bung, chúng nạy cả những viên gạch bông trên sàn nếu thấy có vết tích gì khiến chúng nghi ngờ, những cuốn sách tôi đọc hầu như chúng lật từng trang kể cả sách của Hà Nội xuất bản.

 

Cảnh ném các sách tôi đọc ra hai bên phân biệt hai loại sách, một bên gồm các bản dịch các tác phẩm “Giai Cấp Mới” của Mildovan Dijlas, “Quần Đảo Ngục Tù” của Solzhenitsyn, “Những Người Con Gái Của Lưu Phu Nhân” của Pearls Buck… và một bên gồm mấy cuốn “Dưới Bóng Cờ Vẻ Vang Của Đảng, Vì Sự Nghiệp Giải Phóng Dân Tộc, Vì Chủ Nghĩa Xã Hội” của Lê Duẫn, “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến Dũng, “Thuyết Mácxít và Văn Hóa Việt Nam” của Trường Chinh. “Bộ Sử Ký Tư Mã Thiên” do nhà xuất bản Khoa Học Hà Nội xuất bản. Cảnh chỉ những cuốn sách xuất bản ở miền Bắc hỏi tôi:

 

- À anh cũng đọc sách này à?

 

- Vâng tôi đọc để tìm hiểu cách mạng. 

 

- Tìm hiểu để chống lại hả? Hắn hỏi tiếp.

 

- Anh nói gì tôi không hiểu? Tôi đáp.

 

- À anh không hiểu hay vờ không hiểu?

 

Tôi không nói gì.

 

Hắn chỉ qua một ba lô nhà binh hỏi tôi:

 

- Anh dùng vật dụng quân sự này để làm gì?

 

Tôi đáp:

 

- Đồ này bán ngoài chợ trời, thấy rẻ mua để đựng áo quần khi cần di chuyển. Các loại va li được giá tôi đã bán cả rồi.

 

Hắn hằn học:

 

- Anh bôi bác chế độ hả, anh nói thế để chỉ là Cách mạng vào anh phải bán hết đồ phải không?

 

- Đó là ý của anh, không phải tôi bôi bác, tại các anh hỏi, tôi trả lời đúng sự thật.

 

Xét xong tất cả phòng - tên cán bộ lục xoát nãy giờ hỏi tôi:

 

- Anh làm Phó tỉnh trưởng ngụy quyền mà tài sản chỉ chừng này thôi sao?

 

Tôi không trả lời câu hỏi của hắn. Cảnh làm biên bản xét nhà, hắn tịch thu cái xắc nhà binh, mấy cuốn sách gọi là phản động. Khi hắn ghi cái radio cassette là vật tịch thu, tôi phản đối:

 

- Anh chỉ được tịch thu những cái gì bị cấm sử dụng. Cái radio cassette là vật được sử dụng. Từ ngày 30-4-75 đến nay không có thông cáo nào cấm sử dụng radio, trái lại radio bán đầy chợ trời và cán bộ cũng mua rất nhiều.

 

Chúng hội ý nhau một lúc, xong bỏ cái radio lại, nhưng tịch thu các cuốn băng nhạc. Hắn nói các cuốn băng cần được kiểm tra, vợ tôi yêu cầu kiểm tra tại chỗ. Nàng nói:

 

- Nhỡ đem về các ông thu vào đó những gì bất hợp pháp rồi đổ tội cho chồng tôi.

 

Cảnh đáp:

 

- Bà cứ yên tâm, chúng tôi không làm chuyện như vậy, việc khám nhà tốn nhiều thì giờ, chúng tôi không có thì giờ kiểm tra tại chỗ.

 

Tôi yêu cầu ghi biên bản đó là băng nhạc vàng, và bảo vợ tôi không cần phản đối chi tiết đó. Cuối cùng biên bản hắn ghi “Khi bị bắt can phạm và gia đình tỏ ra bình tĩnh và có thái độ ngoan cố”.

 

Vợ tôi lo sợ và không bằng lòng hai chữ ngoan cố, nàng phản đối, tôi nói: “Họ bắt mình họ muốn ghi gì cũng được”.

 

Chúng tôi vừa ký vào biên bản, tôi người bị bắt, vợ tôi, chủ nhà, Cảnh, nhân viên Sở Công An Thành Phố và tên đại diện Công an phường - tất cả 4 chữ ký theo thủ tục.

 

Hắn bảo vợ tôi soạn cho tôi ít quần áo, và cái mùng vào trong túi xách.

 

Nghe tiếng chân nhảy trên cầu thang, tôi biết là tiếng chân của Vũ, đứa con đầu lòng năm đó 7 tuổi. Vũ đi học từ sáng, mỗi khi về nhà nó thường nhảy từng hai bậc thang từ dưới lên phòng. Tôi đau nhói ở tim, khi nghĩ đến con - Vũ chạy vào phòng thấy tôi bị còng hai tay, nhà đầy công an và đồ vật vất tung - nó trợn mắt kinh ngạc xong chạy lại ôm tôi, nó chỉ nói lên một tiếng Ba, rồi ôm tôi khóc. Hai tay tôi bị còng quặp về sau lưng, tôi không vuốt được tóc Vũ, không sờ được con, chỉ lặng thinh cho nó ôm ngang lưng, tôi cố kìm nước mắt không khóc theo nó. Bề nào tôi cũng cố giữ sự bình tĩnh trước mặt bọn công an. Từ lúc bị bắt đến giờ tôi không cảm thấy lo sợ, chỉ thấy là những điều mình lo lắng lâu nay đã tới, như một cái bóng căng lên, bây giờ bị xì hơi thế thôi, hết còn hồi hộp lo âu, nên tôi bình tĩnh. Nhưng bây giờ trước mặt đứa con trai thương yêu của tôi, con tôi khóc, tôi thật đau lòng, thật xúc động, tôi cảm thấy ngay cái lỗi lầm, ngay cái quyết định sai lầm, bây giờ hậu quả đã hiển nhiên trầm trọng. Tôi phải chịu sự tù đày mà vợ con tôi chắc chắn sẽ phải khổ đau suốt rất nhiều. Lúc tôi quyết định ở lại dường như tôi quên nghĩ đến con, đến tương lai của những đứa nhỏ - nếu tôi đi dù sao thì mấy đứa nhỏ cũng còn được học hành. Bây giờ thì tương lai đen tối đã phủ xuống gia đình tôi. Bọn công an dẫn tôi xuống nhà, vợ tôi đi theo, những người ở cùng trong một khu nhà tôi đứng xem rất đông, có người nói: “Bé Trang đâu, gọi bé Trang về cho anh”. Tôi nói: “Thôi đừng gọi bé Trang”. Tôi biết nếu tôi thấy bé Trang khóc, tôi sẽ không cầm được nước mắt. Tôi không muốn khóc trước mặt bọn cán bộ. Tôi biết nếu tôi nhìn thấy bé Trang, lúc đó tôi sẽ khóc.

 

Tôi nói với Tuyết:

 

- Lúc nào đi thăm anh được phải đem bé Trang cho anh thăm ngay nhé.

 

Bé Trang là con gái út của tôi - năm đó 3 tuổi - Hơn một năm qua suốt ngày trong phòng tôi chơi với nó - mỗi lần có việc cần đi xa vài ngày nói với nó: “Con ở nhà ba đi rồi ba về”, lúc nào bé Trang cũng nói với tôi: “Ba đi về liền nghe. Ba đi đâu ba đi hoài”. Lần ra đi này biết bao giờ ba mới về với bé Trang. Tôi nghĩ thương con vô hạn - Bước ra khỏi nhà, cố nén tất cả xúc động để cho dáng đi của tôi khoan thai, không thảm não trước mặt bọn công an.

 

Ngồi ở băng sai chiếc xe Toyota Corolla trắng ngà, giữa hai tên công an Tên Công an phường bắt tay giã từ cùng với 4 tên công an võ trang xách AK về Phường 11 cách nhà tôi khoảng 100m. Hai tên công an khác lên một chiếc xe Honda. Tôi nhìn lại mọi người thân quen ở nhà. Những người buôn bán chợ trời trên hè đường đều ngừng lại nhìn theo tôi. Tôi khẽ gật đầu chào khi chiếc xe lăn bánh, mọi người nhìn theo. Lúc đó tên ngồi bên phải tôi đẩy tôi chồm về phía trước, hắn rút ra miếng vải đen bịt mắt tôi lại. Hắn nói “Đây là thủ tục, anh đừng sợ”.

 

Tôi không thấy sợ. Từ khi trốn lánh đến giờ lúc nào tôi cũng sợ bị bắt, đi ra đường thì lựa những đường hẻm mà băng, ra tới lộ thì sợ công an đón xét giấy, nằm ở nhà nghe tiếng xôn xao dưới nhà là hồi hộp sợ người đến bắt. Bây giờ mới biết tụi công an đến nhà bắt thật êm, và tôi cũng hết còn sợ nữa. Trái lại còn thấy nhẹ nhõm như trút một gánh nặng.

 

Tôi ước lượng tốc độ và khoảng đường để thử đoán xe chạy về đâu, đường vắng xe chạy nhanh, tôi đoán xe đã chạy tới đường Trần Quốc Toản, sau khi xe chạy một vòng tròn từ đường Hiền Vương ra, sau đó xe chạy quanh co nhiều lần tôi không còn biết phương hướng. Tôi không biết tụi nó sẽ ghép tôi vào tội gì, lúc đến bắt lịnh ghi là trốn học tập cải tạo rồi sửa lại là tham gia tổ chức phản cách mạng, tổ chức nào? Có người móc nối tôi vào tổ chức Phục Quốc, nhưng tôi từ chối vì biết không thể hoạt động ở nội thành - vào bưng để chiến đấu thì không có tổ chức nào có mật khu. Có lần tôi lên Dốc Mơ, để được đưa vào mật khu, không thành, chắc chắn vụ này tụi nó không biết.

 

Bước ra khỏi xe tên ngồi bên cạnh nhét cái túi hành trang vào tay tôi rồi cầm tay tôi dẫn đi khoảng 50m, bước lên bậc thềm bước vào nhà. Khi tấm vải bịt mặt mở ra tôi chóa mắt vì ánh sáng.

 

Làm thủ tục nhập trại, Cảnh giao tôi cho một tên công an đứng tuổi, hắn trạc 50, tóc hớt ngắn, trán thấp, mặc sơ mi trắng cháo lòng bỏ ra ngoài cái quân công an màu hỏa hoàng cũng đã cũ, miệng đầy răng vàng. Hắn nói giọng Nam lai giọng Bắc – tôi đoán là tên bộ đội tập kết miền Nam chuyển ngành Công An.

 

Hắn hỏi lý lịch tôi: Tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh và địa chỉ để một cô gái mặc đồng phục công an viết vào sổ cái. Tôi vừa trả lời vừa liếc nhìn vào trang giấy ghi Lê Đình Thảo ngày nhập trại 24/9 – Ngô Văn Vinh 22/9 – Vĩnh Hầu 22/9 – Hồ Công Lộ 22/9… tôi cố liếc nhanh để tìm xem tên Trần Đình Sào, không thấy.

 

Tôi phân vân, đáng lẽ mình bị bắt chung với những người trên đây. Thảo là bạn học, Thảo, Sào và tôi chuẩn bị vượt biên bằng đường bộ, Hồ Công Lộ, Luật sư ở Đà Nẵng, cũng là bạn cũ từ lâu lắm tôi không gặp – Ngô Văn Vinh và Vĩnh Hậu nhờ Trần Đình Sào móc nối tôi vào tổ chức nhưng tôi đã từ chối. Sào nói với tôi họ hẹn tôi tại cà phê Ngọc, tôi không đến sao lại bị bắt chung với họ. Còn Sào đâu? Hoàng đâu? Hai người này có bị bắt hay không? Tôi nghĩ thật nhanh, Cảnh và tên trưởng khu giam nói chuyện gì với nhau tôi không để ý, cô gái nữ công an nói như an ủi:

 

- Chú đừng lo, ở không có lâu đâu.

 

Thật thì tôi đang lo, còn ở không lâu chắc tôi không tin nổi, vì tôi đã nghĩ là nếu bị bắt không tránh khỏi ở tù lâu.

 

Nhưng dù sao câu nói của cô gái lúc đó cũng thấy dễ chịu. Thủ tục xét hành trang, số tiền đủ loại vợ tôi nhét vào túi quần cho tôi trước khi tôi rời nhà ra xe được đếm $184 - Tên trưởng trại bảo cô ghi đăng ký $170 – hắn đưa $14 cho tôi nói:

 

- Giữ phần này để xuống đó mua thuốc hút đỡ buồn. Tôi không hút thuốc nhưng cũng nhận tiền bỏ túi.

 

Tôi được dẫn xuyên qua hành lang có 3 phòng trống đó là nơi hỏi cung, cuối dãy nhà có một phòng giam, nhìn vào thấy toàn đàn bà. Trời nóng, có người chỉ mặc quần cụt và nịt ngực, người nào cũng cầm chiếc quạt phe phẩy, cuối dãy là một ngả ba, hành lang bên phải dẫn vào hai phòng giam. Rẽ theo hành lang trái, gặp ngay phòng giam thật kín, qua khoảng hở nhỏ trên tấm cửa tôi cũng thấy lúc nhúc những người đàn ông trong ánh sáng lờ mờ, người nào cũng ở trần trụi, tay cầm quạt làm thành một hoạt cảnh như một phim câm vì không ai nói chuyện. Họ sợ tên cán bộ đang dẫn tôi đến trước một cửa sắt. Hắn bảo tôi đứng lại, xong lấy chìa khóa mở một ống khóa Viro to chắc chắn. Bên trong cửa sắt là hai dãy phòng cửa đóng kín, ánh sáng từ hai lỗ trống bằng hai viên gạch trên nóc tường chiếu xuống lờ mờ thành hai vệt sáng dài. Hai ngọn đèn bóng treo lơ lửng từ trên nóc nhà xuống không đong đưa vì trong phòng kín gió. Cả phòng im phăng phắc. Tôi tưởng tượng như được dẫn vào một nhà mồ. Tên công an dẫn tôi, vừa đi hắn vừa đập vào những cửa sắt vừa gắt: "Nhìn gì, muốn còng không thì bảo. Đây là xà lim, hắn mở cửa phòng số 13, bảo tôi đứng ngoài hắn bước vào trong phòng lom khom ở cuối phòng, tôi nghe tiếng xích sắt loảng xoảng. Chưa kịp nghĩ ngợi thì hắn gọi tôi vào - bảo tôi bỏ dép ra, và đưa chân phải cho hắn. Lúc đó tôi mới nhìn thấy hắn lôi ra một thanh sắt to bằng bắp tay dài khoảng gần 1m, giữa có hai vòng sắt và thanh sắt được hàn dính vào một xích sắt dài và xích sắt được gắn chặt vào tường bằng một vòng sắt khác, cọng sắt to bằng ngón tay.

 

Tôi bị còng một chân. Hắn bảo tôi đứng thẳng dậy, tôi đứng hơi khó vì chưa quen lối còng với thanh sắt nặng. Hắn nói:

 

- Vào đây phải chấp hành nội quy trại, thành thật khai báo tội lỗi của mình và đồng bọn để nhận được sự khoan hồng của đảng và nhà nước, đảng và nhân dân đánh kẻ chạy đi chứ không đánh kẻ chạy lại, khai báo tốt sẽ được viết thư, nhận quà. Không được nói chuyện với phạm nhân khác, nếu bắt gặp tôi sẽ còng chéo hai chân anh lại, không được khua dây xích làm ồn ào - không được đứng ngay cửa nhìn ra ngoài. Anh nghe rõ chưa?

 

Tôi đáp:

 

- Rõ.

 

Hắn nói một thôi thuộc lòng theo đúng nghề nghiệp và việc làm hàng ngày mỗi khi đưa tù vào xà lim, xong đứng nhìn quanh cái phòng chật hẹp khoảng 2m bề sâu và kém 2m bề ngang, dường như muốn xem trong phòng có chỗ nào để tôi có thể thoát ra không.

 

Hắn bước ra khóa cửa lại lẩm bẩm:

 

- Xem thử ngoan cố đến độ nào?

 

Thì ra đây là món đầu tiên tôi phải chịu vì thái độ dửng dưng của tôi khi bị bắt, mà tên Cảnh đã ghi vào biên bản là “thái độbình tĩnh và ngoan cố". Bọn công an đi bắt người chúng nó muốn nạn nhân phải tỏ ra sợ sệt, chúng nó không chịu thái độ dửng dưng của người bị bắt, thảo nào khi chúng đi bắt một người không có sức kháng cự như tôi cũng võ trang đến tận răng, súng ngắn, súng dài đủ loại cả chục khẩu.

 

Tôi ngồi xuống cái bục xi măng cao khoảng 2 tấc, chia căn phòng làm 2 phần, cái bục là chỗ cho tù nằm nghỉ, phần nền nhà thấp từ cửa vào, tù gọi đó là phi đạo, cuối phi đạo là cầu tiểu, cái vòi nước cũ khóa không kín nhểu nước tí tách đều

đều.

 

Tôi nhấc thanh sắt xoay chiều dọc để ngồi thoải mái từ trên bục, thanh sắt khá nặng, độ dài của xích sắt giới hạn khoảng cách di chuyển đến nửa căn phòng, không thể ra đến cửa để nhìn ra ngoài những 1ỗ tròn nhỏ trên cửa sắt. Tôi đếm 49 lỗ tròn bằng đầu ngón tay cái, đục thành 7 hàng đều đặn. Bên dưới là một ô nhỏ mỗi bề khoảng 10 cm được đóng lại, qua cửa ô này bên ngoài chuyển cơm vào cho từ trong xà lim.

 

Tôi đang quan sát chung quanh căn phòng - nghe tiếng gọi bên ngoài.

 

- Angola, làm việc "em" mới vào đi.

 

Có tiếng từ người khác:

 

- Em mới vào bị còng còn sợ để cho em lấy lại bình tĩnh đã.

 

Tiếng người lúc đầu tiếp theo:

 

- Đ.M. sợ cái gì, đã chịu chơi bị bắt đừng sợ, hỏi em bên ngoài có gì lạ chưa?

 

Ở trong xã lim tôi chưa nhân biệt hướng phát ra những tiếng nói của những người ở xà lim khác. Tôi vẫn lặng thinh để tiếp tục nghe và hiểu sinh hoạt ở chung quanh.

 

Có tiếng gọi:

 

- Mười ba, mười ba bị bắt về tội gì? Ở đâu? Cho biết tên.

 

Tôi đáp:

 

- Tôi phản cách mạng, ở Trương Minh Giảng - tôi tên là Thu ( tôi thấy nói tên mình ra không cần thiết và cũng không có ích lợi gì nên chọn một tên để trả lời những câu hỏi tò mò).

 

Tiếng người khác hỏi:

 

- Phản cách mạng, nhưng ở tổ chức nào, bị bắt đông không?

Tôi trả lời:

 

- Tôi chưa rõ.

 

Có tiếng một người nói với tôi:

 

- 13 chọn một cái tên để anh em nói chuyện với nhau, đừng lo sợ gì, anh em ở đây tốt cả, vài ngày rồi quen.

 

Lúc đó tôi mới để ý, mọi người đều chọn một cái tên gọi riêng để khi gọi nhau bọn cán bộ nghe không biết phòng nào nào chuyện, chúng chỉ đập cánh cửa thình lình đe dọa, nếu chúng bắt được người nào nói chuyện sẽ bị còng kỷ luật. Các tù nhân ở xà lim dùng những tên các quốc gia để gọi nhau như Angola, Nicaragua, Somalia v.v... Tôi cũng bắt đầu nhập vào sinh hoạt chung của họ, tôi nói:

 

- Gọi tôi là Việt.

 

Ngày đầu tham dự vào sinh hoạt chung như vậy tạm đủ, nên tôi không tiếp tục trả lời các câu hỏi tiếp theo của họ nữa.

 

Quan sát quanh phòng giam - trên tường có nhiều vết bẩn do người tù giết muỗi hay rệp, trây kéo máu thành từng vệt. Tôi thấy hơi lo ở trong lòng, muỗi và rệp nhiều chắc là khó ngủ, làm sao giăng được chiếc mùng trong trường hợp 4 bức tường trơn trợt ít nhất là để ngăn muỗi, rệp thì không có cách gì cản chúng được ngoài giải pháp chờ cho chúng bò ra rồi giết từng con. Những người tù ở trước đã khắc tên và ngày ở của họ trên tường và những dấu gạch ghi ngày họ ở.

 

Tò mò tôi tìm đọc hết, đã có 5 người ở trong xà lim này sau 1975, người ở ít nhất là 27 ngày và người lâu nhất là 4 tháng 23 ngày, người này còn làm cả một bài thơ, lời thơ mạnh và phóng khoáng. Dưới bài thơ khắc tên Huệ Nhật, tôi nghĩ không chừng đó là một nhà sư. Nghĩ đến ở 4 tháng trong xà lim tôi thấy hơi ngán, không biết tôi sẽ ở bao lâu trong này chắc chắn buồn lắm.

 

Tôi phải làm sao tìm ra cách sống cho thích hợp với hoàn cảnh này, để có thể chịu đựng và sống được với không khí ẩm thấp, thiếu ánh nắng, tôi sợ cho bệnh phổi của tôi có thể tái phát. Như vậy vấn đề giữ sức khỏe để chịu đựng trong những ngày tù dài là một thách thức lớn mà tôi phải cố vượt qua. Đả bị tù Cộng sản hoặc là chết thật sớm cho khỏe thân; đời người ai cũng phải chết, tôi không bao giờ nghĩ là phải tự tìm cái chết dù ở hoàn cảnh nào. Từ ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, có nhiều người tự tử chết, có người đã giết tất cả vợ con trước khi tự tử, có lúc tôi cũng nghĩ là chết là giải thoát. Lúc đó tôi mới thấy tự tìm cái chết cho mình không phải dễ và đó là một hình thức can đảm. Tôi không có can đảm để làm chuyện đó. Rồi từ khi nhận được những dấu hiệu cho thấy tình hình đất nước không phải tuyệt vọng, Việt cộng chiếm miền Nam không phải đã kết thức một cuộc chiến tranh, nó chỉ kết thúc một giai đoạn lịch sử và nó khởi đầu một giai đoạn lịch sử mới. Những biến chuyển chính trị mới trên thế giới sẽ có ảnh hưởng mạnh đến tình hình ở Việt Nam, và Cộng sản chắc không thể độc tôn đặt nền cai trị lâu dài trên đất nước. Từ đó tôi bắt đầu hy vọng, và cố phải sống, trong hoàn cảnh tệ hại nhất cũng phải sống, dù không để làm gì, chỉ để nhìn thấy những chuyển vận của lịch sử dân tộc và Cộng sản phải tiêu vong là sung sướng lắm. Tuy tôi đã bị bắt, nhưng tôi đã có nhiều hy vọng là tương lai sẽ biến đối, nên phải sống được cho đến ngày ra khỏi tù. Nếu ra khỏi tù với một thân thể tàn tạ cũng là một sự thua cuộc, và nếu chết trong nhà tù lại càng thua nặng hơn. "Lịch sử thế giới đã chứng minh một nước đã được Cộng sản hóa thì không bao giờ trở ngược lại được", chú em Luật sư của tôi, và mấy người Luật sư trẻ bạn của chú ấy sau khi đi sinh hoạt ở Hội Trí Thức Yêu Nước về, buồn bã thuật lại lý luận đó với tôi, đồng thời họ lại cam phận. Giới trí thức ở miền Nam đa số bắt đầu xem lý luận đó như là để biện minh cho thái độ chịu đựng và đầu hàng. Dập tắt đóm lửa lương tâm của họ trước những chướng tai gai mắt đang mỗi ngày mỗi gia tăng do chính quyền mới và lớp giai cấp mới chủ nhân ông của xã hội mới đem lại.

 

Trong những trường hợp đó, tôi đã nhiều lần giải thích cho một số bạn bè thân quen. Tôi nói với họ rằng lối giải thích của Hội Trí Thức Yêu Nước là lối giải thích lịch sử một cách tiêu cực, một cách "chết" dựa trên những hiện tượng quá khứ. Còn lịch sử một nước là những diễn biến sinh động khởi nguồn từ thực tại đời sống của người dân, do đó chưa có nước Cộng sản xoay chuyển trở lai chứ không phải là không có. Dựa vào sự chuyển động trong khối Cộng sản từ các quốc gia Đông Âu đòi độc tập hoạch định chính sách đôi với Liên Xô, từ mâu thuẫn Liên Sô - Trung Quốc, và phong trào “thực dụng” của Đặng Tiểu Bình, từ sách lược mới của Hoa Kỳ và các nước Tư bản với chủ thuyết 4 thế giới của Brezinski – tôi nói với họ là phải hy vọng tình thế đảo ngược - với lòng dân miền Nam nhất là từ những người nông dân, công nhân miền Nam không dễ dàng chấp nhận chế độ xã Hội Chủ Nghĩa, thì phải hy vọng là sẽ có đảo ngược lại.

 

Sức mạnh của dân tộc là do sự đòan kết của mọi tầng lớp người dân nhưng muốn biến tiềm năng thành một lực lượng phải có một lớp người tiên phong đứng lên, tạo cơ hội để kết hợp. Tầng lớp người đó trong lịch sử dựng nước và giữ nước Việt Nam là lớp sĩ phu; lớp người trí thức luôn luôn hiểu rõ và mạnh đạn nắm trách nhiệm lịch sử, dù không phải lúc nào họ cũng thành công. Nhưng tinh thần yêu nước của lớp sĩ phu nếu nhất thời chưa đánh đuổi được ngoại xâm, thì họ cũng ẩn tàn trong quần chúng để duy trì sức sống của dân tộc. Từ khi tiếp xúc với nền văn minh mới con người trong xã hội bị phân công triệt để theo sự phát triển kinh tế và xã hội theo mô thức Tây phương. Người trí thức được chuyên môn hóa hầu như tách rời nhiệm vu tinh thần của họ đối với đất nước, nên họ dễ thỏa hiệp với ngoại bang cũng như với kẻ thù xâm chiếm đất nước, một trong những lý do họ biện luận là người kỹ thuật phi chính trị.

 

Phần nữa có một thời mà lịch sử Việt Nam không được giảng dạy tại các trường học, học sinh chỉ cần học lịch sử mẫu quốc, do đó sự gắn bó của trí thức và tổ quốc không được vững chắc.

 

Tự ý lẩn tránh trách nhiệm đối với lịch sử dân tộc, đương nhiên tầng lớp trí thức mất sự kính trọng của dân chúng; dẫn tới sự khủng hoàng triền miên về lãnh đạo.

 

Trước l975, miền Nam chiến đấu chống Cộng Sản, nhưng hầu như mọi người giao khoán nhiệm vụ chống Cộng cho người lính tại chiến trường, để người lính trực diện chống Cộng sản - còn người trí thức hoặc né tránh, hoặc thỏa hiệp ngầm với Cộng sản - hoặc tự coi mình như không dính líu tới cuộc chiến. Nói về nhiệm vụ chống Cộng tôi hổ thẹn với cái vốn học hỏi của mình Xuất thân từ một trường huấn luyện cán bộ chính quyền cao cấp mà chúng tôi chỉ được dạy về lý thuyết Cộng sản một cách lờ mờ rồi ra đi làm việc thì làm quen với những khẩu hiệu chiến tranh tâm lý thật nhàm và thật rẻ tiền. Người ta chỉ dạy cho mọi người biết là Cộng sản tàn ác, Cộng sản độc tài, nhưng người ta không nói rõ là chế độ Cộng săn nó làm thay đổi mọi cơ cấu xã hội như thế nào. Trong cuộc cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa thì các định chế xã hội được tố chức làm sao. Trong cách tổ chức đó thì mọi tầng lớp dân chúng phải thiệt hại đến mức nào.

 

Một Tổng thống tự xưng là chống Cộng nhất như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thì chính quyền của ông không có cơ quan nghiên cứu chính trị để chống Cộng - Văn phòng phụ tá chính trị chỉ nhằm mục đích triệt hạ các phe phái đối lập (là những thành phần chính trị Quốc gia khác) và tổ chức mua chuộc các Dân biểu Quốc Hội để buôn bán lá phiếu có lợi cho cá nhân ông Tổng thống.

 

Nằm trong xà lim đầu óc nghĩ miên man hết chuyện này sang chuyện khác. Tôi xấu hổ khi nghĩ đến cái hôm tham dự học tập tại Bộ Nội Vụ cũ để lấy cái giấy cải tạo 3 ngày, tôi cũng làm theo mọi người viết lời buộc tội mình có lỗi với nhân dân vì theo đế quốc Mỹ chống lại cách mạng.

 

Các xà lim khác bỗng nhiên im lặng, tôi nghe tiếng dép lẹp xẹp của tên cán bộ sáng nay dẫn tôi vào xà lim, rồi tiếng mở khóa cửa chính, và nhiều tiếng lách cách mở ra, và một người tù lao động đưa vào cho tôi một chén cơm và một chén nước muối. Giờ cơm chiều, các phòng khác chỉ mở cửa ô đưa cơm vào; tôi bị còng không đi được đến cửa để nhận cơm nên phải mở cả cửa để mang cơm vào cho tôi.

 

Từ sáng tôi chưa ăn mà không thấy đói, nhưng tôi muốn ăn cho xong bữa, làm bổn phận đối với cơ thể. Mùi com hẩm lại đầy cả thóc, ngay miếng đầu tiên tôi đã thấy nghẹn và đắng ở cổ không nuốt nổi. Tôi cố gắng ăn ba muỗng cơm, rồi nuốt không trôi tôi bỏ không ăn bữa đó.

 

Khi cửa sắt được kéo 1ại, và tiếng một người tù ở xà lim nào đó bên ngoài vang lên "Thái lai, thái lai" thì khu xà lim lại bắt đầu ồn ào, người ta kêu nhau, hỏi thăm sức khỏe, hỏi thăm người đi "làm việc" về có gì lạ không? - và tôi nghe một giọng thật ấm trầm hỏi tôi:

 

- Việt ơi, Việt khỏe không, ăn cơm chưa – ráng mà ăn để giữ sức khỏe, rồi thì quen thôi, phải ở trong này lâu đó, gắng chịu đựng.

 

Tôi trả lời:

 

- Ráng ăn mà không nổi.

 

- Cố nuốt đi, vài ba bữa thì thấy đói, cơm ăn không đủ đâu, đứng bỏ uống lắm.

 

Tôi hỏi:

 

- Anh ở xà lim lâu chưa?

 

- Từ ngày bị bắt đến nay hơn 4 tháng rồi.

 

Tôi hỏi:

 

- Hơn 4 tháng, lâu quá vậy.

 

Người kia đáp: 

 

- Không lâu đâu, số 15 từ ngày bị bắt đến giờ hơn l5 tháng rồi đó - muốn nói chuyện với bên cạnh cứ gõ tường rồi nói, khi nghe thì áp tai vào tường mà nghe. Cứ nói chuyện thoải mái, đừng sợ gì cả...

 

Bên ngoài có tiếng nói lớn:

 

- Im lặng nghe báo.

 

Cả khu xà lim đều yêu lặng tôi cố lắng tai nghe nhưng không nghe thấy gì hết.

 

Một lúc có tiếng lúc nãy nói lên:

 

- Điểm báo.

 

Xong anh ta tường hình tin tức báo chí có hai điểm quan trọng là "Việt cộng bị bác đơn xin vào quỹ Tiền Tệ Quốc Tế”, trong đó có nhắc là Việt cộng đã được gia nhập Ngân hàng Á Châu – và tin thứ hai liên quan đến việc tranh chấp trong nội bộ

Trung Quốc sau khi Mao Trạch Đông qua đời.

 

Sau khi người điểm báo trình bày các chi tiết khu xà lim bắt đầu thảo 1uận, ai cũng sung sướng vì tin tức Hà Nội không được nhận vào Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và họ không tin là Hà Nội được gia nhập Ngân hàng Á châu thay thế vị trí của Việt Nam Cộng Hòa cũ. Tất cả mọi người đều suy luận và diễn dịch tin tức hoàn toàn chủ quan theo ước muốn của họ và theo chiều hướng suy nghĩ bất lợi cho chính quyền Hà Nội. Rất ít người chú trọng đến các tin tức ở Trung Hoa, người ta vẫn theo một nếp suy nghĩ đã thành nếp là nếu đã bị Cộng sản chiếm đóng, thì mô thức Cộng sản Liên Sô vẫn khá hơn Cộng sản Trung Quốc. Phần lớn người ở trong khu xà lim bị bắt từ 1975 chưa biết đến những diễn biến chính trị ở Trung Quốc từ khi Đặng Tiểu Bình xử lý Quốc Vụ Viện vì Chu Ân Lai bị bịnh nặng và khuynh hướng thực dụng của Đặng Tiểu Bình có thể đem lại một hy vọng thay đổi ở Trung Quốc sẽ có ảnh hưởng đến tình hình chính trị ở Việt Nam. Anh em đang thảo luận thì có tiếng hát: "Ở tận sông Hồng em có biết, quê hương anh có dòng sông, Vàm Cỏ Đông, ôi Vàm Cỏ Đông..." thì mọi người nín bặt, lúc đó tôi nghe tiếng dép của tên trưởng khu đi vào, tiếng rổn rảng tra chìa khóa vào ổ khóa của hắn và tiếng chửi của hắn:

 

- Đ.M. thằng nào báo động, tao bắt được tao còng chéo cả hai chân cho biết thân.

 

Vài tiếng cười khúc khích vang lên, làm tên trưởng khu càng tức giận – hắn đi vào đạp cửa rầm rầm vừa chửi rủa tục tĩu.

 

Ở vài ngày tôi biết được sinh hoạt của khu xà lim này, ở các xà lim bên ngoài có người canh, khi tên cán bộ đi ra ngoài xa, anh sẽ hô lên “đã đến hồi thái lai”, nếu bên trong anh em không nghe tiếng dép của tên cán bộ mà không nghe anh báo, có người sốt ruột thường hỏi "thái lai chưa?", lúc đó thường là tên cán bộ đứng lại rình bắt người nói chuyện. Trong khi anh em nói chuyện nếu thấy bóng đáng tên cán bộ đi vào anh em sẽ hát lên một câu trong bài hát "Trường Sơn Đông" hay bài "Vàm Cỏ Đông" là mọi người nằm im. Các xà lim đều kín vì xây trong nhà, nên âm thanh vang, đứng bên ngoài chỉ nghe tiếng nói mà không phân biệt được xà lim nào nói nếu không đứng gần. Do đó, ít anh em bị bắt lúc nói chuyện.

 

Mỗi chiều sau giờ cơm, các phòng tập thể sinh hoạt học tập, họ được phát báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân để đọc, một anh trước là chủ báo, ở xà lim số 4 sát vách với tập thể l - nên khi phòng l sinh hoạt, anh áp tai vào tường để nghe, sau đó có mục điểm báo. Khi anh áp tai nghe thì khu xà lim phải giữ im lặng.

 

Đó là sinh hoạt thường ngày của khu xà lim, trong giờ hành chánh thường là nằm ngủ hay chờ đợi đi làm việc - tức là gọi đi hỏi cung - mỗi ngày được phát hai lần cơm - mỗi lần một chén ăn với nước muối.

 

Khu xà lim im lặng, tôi nằm suy nghĩ vẫn vơ rồi ngủ lúc nào không biết. Tiếng đập của rầm rầm của tên cán bộ làm tôi thức đậy, hắn đi kiểm soát lần chót và báo giờ giới nghiêm 9 giờ tối, mọi người phải giữ yên lặng - nếu không có báo giới nghiêm chắc tôi không đoán được giờ giấc - vì khu xà lim ban đêm được thắp sáng bởi hai ngọn đèn trên xà nhà, chiếu ánh sáng vào xà lim do lỗ thông hơi trên trần.

 

Sau thời gian căng thẳng vì sợ bị bắt, đến chung bị bắt dường như trút được cái mối ưu tư, giấc ngủ vừa qua tuy ngắn nhưng thật ngon. Tôi cảm thấy nhẹ nhàng và bình thản. Đáng lẽ ra bị bát, còng một chân vào xà lim tôi phải lo sợ nhiều lắm. Nhưng tôi không thấy cái cảm giác lo sợ đó. Từ lâu lắm rồi tôi đã yên trí là nếu tôi không tìm cách thoát được thì thế nào cũng bị bắt.

 

Ở với nhau lâu, dường như mọi người cũng hết chuyện để nói, có lúc khu xà lim thật yên tĩnh - năm nghe rõ cả tiếng muỗi vo ve, bị muỗi đốt không khó chịu bằng nghe tiếng muỗi ở bên tai. Thấy bị ngứa ở nhiều nơi trên thân thể, lần tay ở những nơi bị ngứa bắt những con rệp đã cắn no máu đưa lên tường giết, lấy đầu ngón tay kéo một vệt dài, lúc đầu máu trong thân con rệp màu đỏ, một chốc nó biến thành màu đen, nhiều lúc tự nhiên đưa tay lên mũi ngửi cái mùi hôi của rệp. Trò bắt giết và ngửi máu rệp cũng kéo dài được cả tiếng đồng hồ. Thời gian nhiều quá, ngủ không được, phải làm một cái gì đó cho có sự chú tâm; nếu không thì đầu óc nhức buốt vì những mối ân hận, sự lo âu về gia đình. Nghĩ đến ba mẹ và mấy em ở Đà Nẵng không biết sẽ làm ăn sinh sống như thế nào. Chỉ còn hai đứa út đi học vì còn học cấp Hai, những đứa leo lên cấp Ba và Đại Học đều phải nghỉ vì lý do lý lịch có anh là “ngụy quyền”. Việc học hay nghỉ cũng không quan trọng lắm, nhưng việc mấy chú đó phải đi nghĩa vũ thì đau lắm. Làm sao ba mẹ tôi yên lòng tình trạng mấy anh em tôi đứa lớn đi tù, đứa nhỏ lại đi lính bảo vệ chế độ, mà cả hai trường hợp đều có thể bỏ mạng, bỏ mạng môt cách vô ích cho một chế độ đi ngược lại quyền lợi dân tộc như chế độ Cộng sản tồi tệ này.

 

Vợ và hai con tôi sống ra sao? Trong hoàn cảnh rất khó khăn, không nghề nghiệp, không vốn liếng, nhà cửa. Rồi áp lực phải đi kinh tế mới, một người đàn bà với hai đứa con nhỏ làm sao sống nổi nếu bị cưỡng bức đưa lên những vùng núi non chưa khai phá, nước độc. Những suy nghĩ làm tôi càng ân hận vì quyết định không di tản, cái quyết định ở lại thật ngu xuẩn, chỉ vì nhất thời bức xúc, tức tối những người lãnh đạo đê hèn bỏ chạy trước địch quân mà không chiến đấu. Tâm trạng rối bời phức tạp của tôi những ngày trước khi Saigon sụp đổ là vậy, có lúc tôi nghĩ thà chết còn hơn chạy theo các lãnh tụ đê hèn, những tướng lãnh tham những tồi bại bỏ thuộc cấp mang của cải chạy trốn, tôi cảm thấy nhục khi nghe đài VOA tường thuật lại lời tuyên bố của Thị trưởng Los Angeles ràng “nước Mỹ và nhân dân Mỹ không muốn nhận những người đồng minh hèn hạ, tham nhũng, buôn lậu ma túy". Đài VOA loan tin một ngân hàng ở Mỹ phải đóng cửa để đếm tiền của ông Trang Sĩ Tấn. Ông Trang Sĩ Tấn nhà giáo, rồi đi làm thẩm phán, rồi Cảnh sát. Ông đã giàu như vậy Tôi cứ nghĩ một người chọn nghề nhà giáo, làm Thẩm phán, ít ra lúc trẻ cũng có chút tâm hồn, hiểu rõ dân chúng Việt Nam đang nghèo đói khổ sở, dân nghèo thì trí thức cũng có trách nhiệm chứ đâu người trí thức nào lúc nghèo thì đứng với dân, lúc làm quan lại trở nên kẻ vơ vét, đối nghịch lại với dân. Tình trạng trí thức như vậy thì đất nước làm sao không suy vong.

 

Đài VOA và BBC cũng loan tin tướng Đặng Văn Quang không được Mỹ, Canada nhận cho cư trú vì là kẻ buôn lậu ma túy. Lúc đó tôi vô cùng xót xa.

 

Đại đa số các viên chức, cán bộ, sĩ quan cấp dưới ở tuổi trung niên mang tiếng ở trong một chính quyền tham nhũng mà giờ đây mất nước, bản thân phải đi tù, vợ con đói khổ trước hơn cả mọi người dân.

 

Người ta, nhất là các đài ngoại quốc chữi chính quyền miền Nam tham nhũng, tôi thấy đau đớn và sĩ nhục vô cùng.Tôi không muốn nhục khi chạy trốn, tôi ở lại nhưng không can đám để tự tìm cái chết thì tôi lại phải chịu một cái khác. Làm thân một người mất nước, mà lại là đàn ông ở lứa tuổi trách nhiệm mất nước như tôi thì đàng nào cũng phải nhục nhã ê chề, nhưng lúc đó tôi chỉ nghĩ đến cá nhân tôi, nên đã quyết định sai lầm - đến khi tôi nghĩ được rằng đáng lẽ tôi phải ra đi, ra đi vì sự sống còn của gia đình và các em nhỏ, vì những đứa con, thì đã muộn. Và càng thấy ân hận hơn nữa khi đã nhận định được là Cộng sản dù nhất thời chiếm miền Nam thì lịch sử đấu tranh của dân tộc vẫn chưa kết thúc, lịch sử đã qua một trang khác, mà ngày 30-4-l975 là thời điểm đánh dấu một đỉnh cao, nói như ngôn từ của Cộng sản, nhưng qua cái đỉnh cao đó thì lịch sử của đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu đi xuống khi họ chuyển từ ngọn cờ Giải Phóng Dân Tộc sang ngọn cờ Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa (nói theo thuật ngữ của họ).

 

Tôi mơ ước bạn bè của tôi và cả những người có trách nhiệm làm mất miền Nam sau khi chạy trốn thoát thân, biết kiểm điểm lại tội lỗi của mình, rút ưu khuyết điếm của cuộc chiến đấu vừa qua, gạt bỏ đi những tàn tích cũ, những thói hư tật xấu do hậu quả của lịch sử một trăm năm bị nô lệ Pháp để làm lại cuộc chiến đấu mới. Người chiến sĩ không phải một lần thua trận là hết - đã là chiến sĩ phải đứng lên chiến đấu sau một lần bị ngã. Phải chiến đầu trở lại. Nếu sau lần ngã rồi nằm im luôn thì không xứng đáng là một chiến sĩ, không xứng đáng là một quân nhân.

 

Tôi mong Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, các Tướng lãnh đã chạy ra ngoại quốc không nằm hưởng những của cái thu góp - sống cuộc sống xa hoa ngoại quốc. Tôi mong họ tiếp tục tập họp lại những người đã chạy, nhận rõ những lỗi làm của mình với dân với nước — nếu họ không làm được như vậy, họ không xứng đáng mang danh dự là một chiến sĩ. Tôi tin tưởng vào sức sống của dân tộc, vào tinh thân chống Cộng của toàn đàn đang biểu lộ rất nồng nhiệt chỉ thời gian ngắn sau khi Cộng sản chiếm hoàn toàn nước Việt Nam, thật nhạy bén khi họ nhận rõ Xã Hội Chủ Nghĩa không phải là một mô thức cần thiết để xây dựng đất nước, sự từ khước văn hóa Cộng sản ở mọi người dân Việt Nam kể cả những người nông dân trước kia đội gạo nuôi kháng chiến và kể cả tiềm tăng những người đảng viên Cộng sản tâm huyết với sự tồn tại và phát triển của dân tộc và đất nước như chú Bình và theo như lời chú Bình, thành phần này không ít trong hàng ngũ đảng viên Cộng sản họ chỉ chờ thời cơ làm một cuộc chiến đấu mới.

 

Từ suy nghĩ này đến suy nghĩ khác, tôi đã chìm vào một giấc ngủ chập chờn lúc trời gần sáng, tôi biết sáng vì có tiếng xe chạy ngoài đường sau giờ giới nghiêm. Trong giấc ngủ tôi nằm mơ thấy lại thời thơ ấu an bình khi tôi là một học sinh mới vào những lớp đầu Trung học, nơi tôi có những người bạn học nam cũng như nữ mà suốt đời tôi không quên. Cuối cùng hình ảnh vợ và hai con tôi hiện ra rất rõ trong giấc mơ của tội...

 

Đến ngày thứ tư ở xà lim tôi mới ăn hết được phần cơm và kể từ đó tôi bắt đầu thấy đoi. Cách sống rồi cũng quen dần, để qua thời giờ khỏi suy nghĩ đến đau đầu, tôi tập thể dục, rồi tắm, cái còng ở chân có làm vướng khó chịu, nhưng xoay xở một lúc cũng quen dần.

 

Theo lời chỉ dẫn của người tù trước, mỗi ngày tôi đều xoa bóp khắp thân thể, nhất là cái chân phải bị còng để khỏi bị liêt. Phương pháp điều thân, điều túc và ngồi trầm tư kiểu Yoga tôi đã tập từ hơn 10 năm nay giúp ích cho tôi rất nhiều. Chỉ vài ngày là tôi có thể ngủ được mà không còn thao thức – ngủ không giờ giấc, lúc nào ngủ được thì ngủ, thức thì tập, tắm, ngồi trầm tư. Biết ban ngày với hai lần đưa cơm vào khoảng 9 giờ sáng và 4 giờ chiều. Thời gian nghe và điểm báo của khu xà lim tôi không tham dự tích cực vì tin tức đã không có gì mà anh em tù thì bình luận theo chủ quan của họ. Ai cũng muốn và mơ ước chế độ Cộng sạn đổ ngay, để người tù về trong huy hoàng, nhưng không hề nghĩ làm thế lực nào và bằng cách nào để lật đổ chúng. Ai cũng nghĩ là Mỹ sẽ trở lại, nhưng không nghĩ là điều gì khiến Mỹ trở lại và trở lại bằng cách nào. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng hình như người ta không dám nghĩ tới thực tế vì thực tế nhiều khi thê thảm và phũ phàng cho thân phận của họ. Họ bám víu vào những hy vọng bọt bèo để làm thứ thuốc an thần mà sống. Tôi cũng mơ ngày Cộng Sản đổ và tôi tin là chế đô Cộng sản không tồn tại vĩnh viễn, nhưng ngày nào sụp đổ hẳn còn lâu và phải tùy vào sức mạnh của toàn dân, sức đề kháng hiện có tiềm tàng nhưng chưa làm sao tập họp được một lực lượng đối kháng mạnh mẽ. Phải làm sao để có tổ chức làm tất cả công chuyện cần thiết để lật đổ Cộng sản khi thời cơ đến thì mới có hy vọng.

 

Sinh hoạt khu xà lim theo nếp hàng tuấn ít thay đổi. Hai tuần một lần nhận quà vào thứ năm thứ năm tuần còn lại thì tên cán bộ xuống ghi tên mua hộ thuốc lá. Hắn nhớ là đưa tôi giữ l4 đồng để mua thuốc khi đang ký tiền và tư trang khi nhập trại. Tôi không thường hút thuốc, nhưng tôi cũng nhờ hắn mua một gói Bastos xanh và một hộp diêm. Thuốc lá đen lúc đầu cảm thấy đắng, hút một lần không hết một điếu, dụi tắt, lần sau hôi và khai khai. Nhưng chỉ vài ngày sau đã thấy thuốc lá ngon và thật cần khi thấy đầu óc trống rỗng mà không ngủ được. Mỗi tuần vào sáng thứ bảy có chuyển trại, nhiều người chuyển tới lui nhiều lần từ xà lim ở Sở Công An này qua lại Lê Văn Duyệt tức đề lao Gia Định cũ. Ngày chủ nhật không làm việc, những anh em mới đến hoặc chuyển trại tới lại thông tin tức cho nhau. Một số người ở xà lim từ khi bị bắt đến nay đã hơn l6 tháng chưa được ra tập thể. Trong đó tôi biết có thầy Vũ Quốc Thông đang ở số l0. Thầy bị bắt tháng 6-1975 sau hạn trình diện học tập 10 ngày.

 

Lúc đầu nôn nao chờ đợi để biết mình bị ghép tội gì cụ thể ngoài tội danh chung là phản cách mạng. Cũng để biết thử chúng nó biết mình đến đâu. Sào có bị bắt không, và kế hoạch đi đường bộ của Thảo, Sào và tôi có bể không. Những thắc mắc suy nghĩ của tôi xoay quanh những vấn đề đó. Anh Tống Đình Bắc ở phòng 15 bên cạnh nói cho tôi biết theo kinh nghiệm của anh bị giam ở xà lim từ tháng 5-l975 thì trường hợp mới bị bắt mà "tồn kho" ở xà lim nhiều tháng không được hỏi tới thường là: Công an đã nắm hồ sơ tội trạng của mình, và vụ án không còn bắt thêm người khác - Anh khuyên tôi đừng nôn nóng trông chờ, việc gì đến nó đã đến rồi. Nhiều anh em thiếu kiên nhân vội xin đi làm việc. Bọn Chấp pháp rất rành tâm lý và có thì giờ để nhận xét phạm nhân để áp dụng phương pháp hỏi cung, từ hăm dọa, đánh đập, hứa hẹn, nói chuyện tâm tình để khai thác cung từ. Thời gian tạm giam là vô hạn định. Trừ trường hợp vụ án có nhiều người và cần khai thác để biết thêm thì chúng hỏi cung ngay - Ngoài ra chúng giam thật lâu trước khi hỏi. Người tù bị giam lâu rất dễ sơ hở, phần vì lo sợ, cô đơn và muốn biết số phận mình được định đoạt như thế nào? Kinh nghiệm về vụ án Hồ Con Rùa - vụ án bị bắt nguội.

 

Anh em người Thái và Nùng bị bắt rất kiên cường không chịu khai, không nhận tội - thời gian kéo dài mấy tháng – không may, trong số anh em có người bị đau ruột thừa được đưa đi bệnh viện Nguyễn văn Học chữa trị Chấp pháp đã nghiên cứu lai lịch người thanh niên đó, cha mẹ mất sớm ở vói bà cô suốt đời sống cô độc. Tên Chấp pháp đã đến tận giường bệnh săn sóc an ủi - Một đàng có âm mưu thuyết phục, một đàng vô tình mắc bẫy. Đến khi hết bịnh nạn nhân "cảm mến chấp pháp", anh đã nhận mình là người đặt mìn tại Hồ Con Rùa và khai ra tất cả đường dây tổ chức anh biết.

 

Anh Bắc khuyên tôi thật kiên nhẫn - suy nghĩ kỹ những điều có thể nhận và những điều không nên nhận dù đã làm và khai trước sau như một. Bọn Chấp pháp khai thác từ điểm sơ hở của can phạm để truy phăng dần – Thực tế chúng biết rất ít vì kém khả năng thâu lượm tin, trừ trường hợp tố chức móc nối nhằm công an.

 

Tôi may mắn đã học được kinh nghiệm của anh Tống Đình Bắc ngay những ngày đầu vào tù.

 

Càng ngày tôi càng vững tâm và thoải mái sống trong xà lim vì biết tôi sẽ ở lâu đài trong đó. Những hôm đầu thấy dấu khắc tên Huệ Nhật và thời gian ở hơn 4 tháng tôi đã sợ - Bây giờ biết anh Tống Đình Bắc, thầy Vũ Quốc Thông đều đã ở xà lim 15 tháng tôi phải chuẩn bị tư tưởng và sự chịu đựng. Có người đã từng ra ở tập thể cho biết ở xà lim sướng hơn ngoài tập thể. Phòng tập thể thiếu nước, chật chội, đụng chạm nhau, mỗi ngày sinh hoạt học tập, không được "tự do" như ở trong xà lim. Lần đầu tiên tôi được nghe những người tù gọi chốn xà lim là "thiên đường" khi so sánh tương đối giữa xà lim và tập thể. Trung tuần tháng 10 khu xà lim nhiều thay đổi, nhiều phòng được chuyển ra tập thể nhường chỗ cho người mới bị bắt. Có khi chuyển trong ban đêm. Hai mươi sáu phòng xà lim chỉ còn Bạch Mã số 7 bị cùi và tôi ở số l3. Các phòng khác đều là dân mới. Không còn người điểm báo ở phòng số 4, buổi chiều sau bữa ăn khu xà lim yên lặng hơn trước. Tôi đã biết người điểm báo đó là anh Ngô Công Minh, chủ báo Lẽ Sống mới được bổ nhiệm Phụ Tá Bộ trưởng Thông Tin thời cuối của chính phủ Trần Thiện Khiêm. Những người mới đa số thuộc “Mặt Trận Giải Phóng" do ông Trần Trung Đình hiệu trưởng trường Nhân Chủ lãnh đạo. Tổ chức chưa có hoat động cụ thể, bị bể trong giai đoạn kết nạp - số người bị bắt ước tính gần 500; kết nạp ồ ạt không chọn lựa nên kết nạp cả trinh sát chính trị của Sở Công An thành phố.

 

Hơn 20 năm chống Cộng mà người miền Nam biết rất ít về Cộng sản kể cả viên chức cao cấp của chính quyền. Những tài liệu tuyên truyền ở cấp thấp nhất chỉ đem đến kết luận Cộng sản tàn ác, giết người bừa bãi. Cộng sản là nghèo khó chịu đựng. Hình ảnh tuyên truyền đơn điệu nhàm chán về người Cộng sản mắt ốc nhồi, răng vổ, nón cối, dép râu, áo đen ăn sâu vào đầu óc người dân thành phố miền Nam, đến nỗi nếu có hình ảnh khác đi thì người ta không nghĩ là Cộng sản. Trước l975, các trạm gác cảnh sát chỉ xét những người đi bộ và đi xe đạp, nên Cộng sản tha hồ xâm nhập vào thành phố bằng xe du lịch bóng lộn. Cái thiên kiến đó, vẫn còn cho đến sau tháng 1-1975. Cộng sản biết điều đó nên tuyển dụng hàng chục người thanh niên con của cán bộ tập kết huấn luyện ăn chơi, nhảy đầm, để tóc dài, ăn nói tự do vung vít, đi xe Honda la cà các nơi đông đảo để làm trinh sát chính trị và nhiều tổ chức đối kháng đã kết nạp những tên trinh sát đó, nên chưa hoạt động đã bị bắt. Vào đến tù người ta mới biết ra thì đã muộn, chỉ thêm mâu thuẫn đổ lỗi cho nhau.

 

Anh em mới vào bị đưa đi làm việc dồn dập, có người mới chỉ một tuần đã được chuyển đi nơi khác và xà lim lại có khách mới. Tôi biết là tổ chức này còn bị bắt nhiều nữa vì công an đang khai thác khẩn cấp những người bị bắt, không để tồn kho như trường hợp của tôi.

 

Một hôm số l4 trước xà lim tôi đi làm việc về bị còng kiểu "bên trời bẻ kiếm", tù xà lim đặt cho cách còng một tay quặt sau lưng qua ngang hông và tay kia quặt ngược qua vai - và số 9 bị còng theo thế "vịt quay" - theo thế này dùng ba cái còng, một còng hai chân, một còng hai tay quặt sau lưng, còn cái còng thứ ba nối hai bên còng lại làm cho người bị còng rút ngược về sau ưỡn ngực ra trước. Đó là những thế còng để ép cung - khi hỏi cung Chấp pháp ít đánh hay tra khảo, chúng chỉ dùng hình thức còng để tù nhân chịu đựng không nổi phải nhận khai thêm đồng bọn. Hình thức điều tra này nhẹ nhàng hơn kiểu đánh đập hay quay điện thời cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa nhưng hiệu quả hơn. Người bị đánh thì đau đớn hơn, nhưng chịu đánh một lúc thì tê dại người đi không cảm giác, vì thế chịu đựng được lâu hơn và lúc bị đánh đầu óc dồn vào việc tránh né chịu đựng hoặc cắn răng căm thù, nên không thấy khổ sở. Ngược lại với những thế còng chân tay rồi bỏ cho tội nhân nằm yên tĩnh. Người tù thấy khó chịu rồi đau đớn rã rời, ngồi thế nào cũng không yên, cuối cùng phải kêu xin nhận khai.

 

Anh em khuyến khích l4 và 9 chịu đựng. Nhưng rồi sức người có hạn, kẻ trước người sau số 9 và l4 xin đi làm việc.

 

Mặt trận Quốc Gia Giải Phóng đã bị bắt sạch. Sau này chuyển trại nhiều nơi, tôi nghe nói anh Trần Trung Đình và Ban Tham Mưu bị giam ở xà lim Chí Hòa, kết quả vụ án ra tòa, Trần Trung Đình và một số người bị án tử hình.

 

Bên cạnh tôi, số 11 lúc đó là Thăng, một Thú Y sĩ, Ủy viên Trung Ương của Mặt Trận, chức vụ như là Tư lệnh quân đã tố chức được 4 Sư trưởng 4 Sư phó và chứng

ăn tổ chức hơn 10 Trung đoàn trưởng. Cách thức tổ chức hệ thống quân sự là tổ chức khung, người nhận Sư trưởng phải tổ chức được 4 Trung đoàn trưởng và 4 Trung đoàn phó – Trung đoàn trưởng phải tổ chức 4 Tiểu đoàn trưởng và 4 Tiểu đoàn phó và cứ thế đến cấp Đại đội trưởng và Đại đội phó. Về chính trị tôi được giải thích qua thuyết Dân Tộc Nhân Bản và Kinh Tế Bình Sản. Đây là mặt trận đối kháng do các chính trị gia Duy Tân tổ chức. Anh em trao đổi tin tức, phần lớn là những tin không có căn cứ được đồn đãi từ bên ngoài; như tin Tướng Khang và Ngoại trưởng Lắm về họp ở Camp David để thi hành Hiệp Định Paris. Tin về các Mặt Trận Phục Quốc như tin Tướng Mã Sanh Nhơn chiếm núi Bà Đen, Tướng Nguyễn Văn Tự chiếm mật khu Lê Hồng Phong ở Phan Rang, Phan Thiết, Tướng Bùi Thế Lân chiếm Thất Sơn, Tướng Dương Hiếu Nghĩa chiếm bờ biển Vĩnh Bình. Các Đại tá cũ đều được anh em nâng lên hàng tướng lãnh, tôi biết những tin tức đó không xác thực, những Đại tá được nếu tên theo tôi biết một số đã chạy ra nước ngoài và một số đã đi trình diện Ngoài Đại tá Dương Hiếu Nghĩa là người có bản lãnh, rất tiếc ông đã đi trình diện và giờ đây chắc đã ở ngoài Bắc. Những Đại tá khác, tôi nghĩ họ không có bản lãnh và ý chí để làm chuyện lớn. Tổ chức đối kháng mới thường mượn tên những nhân vật chế độ cũ để tuyên truyền, để hư trượng thân thế. Đó là một phương thức thông thường nghìn đời trong lịch sử - nhưng nhiều thí dụ lịch sử thành công khi người cầm đầu kháng chiến một mặt mượn danh nghĩa hoặc một nhân vật để làm chuẩn tập hợp, đó là hư, nhưng đồng thời củng cố thực lực để lớn mạnh dần trong đấu tranh. Các tổ chức đối kháng mới từ đây cho tới sau 10 năm tù tôi gặp rất nhiều khuyết điểm là họ chỉ mượn tiếng để hư trương, rồi tổ chức khung, không củng cố được thực lực. Đa số chờ Mỹ đánh đổ Việt Cộng và họ chỉ nắm cơ hội mà thôi.

 



 


Chương bảy

 

Tôi đã thèm ăn từ 1âu, khởi đầu là thêm đường, rồi thèm mỡ, giờ thèm đủ thứ, chén com hẩm với nước muối bây giờ quá ngon, không đủ no, ăn vào lưng lửng nhưng ngày nào cũng mong tới giờ ăn cơm, mỗi bữa ăn tôi cố ngồi nhai từng muỗng, nhai thật kỹ, miếng cơm thành ngọt hơn, phải chú ý và kềm để cái lưỡi không cuốn nuốt miếng cơm xuống, lơ đãng một tí là miếng cơm mới đưa vào mồm đã chạy tuột xuống cuống họng một cách tự nhiên và nhanh chóng.

 

Cái còng nơi chân tôi hơi lỏng ra, tôi đã gầy đi nhiều. Tôi không còn cái thú tắm hàng ngày nữa vì lạnh, nhiệt lượng trong người không đủ giữ ấm cho thân thể bị giữ lâu trong phòng không có ánh sáng mặt trời và thiếu dinh dưỡng. Nhưng tôi vẫn cố tập thể đục đều, phải thắng bản thân mới tập được, nếu không mỗi lần thức dậy chỉ muốn nằm vì cơ thể bải hoải rã rời. Mỗi lần ngồi tập, lắng nghe chuyển động khắp cơ thể thấy như thiếu cái gì, hình như sinh lực từ những tế bào bị rút dần qua ngày tháng. Tôi tập cho quen, và tập quên. Nhưng khó mà quên được. Khó mà đạt được tình trạng hư không. Cho nên sau mỗi lần tập, lại trở lại thực tế thấy đói nhiều hơn. Và cứ phải uống thật nhiều nước bao tử đầy mới ngủ được. Có hôm thấy hai mí mắt nặng nặng cảm giác thụng hai bên má, bóp vào chân thấy vết lõm sâu xuống không căng trở lại, biết bị phù. Tôi lại cố gắng dằn cơn đói, tôi không uống nước. Bản thân chống chỏi với đòi hỏi của cơ thể đã vô cùng vất vả. Nhưng cuối cùng rồi tôi cũng quen và chịu đựng được. Những giờ tập thể dục và tập Yoga vẫn có lợi, giúp tôi dễ tìm được giấc ngủ. Ngủ là tự do cuối cùng mà tôi đang có. Và ngủ cũng là hạnh phúc duy nhất đang có. Trong giấc ngủ có thể thấy được những điều ước muốn.

 

Lần đầu tiên được gọi "đi làm việc" (hỏi cung) vào ngày 18-11-1976 tức là kém một tuần đầy hai tháng sau ngày bị bắt.

 

Khi cái còng được mở ra, tôi cảm thấy nhẹ nhõm bước đi vài bước tôi đã quỵ xuống. Thường ngày tôi vẫn đứng dậy để tập, để xoa bóp tay chân; vậy mà tôi vẫn không đứng vững - tên trưởng khu bảo tôi làm cử động đứng lên ngồi xuống một lúc cho quen rồi nó mới dẫn tôi ra khỏi xà lim, đi ngược lại dãy hành lang về một phòng chấp cung.

 

Tôi thấy thầy Vũ Quốc Thông đang ngồi phơi nắng ở một góc sân. Cả người thầy đầy cả ghẻ, thầy ngồi chồm hổm chỉ vỏn vẹn chiếc quần đùi bê bêt màu mủ ghẻ, bất giác tôi giơ tay ra trước ánh nắng, da tôi trắng và xanh mét. Nhớ lại lúc mới vào trường hành chánh, thầy Vũ Quốc Thông là viện trưởng, thân hình tròn thấp mập đẩy đà, cái trán cao bóng lưỡng thông minh, bây giờ thành một ông lão tiều tụy ghẻ lở, cái lớp da bụng xệ xuống nhăn nheo như cái bụng con voi già trong sở thú.

 

Tên trưởng khu bàn giao tôi cho một tên khác, người Bắc, trung niên. Hắn mặc áo sơ mi trắng đã cũ chuyển qua mầu xám, cái quần ka ki màu hỏa hoàng công an may hai pli xếp theo kiểu cũ. Hắn chào hỏi tôi giới thiệu tên là Đắc, chấp pháp, có bổn phận làm việc với tôi.

 

Thủ tục thẩm cung được chỉ dẫn kỹ càng, tôi ngồi ngay ngắn trên ghế hai chân buông thõng, hai tay đặt trên hai đầu gối không được chéo chân thành chữ ngũ. Trước khi trả lời phải khởi lời bằng câu "báo cáo cán bộ" và xưng hô là tôi.

 

Hắn giải thích với tôi là chính sách của đảng và nhà nước vẫn giữ phẩm giá cho con người bị bắt, không có hình thức tra tấn đánh đập, hắn không quên so sánh và nhắc nhớ tôi ở chế độ cũ nhân viên thẩm cung đã đánh đập và tra tấn tàn nhẫn nạn nhân, hắn dằn mạnh là tôi là nhân viên Bộ Nội Vụ thì tôi biết rõ điều đó. Tôi ngồi nghe không đáp. Tôi biết là trước kia ngành điều tra của cảnh sát thường đánh can phạm. Tôi không bao giờ chấp nhận lối điều tra man rợ và ấu trĩ của công an mật thám thời Pháp thuộc còn lại đó. Nhưng tôi cũng hiểu nhu cầu của cảnh sát thời Việt Nam Cộng Hòa khó tránh sự tra tấn đánh đập vì thời gian tạm giam luật định quá ngắn vả lại đang lúc chiến tranh, địch hoạt động khắp nơi, nên cần kết thúc càng sớm càng tốt để kịp thời phá vỡ âm mưu phá hoại có ảnh hưởng đến sinh mạng nhiều người. Giờ đây Cộng sản có quyền tạm giam vô thời hạn, chúng không cần thiết sử dụng hình thức tra tấn, nhưng đó là nguyên tắc, anh em ở xà lim cũ cũng đã cho tôi biết là khi hỏi cung chúng cũng đánh và biện pháp hay nhất là la lên càng to càng tốt vì ít nhiều, bọn chấp pháp cũng không muốn vi phạm nguyên tắc của chúng đặt ra.

 

Đắc không chú ý đến thái độ hờ hững suy nghĩ vẩn vơ của tôi, hắn tiếp tục thuyết hình về chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng và nhà nước. Hắn nói đều đặn như một người học trò ngoan trả bài thầy giáo. Cuối cùng hắn bảo tôi phải thành thật khai báo vì theo hắn “nhân dân” đã biết cả tội lỗi của tôi. Muốn tôi khai là đo mức độ tự giác để áp dụng sự khoan hồng; nếu ngược lại tôi cố tình giấu giếm, bao biện, quanh co tôi sẽ bị trừng phạt đích đáng.

 

Xong hắn giao cho tôi một xấp giấy và một bản in khai lý lịch gồm 43 khoản đầy các chi tiết liên hệ bản thân, gia đình, xã hội từ lúc mới sinh ra cho đến ngày “giải phóng” và từ ngày "giải phóng" cho tới khi tôi bị bắt.

 

Trước khi bước ra khỏi phòng để tôi thoải mái viết tờ khai hắn mời tôi một điếu thuốc President và một trà nóng. Thường ngày thuốc lá và trà tôi chỉ sử dụng qua loa, không thích thú mấy. Bây giờ tôi hút điếu thuốc và uống trà thấy ngon. Tôi thong thả hút thuốc và uống trà, tận hưởng sự thoải mái và suy nghĩ những điều cần khai theo đúng các chi tiết.

 

Bản khai cung thật hóc búa, chi tiết, đến cả ghi ngày đầu tiên vào trường học và cảm tưởng lúc đó, những môn học, những môn ưa thích, những thầy giáo và cô giáo mình cảm mến. Cảm tưởng từng ngày vào quân trường cho đến cảm tưởng lần đầu tiên đi làm việc và những quan hệ bạn bè thân sơ. Nhớ lời dặn của anh Tống Đình Bắc, tôi suy nghĩ thật kỹ, để khai thật gọn và dễ nhớ để những lần khai sau này vẫn trùng hợp, trước sau như một. Tôi ngồi viết thật chậm. Buối trưa Đắc vào cho tôi một tô cơm, trên có hai miếng đậu hũ bằng ngón tay, chan nước mắm có ớt, miếng đậu hũ có mỡ trôi tuột vào trong cổ họng. Tôi cố gìữ bình tĩnh để khỏi ăn hỗn, nhai kỹ miếng đậu hũ còn lại. Tôỉ thấy mùi vị ngọt, béo, vị cay của ớt the cả đầu lưỡi, thơm nồng cả miệng. Tôi không ngờ chưa đầy hai tháng ăn muối tôi đã hư hỏng thèm ăn. Suốt ngày tôi mới viết được năm trang giấy, ghi xong phần lý lịch, vào phần hai các chi tiết của cuộc đời tôi mới viết qua ở thời trung học.

 

Buổi chiều về lại xà lim tên trưởng phòng không còn còng tôi nữa - tôi tắm rửa và ăn cơm chiều xong nằm nghỉ thấy thoải mái. Kiểm điểm lại những gì đã viết tạm đủ không có gì sơ hở; tôi quyết định kéo dài bản viết trong vài ngày để được ra làm việc đổi không khí.

 

Đêm đó nằm ngủ thật yên, tôi mơ thấy Thu Hà, bạn gái thời bé nhỏ của tôi. Hình ảnh Thu Hà thật rõ. Tôi đã yêu Thu Hà và luôn luôn nhớ đến nàng; tình yêu của đứa con trai lúc l5 tuổi, mà tôi không bao giờ dám bày tỏ. Lần chia tay cuối cùng

tôi rời tỉnh nhỏ để về Saigon học, tôi tưởng sẽ còn gặp lại nàng. Cuộc đời đưa đẩy xa nhau mãi đến nay tôi không gặp lại. Nàng đã có chồng con và đã theo gia đình di tản – có gặp lại là chỉ trong giấc mơ như đêm nay.

 

Tôi viết đến ba ngày mới xong bản kiểm điểm tóm tắt cuộc đời. Trong mục nhận tội, tôi nhớ lại lần đầu tiên viết kiểm điểm sau ba ngày học tập tôi đã nhận lỗi, việc nhận đó làm tôi xấu hổ mỗi khi nhớ lại, nên lần này tôi chỉ lướt qua là tôi đã đi học và tham gia chính quyền miền Nam và trong thời gian làm việc tôi đã làm hết sức của tôi với thiện chí của tuổi trẻ nhằm phục vụ công ích. Tôi không hạ mình nhận tội vô cớ một lần nữa, nhưng tôi cố tránh dùng những từ ngữ không thuận lợi.

 

Một tuần sau tôi mới được gọi lên làm việc trở lại.

 

Tôi vừa ngồi xuống ghế để hai tay ngay ngắn trên hai đầu gối đúng thủ tục thì tên Đắc mở hộc bàn lấy xấp giấy ném ngay trước mặt tôi. Hắn nói:

 

- Tôi đã đọc xong bản kiểm điểm của anh, anh chưa thành thật khai báo, điều đó không có lợi cho anh, anh vẫn còn quanh co không nhận tội với nhân dân. Anh bảo anh phục vụ công ích là phục vụ cho ai? Anh đã theo ngụy quyền chống lại cách mạng, mà anh không nhận tội lỗi của anh.

 

Tôi định trả lời thì hắn nói tiếp:

 

- Anh không cần trả lời, chúng tôi đủ bằng cớ để buộc tội anh, không cần anh nhận tội. Chúng tôi để anh viết xem thái độ của anh mà thôi. Ngay từ lúc bị bắt anh đã ngoan cố và thái độ bây giờ vẫn tiếp tục. Cũng như anh đã lợi dụng được kẽ hở của thông cáo Ủy Ban Quân Quản để trốn trình điện học tập.

 

Nghe hắn nói tôi trốn trình diện học tập, tôi trả lời:

 

- Báo cáo, tôi có đi trình diện học tập nhưng Ủy Ban Tiếp Nhận cho là tôi không thuộc diện tập trung. Tôi đã được Ban Quân Quản tiếp thu Bộ Nội Vụ cho học tập tại cơ sở vì theo đúng thông cáo, thời gian cuối cùng tôi không giữ nhiệm vụ chỉ huy.

 

- Anh khéo tránh né, anh từng làm Phó Tỉnh trưởng mà không học tập trung sao?

 

- Báo cáo, tôi đã thôi làm Phó Tỉnh trưởng trên hai năm nay rồi. Cuối cùng tôi chỉ là một nhân viên hành chánh không chỉ huy ai.

 

- Sao anh không trình diện học tập tháng 8.

 

- Báo cáo đợt học tập đó theo thông cáo đã dành cho nhân viên tình báo và chiêu hồi. Tôi nghĩ là sẽ còn nhiều đợt học tập tiếp theo, nên tôi chờ đợi cho đúng diện quy định cho khỏi nhầm lẫn.

 

Đắc nhắc 1ại:

 

- Không cần anh phải nhận tội, tôi nhắc lại nhận tội để tỏ ra thái độ thành thật mà thôi. Dù anh không nhận tôi chúng tôi cũng có lý do để đưa anh đi tập trung. Anh khéo lợi dụng được khe hở của luật pháp lắm.

 

Tôi biết hắn nói đúng, chắc chắn là tôi phải đi tập trung, nên tôi không phát biểu thêm. Bất chợt hắn hỏi tôi:

 

- Anh làm gì trong Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Việt Nam Tự Do của Ngô Văn Vinh và Vĩnh Hầu.

 

- Tôi chưa bao giờ nghe đến tên tổ chức như vậy và tôi chưa hề gặp Ngô Văn Vinh và Vĩnh Hầu.

 

Đắc chỉ hừ một tiếng rồi im lặng. Tôi cũng chờ đợi những câu hỏi tiếp theo của hắn. Hắn hỏi tiếp:

 

- Anh đến quán cà phê Ngọc mấy lần và gặp ai ớ đó.

 

- Tôi đến cà phê Ngọc một lần để tìm Trần Đình Sào, không có Sào ở đó tôi đi ngay. Những người ngồi ở quán cà phê tôi không quen ai.

 

– Anh có quen chủ quán Ngọc không?

 

- Tôi biết đó là Hoàng, bạn của Sào.

 

- Anh biết Sào hiện ở đâu không?

 

- Tôi không biết.

 

- Thôi anh về xà lim để tiếp tục suy nghĩ. Tôi mong anh sẽ khôn hơn. Tôi nhắc lại sự tự giác có lợi cho anh nhiều. Anh có điều gì đề xuất hay không?

 

- Tôi muốn được báo tin cho gia đình biết là tôi đang ở đây và khỏe mạnh.

 

- Gia đình anh đã biết anh ở đây, nhưng anh chưa được nhận thơ và nhận quà vì anh chưa thành khẩn. Ở đây anh em biết anh nhiều lắm.

 

Như để chứng minh lời nói hắn đi ra, một lúc đi vào với một thanh niên khoảng 27, 28 tuổi người nhỏ, ốm, ăn mặc gọn gàng, tươm tất, tôi đoán ngay là người miền Nam, vì cán bộ miền Bắc ăn mặc còn luộm thuộm áo quần, giây thắt lưng đều kiểu thời trang 1950 rất dể nhận diện.

 

Người thanh niên nhìn tôi rồi hỏi:

 

- Anh Nguyễn Chí Thiệp trước làm ở Bộ Nội Vụ phải không?

 

Tôi đáp:

 

- Phải.

 

Hắn tiếp:

 

- Lúc nhỏ anh học ở Phan Chu Trinh phải không?

 

Tôi đáp:

 

- Phải.

 

Hắn nói:

 

- Anh không biết tôi, chứ tôi biết anh nhiều lắm, lúc anh học đệ nhị tôi học đệ lục, tôi là em chị Liên Hương vợ anh Trần Huỳnh Châu - Anh biết chị Liên Hương không?

 

Tôi không trả lời câu hỏi của hắn. Hắn đứng nhìn tôi từ trên đầu xuống dưới chân rồi nhìn lên trở lại như vừa trêu chọc vừa như thách thức, vừa muốn chứng tỏ hắn là con người chiến thắng muốn đánh giá một kẻ chiến bại trước mặt hắn.

 

Sau ngày 30-4-l975, tôi mới được biết ông Nguyễn Hữu Dậu làm trưởng ty Bưu Điện Quảng Nam, rồi trưởng ty Bưu Điện Đà Nẵng có con cái đều hoạt động cho Việt cộng. Tên thanh niên đang nói chuyện với tôi là Nguyễn Hữu Khánh Duy tốt nghiệp bác sĩ trưng lập trong binh chủng Thủy quân Lục Chiến, nhưng bây giờ làm bác sĩ cho sở Công An Thành Phố, và người con gái khác là Nguyễn Diệu Liên Tâm đi đu học ở Úc về làm ở bộ Dân Vận Chiêu Hồi, bây giờ là cán bộ nồng cốt của Sở Công An Thành Phố.

 

Thấy tôi không chú ý trả lời câu hỏi của Duy, tên Đắc nói tiếp:

 

- Ở sở còn nhiều người là bạn cũ của anh, người ta nói rất đúng về anh, anh bướng lắm.

 

Tôi đáp một cách chung chung:

 

- Nếu có nhiều anh em biết tôi thì vụ án của tôi dễ kết thúc.

 

Tôi nghĩ hắn ám chỉ Huỳnh Bá Thành, Nguyễn Đăng Trừng... là những người biết tôi từ trước 1975 hiện đang làm chấp pháp tại Sở Công An này.

 

Trở về xà lim tôi càng thấy rõ số phận của tôi, dù tôi có nhận hay không nhận tội gì thì chúng cũng sẽ đưa tôi đi cải tạo, chúng nó biết tôi quá rõ rồi. Do đó, tôi quyết định đi làm việc không nhận tội gì hết.

 

Tôi thắc mắc tại sao hắn lại ghép tôi vào tổ chức của Ngô Văn Vinh và Vĩnh Hầu, như vậy Sào có bị bắt không? Vì chỉ có Trần Đình Sào nhờ tôi viết một cương lĩnh cho tổ chức của Vinh nhưng tôi từ chối. Và tôi cũng không gặp Hầu và Vinh.

 

Tôi không phán xét việc làm của hai người này. Họ có quyền và có trách nhiệm về việc làm của họ, vả lại dám tổ chức đối kháng là điều tôi cũng quí họ; họ phải phô trương thân thế để tạo niềm tin cho người khác. Tôi không tham gia vì tôi biết rằng tôi không thể hoạt động tại thành phố được trong khi tôi đang trốn lánh. Giấy chứng nhận học tập cải tạo ba ngày là giải pháp tạm thời để thay đổi chỗ ở và qua mặt chính quyền phường khóm thôi. Đối với Sở Công An Thành Phố và Đoàn Công An Liên Khu 5 vào Saigon để điều tra từng viên chức sĩ quan từng làm việc ở các tỉnh miền Trung thì giấy cải tạo ba ngày không thể chứng minh cho lý lịch của tôi miễn đi trình diện tập trung.

 

Ngày hôm sau tôi lại tiếp tục đi làm việc. Chấp pháp không phải là Đắc, mà là hai tên khác trong đó có một tên cùng với Đỗ Hữu Cảnh đến nhà bắt tôi.

 

Bằng một giọng Quảng Nam nhẹ của người Đà Nẵng hắn hỏi tôi:

 

- Chắc anh không biết tôi chứ tôi biết anh rõ lắm, tôi là Lưỡng cũng học sinh Phan Chu Trinh, năm anh học đệ nhị tôi học đệ lục.

 

Thêm một người muốn chứng tỏ đã nắm được lý lịch của tôi, không biết chúng định làm gì mà dàn ra toàn những anh học sinh Phan Chu Trinh cũ. Tại sao những người quen hoặc biết tôi như Huỳnh Bá Thành, Nguyễn Đăng Trừng không gặp mà để Lưỡng, Khánh Duy gặp, nhắc nhớ tôi về trường Phan Chu Trinh ở Đà Nẵng.

 

Trường Phan Chu Trinh mới được thành lập do chính phủ Quốc gia từ 1952, so với trường Quốc Học hay Đồng Khánh thì quá non trẻ. Tôi là thế hệ học sinh đầu của trường, vừa học trường mới phát triển, đến khi tôi xong tú tài I thì trường vẩn chưa có lớp đệ nhất. Tôi đã thành lập hội cựu sinh viên của trường. Chưa hoạt động được rộng rãi thì đã mất nước. Bây giờ những người Cộng sản này muốn gặp tôi có lẽ để chứng tỏ với tôi là họ biết tôi rõ, tôi phải khai hết sự thực họ cần khai thác và cũng để cho tôi biết họ là kẻ chiến thắng, trường Phan Chu Trinh đó thuộc về họ. Tôi nghĩ đến điều này vì ngay thời gian đầu tiên, những người cựu học sinh Phan Chu Trinh theo Cộng sản đã tổ chức họp mặt ở Đà Nẵng và Saigon, và họ đã ghép lịch sử trường Phan Chu Trinh với trường Phan Chu Trinh nào đó trong vùng Việt Minh đánh Pháp làm một, để chứng tỏ trường Phan Chu Trinh là của họ.

 

Đó là sự liên kết có gian ý, có sự trùng tên trường, cụ Phan Chu Trinh là một chí sĩ người Quảng Nam ai cũng tôn trọng nên lấy tên cụ đặt cho tên trường, không có sự liên hệ nào giữa hai trường, trường Phan Chu Trinh ở Đà Nẵng thành lập năm 1952 hoàn toàn mới, lúc đó chỉ có một lớp đệ thất học tạm tại trường nữ tiểu học.

 

Ăn gian những sự kiện lịch sử là nghề của những người Cộng sản.

 

Tôi cũng trả lời vừa đủ với Lưỡng:

 

- Vâng, tôi không biết anh, trường đông quá, tôi chỉ biết những người học cùng lớp gần nhau thôi.

 

- Lúc anh về thành lập Hội Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh tôi có đi dự.

 

Tôi đáp "vâng" cho qua chuyện rồi ngồi im chờ hắn nói tiếp.

 

- Chúng tôi đã biết rõ về anh, điều đó rất lợi cho anh nếu anh thành khẩn khai báo. Bây giờ chúng ta làm việc nghiêm túc. Anh giữ nhiệm vụ gì trong Quốc Dân Đảng và Đảng Dân Chủ tỉnh Quảng Nam ?

 

Tôi thấy sự hiểu biết của hắn có giới hạn, chỉ đoán mò, ai đời hỏi một lúc hai đảng.

 

Tôi đáp:

 

- Tôi không là đảng viên Đảng Dân Chủ hay Quốc Dân Đảng, tôi chỉ là một công chức.

 

Hắn gằn giọng:

 

- Vô lý, nếu anh không là Quốc Dân Đảng sao anh làm Phó tỉnh trưởng Quảng Nam.

 

- Vâng, cả hai vấn đề Quốc Dân Đảng và Phó tỉnh trưởng Quảng Nam không liên hệ gì với nhau. Tôi là công chức chính phủ VNCH tôi làm nhiệm vụ. Tôi không tham gia đảng chính trị.

 

- Anh trả lời con nít mới nghe được.

 

- Tôi trả lời đúng sự thật, cán bộ cứ điều tra.

 

- Trong ngụy quyền các anh, nếu không có phe cánh thì làm sao anh lên chức được, ở các tỉnh miền Trung các anh không là Quốc Dân Đảng thì là Đại Việt. Thằng Ngô Văn Vinh là đảng viên Đại Việt, anh biết chứ?

 

- Tôi chỉ biết Ngô Văn Vinh là Trưởng ty Xã Hội, còn lý lịch chính trị của anh ta tôi thật không biết. Người ta luôn luôn có thiên kiến nếu người miền Trung không Quốc Dân Đảng thì là Đại Việt hoặc Cộng Sản.

 

- Đúng thanh niên miền Trung mình phải có lập trường chính trị, không bên này thì bên kia.

 

- Lập trường của tôi rất rõ, tôi là công chức, là nhân viên của chính phủ VNCH, tôi học trường hành chánh để làm công việc đó.

 

- Anh là công chức, anh khỏi nói chúng tôi cũng rõ. Tôi muốn anh khai về hậu thuẫn chính trị của anh. Đảng viên Quốc Dân Đảng thì cũng đi trình diện học tập và nhà nước cũng khoan hồng.

 

- Tôi cũng đã rõ điều đó.

 

Hắn hỏi tôi:

 

- Anh làm gì trong đảng Dân Chủ, lúc ở Đà Nẵng tôi biết anh tổ chức Đảng Dân Chủ rầm rộ ở Quảng Nam, sao anh không khai về đảng Dân Chủ.

 

- Tôi là công chức chính quyền, đảng Dân Chủ là đảng do chính quyền tổ chức, tôi được lệnh giúp đỡ cho những người khác đứng ra lập tỉnh đảng bộ, tổ chức ra mắt cho họ, và yểm trợ cho họ làm việc đến khi họ độc lập thì nhiệm vụ tôi hết. Tôi không khai vì tôi cũng không là đảng viên đảng Dân Chủ vả lại đảng Dân Chủ đã được giải tán vào năm 1974 do người lập ra nó là ông Nguyễn Văn Thiệu.

 

Hắn nói:

 

- Anh thật không biết điều tí nào cả, cái gì anh cũng không nhận hết, anh cần suy nghĩ để trả lời tôi.

 

- Vâng, tôi đã suy nghĩ kỹ khi trả lời, cán bộ cứ điều tra. Tôi nghĩ là khi mất miền Nam, tất cả các cơ quan còn giữ lại đủ hồ sơ, mỗi tỉnh bộ đều có danh sách đảng viên đảng Dân Chủ hay đảng nào khác tôi chịu trách nhiệm. Tôi xác nhận tôi là công chức có nhiệm vụ giúp đỡ tổ chức ra tỉnh bộ đảng Dân Chủ để rồi họ hoạt động lấy. Hiến pháp thời đó cấm quân nhân và công chức làm chính trị nên tôi phải tôn trọng.

 

- Anh bỏ cái hiến pháp vô giá trị đó đi, không cần nhắc tới.

 

- Dĩ nhiên đối với cán bộ nó vô giá trị, nhưng tôi ở trong chính quyền đó tôi phải tuân theo.

 

- Thôi để anh suy nghĩ, muốn anh tỏ ra biết điều để hồ sơ hoàn tất mau có lợi cho anh mà anh không cộng tác.

 

Tôi trở lại xà lim nhớ lại những điều đã trả lời vừa qua, như vậy cũng ổn. Tôi cứ giữ đúng nguyên tắc đã đặt ra, chỉ nhận công chức thôi, chừng đó cũng đủ đi cải tạo mút mùa, sự hiểu biết của tụi công an cũng có giới hạn kể cả bọn nằm vùng. Tụi nó chỉ chú trọng khai thác về các đảng các phái, còn đảng Dân Chủ chúng cũng không mấy quan tâm, chúng cũng đánh giá đúng, đó là đảng chưa có thực lực chính trị.

 

Người ta luôn bị thiên kiến làm sai lạc, luôn luôn trong đầu họ nghĩ là người Quảng Nam không Quốc Dân Đảng thì là Cộng Sản. Điều đó đúng trên một khía cạnh là dân Quảng Nam hay nói chung các tỉnh liên khu 5 thường có hai chiến tuyến rõ rệt, một là Quốc gia, hai là Cộng sản, không lẫn lộn. Nhưng ở phe Quốc gia chống Cộng không hẳn là đảng viên Việt Quốc. Đành rằng lực lượng người Quốc gia chống Cộng mạnh nhất ở các tỉnh Nam Ngãi là Việt Quốc, ở Trị Thiên là Đại Việt. Hai chính đảng này có lịch sử đấu tranh chống thực dân Pháp, chống Cộng sản và các chính quyền bù nhìn tay sai của Pháp. Họ hợp tác với chính quyền Ngô Đình Diệm lúc đầu, rồi chống lại vì bất đồng chính kiến. Thời đệ nhị Cộng Hòa họ được tự do hoạt động nhưng chưa có chỗ đứng xứng đáng với lịch sử đấu tranh của họ. Có thể họ cũng có những khuyết điểm nào đó, nhưng rõ ràng thân phận của những người đảng viên Đại Việt và Việt Quốc là thân phận thua thiệt của thành phần chính của lực lượng Quốc gia chân chính trong giai đoạn lịch sử phức tạp của Việt Nam trong đó người Việt Nam chưa tự quyết định được vận mệnh của mình.

 

Thuở nhỏ tôi học trong một trường tiểu học do thầy Trịnh Thể làm hiệu trưởng và hầu hết các giáo viên đều là đảng viên Việt Quốc. Tôi kính trọng các thầy không những là một học sinh đối với một thầy giáo như mọi trường hợp khác, tôi còn ngưỡng mộ thầy Trịnh Thể và các thầy như những anh hùng khi mật thám Pháp đến tận lớp học để bắt các thầy đi trước cặp mắt phẫn uất của tôi.

 

Có quan hệ tình cảm như vậy nhưng tôi không thích làm chính trị. Tôi không thích bị mọi ràng buộc, thích được tự do, thấy gì đúng, phải thì làm. Khi làm một viên chức chính quyền địa phương, trong phạm vi cho phép tôi đã cố gắng để giúp đỡ các hoạt động hữu ích của tất cả các chính đảng Quốc gia, bao gồm cả các hệ phái Quốc Dân Đảng Thống Nhất đối lập với chính phủ. Tôi quan niệm muốn có dân chủ phải có đối lập thật sự. Sinh hoạt chính đảng ở miền Nam Việt Nam có những nhược điểm:

 

- Xuất phát từ chính đảng Cách Mạng và luôn luôn có nguy cơ bị tiêu diệt bởi các chính quyền thực dân Pháp, Việt Minh, Ngô Đình Diệm và âm mưu chia rẽ làm suy yếu của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, nên các chính đảng quen thể thức hoạt động kiểu hội kín và sử dụng bạo lực, không quen sinh hoạt dân chủ.

 

- Không có sinh hoạt dân chủ, nên không đào tạo lãnh tụ chính đảng. Những lãnh tụ già cỗi hết thời, không chuẩn bị người thay thế và không chịu rời bỏ địa vị, nên đưa đến tình trạng khủng hoảng lãnh đạo đảng (và khủng hoảng chính trị cho cả nước) và tình trạng phân chia hệ phái mỗi khi có bất đồng.

 

- Bị co cụm lại một số địa phương, nên khi có cơ hội hoạt động (sau thời 1963) không có chính đảng nào có tầm vóc quốc gia. Hậu quả của tình trạng này làm tăng thêm tính chia rẽ trong sinh hoạt chính trị miền Nam Việt Nam gần như trở thành một tập quán. Dân tộc Việt Nam nói chung rất đoàn kết, nhưng những người làm chính trị luôn luôn chia rẽ, người nắm chính quyền thì học thủ đoạn chia để trị, người chưa nắm chính quyền thì tìm hậu thuẫn ở tôn giáo hay địa phương càng làm cho các dị biệt nhỏ trầm trọng hơn lên.

 

- Với những lý do đó, nên hầu hết các chính đảng không thu hút được thành phần trí thức trẻ, tự nhiên trở thành già cỗi. Kết quả là họ tham gia chính trị thì không có cán bộ có đủ khả năng để làm việc, một cán bộ có khả năng ở cấp xã, cấp quận thì phải làm việc cấp tỉnh, cấp quốc gia, đưa đến tình trạng chênh lệch về trình độ giữa một chính trị gia với một chuyên viên hành chính, kinh tế hay kỹ thuật, hay với sĩ quan quân đội. Tình trạng này càng ngày càng làm cho chính đảng suy thoái. Đó là mới đề cập đến vấn đề tổ chức và nhân sự, chưa nói đến phương diện tư tưởng tức là các chủ thuyết chính trị được viết ra từ thời kỳ lập đảng ở thập niên 20, 30 cần phải duyệt xét lại.

 

Sau một thời gian làm việc ở chính quyền, tôi nghĩ hệ thống chính quyền cần có sự lãnh đạo chính trị để thống nhất từ nhân sự đến phương thức hành động. Có thể nói chưa có một chính quyền nào viên chức bị xem nhẹ như thời đệ nhị Cộng Hòa. Ngoài hệ cấp trong chính quyền họ còn bị chi phối bởi chính đảng, đoàn thể áp lực, tôn giáo, báo chí và luôn luôn bị thượng cấp hy sinh vì những áp lực đó dù cho họ làm đúng luật, đúng nhiệm vụ và thật sự có ích cho dân chúng.

 

Tôi tham gia đảng Dân Chủ cuối năm 1971, nhận lãnh trách nhiệm tổ chức ra mắt tỉnh đảng bộ đầu tiên của cả nước. Tôi tin tưởng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu muốn làm một công tác chính trị lớn cho đất nước, ông tổ chức một chính đảng có tầm hoạt động toàn quốc để đoàn kết toàn dân chuẩn bị cho việc đấu tranh chính trị với Cộng sản khi Hiệp định Đình Chiến được ký kết. Thời gian làm việc tôi tiếp xúc với ông Nguyễn Văn Ngân phụ tá chính trị, thì càng tin tưởng ở ông Nguyễn Văn Thiệu muốn mình trở thành Tổng Thống mạnh và vì dân vì nước như Tổng Thống Phác Chính Hy tại Đại Hàn, như ông Ngân và một số người trong trung ương đảng Dân Chủ muốn hướng trọng tâm của đảng vào đó.

 

Tổ chức một đảng từ chính quyền có những thuận lợi và bất lợi, thuận lợi là có thể kết nạp ồ ạt, nhưng bất lợi là thiếu phẩm chất vì những người có tính tự trọng, họ rất e dè khi gia nhập đảng cầm quyền, trái lại những phần tử có tham vọng riêng thì nhanh chóng chạy theo. Tôi không tin tưởng vào các công chức và sĩ quan địa phương quân được kết nạp ồ ạt thời gian đầu, nhưng hy vọng vào thành phần trí thức trẻ như các nhà giáo, thanh niên, học sinh tự nguyện gia nhập đảng và mong tạo cho họ sinh hoạt học tập để kiện toàn dần đảng tính.

 

Trong một phiên họp Trung Ương tại Vũng Tàu, tôi nêu nhiều thắc mắc với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chủ tịch đảng. Về sự kết nạp đảng viên ở các tỉnh, có tỉnh chỉ thu căn cước người dân lập thành danh sách đảng viên, ông Nguyễn Văn Thiệu giải thích:

 

- Chúng ta sắp ký hiệp định ngưng chiến và chuyển qua thời kỳ đấu tranh chính trị, Cộng sản nó nhuộm đỏ người dân, thì mình nhuộm vàng họ, đảng Dân Chủ làm nhiệm vụ nhuộm vàng đó, tức là cứ ghi tên họ vào để một mặt đối với người dân xác nhận vị thế của họ, tách họ ra khỏi Cộng sản, làm cho Cộng sản nghi ngờ họ, đẩy họ về phía mình. Trong khi đó đảng cứ hoạt động và kiện toàn thành phần trung kiên nòng cốt.

 

Tôi tin vào sự giải thích đó, ít ra cũng là một phương cách lôi kéo người dân trong thời gian cấp bách. Tôi có trực tiếp làm việc với ông Nguyễn Văn Ngân, người phụ trách tổ chức đảng Dân Chủ, tôi thấy ông Ngân tuy ít kinh nghiệm trong nhiệm vụ quá lớn đối với ông là phụ tá chính trị của Tổng thống nhưng ít ra cũng nhận thấy ông là người thanh liêm và có tinh thần với quốc gia. Lúc ông có nhiều quyền hành sắp xếp các việc bầu bán ở Quốc Hội, đặt người ở các cơ quan hiến định, bổ nhiệm viên chức cao cấp trong chính quyền - ông không hề lợi dụng để mưu lợi riêng. Thời buổi những năm 1970 được một người thanh liêm và có lòng như ông Ngân rất hiếm.

 

Mọi quyền hành của ông Ngân phát xuất từ quyền hành của Tổng Thống, ngoài ra ông Ngân không có một thế lực nào khác để củng cố quyền hành và địa vị đó, ông làm việc hoàn toàn có lợi cho Tổng Thống trong mục đích hỗ trợ để cho Tổng Thống mạnh không bị chi phối bởi các trung tâm quyền lực khác, để ông Tổng Thống làm việc nước. Nhưng quyền lực của ông Ngân lại bị nhiều người ganh tị, nhất là trong gia đình của ông Nguyễn Văn Thiệu.

 

Khởi đầu việc lập đảng Dân Chủ ông Hoàng Đức Nhã yểm trợ, nhưng sau ông Nhã thấy ông không nắm được đảng Dân Chủ, ông Nhã phá, ông Nhã chỉ thị các Trưởng ty Thông Tin không được vào đảng Dân Chủ, trong khi hầu hết các tỉnh đều giao chức vụ tuyên huấn tỉnh đảng bộ Dân Chủ cho Trưởng ty Thông Tin (ông Nhã đổi là Trưởng Cơ Sở Dân Vận). Các Ty trưởng Dân Vận về Saigon công tác trong đảng Dân Chủ, ông Nhã chỉ thị không cấp phương tiện chuyên chở trong khi tổ chức đảng Dân Chủ dựa vào chính quyền còn đảng không làm kinh tài, các tỉnh đảng bộ không có một khoản tài chánh nào. Là tỉnh tổ chức tỉnh bộ đầu tiên, tôi nhắm về phía các giáo chức là thành phần trẻ, có học, có uy tín với phụ huynh học sinh và dân chúng, nhưng từ lâu họ vẫn như đứng ngoài chính quyền dù ăn lương từ ngân sách quốc gia. Cộng sản tổ chức được nhiều cơ sở hoạt động tích cực trong hàng ngũ giáo chức, trong khi các chính đảng Quốc gia không thu hút được giới này. Dĩ nhiên giáo chức thì không quen sinh hoạt chính trị và đấu tranh. Nhưng sinh hoạt dân chủ mục đích là tranh thủ sự ủng hộ quần chúng nhân dân không cần đến hành động bạo lực. Vả lại đa số nhà giáo tự tách rời ra khỏi hoạt động chính trị vì một phần các chính đảng Quốc gia trở thành cằn cỗi, đa số cán bộ kém trí thức và thường sử dụng bạo lực để tranh giành phe nhóm và quyền lợi nên không thu hút được họ.

 

Tôi đã trình bày kinh nghiệm về sự thuyết phục và kết nạp hàng ngũ giáo chức vào tỉnh đảng bộ Dân Chủ Quảng Nam về phòng phụ tá chính trị và phổ biến để các tỉnh bộ khác rút kinh nghiệm. Do đó đa số chủ tịch đảng bộ Dân Chủ là các Trưởng ty Học Chánh tỉnh. Công thức này đã được ông Ngô Khắc Tỉnh, Tổng trưởng Giáo Dục ủng hộ.

 

Nhưng về sau, chính ông Ngô Khắc Tỉnh cũng là một người chống lại đảng Dân Chủ khi thấy ông không có ảnh hưởng gì trong đảng. Sau này ở tù chung với hai anh em ông Ngô Khắc Tỉnh và Ngô Khắc Tịnh, nhắc lại chuyện cũ, ông Tỉnh xác nhận là ông chống lại việc ông Thiệu giao cho ông Ngân quá nhiều quyền và chính ông Tỉnh đã thúc đẩy ông Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm loại trừ ông Ngân ra khỏi ông Thiệu.

 

Ông Ngân sửa Hiếp Pháp để ông Thiệu ứng cử Tổng Thống thêm, làm mất cơ hội ứng cử Tổng Thống của ông Khiêm nên ông Khiêm không những tìm cách loại trừ ông Ngân, ông Nhã ra khỏi thế lực ông Thiệu mà còn yểm trợ 303 Linh mục và Dân biểu Nguyễn Đức Cung tố cáo ông Thiệu tham nhũng và Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi có 40 ngàn lính ma ở vùng 4 chiến thuật.

 

Riêng ông Ngô Khắc Tịnh, Thượng nghị sĩ trong liên danh đảng Dân Chủ, nói với tôi rằng ông không hề biết gì về đảng nên thường biểu quyết theo ý riêng ngược lại với những điều sắp xếp của Chủ tịch Thượng Viện Trần Văn Lắm, một trong hai người thụ ủy, liên danh Thượng nghị sĩ của đảng Dân Chủ.

 

Nhắc lại chuyện hai ông Ngô Khắc Tỉnh và Ngô Khắc Tịnh để làm sáng tỏ những uẩn khúc của đảng Dân Chủ, ngoài ra tôi không có ý không tôn trọng hai ông. Tôi đã từng ở tù chung cùng một đội với hai ông Tỉnh và Tịnh, cũng như các ông Hồ Văn Châm, Trần Thanh Bền, Cao Văn Khanh là những người cao cấp nhất trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa còn ở tù trong các trại miền Nam, tôi rất mến về tư cách, tác phong, và đạo đức của hai anh em ông Tỉnh và ông Tịnh.

 

Cũng chính vì luôn luôn giữ tác phong đúng đắn, không nịnh bợ cán bộ Cộng sản, hài hòa với bạn tù, nên hai ông Tỉnh và ông Tịnh khổ không ít vì các bạn đồng liêu, đồng triều của các ông.

 

Đảng Dân Chủ được thành lập và hoạt động như vậy. Ông Thiệu đã bỏ mất một cơ hội tập hợp lực lượng dân chúng để chống Cộng sản. Ông không hiểu so với thời kỳ Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì thời đệ nhị Cộng Hòa trình độ dân chúng và cán bộ cao hơn về chuyên môn cũng như chính trị. Lớp các bộ có khả năng được huấn luyện đông đảo hơn. Qua nhiều cuộc biến động chính trị sau năm 1963, làm cho chính quyền suy yếu nhưng tiềm lực chống Cộng sản của toàn dân lại mạnh hơn. Từ đó người ta lại muốn có lãnh đạo chính trị để chống Cộng hữu hiệu hơn. Quân nhân lãnh đạo đất nước không phải là điều tốt - vì quân nhân dễ trở thành độc tài quân phiệt. Nhưng hoàn cảnh chính trị tại miền Nam Việt Nam lúc đó các chính đảng không đủ tầm vóc để đảm nhận vai trò lãnh đạo. Từ sau năm 1963, các biến cố chính trị liên tiếp là cho người Mỹ càng ngày càng ảnh hưởng đến nhiều hơn, đến lúc họ nắm quyền quyết định về người đứng đầu chính phủ VNCH, nên chọn một quân nhân phù hợp với ý muốn của người Mỹ hơn. Vì quân nhân có truyền thống dễ bị điều khiển.

 

Phải chấp nhận một quân nhân nắm chính quyền thì Tướng Thiệu là người tương đối có khả năng hơn các tướng lãnh khác. So với ông Khánh và ông Kỳ thì ông Thiệu chững chạc hơn nhiều.

 

Đó là ưu thế của ông Thiệu, nhưng tiếc rằng ông không phải là người có tâm huyết để làm việc cho dân cho nước. Ông chỉ biết lo cho quyền lợi của ông, của thân tộc hai bên họ hàng của ông, của vợ ông và có xa hơn nữa thì bạn bè, của những người bám vào ông để thủ lợi bằng mọi cách.

 

Có lúc tôi xúc động về những khó khăn mà ông gặp phải. Năm 1974, Đại tá Lê Trí Tín và tôi được Trung tá Trần Trung Nghĩa, Tỉnh trưởng Gò Công kể chuyện xảy ra tại vùng 4 dưới quyền của Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi.

 

Trung tá Nghĩa là người rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của ông Thiệu, ông tổ chức đảng Dân Chủ đầu tiên tại vùng 4 chiến thuật và ông cũng tin những điều ông Nguyễn Văn Ngân phổ biến cho chúng tôi là Tổng Thống Thiệu muốn dùng đảng Dân Chủ như là một áp lực để cải tổ hành chánh, chống tham nhũng, làm sạch chính quyền. Trong nhiệm vụ, Trung tá Nghĩa đã thu thập hồ sơ tham nhũng của hai ông Quận trưởng Hòa Bình và Hòa Tân thuộc tỉnh Gò Công. Hồ sơ đã giao lên ông Nguyễn Văn Ngân để chuyển qua Giám sát viện. Trong lúc đó, Trung tá Nghĩa cũng được tin hai ông Quận trưởng sắp được Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cử đi làm Tỉnh trưởng hai tỉnh Kiến Phong và Kiên Giang kiêm Thị trưởng Rạch Giá.

 

Ở vùng 4 chiến thuật muốn được cử đi làm Tỉnh trưởng phải qua trung gian Đại tá Chung Văn Bông, Tỉnh trưởng Định Tường là cậu của Tướng Nghi.

 

Trung tá Nghĩa có trình tin tức lên ông Ngân, nhưng ông Ngân vẫn tin vào lời hứa của Tổng Thống Thiệu dùng đảng Dân Chủ để thanh lọc chính quyền.

 

Cuối năm 1974, đúng như tin của Trung tá Nghĩa, ở Bộ Nội Vụ chúng tôi nhận được lệnh làm nghị định hợp thức hóa chức vụ Tỉnh trưởng Kiên Giang (kiêm Thị trưởng Rạch Giá) cho Trung tá Nguyễn Tấn Hưng đương kiêm Quận trưởng Hòa Tân, Gò Công và chức vụ Tỉnh trưởng Kiến Phong cho một Trung tá khác (tôi quên tên). Điện ở văn phòng Tổng Thống đánh cho Quân đoàn 4 sao gửi Bộ Nội Vụ đã ấn định cả ngày bàn giao hai chức vụ Tỉnh trưởng.

 

Ông Ngân đã trình lại sự việc buôn bán chức Tỉnh trưởng lấy từ 25 triệu tới 30 triệu ở Quân đoàn 4, Trung tá Trần Trung Nghĩa là một nhân chứng. Tổng Thống Thiệu đã cho mời Trung tá Nghĩa điện trình. Trung tá đã trình bày hết sự việc. Tổng Thống tin vào những điều Trung tá Nghĩa trình bày nên chỉ thị ngưng bàn giao chức Tỉnh trưởng Kiến Phong và Kiên Giang (Rạch Giá). Đến lượt Trung tá Nghĩa gặp khó khăn - từ Saigon về đến tỉnh Gò Công, Trung tá nhận được lệnh trình diện Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 4, bị xài xể đủ điều. Từ khi về lại tỉnh, Trung tá Nghĩa phải nhận liên tiếp các đoàn thanh tra quân đoàn vạch lá tìm sâu. Có ngày phái đoàn thanh tra 40 sĩ quan đến Gò Công công tác, Đại tá Tín khuyên Trung tá Nghĩa cố gắng chịu đựng hoặc từ chức để bảo vệ phẩm giá. Cuối cùng sau một tháng chịu đựng, Trung tá Nghĩa phải từ chức. Không dám trở về quân đội, sợ bị trả thù. Đại tá Tín phải giới thiệu Trung tá Nghĩa làm Chánh văn phòng cho Trung tướng Trần Văn Đôn lúc đó làm Phó Thủ Tướng.

 

Lúc đầu ông Thiệu muốn có một vài hành động hữu ích, nhưng sau gặp sự chống đối mãnh liệt của những người thân trong gia đình ông như ông Ngô Khắc Tỉnh, Hoàng Đức Nhã, Hoàng Đức Ninh, và các bạn bè của ông như Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Nguyễn Vĩnh Nghi. Cuối cùng nhân ông Nguyễn Văn Ngân đi quá xa trong việc soạn bản điều trần phê phán chính phủ dày 30 trang đánh máy, do ông Trần Trung Dung đại diện đảng Dân Chủ đọc trước phiên họp đông đảo nhân viên chính phủ, nội các, quân đội và các nhân viên định chế quốc hiến định như Quốc Hội, Tối Cao Pháp Viện, Giám Sát Viện, ông Thiệu đã lựa chọn quyết định, ông Ngân đã làm xong nhiệm vụ sửa đổi Hiến Pháp để ông có thể ứng cử Tổng Thống thêm nhiệm kỳ nữa. Ông Thiệu giải tán đảng Dân Chủ và cách chức ông Nguyễn Văn Ngân. Đặt quyền lợi cá nhân trên quyền lợi dân tộc, quyền lợi đất nước, trong lúc đất nước cực kỳ khó khăn, ông Thiệu đã phản bội lại bao nhiêu người.

 

Ông Thiệu có biết là bao nhiêu người đã bị bỏ tù và chết trong trại cải tạo vì họ là đảng viên đảng Dân Chủ. Có một số người ra nhập đảng vì quyền lợi - phần lớn là những người muốn bảo vệ chức vụ hoặc muốn tiến hơn lên. Nhưng cũng có rất nhiều người ủng hộ ông Thiệu vì họ muốn có thêm sức mạnh để chống Cộng, có căn bản chính trị từ quần chúng để nói chuyện với Mỹ trong sự bảo vệ miền Nam không bị Kissinger hy sinh quá nhiều ở bàn Hội Nghị. Cũng có người muốn có một đảng chính quyền, để chính phủ Việt Nam Cộng Hòa có thêm sức mạnh để không bị khuynh loát bởi các lực lượng chính trị và tôn giáo. Người ta không trách ông Thiệu về sự thua trận, mà trách vì sự bỏ chạy không chiến đấu. Ông Thiệu quá tin vào người Mỹ để rồi khi có nguy cơ bị Mỹ bỏ rơi ông chỉ lo tạo áp lực với người Mỹ. Ông bỏ đồn Lực Lượng Đặc Biệt Lệ Minh để chứng minh là Việt Cộng vi phạm Hiệp Định Ngưng Chiến để xin Mỹ can thiệp bằng không quân như Nixon hứa. Mỹ làm ngơ. Ông tiếp tục bỏ Tống Lê Chân, cho tuyên truyền rầm rộ việc vi phạm của Việt Cộng. Người Mỹ tiếp tục làm ngơ. Ông Thiệu tiếp tục bỏ đất và quyết định bỏ Ban Mê Thuột và rút quân khỏi Pleiku là một sự sai lầm vô cùng quan trọng. Bỏ Quân đoàn Hai, quyết định rút quân bằng liên tỉnh lộ 7 càng bầy ra sự kém cỏi về khả năng quân sự của ông Thiệu. Nhiều người thất vọng, một ông Tổng Thống là một Tướng lãnh tiến thân từ dưới lên đã chỉ huy mọi cấp của quân đội từ Tiểu đoàn lên đến Quân đoàn. Thế mà ông Thiệu quyết định đưa Quân đoàn Hai về miền duyên hải qua con đường liên tỉnh 7, con đường Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã không sử dụng từ năm 1964 tức là đã 11 năm.

 

Nếu sau này có viết về lịch sử chiến tranh Việt Nam - có lẽ rút quân khỏi cao nguyên và rút quân bằng con đường liên tỉnh lộ 7 là những quyết định quân sự tồi tệ nhất.

 

Hôm sau tôi tiếp tục bị gọi ra làm việc. Vẫn hai tên hôm qua hỏi tôi. Tên Lưỡng chỉ tôi ngồi xuống ghế trước mặt y; tên kia đặt ghế ngồi phía đầu bàn cạnh ghế tôi ngồi. Tôi vừa ngồi xuống hắn đã hỏi:

 

- Anh đã suy nghĩ kỹ và thành thật khai báo chưa?

 

- Báo cáo tôi đã nghĩ kỹ ngay từ hôm đầu. Tôi đã thành thật trả lời tất cả rồi.

 

Tên ngồi cạnh từ hôm qua vẫn không nói gì, bây giờ hắn mới nói:

 

- Mày vẫn ngoan cố, mày giữ chức vụ gì trong tổ chức thằng Ngô Văn Vinh và thằng Vĩnh Hầu? Thằng Vinh đã nhận tội và đã khai hết rồi.

 

Nghe thấy giọng Quảng Trị rất nặng của hắn, tôi xoay qua để nhìn rõ hơn, với cặp môi thâm sì không che hết hàm răng hô ám khói thuốc lờ lờ gớm ghiếc. Tôi ngạc nhiên vì lối xưng hô mày tao, cán bộ hỏi cung lúc nào củng cố giữ bình tĩnh gọi tù bằng anh. Tôi hơi khựng một tí mới trả lời:

 

- Báo cáo tôi không hề tham gia tổ chức của Ngô Văn Vinh hay tổ chức chính trị nào cả, nếu ông Vinh khai cho tôi ở trong tổ chức, tôi xin đối chất.

 

- Mày có biết thằng Vinh và thằng Hầu không? Chúng mày hẹn gặp nhau ở quán cà phê Ngọc mấy lần rồi?

 

- Tôi có biết họ từ trước năm 1975 và từ lâu không hề gặp. Tôi có đến quán cà phê Ngọc để tìm một người bạn là Sào, không có tôi về ngay, không gặp nói chuyện với bất cứ ai ở đó.

 

- Mày viết cương lĩnh cho tổ chức của thằng Vinh?

 

Tôi nhớ Sào có nhờ tôi viết cương lĩnh cho tổ chức của Vinh, tôi đã từ khước; tôi không muốn khai Sào vào đây thêm rắc rối, vả lại tôi chưa biết tình trạng Sào ra sao, có bị bắt không, và từ khi hỏi cung đến nay bọn chúng không hề nhắc đến Sào. Tôi không muốn biện minh chuyện từ khước với Sào, nên trả lời:

 

- Tôi không viết cương lĩnh chính trị cho ai cả.

 

- Mày đến quán cà phê Ngọc mấy lần - hắn hỏi lại.

 

- Một lần duy nhất.

 

- Không gặp Sào mày gặp ai ở đó?

 

- Tôi thấy có nhiều người ngồi tại nhiều bàn cà phê, tôi không chú ý đến ai, hỏi không có Sào tôi về ngay, không biết ai ở đó cả.

 

Hắn gằn giọng:

 

- Không nghe, không biết, không thấy hả, chúng mày cứ gặp nhau là nói xấu chế độ, chúng mày họp nhau là tìm cách chống chế độ...

 

Tới đó bất ngờ hắn tát mạnh vào mặt tôi và nói:

 

- Mày hèn lắm, đã dám làm mà không dám nhận.

 

Vừa nói hắn vừa đánh tôi liên tiếp, phản ứng tự nhiên tôi đưa tay lên đỡ và né tránh, Lưỡng ôm quặt hai tay tôi ra sau để tên kia đánh đá, tôi cố đưa đầu gối và khom xuống để tránh những cái đá vào ngực nhưng không được.

 

Tôi la lớn lên:

 

- Cán bộ không được đánh tôi, cán bộ vi phạm chính sách nhà nước.

 

Hắn càng đánh tôi càng la lớn, miệng tôi đã dập, tôi cảm thấy hơi mặn của máu trong nước miếng. Tôi càng la hắn càng đánh. Một lúc tôi lả đi thì có nhiều tiếng người chạy lại, hắn ngưng tay và tên Lưỡng xô tôi xuống đất. Tôi ngồi nguyên không đứng dậy, khi thấy một tên đứng tuổi, tướng bệ vệ đi vào tôi đứng lên nói với hắn:

 

- Báo cáo cán bộ, ngay lần làm việc đầu tiên cán bộ chấp pháp đã nói với tôi đảng và nhà nước tôn trọng nhân cách người bị bắt. Chúng tôi không bị đánh đập. Bây giờ tôi bị hai cán bộ đánh tôi.

 

Hắn nói:

 

- Anh nói đúng, chính sách nhà nước bảo vệ nhân phẩm con người. Phạm nhân không bị đánh đập như trong chế độ Mỹ ngụy của các anh, cán bộ đánh anh là cán bộ có lỗi. Nhưng chính vì anh khiêu khích cán bộ làm cho cán bộ không giữ được bình tĩnh nên cán bộ đã vi phạm chính sách, anh hiểu không?

 

Tôi ngớ người, thiệt một đồng một cốt của chúng, tôi trả lời đúng các câu hỏi của hắn không hề có ý định khiêu khích dù mới vào đầu hắn đã mày tao. Bây giờ tên này lại ghép tôi tội khiêu khích cán bộ để cán bộ mất bình tĩnh vi phạm chính sách. Tôi biết có nói cũng vô ích.

 

Trở về phòng suy nghĩ, có lẽ bọn này muốn đánh tôi vì chúng cho là tôi bướng bỉnh không tỏ ra sợ sệt uy quyền của chúng nó từ khi mới bị bắt, hôm nay không phải là buổi hỏi cung thường lệ. Anh em khu xà lim biết là tôi bị đánh, họ bảo tôi cố gắng uống hết phần nước muối để đề phòng bệnh hậu. Nhờ nước muối vừa uống vừa đắp lên những nơi bị đánh đau, rồi tôi bớt đau dần dần.

 

Chúng lại để tôi tồn kho hơn một tháng không hỏi đến, và tôi cũng chưa được nhận quà của gia đình. Lúc này trại chuyển qua ăn bột, mỗi bữa ăn là một cục bột bằng nắm tay với dăm ba hột muối trắng chưa rang, ăn bột có cái tiện là vừa nằm vừa ăn. Lúc nào cũng thấy đói, nhất là lúc nằm ngủ, bao tử trải ra, nghe óc ách toàn là nước. Đói quá tôi lại phải uống nước thật nhiều để đầy bao tử cho dễ nằm. Đến khi nhớ lại lần trước uống nước nhiều bị phù lại cố gắng đè cơn đói xuống - chịu đựng không uống nước nhiều nữa.

 

Không còn cái còng nơi chân, tôi đã đi lại khắp phòng, nằm dưới phi đạo nhìn qua khe hở của cánh cửa nhìn đàn kiến tha mồi lên bức tường xà lim, có hôm nằm hàng nhiều giờ để xem đàn kiến tha xác một con dán; giai đoạn khó khăn là đưa xác dán qua khỏi bực ngạnh, mồi quá lớn so với thân thể những con kiến, chưa kéo lên, con mồi lại tuột xuống, cứ nhiều lần chúng thay đổi thế kéo, nhiều con ôm hai sợi râu dán kéo nó ra hai bên để tạo thế thăng bằng, những con khác bám vào chân, vào cánh cùng nhau căng kéo ra nhiều phía, cuối cùng rồi con dán cũng được kéo lên. Có khi nằm hằng giờ để xem con thạch sùng bò lên phần ăn - gặp lúc ăn bột con vật cứ bò quanh cục bột cố đưa mồm cắn cho được miếng bột, nhưng cục bột vừa cứng vừa trơn, con vật ngoạm hụt mãi. Nhiều lần nó ngẩng đầu mổ xuống cục bột có vẻ tức giận. Nhìn con vật bò trên phần ăn của mình, tôi muốn đuổi nó đi nhưng không có gì làm nó sợ, lấy tay gõ lên cửa làm tiếng động. Con thạch sùng chỉ ngẩng đầu lên nghe ngóng rồi tiếp tục tìm cách gặm cục bột. Con vật đã ở lâu ngày ở ngạnh cửa nó biết người tù trong xà lim không làm gì được nó.

 

Ngày 24 tháng chạp xét phòng. Chúng tôi nghe tiếng nói rộn ràng của khu tập thể mang hành lý ra hành lang xét suốt từ sáng.

 

Khu xà lim xét từng phòng một, hai tên cán bộ làm việc thật kỹ, không những xét tư trang mà còn kiểm tra phòng. Chúng sợ tù giấu những vật làm lễ Giáng sinh. Đêm Giáng sinh, dù bọn cán bộ đi lại kiểm soát liền liền, các anh Công giáo vẫn đọc kinh và hát Thánh ca.

 

Không khắc ngày bị giam vào tường, tôi bắt đầu quên không biết đã ở bao nhiêu ngày. Hôm ra làm việc nhìn lịch mới biết là 20 tháng 1 năm 1977, như vậy tôi đã ở gần bốn tháng, tôi đã gầy nhiều lắm vì cái quần tây đã trở nên rộng thùng thình phải vận ngược lưng lại mới khỏi tuột xuống.

 

Lần này làm việc ở một phòng trên lầu, tôi gặp tên lớn tuổi hôm tôi bị đánh, hắn tự giới thiệu mình là Năm Thành, Trưởng ban công an chấp pháp Sở Công An Thành Phố.

 

Khởi đầu hắn cũng nói về chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng và nhà nước. Về chính sách bảo vệ nhân phẩm của người tù - khi hắn nói đến bảo vệ nhân phẩm - tôi nhướng mắt nhìn hắn tỏ ra ngạc nhiên nhưng hắn cứ tỉnh bơ như là không biết tôi từng bị đánh đập và hắn đã buộc tôi tội khiêu khích làm cán bộ mất bình tĩnh vi phạm chính sách.

 

Sau khi rao giảng bài thuộc lòng xong, hắn hỏi tôi:

 

- Anh có ý kiến thế nào nếu anh được đưa đi học tập cải tạo?

 

Tôi đáp:

 

- Tôi luôn luôn chấp hành đúng những lệnh của nhà nước.

 

Hắn nói:

 

- Đúng như vậy là tốt, bạn bè anh đều đã đi hết, lý lịch của anh đáng để được đi học tập, anh ở bên ngoài bây giờ không có lợi cho anh. Nhân dân căm thù các anh lắm, họ sẽ hành động có hại cho anh, giữ các anh trong trại cải tạo là chính sách của đảng và nhà nước bảo vệ các anh khỏi bị nhân dân trả thù - anh hiểu chưa?

 

Tôi không muốn nói chuyện dông dài nên không có ý kiến gì, vấn đề của tôi như vậy là đã giải quyết, bề nào cũng phải đi tập trung, không cần phải làm đúng thủ tục cung từ hỏi đáp và ký cung. Không cần tôi có nhận tội hay không nhận tội, và có lẽ cũng không cần tôi có thực sự tham gia tổ chức đối kháng hay không - khi bắt người tội danh chỉ là cái cớ để bắt, rồi không có tội thì xử theo lý lịch; thật là đơn giản. Đó là chuyên chính của giai cấp, người khác giai cấp đương nhiên là kẻ thù đối kháng, cần phải tiêu diệt hay vô hiệu hóa, có đủ bằng chứng buộc tội thì đưa ra tòa kết án, không có bằng chứng buộc tội thì công an xử theo án tập trung cải tạo, rồi tất cả đều được đưa ra trại tập trung làm lao động khổ sai để tự nuôi bản thân và nuôi luôn cán bộ quản lý và làm lợi cho ngân sách nhà nước, khai phá những vùng núi non độc địa nguy hiểm mà những người dân thường không tới được. Tôi đã học và hiểu, nhờ vào những người lao động tập trung mà khai phá vùng Siberie lạnh giá, nhờ vào các trại tập trung sản xuất nông nghiệp sau thời nội chiến. Nhờ lực lượng tập trung mà Mao Trạch Đông san bằng núi để biểu dương sức mạnh bằng tay chân của nhân dân Trung Quốc.

 

Tôi giả như chăm chú ngồi nghe, để hắn hứng thú nói huyên thuyên mà tôi khỏi phải nói gì hết. Hình như mỗi tên Cộng sản có cái bịnh ưa nói, nói dài, nói dai, nói dở, nói dóc, nếu một người nào kém hiểu biết nghe chúng nói có thể phục chúng là nói thao thao bất tuyệt, nhưng đa số dân miền Nam trình độ hiểu biết khá, đọc sách, nghe tin tức nhiều, khi ngồi nghe cán bộ Cộng sản nói, thấy chúng nói không đâu, lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia.

 

Tôi chú ý đoạn hắn nói:

 

- “Các anh trước kia sợ Mỹ, phục Mỹ rồi làm tay sai cho Mỹ, bây giờ Mỹ bị nhân dân ta đánh bại, mà các anh vẫn còn mong Mỹ trở lại... Tôi nói cho anh biết, Mỹ cũng sẽ trở lại, nhưng trở lại với chúng tôi, với những điều kiện chúng tôi đặt ra, Trung ương và chúng tôi cũng biết là kẻ thù cũ của chúng tôi, có thể giúp cho chúng tôi xây dựng kinh tế. Chúng tôi đang nắm trong tay những thứ mà Mỹ rất cần - nói tóm lại, Mỹ sẽ năn nỉ để được trở lại Việt Nam. Không phải tới để làm tên xâm lược như cũ...”

 

Hắn nói một thôi dài rồi nhìn tôi như là muốn nghe tôi nói gì, hắn hỏi:

 

- Anh có ý kiến gì không?

 

Tôi đáp:

 

- Không.

 

Hắn có vẻ cụt hứng, chừng như hắn thích được nói, được thấy người nghe và phát biểu để có dịp hắn nói tiếp, biểu diễn cái tài nghệ của mình; nên khi tôi đáp một tiếng cụt ngủn, hắn như bị hẫng, nên có vẻ lúng túng một tí xong nói:

 

- Anh nên trở về suy nghĩ cho đúng và hành động cho tốt để rồi khi trở về đời sống xã hội khỏi bỡ ngỡ, bây giờ xã hội tiến bộ lắm, tiến bộ từng ngày, chứ không nói là từng năm. Từ ngày anh bị bắt đến nay xã hội cũng thay đổi nhiều rồi đó.

 

Kể từ thứ năm tuần đó tôi được nhận quà gia đình lần đầu tiên. Ngồi ăn vội vàng những món nhà gửi, chỉ mới bốn tháng ăn cơm với muối mà tôi như con ma đói, cái gì cũng thèm, cũng ăn qua từ ngọt đến mặn, cắn vào miệng chưa kịp nhai đã vội nuốt, ăn bụng đã no mà mắt vẫn thèm, miệng vẫn chảy nước dãi và muốn ăn nữa. Thân thể con người nó tệ thật, tôi nghĩ rồi đây ra đến trại tập trung xa gia đình sẽ còn nhiều phen đói nữa, biết phải chịu đựng như thế nào. Nghĩ đến gia đình càng thương vợ con, càng giận mình sai lầm. Trong đời người nhiều khi ngu dại, cái lần ngu dại này của tôi quá lớn, khi tôi quyết định ở lại, tưởng sẽ được ở gần với gia đình, gần cha mẹ, anh em. Chia xẻ những nỗi khổ cực cùng vợ con, ngờ đâu tôi trở thành mối lo âu và gánh nặng của người thân, từ đây mỗi tháng hai lần phải gửi quà thăm, rồi đi trại cải tạo không biết đến bao giờ, thì chắc chắn là tôi sẽ là món nợ của gia đình cho đến khi chết cũng không chừng. Cố gạt tất cả âu lo mà sống, nếu không càng nghĩ càng buốt óc.

 

Những ngày gần Tết khu xà lim vắng hơn. Bọn công an ăn Tết ít bắt thêm người và cũng không gọi ai ra làm việc. Gần Tết càng buồn càng nhớ nhà, bài ca “Tết này con không về” được anh em tù hát đi hát lại nghe buồn thấm thía. Đã nhiều lần xa gia đình trong dịp Tết nhưng chưa lần nào như lần này. Ngày Tết đến với người Việt Nam là thời điểm thiêng liêng, lúc nhỏ mong Tết đến để được vui chơi, nhận quà từ cha mẹ và người thân. Lớn lên tưởng không cần nhớ đến Tết, thế rồi không khí dìu dịu buồn buồn của những ngày giáp Tết làm cho mình nhớ nhà, và vội vã xếp công việc lại để trở về. Bây giờ nằm trong xà lim vắng càng nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, anh em, thương vợ con; không biết Tết đến các em nhỏ và hai con tôi có được gia đình sắm cho áo mới hay không? Tôi biết là tình hình kinh tế rất khó khăn và càng khó khăn hơn cho gia đình có thân nhân đi cải tạo, làm một công dân hạng tư trong một nước Cộng sản thì chịu biết bao cay đắng vì sự kỳ thị. Cộng sản phân biệt bốn loại gia đình: gia đình liệt sĩ, gia đình đảng viên, gia đình lý lịch trong sạch và “ngụy dân” (thân nhân “ngụy quân, ngụy quyền”), “ngụy quân, ngụy quyền” đi tập trung cải tạo, “ngụy dân” phải đi kinh tế mới, hoặc phải chịu mọi thiệt thòi nếu cố bám lấy thành phố. Con em của “ngụy dân” không được tiếp tục học lên lớp cao, hoặc có được học phải qua một kỳ thi thật gay go, bị phân biệt vì lý lịch mà còn phân biệt về thang điểm. Có 14 định cấp lý lịch, mà con em của một Đại úy hay Trung úy An Ninh và viên chức cấp quận trở lên đã liệt vào lý lịch cấp 10. Lý lịch từ cấp 10 đến cấp 14 không được học quá lớp 10. Thang điểm thi còn là cái sàng gạn lọc thật gay go - có 4 thang điểm: con ngụy phải đạt ít nhất từ 24 điểm trở lên, con của dân lý lịch trong sạch 18 điểm, con của đảng viên 12 điểm, và con của đảng viên là liệt sĩ thì chỉ 9 điểm là đậu. Trong lịch sử chưa có một chế độ, một triều đình nào trả thù kẻ chiến bại cay độc hơn chế độ Cộng sản. Người ta cứ tưởng lầm là chúng sẽ giết nhiều, gây ra biển máu tại miền Nam. Người ta không thấy được tất cả sự độc ác của chúng. Giết làm gì, không có lợi lại bị mang tiếng như bọn Pol Pot ở Kampuchia, vì thời đại ngày nay không thể bảo vệ được bí mật những cuộc tàn sát tập thể như thời Staline. Cộng sản Việt Nam thâm độc hơn. Chúng giữ kẻ thù của chúng lại để làm nô lệ, làm con vật sản xuất trong các trại tập trung mà chúng không tốn kém gì vì người tù phải tự làm lấy ăn và còn phải nuôi bọn cai tù và đóng góp cho ngân sách nhà nước. Thân nhân của những người tù chúng đẩy đến tận cùng của cực khổ, để gia đình tan vỡ, vợ phải bỏ chồng vì sinh kế và tuyệt vọng, con của người tù thì dìm trong sự ngu dốt, không cho học tập để lớn lên cũng chỉ làm nô lệ hoặc có nuôi căm hờn cũng không đủ trí óc mà vùng lên, chống lại.

 

Thời gian đã qua nhanh và bao nhiêu sự thay đổi trong lúc đó, phải chấp nhận những gì xấu xảy đến, trách nhiệm của người dân đối với đất nước, trách nhiệm của người chủ gia đình, cả hai tôi không làm tròn. Nước mất, nhà tan nằm nghĩ mãi cũng không ngủ được trong đêm giao thừa, cả xà lim thật im lặng, chốc chốc nghe tiếng thở dài, tôi biết các bạn tù khác cũng đang nằm nhớ về gia đình như tôi.

 

Bên ngoài pháo đã nổ đều, người Việt Nam nghèo đến đâu cũng trang trọng đón Tết, giao thừa đốt pháo thật nhiều.

 

Tên trưởng khu mở cửa sắt vào, hắn chúc Tết mọi người trong xà lim, mong mọi người khai báo thành thật để hưởng lượng khoan hồng. Nghe mãi những từ ngữ thành thật, khoan hồng cũng thấy chán cả tai. Không biết tôi có nghe lầm không, nhưng thấy giọng nói của hắn cũng cảm động khác ngày thường. Phải chăng dịp Tết, giờ giao thừa thiêng liêng, con người không còn thù hận nhau nữa. Ước gì cái tình cảm đó được kéo dài ra vĩnh viễn trong cả nước để người ta không còn hận thù giết chóc, chuyên chính bóc lột với nhau.

 

Xong màn chúc Tết, mỗi người trong xà lim được phát 2 viên thèo lèo và một điếu thuốc. Tất cả cửa ô đều được mở. Chúng tôi ngậm thuốc để tên trưởng khu đốt thuốc cho mọi người. Dù đó chỉ là một việc làm chiếu lệ hay là một màn kịch, nhưng tôi tự nhủ giờ giao thừa thiêng liêng không nên đào sâu hận thù và suy nghĩ gai góc cho khổ mình, cứ tin là thật và để cho kẻ xấu tập làm việc tốt. Đừng suy nghĩ gì khác, cứ nhận hiện tượng xảy ra trước mắt cho tâm hồn được bình yên.

 



 

 
Chương Tám

 

Cuối tháng 3 năm 1977 được chuyển qua phòng tập thể A Trại Trần Hưng Đạo, tức Nha Cảnh Sát Đô Thành cũ, có 5 phòng tập thể, phòng A, phòng B, phòng I, phòng II, phòng phụ nữ và một khu xà lim 26 phòng. Từ giã xà lim, thấm thoát đã sáu tháng. Người ta nói nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại, tôi lại thấy thời gian đi quá nhanh. Có lẽ tôi kém cảm xúc. Tôi thèm nói chuyện và thèm ăn.

Cửa phòng tập thể vừa mở ra, tự nhiên phải lùi một bước, hơi nóng và mùi khói nồng nặc từ bên trong tỏa ra đủ thứ mùi, mùi thuốc lào, mùi thuốc rê khét lẹt, mùi mồ hôi người tanh tanh muốn lợm giọng. Hành lang hẹp chưa tới một thước bề ngang nằm giữa hai tường nhà cao, gió không thông dù cái quạt nhỏ gắn trên tường chạy suốt ngày để hút hơi ra. Cái cửa ra vào bị che kín một nửa bằng tấm tôle. Chiếc đèn néon một thước hai không đủ chiếu sáng cho căn phòng dài gần 10 thước nên ánh sáng lờ mờ, bệnh hoạn.

 

Phòng đông lúc nhúc mà im phăng phắc khi tên cán bộ hiện diện.

Ở tù tạm giam vừa sợ cán bộ vừa sợ trưởng phòng. Làm trưởng phòng phải báo cáo, rình mò tù nhân khác để lập công.

Trưởng phòng ghi tên tôi vào danh sách phòng số 68. Căn phòng nhỏ xíu, bề ngang chưa đến 4 mét, bề dài khoảng 10 mét, nhốt 68 người. Nằm ngủ phải thành ba lớp, những người vào phòng trước nằm ở trên bục xi măng, đến những người nằm trên nền nhà, gọi là phi đạo, kế đến những người vào sau thì nằm ngủ trong hầm để đồ đạc, ngay dưới bục xi măng. Trưởng phòng đọc cho tôi nghe 38 điều nội quy và những khoản gọi là nội lệ - Nội quy do Bộ Nội Vụ ban hành gồm những mục khai báo tội lỗi của mình và đồng bọn, tin tưởng vào chánh sách và sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước Cộng sản, tố cáo những tội lỗi của người khác, phải tham gia các buổi học tập, đọc sách báo, cấm giữ các vật bén nhọn, cấm truyền đạo, cấm nói tiếng nước ngoài v.v... Nội lệ là những điều trưởng phòng đặt ra do sáng kiến xây dựng của y. Tù nhân không được tụm lại rù rì nói chuyện với nhau. Khi nói chuyện phải nói cho đủ lớn cho một vài người bên cạnh nghe để chứng minh là không nói xấu chế độ. “Rù rì với nhau”, nhóm từ ngữ này do những trưởng phòng, đội trưởng ác ôn dùng để chụp mũ, báo cáo một phòng viên, đội viên khi họ không có một chứng cớ gì khác về sự nói xấu hay chống đối. Chế độ tù đày của Cộng sản trở nên quá ác nghiệt vì các luật lệ nguyên tắc quá nghiêm khắc, bọn cán bộ quản lý độc ác, mức độ lao động quá nặng, chỉ tiêu cao, tình trạng đói rét, từ đó nảy sinh ra một lớp người tù chức sắc trật tự, thi đua, thống kê, nhà trưởng, đội trưởng làm tay sai để được miễn lao động, để được ưu đãi khi nhận quà thăm nuôi; họ dùng sự sống, máu và nước mắt của bạn tù để được hưởng thêm ân huệ.

Tù mới vào không được nói chuyện với người khác, đó là nội lệ của phòng do phòng trưởng Nguyễn Thái Thao đặt ra. Tù mới vào nói chuyện là tuyên truyền xuyên tạc nói xấu chế độ. Tù nhân thường tò mò muốn biết những việc xảy ra ngoài đời, họ hy vọng những tin tức phấn khởi, họ muốn nghe những tin tức phục quốc. Thời gian cấm nói chuyện là bao lâu không biết. Tùy quyền trưởng phòng, tùy sự dặn dò của bọn cán bộ với trưởng phòng về một người tù cần theo dõi. Ở tập thể đúng là rắc rối hơn xà lim. Ở tập thể được đọc báo gọi là học tập báo chí để biết tin tức bên ngoài. Dù là tờ Nhân Dân hay Quân Đội Nhân Dân chỉ toàn là tuyên truyền cũng có thể rút ra những điều cần biết. Thời gian đó, sau Đại Hội IV của đảng Cộng Sản Việt Nam, những khẩu hiệu chiến lược được nhấn mạnh là “chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, và hoàn thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc và đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Nam”. Cộng Sản Việt Nam đã vội vã xây dựng xã hội chủ nghĩa cả nước, không còn chần chừ như ý định lúc đầu mới chiếm được miền Nam. Đầu năm 1976, Phạm Văn Đồng còn tuyên bố miền Nam làm cuộc cách mạng dân chủ nhân dân. Tình thế gay go trong mâu thuẫn với Trung Hoa buộc Việt cộng phải đưa ra khẩu hiệu chiến đấu, như vậy chiến tranh với Trung Quốc không tránh khỏi. Báo Nhân Dân cũng nói về mâu thuẫn không hàn gắn được giữa Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Lý Tiên Niệm tuyên bố mâu thuẫn Trung Quốc-Liên Sô phải 800 năm mới giải quyết được - tức là không giải quyết được. Đặng Tiểu Bình đã được Hoa Quốc Phong mời trở lại chính quyền và được đặc quyền xử Tứ Nhân Bang là những người đã loại Đặng Tiểu Bình ra khỏi các chức vụ vào năm 1976, sau vụ lộn xộn đẫm máu tại Bắc Kinh nhân lễ truy điệu 49 ngày Chu Ân Lai chết.

Những tin tức đó cho tôi hy vọng là tình hình Đông Dương và Việt Nam chưa phải là kết thúc, còn nhiều biến chuyển. Hy vọng của người tù cũng cần như cơm, nước; người tù tuyệt vọng rất mau suy sụp và dễ chết.

Tôi gặp Huệ Nhật trong phòng này. Huệ Nhật, người đã ở xà lim số 13 được 4 tháng 23 ngày, người đã ghi lại bài thơ vừa đầy hào khí và phóng khoáng. Tôi đoán không sai là một nhà sư. Huệ Nhật là một Đại đức thụ phong năm 23 tuổi, tốt nghiệp Phật Học Viện và Cử nhân khoa học xã hội Đại học Vạn Hạnh. Đại Đức bất mãn khi khám phá ra thầy mình, một Thượng tọa, dùng tiền phước sương cho vay và gửi về nhà cho thân nhân, nên đã bỏ tu về đời làm cho Hội Terre Des Hommes. Huệ Nhật bỏ tu nhưng đạo hạnh vẫn thể hiện qua lối sống hàng ngày. Anh dùng cả thì giờ chăm sóc cho những người tù bịnh hoạn ghẻ lở. Bịnh kiết lỵ là bịnh rất thông thường trong tù, dễ lây và nguy hiểm nên ai cũng sợ, người bịnh kiết lỵ nằm cô lập trong cuối phòng - thuốc men của nhà tù không có nên chỉ có cách khắc phục, nếu không khắc phục được thì đến lúc thật trầm trọng mới được đưa ra bệnh viện và nhiều người đã chết. Tôi khâm phục Huệ Nhật khi thấy anh kiên nhẫn bồng bế những người kiết lỵ đi cầu mỗi ngày hàng mấy chục lần, lau rửa cho họ mà không sợ dơ bẩn hay lây bịnh. Cuộc đời Huệ Nhật cũng có điều đáng ghi, gia đình nghèo ở Quảng Trị, Huệ Nhật được mẹ gởi vào chùa lúc 9 tuổi khi cha Huệ Nhật, một du kích bị Pháp bắt tra tấn đến chết. Huệ Nhật kể rằng suốt đời không quên hình ảnh người cha bị cột căng chân tay phơi nắng trong sân đồn Tây đến chết. Anh của Huệ Nhật đã đi kháng chiến và tập kết ra Bắc, sau 30-4-75, trở về nhà với quân hàm Đại úy. Huệ Nhật căm thù Pháp và rất ghét chính quyền Cộng Hòa, anh đã tham gia các phong trào Phật giáo tranh đấu và có lần đã tình nguyện tự thiêu ở Nha Trang: cuộc tự thiêu bất thành vì quẹt không cháy sau khi đã đổ can xăng bốn lít vào mình. Sau này, Huệ Nhật biết là một vị sư không muốn Huệ Nhật chết lén đổi hộp quẹt đã nhúng nước lạnh.

Sau 30-4-75, anh rất hồ hởi phấn khởi, xem sự thành công của cách mạng như sự thành công của gia đình và bản thân anh. Tham gia tích cực vào Hội Phật Giáo Yêu Nước, hoạt động suốt ngày không biết mệt mỏi. Nhưng cũng chính từ những hoạt động trong Hội Phật Giáo Yêu Nước, Huệ Nhật đã khám phá ra nhiều sự thật. Trước hết, Huệ Nhật thấy được hàng ngũ tăng sĩ và cư sĩ của Phật giáo có hai thành phần rõ rệt, một thành phần đa số là những người đấu tranh cho lý tưởng Phật giáo và dân tộc, và một số là đảng viên Cộng sản xâm nhập. Nhớ lại quá trình đấu tranh của Phật giáo từ những năm 1963, 1964, 1966 Huệ Nhật thấy rõ những cán bộ Cộng sản trong Phật Giáo luôn luôn tích cực xúi giục mà họ không trực tiếp hành động và trực diện đấu tranh. Lấy kinh nghiệm lần tình nguyện tự thiêu ở Nha Trang, Huệ Nhật nhớ lại chính những cán bộ Cộng sản đó, trong lớp áo tu sĩ, hoặc là cư sĩ là những người tích cực thúc đẩy Huệ Nhật tự thiêu, họ động viên, khích lệ kể cả cô lập để Huệ Nhật không thể thay đổi ý kiến được. Là người nhạy cảm, Huệ Nhật đã thấy rõ Cộng sản chỉ đứng giật dây, thúc đẩy quần chúng và những người có nhiệt tâm trực diện với cái chết để họ lợi dụng thành quả. Điều khám phá quan trọng khác của Huệ Nhật là những hành động bê bối của những vị sư mà Huệ Nhật gọi là sư quốc doanh trong Giáo Hội Phật Giáo Yêu Nước, họ mặc áo nhà tu mà không từ bất cứ hành động phạm giới nào kể cả sắc giới. Huệ Nhật đã bỏ về nhà ở tại quận Nhà Bè. Ở đây anh lại thấy rõ hơn bộ mặt của cán bộ Cộng sản tại địa phương. Không xa Saigon mà biết bao nhiêu oan khuất của người dân xã Phú Xuân huyện Nhà Bè phải chịu về nạn cường hào ác bá. Huệ Nhật chứng kiến cảnh cán bộ Việt cộng cưỡng chiếm nhà của người dân, những người không thuận giao nhà bị ném truyền đơn phản động rồi bắt nhốt, nhiều người nghĩ mình không có quan hệ với chính quyền cũ, nên ăn nói không giữ miệng nhằm chỉ trích những bất công thì bị thủ tiêu, gia đình tìm được xác liệng ngoài đồng ruộng mới biết thân nhân bị chết.

Nhiều phụ nữ bị bắt vào trung tâm phục hồi nhân phẩm rồi đưa đi trại cải tạo chỉ vì không thuận theo lời tống tình của cán bộ xã, ấp của Việt cộng. Yêu cách mạng, mong cách mạng đem lại công bình cho xã hội, hạnh phúc cho người dân, nhưng khi cách mạng thành công, tham dự vào hàng ngũ của những người cách mạng, Huệ Nhật đã tìm ra sự thật. Anh đã gia nhập vào một tổ chức phục quốc để mong làm một cuộc chiến đấu mới - chưa kịp hoạt động đã bị bắt.

Tôi cũng gặp Nghĩa, người cán bộ Cộng sản sớm “thoái hóa”, bị bắt cả hai vợ chồng vì tội lợi dụng chức vụ để chở hàng ra Bắc bán lấy lời riêng. Nghĩa làm Trưởng phòng Nội Thương Sở Kinh Tế Thành Phố.

Nghĩa quê ở Rạch Giá. Sau khi thi đậu Brevet ở Cần Thơ, Nghĩa vào khu kháng chiến và đi tập kết năm 18 tuổi ra miền Bắc, đầu tiên đi học khóa cải cách điền địa. Nghĩa nói ấn tượng sâu sắc trong trí óc Nghĩa là một sự kinh hãi khi anh tham gia phong trào cải cách ruộng đất. Anh không tưởng tượng được việc nhà nước và đảng giao toàn quyền sinh sát người dân vào tay toán cán bộ cấp thấp chỉ được huấn luyện hận thù và kỹ thuật trấn áp và thúc đẩy quần chúng đấu tranh và nhắm mục tiêu báo cáo thành tích. Chỉ cần đạt được thành tích nên toán cải cách phải tìm cho ra địa chủ để đấu tố, kết quả là có nhiều xã nghèo, không có địa chủ để đấu tố, những trung nông có vài mẫu ta ruộng (chưa được một ha) cũng bị nâng lên hàng địa chủ, để đưa ra tòa án nhân dân và họ bị bắn chết ngay sau khi bị nhân dân kết án. Khi nạn nhân đã được đưa ra tòa thì nhân dân kể cả thân nhân của họ phải tìm cho ra tội ác của họ để tố cáo. Tội lỗi đều là tưởng tượng.

Sau chiến dịch cải cách, Nghĩa được đi học ở Ba Lan, anh đã thấy được tinh thần đấu tranh của nhân dân Ba Lan và nhân dân các nước Đông Âu nhắm vào đảng Cộng sản cũng như vào sự chiếm đóng của Liên Sô. Nghĩa đã đi theo kháng chiến vì lý tưởng giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ, anh không có một ý thức nào về đấu tranh giai cấp, theo anh nếu nói đấu tranh giai cấp thì chính gia đình anh ở Rạch Giá cũng có thể liệt vào hàng địa chủ.

Theo lý thuyết đảng Cộng sản và chế độ Cộng sản là của người công nhân vô sản, không làm chủ tư liệu sản xuất. Họ phải bám vào nhà máy cũng như bám vào chính quyền vô sản để có lương hàng ngày. Nên nông dân khó trở thành Cộng sản vì nông dân dễ có tư hữu. Do đó, vì phải xây dựng chủ nghĩa Cộng sản dựa vào nông dân (vì không có công nhân) nên Cộng Sản Việt Nam cũng như Trung Cộng phải làm cho nông dân thật nghèo đói, tất cả trở thành bần cố nông, để họ phải bám vào nông trường quốc doanh, bám vào nhà nước, và trung thành với đảng để được sống. Từ đó nông dân miền Bắc và miền Trung sau đợt cải cách chỉ còn cách bám víu và trung thành với đảng; nông dân miền Nam hầu hết đều có ruộng đất, đa số từ trung nông trở lên, nên Cộng sản khó có thể thi hành một cuộc cải cách ruộng đất như miền Bắc, khó có thể khích động nông dân hận thù địa chủ.

Nghĩa nói: “Ngày đầu tiên đi học lớp cán bộ cải cách ruộng đất, người giảng viên đứng tố vợ chồng tên địa chủ gian ác, phạm đủ các tội như hiếp dâm vợ con tá điền, cho vay nặng lãi, bỏ bã rượu vào ruộng người dân rồi báo cho Tây đoan bắt bỏ tù người đó để hắn ta mua rẻ ruộng đất v.v... Sau khi tố mọi tội lỗi của vợ chồng địa chủ, người giảng viên mới nói với học viên rằng vợ chồng tên địa chủ đó là cha mẹ của ông ta, họ còn có tội là nuông chiều ông, dạy cho ông nếp sống quan liêu phong kiến xa rời quần chúng cho đến khi ông may mắn được Bác Hồ và Đảng giác ngộ dạy dỗ. Người giảng viên tố cha mẹ đó là Bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh”.

Nghĩa nói lúc anh nghe bài giảng anh lạnh cả gáy, anh nghĩ là một người không có hiếu với cha mẹ của mình thì làm sao hiếu với dân như Đảng dạy. Nghĩa nghĩ nhưng không bao giờ dám phát biểu ý nghĩ của mình. Sau này anh hiểu thêm là chiến dịch cải cách ruộng đất buộc tất cả các cán bộ trong quân đội cũng như trong chính quyền thuộc gia đình trung nông, tiểu tư sản trở lên phải kiểm điểm bản thân và gia đình. Càng nhận nhiều tội, càng tố cáo nhiều tội lỗi của cha mẹ càng được công nhận là giác ngộ cách mạng và có đảng tính cao.

Bác Hồ và đảng chủ trương đẩy mạnh chính sách đó, nhằm mục đích tách đảng viên khỏi gia đình; cắt đứt sợi dây liên lạc máu huyết để đảng viên không còn cái gì bám víu ngoài đảng, buộc họ phải trung thành với đảng.

Theo Mác và Lénine, đảng Cộng sản là đảng của giai cấp công nhân. Việt Nam chưa phát triển công nghiệp, không có giai cấp công nhân - nên theo lý luận của Mao Trạch Đông, đảng Cộng Sản Trung Quốc và đảng Cộng Sản Việt Nam phải xây dựng trên nông dân. Nhưng nông dân phải là bần nông và cố nông mới là thành phần lãnh đạo.

 

Thực tế, bần nông và cố nông không có khả năng, không học vấn không thể lãnh đạo cách mạng. Do đó, họ cần đến những người trí thức, tư sản và tiểu tư sản đầu hàng giai cấp một cách triệt để. Trường Chinh là mẫu tiêu biểu. Con địa chủ, có học vấn trung học, nên muốn lãnh đạo Trường Chinh mở đầu cho phong trào đấu tố cha mẹ là địa chủ. Sau đó, các cán bộ đều phải đấu tố cha mẹ mình. Đa số vì sợ và vì con đường tiến thân, vì sống trong guồng máy, họ đã theo gương Trường Chinh làm việc trái với đạo lý dân tộc. Nhưng cũng có nhiều người không thể làm được, họ bị loại ra khỏi quân đội, khỏi chính quyền và đảng. Có nhiều người bị bức bách đấu tố cha mẹ xong, sau đó ân hận đã tự tử, có người đã trở nên bất bình thường. Kết quả hàng trăm ngàn người bị giết trong cải cách ruộng đất, hằng trăm ngàn người bị đày ải trong các trại cải tạo, cho đến năm 1975 có người chưa được thả và hàng triệu người bị bức bách bỏ quê hương lên cư trú ở miền rừng thiêng nước độc như Sơn La, Hoàng Liên Sơn.

Sau cuộc cải cách, đảng và Bác giả làm như sửa sai, Trường Chinh và Lê Văn Lương bị hạ tầng. Nhưng thực sự đối với đảng, đối với Bác Hồ, họ đã thành công trong việc gieo mối sợ hãi khủng khiếp trong dân chúng để củng cố quyền cai trị độc đoán và phá vỡ nền móng gia đình của một dân tộc xem gia đình, xã thôn là những tổ chức căn bản của xã hội. Ở miền Bắc dân chúng không ai dám nhắc, và muốn nhắc đến những phong trào như đàn áp trí thức trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, và sự đấu tố trong phong trào cải cách ruộng đất. Giới trẻ thì họ không biết rõ ràng, nhưng những người trung niên lớn tuổi thì như là một vết hằn đau thương trong tâm hồn và ký ức mọi người. Không ai dám nhắc tới nhưng không ai quên được.

Cộng sản chiếm được miền Nam, họ bị hụt hẫng rất nhiều, những gì phong trào Cộng sản có thể làm được, miền Nam đã giải quyết trước; những điều họ có thể vận động quần chúng làm cách mạng như ở miền Bắc, miền Nam đã làm. Xóa nạn mù chữ, giải phóng phụ nữ, bình đẳng chủ thợ, người nông dân có ruộng v.v... miền Nam đã làm trước. Những ngày đầu khi bước chân vào miền Nam, những đầu óc già nua của cán bộ Cộng sản giở lại những việc làm vận động quần chúng như thời kỳ năm 1945 trở thành lạc hậu dưới con mắt của người dân miền Nam. Dân miền Nam thấy Cộng sản không có gì mới, không hay như có người đã lầm tưởng.

Đời sống kinh tế miền Nam phong phú nên con người miền Nam cũng phóng khoáng hơn, tinh thần đố kỵ nhau cũng ít. Cộng sản khó khơi động hận thù như họ đã thành công ở miền Bắc Việt Nam.

Hầu như người miền Nam không thích hợp với chế độ Cộng sản. Những cán bộ kháng chiến đi tập kết ra Bắc, dù có chính sách ưu đãi, họ vẫn thấy lúng túng với cuộc sống khó khăn, con người phải bon chen vất vả mới sống được. Do đó, cán bộ tập kết năm 1954, sau hai năm không có hiệp thương bầu cử, họ đã tranh đấu và đòi về miền Nam. Hồ Chí Minh ngoài việc ban hành chính sách ưu đãi cán bộ, bộ đội tập kết, phong cấp tướng cho những tư lệnh kháng chiến ở Nam Bộ như Mười Trí, Đồng Văn Cống, Huỳnh Văn Nghệ nhưng thực sự không mấy tin cậy họ. Do đó, các đảng viên Cộng sản gốc người miền Nam ngoài Phạm Hùng và Võ Văn Kiệt không mấy người đi sâu vào thành phần lãnh đạo cao cấp. Để lãnh đạo Nam Bộ Kháng Chiến, và sau này lãnh đạo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Hồ Chí Minh cử cán bộ người Bắc và Trung vào như Lê Duẩn, Trần Văn Trà, Trần Nam Trung, Trần Độ, Nguyễn Văn Linh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Thị Bình. Người gốc miền Nam chỉ giữ vai trò thứ yếu như Ung Văn Khiêm, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Trần Bạch Đằng... và cũng vì muốn trở về Nam, nên khi lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, cán bộ tập kết đều được hồi kết và trong cuộc chiến đấu, ngoài sự lãnh đạo của Cộng sản, nguyện vọng muốn chiến thắng để trở về làm chủ quê hương của người miền Nam đã khiến họ hoạt động hăng hái, móc nối con em họ sinh trưởng ở miền Nam làm nội ứng và họ đã chiến đấu hăng say đến chiến thắng.

Nhưng sau khi chiến thắng rồi, những gì họ hiểu biết về đảng, về miền Bắc, và sự hiểu biết thêm về đời sống của thân nhân họ ở miền Nam khiến họ cảm thấy bị đánh lừa và chán nản và bắt đầu có tư tưởng chống đối.

Tiêu biểu nhất là trường hợp Huỳnh Văn Nghệ, Cựu Tư Lệnh quân khu 7. Nghệ là một người yêu nước sinh trưởng ở Biên Hòa, tham gia kháng chiến chống Pháp, nhờ tài quân sự trở thành tư lệnh phó khu 7 ở miền Đông Nam Bộ, Trong thời kháng chiến chống Pháp, Nghệ thắng nhiều trận, danh tiếng hơn cả Trần Văn Trà, đảng viên Cộng sản tư lệnh khu 7, do Hồ Chí Minh cử từ ngoài Bắc vào. Khi tập kết ra Bắc năm 1958, Nghệ và Đồng Văn Cống được mang quân hàm Đại Tá. Đến năm 1960, lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Nghệ hồi kết trở về hoạt động tại khu 7 tức là Vùng Ba Chiến Thuật vùng chiến khu D. Trong thời gian tổ chức chưa được chỉ thị đánh lớn, nhưng Nghệ nóng lòng vì tỉnh trưởng Phước Thành, Thiếu tá Mân bắt người chị của Nghệ, năm 1963, Nghệ đã tấn công chiếm tỉnh lỵ Phước Thành. Thời kỳ còn chiến tranh, cần sử dụng tài quân sự và uy tín của Nghệ ở các tỉnh miền Đông nên Nghệ được cử làm Tư Lệnh khu 7, nhưng sau khi chiến thắng, Nghệ bị điều qua làm Thứ trưởng Bộ Lâm Nghiệp phụ trách khai thác lâm sản mở mang vùng kinh tế mới khu vực Biên Hòa - Đồng Nai. Nghệ nhiều lần tỏ ra bất mãn, nên năm 1975 y bị giết một cách bí mật. Gia đình chỉ được thông báo lên bệnh viện Thống Nhất (bệnh viện Vì Dân) để nhận xác. Vợ con Huỳnh Văn Nghệ thấy thi thể Nghệ đã được bó kín trong một lớp vải liệm trắng mà không được giải thích gì. Cái chết của Huỳnh Văn Nghệ được dư luận ở Saigon, Biên Hòa, nhất là trong số cán bộ tập kết bàn tán một thời. Nhiều cán bộ miền Nam hồi kết đã bị phục viên, một số bất mãn, hoặc nhìn thấy thực tế đã xin phục viên. Số còn lại thì tự lo lấy đời sống của mình vì không còn tin tưởng vào đảng, vào lãnh đạo. Nằm trong chính quyền họ cố làm ra tiền để chuẩn bị đời sống tương lai.

Tôi cũng gặp Trần Văn Lâm, cán bộ Công an quận 10, bị bắt vì lợi dụng cấp hộ khẩu lấy tiền mua nhà.

Lâm kể:

- Quê em ở Thái Bình, vựa lúa của miền Bắc nhưng dân đói quanh năm nhất là vào mùa giáp hạt, nhà nào cũng thiếu ăn. Ba em là Trung úy công an làm việc ở Hà Nội. Nhà em có 8 anh em vừa trai vừa gái. Em là con trưởng. Từ khi biết suy nghĩ đến giờ em thấy mẹ em suốt đời cực khổ vì lũ con nheo nhóc, ba em mỗi tháng về nhà một lần, mang theo một gói cơm khô, ông nhịn bớt phần ăn phơi để dành về nuôi chúng em. Ngoài gói cơm khô và mấy chục bạc lương ít ỏi, ba em không còn gì cho gia đình nữa, ông chỉ hứa hẹn là khi đất nước thanh bình đuổi được giặc Mỹ ra khỏi miền Nam thì nhân dân sẽ sung sướng. Ba em là người đảng viên trung thành của chế độ, nên lúc nào ông cũng thuộc lòng mớ lý thuyết đấu tranh giai cấp, lúc nào ông cũng Bôn (Bolsevick), và em thì chán ngấy mớ lý thuyết vô ích đó. Đối với em phải là thực tế gạo cơm và tiền. Cơm làm no bụng, “Bôn” không làm mình no, và tiền thì mua được đủ thứ.

Năm nào nhà em cũng đói hàng tháng, mẹ càng đẻ nhiều thì càng đói nhiều, nhà nhiều miệng ăn mà phần gạo mẹ chia ở hợp tác xã không tăng. Không kể năm mất mùa còn bị sụt. Có những tháng chúng em ăn cháo ròng rã, mỗi ngày mẹ nấu nồi cháo hai lon gạo thêm vài lon cám và dây khoai lang. Và nhiều lần mẹ em phải nhịn ăn để dành phần cho những đứa em bé. Có lần đi học về thấy mẹ nằm đói lả bên thằng em khóc đòi bú mà bếp núc chưa có đóm lửa. Mẹ nói nhà hết gạo, mới sai em gái sang làng bên vay gạo. Em chạy ra đường để đón đứa em vì trời đã nhá nhem tối. Gặp em gái trên bờ đê vừa đi vừa khóc vì bác không cho mượn gạo, bác chỉ cho một bó dây khoai lang và một đoạn cây chuối. Hai anh em đi về nhà mà tê tái cả lòng vì lạnh bên ngoài và rét cả bên trong. Nghĩ đến mẹ và 6 đứa em đang chờ gạo ở nhà; em không thể nào về không được nên em quyết định làm một việc mà từ lâu em vẫn suy nghĩ mà chưa dám làm. Em ăn trộm một trái mít của một gia đình lối xóm. Em nói với mẹ là mít của bác cho. Từ đó quen tính lấy tất cả những gì có thể lấy được, mẹ em chắc cũng biết em làm điều xấu, nhưng bà làm ngơ giả như không biết. Em đã lớn lên trong hoàn cảnh đó, em sớm hiểu giá trị của cơm áo, và em phải biết cách để kiếm nó.

Năm 17 tuổi, em thôi học lớp 9, hợp tác xã nông nghiệp cơ giới hóa một máy bơm nước, em được tuyển chọn đi Hà Nội học thợ máy vì em là con của một sĩ quan công an.

ở Hà Nội, em biết thêm không phải chỉ gia đình em đói, mà nhiều nơi khác cũng đói. Người ta từ làng quê kéo lên Hà Nội ăn xin, hoặc ăn trộm và cướp giật.

Anh nghĩ gì khi thấy một người vào cửa hàng giật một chiếc bánh của một người đang ăn, rồi hai tay tọng ngay chiếc bánh vào mồm. Trong khi người mất bánh dùng cả hai tay và sức lực để đấm vào bụng người ăn cướp, người ăn cướp cố trợn phùng mắt để nuốt, hắn không sợ bị đánh đau mà chỉ sợ chiếc bánh bị bật ra khỏi miệng.

Nhiều người bị bắt vào các trại tập trung, nhiều người đói quá cố tình phạm tội để bị bắt, vào trại tập trung còn có tiêu chuẩn ăn, còn ở ngoài họ tìm không ra. Nhưng trại tập trung quá đông, công an lại không muốn nhận số người “tình nguyện” nên chỉ giam ít ngày rồi thả.

Trại tập trung miền Bắc thật khủng khiếp, rồi thời gian tới anh sẽ biết thế nào là trại cải tạo, vậy mà đói quá có người quẫn trí muốn vào. Bên ngoài họ không tìm cái gì để ăn được.

Em nhớ đến gia đình của em đông anh em, không biết đến ngày nào thì tan rã vì đói; mình phải lo cứu bản thân và gia đình mình trước, còn lý tưởng cách mạng chỉ là chuyện xa vời. Sáu tháng học tập ở bộ cơ khí về việc điều hành máy bơm nước Hoa Sen. Trở về lại làng, em trở thành một người quan trọng. Hơn một nghìn hai trăm xã viên trông cậy vào một mình em điều khiển máy bơm nước để họ đỡ công tát nước khuya. Và em biết nắm lấy hoàn cảnh; cái máy nếu chạy tốt mãi thì không có gì lạ và mình trở thành người tầm thường, người ta sẽ quên cái công khó của mình, vì người ta nhận lãnh thành quả của em một cách tự nhiên. Do đó, em quyết định cái máy thỉnh thoảng phải hỏng, và nó hỏng những lúc ngặt nghèo nhất như lúc lúa đang ngậm đòng thì càng tốt. Những ngày em lui cui sửa máy là những ngày quan trọng và là những ngày mong đợi của bà con, khi máy chạy trở lại em được bà con cám ơn và xem như những người từ xa đến cứu họ. Đó là công việc làm ăn của em. Công điểm của em về coi máy mỗi ngày là 10 điểm; thì bây giờ nếu máy hư em sửa được máy phải tính thêm công điểm cho mẹ, hay cho em gái. Cũng vì cái tính quan trọng của máy bơm nước với cả hợp tác xã, nên khi sửa máy xong, thì ban quản trị nghĩ là phải có ăn mừng, gà, vịt, hay cá của hợp tác xã được chi vào những bữa tiệc đó, đâu có ai chịu riêng đâu, mọi phí tổn đều do hợp tác xã chịu. Không nói ra, nhưng có một thỏa thuận ngầm giữa chủ tịch hợp tác xã và em về chu kỳ hư hỏng của máy, cũng như những bữa tiệc sau đó. Những cuộc bình bầu 6 tháng, hay một năm cá nhân xuất sắc thì chủ tịch hợp tác xã là người hăng hái đề nghị bảo vệ cho em. Từ cá nhân xuất sắc của hợp tác xã, rồi cá nhân xuất sắc của cả huyện, em được bầu làm anh hùng lao động. Anh nghĩ xem 20 tuổi được bầu làm anh hùng lao động, đại diện cả tỉnh về Hà Nội dự lễ quốc khánh ngồi khán đài xem diễn binh cùng với những đồng chí cao cấp trong đảng và chính phủ. Ba em rất hãnh diện vì em, suốt đời ông chỉ mong một lần ngồi trên khán đài mà không được. Em ngồi khán đài, nên đã nhìn thấy các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Văn Tiến Dũng, ông nào cũng mập tròn, nước da láng bóng. Các ông ấy đã làm cách mạng và lãnh đạo cách mạng, công việc nặng nhọc nên cần được bồi dưỡng, nên dân có gầy ốm thì các ông ấy vẫn mập như voi. Họ làm lãnh tụ cách mạng là biết cách thúc đẩy toàn dân làm cách mạng, còn họ thì hưởng, gia đình họ hưởng; họ quyết tâm giải phóng miền Nam, nhưng ra chiến trường là người khác chết, con em người khác chết. Các lãnh tụ không ai có con phải vào chiến trường B cả, con của họ đi học ngoại quốc. Họ cấu kết nhau thành một tầng lớp thủ lợi riêng tư sống trên xương máu của nhân dân, cấu kết với nhau trong nước chưa đủ để củng cố địa vị, họ còn cấu kết với nước ngoài.

Ông Lê Duẩn đem gả con gái cho cháu trai của Breznev bên Liên Sô không phải để giữ chắc cái ghế Tổng Bí Thư là gì.

Nói tóm lại, phải biết sống, không có quyền hành thì phải có tiền, xin lỗi anh, bao giờ chó chê cứt thì người ta mới chê tiền anh ạ.

 

Năm em 22 tuổi em phải vào bộ đội, các lý do cần thiết cho hợp tác xã không giữ em được miễn, nhưng lúc này em đã biết sống và có cách sống, trong những năm thân cận với chủ tịch hợp tác xã em đã học hỏi được nhiều mánh mung, bớt xén phân bón, thuốc trừ sâu, cân đo gian lận, em cũng để dành được ít tiền, gia đình em cũng tạm no; vào lính với lý lịch bố làm công an, và thành phần ba đời bần nông cùng với 500 đồng bạc để dành được làm của hối lộ, em được đi học tài xế. Phải nhắc anh mới hiểu cái quan trọng của nghề lái xe ở miền Bắc; trong khi hầu hết mọi người đi bộ hoặc đi xe đạp, mà mình ngồi trên xe hơi thì anh biết sẽ đủ mùi sung sướng, dù là xe hơi nhà nước, xe hơi quân đội anh cũng được sung sướng trọn vẹn. Lính xế không trực tiếp chiến đấu, nếu anh biết sống thì anh chỉ chạy tuyến tiếp vận hàng hóa, dĩ nhiên cũng có sợ bom Mỹ nhưng mọi người đều đương đầu với hiểm nguy, thì mình không ngại gì khi mình vẫn ưu tiên. Anh biết không, lính xế là ước mơ của bao nhiêu thanh niên miền Bắc; làm vợ lính xế là ước mơ của bao nhiêu cô gái. Thời buổi chiến tranh, chết chóc đói khổ, anh biết chỉ có lính xế mới có tiền vào các quán hàng chui có đầy đủ phẩm chất, phở có người lái, thịt gà, thịt lợn chui đủ thứ, chứ không phải chỉ vào cửa hàng quốc doanh ăn phở không có thịt. Sau mười tám tháng học ở trường dạy lái xe Đồng Đăng thì em tốt nghiệp. Anh thắc mắc tại sao học tài xế phải 18 tháng, đó cũng là kinh nghiệm sống để biết thêm cách sống. Nếu ban giám hiệu trường dạy lái xe không soạn một chương trình huấn luyện lâu dài thì họ đâu có là đơn vị quan trọng, họ đâu có chỗ đứng trong bộ máy nhà nước. Anh biết là giám hiệu trường quân xa mang quân hàm Thiếu Tướng. Nếu cứ vài ba tuần hay nửa tháng là học xong bằng lái xe thì nghề lính xế đâu có quí và cái trường đào tạo lính xế đâu có quan trọng. Chỉ có việc ngồi trên mô hình xe bằng gỗ để tập vặn tay lái và đạp chân ga là đã ba tháng học.

Ra trường, đơn vị đầu tiên của em phụ trách chuyển quân từ Thanh Hóa vào đến Vinh, công tác này thú lắm, nhất là lúc đó em còn trẻ, các em gái thanh niên xung phong liên khu 4 mê lính xế miền Bắc. Em nào cũng thước năm bằng nhau như cưa và cái đít bằng cái thúng; cứ biếu một ký muối là anh tha hồ, đơn vị đóng quân gần nhau, tối mò qua, ôm đứa này thì đứa khác quay mặt qua hướng kia, giả đò ngủ. Trên đường trở về đơn vị em làm ăn bằng cách chở người quá giang. Nếu không lấy tiền thì tụi em được đền ơn bằng tình; nói tóm lại tha hồ, sợ không có sức mà chơi. Em đâu có bám vào đơn vị chuyển quân mà sống được, dù sống vui như em đã kể; vấn đề là phải làm ra tiền, có tiền anh sẽ mua được nhiều thứ, kể cả sinh mạng của anh. Em đã tốn cả 1000 đồng để đổi từ đơn vị chuyển quân sang đơn vị chuyển vận hàng hóa. Lộ trình từ Đồng Đăng về Hà Nội, chở hàng viện trợ của Trung Quốc qua ngã Lạng Sơn - chuyên chở đủ thứ, từ gạo, mì chính (bột ngọt), thuốc tây. Anh biết lần đầu tiên đem về nhà nửa bao gạo mẹ em sung sướng thế nào không? Suốt đời chưa bao giờ mẹ em có được một lúc gần 50kg gạo. Đó là em muốn mẹ em được hưởng cái cảm giác sung sướng vì no đủ, cho bõ những lúc đói hai ba ngày không có hột cơm, chỉ ăn cháo nấu với cám và dây khoai như thức ăn của lợn. Đem gạo về như vậy rất phiền, phải giấu giếm, nếu không thì lộ chuyện làm ăn, dù gia đình em là công an được làng xã nể vì và em cũng là người quen biết. Từ đó về sau em đem hàng đi bán lấy tiền.

Hàng ăn cắp thì bán cách nào cũng được, đứa nào cũng là cơ sở cách mạng, đứa nào cũng miệng nói cách mạng, nhưng móc nối được lính xế tuôn hàng cho bán, thì đứa nào cũng bí mật, giấu kín như mèo giấu cứt, vì đứa nào cũng hiểu rất rõ cái ăn nó quan trọng hơn đảng. Nếu nghe theo lời đảng “giữ sự trong sáng như con ngươi của mắt” thì có nước ăn cứt - nói thì cứ nói, mà làm thì cứ làm. Khi chưa có cơ hội làm thì cứ đem kinh điển của đảng ra tụng mỗi ngày, buộc tội đứa khác cũng dựa vào kinh điển, thúc đẩy đứa khác cũng dựa vào kinh điển - nhưng cơ hội đến thì đứa nào cũng phải biết ôm lấy cái lợi. Em chở hàng, thường thì đến trạm nghỉ Bắc Ninh chúng em bán đồ ăn cắp. Đứa nào cũng làm ăn, từ trên xuống dưới. Cứ lấy bớt mỗi thùng, mỗi bao một ít rồi về thằng thủ kho nó chịu, cứ theo dây chuyền như vậy, có ai thiệt hại đâu ngoài mấy thằng lính ngoài chiến trường, mà lính thì sống nay chết mai, bữa đói bữa no có khi giặc tấn công cả hai ba ngày không ăn là chuyện thường; nếu không có đứa rảnh rang khơi lên thì có ai mà biết - có ai cần quan tâm khi cái chết nó quan trọng hơn, mà có đứa nào chắc chắn được là ngày mai mình không bị bom dập nát.

Em cứ đưa hàng cho những bí thư xã nó bán là ăn chắc, nó vừa bảo vệ việc làm ăn của nó vừa bảo vệ cho mình, lâu lâu nó lại làm kiến nghị của nhân dân xã lên đơn vị trưởng nói tốt cho mình, đơn vị quân đội khi làm công tác chuyển vận đã được dân chúng mến mộ, nó muốn viết gì thì viết nấy; quí hồ vẹn cả mọi bề, làm ăn tốt đẹp cả. Nơi nào đơn vị dừng lâu em cũng có đầu mối làm ăn và có gái. Anh biết thằng cha bí thư xã Thanh Liêm ở Bắc Ninh có hai đứa con gái mới lớn em đều ngủ cả mà hắn không dám nói vì sợ mất mối mì chính của em đưa bán. Trên đường từ Hải Phòng về thì tại Hải Hưng em có một trạm do hai chị em một nữ bí thư xã lo việc bán hàng cho em. Cả hai chị em đều chưa có chồng và đều coi em như trứng mỏng, em muốn ngủ với đứa nào cũng được.

Em hay nói về đàn bà, vì mình là thanh niên độc thân đâu có gì thú bằng chuyện đàn bà, cách mạng người ta giải phóng phụ nữ, bảo vệ phẩm giá nữ giới, nhưng đàn bà miền Bắc lại rẻ như bèo, phần thì thanh niên phải ra chiến trường, trai thiếu gái thừa, phần thì phụ nữ ra ngoài xã hội chung chạ đủ hạng người - cứ đẩy đàn ông ra chiến trường thì bọn đảng viên cơ sở ở nhà mặc tình hưởng thụ vợ con của người khác. Anh nghĩ, làm sao giữ được phẩm hạnh khi xa chồng lâu ngày rồi phải đi làm nghĩa vụ lao động hàng hai ba tháng chung chạ nam nữ lẫn lộn với nhau; làm sao giữ trinh tiết khi chồng đi vắng mà thằng bí thư xã cứ đến nay giúp cái này, mai giúp cái khác. Làm sao mà giữ chữ trinh trong khi con gái đến tuổi 18 bị lùa đi thanh niên xung phong hàng 2,3 năm trời xa nhà, mà nhà nước chỉ chích cho mỗi 3 tháng một lần một mũi thuốc ngừa thai. Hoặc khi giáp hạt phải quảy gánh lên tận Hà Giang để mua củ sắn về bán lại hay để ăn trong gia đình. Lính xế tụi em thì có tất cả, trên đường công tác, chạy đến ga xe lửa chọn một vài cô xinh đẹp cho quá giang là có bạn gái, họ phải tiện tặn từ đồng, từ chục bạc để mua sắn thì họ phải chiều, mà có mất mát gì đâu phải không anh? Rửa đi thì nó lại sạch như mới. Khi quân vào giải phóng Đà Nẵng em đã có mặt tại đó, em vẫn là lính xế, sau khi chiếm xong Huế thì đoàn quân bị sựng lại ở Hải Vân đến hai ngày, lúc đầu mới tiến qua sông Thạch Hãn và vào Huế thì còn sợ bị phản công, nhưng thấy chiếm xong hai tỉnh mà không động tĩnh gì, tụi em mới an tâm, nên đứa nào cũng náo nức tranh thủ cho được đi những chuyến đầu tiên vào Đà Nẵng. Vào đến thành phố, các em được nghiêm lệnh không động tới tái sản của dân dù là cây kim sợi chỉ, nhưng tài sản của dân còn làm chủ chứ có nhiều của cải vứt rây rải trên đường không ai thừa nhận, có dịp nào mình xin cũng được cả khối. Tụi em lại là lính xế, xe còn chạy ra, chạy vào để tiếp tục đưa quân vào, nên mỗi chuyến xe em cũng có được “chiến lợi phẩm” như đài (radio), máy hát, thuốc tây, đủ loại các vật mà em bán ngay tại Vinh để lấy tiền. Vinh là đầu cầu chuyển quân lúc đó.

Sau khi đóng ở Đà Nẵng hai tháng thì em xin phép về nhà, em có được một xe môtô hiệu Honda, máy băng cassette, đài, cái nào cũng có hóa đơn hay giấy chứng nhận của đồng bào cho do các phường xã cấp - sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa phải có giấy tờ cẩn thận phòng thân, e sợ có đứa xấu mồm nó ganh ghét tố cáo. Sẵn có tiền em mua một chuyến hàng về bán. Anh biết em mua gì không? Em mua một bao bố thứ bong bóng thổi cho trẻ em chơi, thứ này không ai để ý mà cũng không sợ bị vi phạm gì, bong bóng đủ màu ngoài Bắc hiếm lắm. Thuở nhỏ em chơi bằng bong bóng lợn, mỗi khi làng xã có giỗ tết giết lợn, mình lanh lợi phụ giúp mới xin được cái bong bóng đem phơi cho gần khô rồi thổi lên làm bóng đá chơi. Sau này trẻ con chơi bong bóng bằng cao su kế hoạch hóa - Anh không hiểu bao cao su kế hoạch hóa là gì à? Đó là bao ngừa chửa đẻ, ngoài Bắc chủ trương kế hoạch hóa gia đình và ba khoan, trong đó có khoan đẻ cho những cặp vợ chồng mới cưới, và người ta còn phát bao cho những thanh niên xung phong, để bổ túc cho liều thuốc ngừa thai chích cho nữ thanh niên xung phong có hiệu quả ba tháng. Bao cao su bán rẻ cho những gia đình kế hoạch hóa một hào một cái, nhưng người ta lại ít muốn kế hoạch hóa và ham lợi, có người nghĩ ra cách mua góp bao cao su hai hào rưỡi một cái về thổi lên làm bong bóng bán cho trẻ con chơi với giá 5 hào. Bong bóng đó không có màu. Em đem bong bóng miền Nam về nhiều màu, chỉ mấy ngày đã bán nhẵn, một bao bố em lời được 10 ngàn đồng. Số tiền quá lớn chưa bao giờ gia đình em dám mơ ước tới.

Về xóm làng, bà con đến nhà bu đông đặc, cái gì cũng mới lạ, cũng sờ vào, cả ba em, cứ thắc mắc làm sao em có nhiều tài sản thế. Em khui ra 5 hộp sữa pha vào một cái thau lớn mời mọi người nhấm một tí, có người suốt đời chưa biết uống sữa bò là gì, chỉ nghe nói là miền Nam theo Mỹ, ăn bơ sữa của Mỹ nên ai nấy tò mò. Có người hớp vào một tí đã la lên là sao sữa hôi mùi xà phòng mà tụi Mỹ nó thích. Bơ thì em cũng nghe nói nhưng lúc đó chưa biết là gì nên không đem về cho bà con biết. Ngày nào nhà em cũng đầy khách, máy cassette em mở cải lương cho họ nghe. Ba em cứ ngồi vuốt ve cái mô tô và cái máy cassette, khi em nói máy thâu được cả lời nói, không ai tin, em nhấn nút thâu bảo ba em nói vào, đến lúc mở ra nghe tiếng của ông, ông ngồi ngẩn tò te, tròn mắt ngạc nhiên lắm. Tội nghiệp ba em suốt đời lúc nào cũng Bôn, lý thuyết Bolchevik, đấu tranh với kẻ thù giai cấp ông nói nằm lòng mười lần giống như một. Nhưng suốt đời không đủ no và gia đình mẹ con em thì đói dài dài. Ám ảnh vì món tài sản em mang về quá nhiều ông cứ theo hỏi em là em đã được lên cấp tá chưa mà chiến lợi phẩm lại nhiều thế. Em nói em chỉ là thượng sĩ tài xế ông không tin, thực ra ông quá choáng ngợp vào đồ vật thôi chứ ông không thể nào tin là em được lên tới cấp tá trong quân đội, mà cho dù cấp tá ở miền Bắc cũng không có được một lúc nhiều hàng hóa như vậy. Ông như người mất hồn, cứ hỏi đồ vật ở đâu em có, em bảo đồng bào miền Nam cho, ông không thể nào hiểu nổi người ta có thể bỏ một số tài sản như vậy để mà chạy. Em phải nói là em là cấp nhỏ nhờ có xe và lanh lợi cũng tìm được tài sản đó, còn các ông lớn có quyền, họ tiếp thu cơ quan tha hồ mà lấy, cứ một phần cho nhà nước, mười phần cho cá nhân, xe con tịch thu được của người bỏ đi ngày nào cũng mang chở chiến lợi phẩm ra Bắc.

Tội nghiệp mẹ và vợ em, em mua về cho thật nhiều áo quần, những cái áo len dày và ấm nhưng không dám mặc, có mặc thì cũng mặc vào bên trong rồi mặc cái áo trấn thủ rách mướp ra ngoài. Em giục nhà ăn, mặc; em ra phố mua cả rổ cá, bao nhiêu thịt người ta bán chui em mua về hết cho gia đình ăn, mẹ em cứ hoảng lên, đi ra đi vào, bối rối không biết phải làm cái gì; rồi lại sợ xóm giềng biết được. Em bảo gia đình có sức cứ ăn cho sướng, cho bõ bao nhiêu ngày đói khổ, nhưng nhà em thì dè dặt bảo bây giờ có em, có cha em người ta cũng nể nang, rồi khi chúng em đi hết rồi, địa phương lại lôi thôi.

Em ở nhà dự đám cưới của đứa em gái, hai đứa nó là thanh niên xung phong đi công tác ở Hà Giang một năm nghĩa vụ lao động rồi thành vợ chồng vì con nhỏ bể kế hoạch có chửa, mà mẹ em không cho trục thai. Thanh niên nam nữ chung đụng với nhau hàng ngày, đứa nào lười xin thuốc hay dùng bao cao su kế hoạch mà dính chấu thì phải cưới nhau. Sau khi tập thể và đoàn thanh niên kiểm điểm phê bình, đưa ra trước tiểu đoàn đấu tranh rút kinh nghiệm, xong thì cho phép làm đám cưới. Về đăng ký cưới tại địa phương sẽ được phiếu mua hai gói trà, 6 gói thuốc lá và hai bao kẹo để làm bữa tiệc đãi bạn bè và địa phương.

Sẵn có tiền, và cũng muốn có một đám cưới lớn cho nở mày nở mặt với bà con; em bàn với mẹ làm tiệc mặn, tiệc mặn thì có thể mua hai con chó để làm tiệc, chó thì được hạ thịt tự do, vì chó không vào quy hoạch nhà nước. Nhưng em muốn làm một con lợn cho hách; lợn thì làm gì có mà mua được cả con. Cuối cùng em phải đến thương lượng với tổ chăn nuôi của hợp tác xã làng bên kia sông, chủ nhiệm đồng ý bán cho em con lợn với cách là hắn dàn xếp cho em và thằng em rể vào ăn trộm, tiền đưa xong, ban đêm dẫn vào chuồng lợn, tụi em đào một cái hố con, xong nhấn đầu con lợn xuống đâm cổ tại chỗ - tức là phải bỏ cả tiết lợn - rồi mang xác con lợn xuống ghe làm thịt ngay giữa sông.

Đến ngày đãi khách, em phải đứng giữ vò thịt, chờ lịnh mẹ, khách nào bà bảo chó, thì thằng em rể cắt thịt chó, khách nào bà bảo lợn thì em cắt thịt lợn. Bà con người nào thân thiết mà kín miệng mới được ăn thịt lợn, còn không thì ăn thịt chó.

Em kể chuyện ở Đà Nẵng người ta bán thịt bò thui nguyên cả đùi không ai tin cứ bảo em đi xa về nói dóc. Vợ em nó như con mán, em nói gì nó cũng nói “anh nói thế, chứ ăn thịt bò tù cho đấy”, nó quen luật pháp miền Bắc làm thịt bò ăn là ở tù nên chuyện nó không thấy nói thế nào nó cũng không tin.

Em muốn đưa nó vào Nam sống nó lại không muốn đi, nó bảo nó không thể xa làng mạc được. Tội nghiệp nó, làm nông vất vả, sáng sớm chưa hừng đông đã ra đồng hợp tác, hết cấy, làm cỏ, thì đập bèo hoa dâu, mùa lạnh lội nước teo cả người mà nó cứ dại không chịu đi theo em.

 

Em là một đảng viên Cộng sản, em vào đảng không khó vì bố là đảng viên, lý lịch gia đình bần nông, qua giai đoạn phấn đấu khi còn là đối tượng đảng. Ở nông thôn, thì chịu khó thức khuya dậy sớm trời lạnh ra đồng đập bèo hoa dâu vài mùa, nhưng quan trọng là công việc mình làm phải được giới thiệu, nhiều khi làm ít mà được người giới thiệu tô vẽ hơn lên thì càng tốt. Chỉ ở ngoài tác chiến thì khổ, nhiều đứa cứ tin vào lý tưởng, nghe theo lời động viên của cơ sở thúc đẩy, xung phong chấp nhận hy sinh để xứng đáng được kết nạp đảng, nhiều đứa chết trước khi được vào đảng, đến lúc đó thì cơ sở sẽ làm lễ truy điệu, đọc lời thương tiếc để động viên sự hy sinh của đứa khác. Những đứa đã vào đảng trước rồi thì nó chỉ thúc đẩy đứa sắp vào đảng hy sinh còn nó thì không.

Anh biết từ bộ đội chuyển qua công an và để được làm ngay tại Saigon này em phải mất bao nhiêu không? Mười ngàn, đó là giá còn sớm, lúc này chưa chắc mua được - một là tiền hai là thế, không có tiền để mua thì phải vào cho đúng phe nhóm mới được sắp xếp cho làm tại Saigon này, vì Saigon là nơi rất quan trọng mà hiện nay cánh nào cũng muốn bành trướng thế lực và nắm lấy những địa vị then chốt. Ngành công an là công cụ để bảo vệ chế độ, công an có nhiều quyền, nên công an cũng là nơi làm ra nhiều tiền, đó là logic. Em bị chuyến này vì ham cái nhà ở đường Nguyễn Tri Phương vừa tốt vừa rẻ, em muốn mua để đưa mẹ, vợ và mấy đứa em vào sống trong này.

Tội lỗi em không lo, em còn tiền rồi sẽ lo xong, vả lại việc làm ăn cũng có liên hệ nhiều người, điều quan trọng là em sẽ không nhận tội gì cả; trong xã hội Cộng sản này, tốt nhất là đừng để bị bắt, nếu lỡ có bị bắt thì cố gắng giữ lời khai cho hợp lý, đừng nhận tội. Nó nói là tự giác nhận tội sẽ được khoan hồng, nhưng tự giác là tự sát. Nhận tội thì không có đứa nào có quyền khoan hồng, người ta chỉ khoan hồng cho những người không phạm tội, tức là tỏ ra không có tội theo luật pháp qui định. Không nhận tội, khéo khai cho hợp lý, rồi bên ngoài có tiền chạy cho đúng thì gỡ được. Em làm ở ngành công an em hiểu; vụ án nào cũng phải được giải quyết, vì giải quyết xong một vụ án cũng là thành tích của đứa nó phụ trách, vậy nó phải làm cho mình nhận tội bằng cách tra khảo, dụ dỗ, hứa hẹn, dọa nạt, cách nào cũng được để can phạm nhận tội, hoặc ngược lại mình phải làm cho nó tin là mình vô tội cũng bằng mọi cách, trước hết không nhận tội, khéo khai cho hợp lý để nó có thể kết luận khả tín lên thượng cấp và tốt hết là mua chuộc. Thằng công an làm nghề bắt tội phạm cũng phải có thành tích, ngoài chuyện rình mò tìm ra người phạm pháp, nhiều khi nó phải dựng chuyện để bắt, dụ dỗ người ta phạm tội để bắt. Chế độ cần thành tích nên mọi ngành phải lập thành tích mà thành tích của công an là bắt người và xử lý các vụ án.

Tôi ngạc nhiên về trường hợp của Lâm, thế hệ thanh niên Cộng sản thứ ba mà Hồ Chí Minh kỳ vọng đào tạo nên con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thế hệ thứ nhất là những người Cộng sản đi làm cách mạng năm 1930, nay còn rất ít và đang ở địa vị chóp bu; thế hệ thứ hai tham gia kháng chiến năm 1945, dù đã trở thành Cộng sản nhưng đa số gốc gác vẫn là tiểu tư sản, hay nông dân là thành phần ít có cách mạng tính hơn hết; tiểu tư sản và nông dân là thành phần hay suy nghĩ và làm việc một cách tùy tiện không có tinh thần kỷ luật. Thế hệ thứ ba là những thanh niên sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, được giáo dục tinh thần xã hội chủ nghĩa từ nhỏ, đảng tạo điều kiện cho họ thoát ly khỏi gia đình, từ bỏ tư hữu để hiến thân cuộc đời cho đảng và cho tập thể.

Nhưng trường hợp của Lâm là kết quả ngược lại điều mong ước của đảng và “bác”. Người thanh niên Cộng sản này chỉ nhìn thấy thực tế đời sống đói khổ và bỏ mặc những điều đảng và bác dạy dỗ để tự tìm lấy cho mình một lối sống để tồn tại.

Lý thuyết Cộng sản đã không tồn tại và phát triển được ở các nước giàu có, và chính những nước mà Cộng sản đã vô sản hóa người dân như miền Bắc Việt Nam cũng không phát triển được. Nó chỉ tồn tại ở bên ngoài bởi tổ chức và bạo lực áp bức, còn bên trong nó bị chính con người nó đào tạo ra từ khước.

Trường hợp chú Bình, trường hợp Nghĩa, trường hợp Lâm, những đảng viên Cộng sản đã nói lên tất cả cái phi lý của chế độ Cộng sản, sự gượng ép của những con người nhân danh cách mạng đem nó về áp đặt lên trên đầu dân chúng, và nó đang bị từ khước. Trường hợp của Huệ Nhật, của những nông dân vùng Minh Long mà tôi đã sống chung, cũng như hầu hết những người nông dân Việt Nam trước ủng hộ kháng chiến, nay chống đối xã hội chủ nghĩa, cho thấy việc xây dựng xã hội chủ nghĩa là không cần thiết và đi ngược lại lịch sử và quyền lợi dân tộc.

Như vậy, chế độ Cộng sản không thể tồn tại lâu dài ở Việt Nam, nó không phải là bất khả thay thế hay bất khả đánh đổ như những người trí thức ở Hội Trí Thức Yêu Nước lý luận.

Nó sẽ bị đánh đổ, nhưng muốn đánh đổ một chính quyền có sức mạnh bạo lực và có tổ chức chặt chẽ là một vấn đề rất khó khăn và đòi hỏi thời gian, không phải một sớm một chiều mà làm được như nhiều người mong muốn.

Tôi nhận ra Đoàn Viết Hoạt nhờ giọng nói trầm ấm và mạnh của anh. Ở phòng xà lim số 16, anh là người thường xuyên an ủi những người mới vào, và hay kể chuyện vui mỗi chiều sau giờ điểm báo. Nghe giọng nói, tôi tưởng tượng anh là một đại hán cao, to, râu quai nón kiểu Kiều Phong. Nhưng khi gặp nhận ra thì chỉ đúng là anh có bộ râu quai nón đẹp, nhưng người tầm thước như tôi và thân thể nở nang hơn tôi chút đỉnh. Anh là Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, sau 1975 sinh viên tố cáo anh thường ngăn cản các phong trào tranh đấu, nhưng khi làm việc ở Sở Công An thì công an chỉ truy anh về tổ chức đảng Duy Dân. Đặc điểm về thủ tục bắt bớ hỏi cung và truy tố người của chế độ Cộng sản ở chỗ đó. Vì là một chính quyền vô sản chuyên chính nên chúng khẳng định mọi người ở giai cấp khác là có tội, là phản động, ngay cả danh nhân lịch sử sống cách vài trăm năm trước cũng có thể bị ghép tội phản động. Nên khi chúng bắt, tội danh được ghi chỉ là cái cớ, còn khi hỏi cung và sau đó ghép tội thì tùy tiện, truy tố tội này không đủ yếu tố thì chấp pháp tìm ra tội khác, người nào bị bắt cũng phải có tội.

Suốt thời gian tôi ở trại giam, tôi lưu ý thấy Cộng sản đặc biệt lưu tâm tìm kiếm những người thuộc đảng Duy Dân. Một phần các đảng phái chính trị khác có hoạt động công khai đã đi trình diện tập trung cải tạo hết - chỉ có đảng Duy Dân trước năm 1975 vẫn không hoạt động công khai nên không đi trình diện. Vả lại công an Cộng sản cũng thấy một số lớn tổ chức đối kháng sau ngày miền Nam sụp đổ đều có dính dáng ít nhiều đến đảng viên Duy Dân. Ngoài ra, trong vấn đề trị an, Cộng sản phải tìm ra tung tích và tiêu diệt hay vô hiệu hóa tất cả thành phần đối kháng và Cộng sản rất kỵ những hình thức bí mật mà chúng không biết. Do đó, trong quốc gia Cộng sản, có xử cả tội danh “tình nghi”, nhiều khi tội danh chống chế độ bị xử còn nhẹ hơn là tội danh “tình nghi chống chế độ” hay “tình nghi phản động”. Hoạt và số người có liên hệ đến đảng Duy Dân đã bị giữ mãi tại các trại giam Phan Đăng Lưu, Chí Hòa hơn 12 năm không phải đi lao động cải tạo vì nhu cầu hỏi cung của chúng. Mới quen nhưng chúng tôi dễ hợp nhau, một phần vì cùng trang lứa và cùng có những ưu tư khắc khoải về xã hội và tương lai đất nước. Khác với những người tù khác thường hay bày tỏ tham vọng cá nhân quá đáng và trông chờ quá nhiều vào giả thuyết Mỹ trở lại Việt Nam để họ có cơ hội tham gia chính trị. Hoạt thường có những ý kiến và sự quan tâm sâu sắc về dân tộc Việt Nam, về tương lai xây dựng một xã hội dựa trên tính dân tộc sau khi Cộng sản sụp đổ. Anh từng đi du học và đậu bằng Ph. D., anh đã phân tích được cái ưu điểm của xã hội Mỹ và khuyết điểm của xã hội đó. Cái ưu điểm là tính tổ chức, tinh thần dân chủ, nhân bản và trình độ kỹ thuật. Sự tôn trọng vật chất và thiếu tình cảm một cách quá đáng của xã hội Mỹ được Hoạt gọi là “siêu Cộng sản”. Là nhà giáo dục, anh thấy được nền giáo dục khai phóng con người đề cao tính tự lập và độc lập, nhưng đi quá nó sẽ đưa con người ra khỏi gia đình, sự buông thả xác thịt và tôn thờ cảm giác đã làm con người xuống hàng thú vật, hôn nhân không từ động lực tình yêu mà từ sự hòa hợp xác thịt và nhu cầu vật chất. Anh nghĩ đến một giai đoạn khủng hoảng về sự thiếu giá trị tinh thần của xã hội Mỹ nói riêng và Tây phương nói chung, về sau này Việt Nam không thể bắt chước hoàn toàn mô thức phát triển của họ sau khi đã đánh đổ chế độ Cộng sản. Anh cũng trình bày những quan niệm về dân tộc nhân bản và kinh tế bình sản là những chủ điểm của thuyết Duy Dân cho tôi biết.

Đành rằng Hoạt chưa nói lên được phương thức tổ chức đánh đổ chế độ Cộng sản đương quyền - anh chỉ nói lên sự cần thiết phải có tổ chức đối kháng dựa vào sức mạnh của toàn dân với tinh thần dân tộc nhân bản là chính, không thể trông chờ hoàn toàn vào Mỹ sẽ trở lại lật đổ chế độ Cộng sản.

Hoạt và tôi đã nhận thấy một số khiếm khuyết từ các anh em tù trong các lực lượng phục quốc. Anh em đa số là sinh viên học sinh, một số có cha anh đi cải tạo, căm thù, uất ức và nhạy bén nhận định được chế độ Cộng sản là phản lại quyền lợi dân tộc. Từ đó, các em rất tích cực tham gia các mặt trận phục quốc khi được các bạn bè móc nối. Tổ chức thật cũng có, mà tổ chức giả do Sở Công An Thành Phố của Mai Chí Thọ đưa ra để bắt người đối kháng cũng có.

Các lãnh tụ tổ chức đối kháng thường thì chưa có hoạt động cụ thể kể cả việc truyền bá chính cương và sách lược đấu tranh, chưa có tài liệu học tập thì đã bị phá vỡ. Đa số các em bị bắt đều chưa hiểu ít nhiều về lập trường chống Cộng sản của mình ngoài sự căm thù - các em chưa được lý luận một cách tương đối lý do tại sao mình chống Cộng và chống Cộng để xây dựng cái gì cho đất nước. Tôi đề nghị cùng Hoạt giúp các em một ít hiểu biết căn bản về những điều cần thiết đó, nếu em nào thấy cần. Chúng tôi phân công: Hoạt đem luận cứ chính trị của triết học Duy Dân, còn tôi cố chứng minh những luận cứ sai lầm của thuyết Cộng sản, sự lạm dụng lịch sử để nhập cảng chiến tranh ý thức hệ che dấu dưới chiêu bài giải phóng dân tộc.

Dân tộc Việt Nam tồn tại được nhờ vào ý thức độc lập.

Hơn một ngàn năm lệ thuộc Trung Hoa không bị đồng hóa. Gần một trăm năm Pháp thuộc; thời gian nào cũng có những cuộc khởi nghĩa để đánh ngoại xâm. Sau Đệ Nhị Thế Chiến là thời cơ thuận tiện để các nước bị đô hộ giành lại độc lập. Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản đã nắm được cơ hội lịch sử đó, thêm thủ đoạn lường gạt, bắt tay với thực dân Pháp loại bỏ tất cả những thành phần Quốc gia mà Cộng sản xem là nội thù cần phải triệt tiêu trước.

Lénine đã viết rất rõ ràng về sách lược của cách mạng: để lật đổ Sa Hoàng, Lénine vận động cuộc Cách Mạng Dân Chủ Tư Sản trước để đoàn kết tất cả khuynh hướng chính trị đối lập với triều đình Sa Hoàng chuyên chế, phù hợp với nguyện vọng đòi hỏi dân chủ của toàn dân Nga. Sau khi Nga Hoàng bị tiêu diệt, đảng Bolchevik là lực lượng có tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ nhất trong phong trào lần lượt loại trừ các tổ chức chính trị khác để độc quyền cai trị nước Nga, sát nhập các thuộc địa cũ của đế quốc Nga để thành lập Liên Bang Sô Viết.

Đối với các nước thuộc địa, cuộc Cách Mạng Dân Chủ Tư Sản được đổi thành Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc. Lénine định nghĩa thế nào là đồng minh giai đoạn, thế nào là bạn, thế nào là thù, kẻ thù nào là kẻ thù chính và kẻ nào là kẻ nội thù. Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ làm theo đúng sách vở kinh điển chỉ dẫn.

 

Để giải giới quân đội Nhật trên toàn Đông Dương, Đồng Minh đã quyết định giao cho Trung Hoa Quốc Gia và Anh Quốc phụ trách tiếp thu hai miền Bắc và Nam vĩ tuyến 16. Miền Nam, Anh Quốc đã đem quân Pháp vào với âm mưu tái chiếm thuộc địa. Miền Bắc, những tổ chức Cách Mạng Quốc Gia dựa vào quân đội Trung Hoa để nắm chính quyền. Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản đã nhận định đúng kẻ thù nào cần tiêu diệt trước. Pháp là kẻ thù chung của toàn dân, cần thời gian lâu dài; các tổ chức chính trị quốc gia được xem như kẻ nội thù cần tiêu diệt ngay để độc quyền lãnh đạo cách mạng giải phóng. Hồ Chí Minh đã quyết định nhanh chóng và dứt khoát. Ở miền Bắc dùng tiền của nhân dân đóng góp trong chiến dịch Tuần Lễ Vàng để mua chuộc hối lộ các tướng lãnh Trung Hoa Quốc Dân Đảng để họ bỏ rơi các lãnh đạo chính trị Quốc gia, mặc tình để cho đảng Cộng Sản Việt Nam tiêu diệt. Đối với Pháp, Hồ Chí Minh đã hạ mình làm một hành động đê tiện, ban đêm đến nhà của Bộ Trưởng thuộc địa Pháp Marius Moutet để xin ký Hiệp Định Sơ Bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 nhận cho Pháp trở lại Việt Nam. Marius Moutet ký hiệp định với Hồ Chí Minh ngay tại nhà y khi mặc áo ngủ. Về đến Hà Nội, Hồ Chí Minh còn thỏa mãn đòi hỏi của Tướng Le Clerc, đón tiếp y tại Hà Nội. Le Clerc muốn kiều dân Pháp tại Hà Nội và chính quyền Cộng sản phải treo cờ Pháp đón y, Hồ Chí Minh cũng bằng lòng. Nhưng đối với dân Việt Nam, nhất là dân thủ đô Hà Nội thì phải giải thích làm sao khi treo cờ tam tài sau khi đã tuyên bố độc lập? Ngày sinh nhật Hồ Chí Minh 19-5 khai sinh trong dịp đó. Ngày 19-5 Le Clerc đến Hà Nội, dân Hà Nội được lịnh treo cờ đỏ sao vàng mừng sinh nhật Hồ Chủ Tịch, trong rừng cờ đỏ sao vàng, kiều dân Pháp và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng treo cờ tam tài trên đoạn đường Cao Ủy Pháp đi qua - ai mà biết được. Một mưu kế vặt giải quyết được mọi đòi hỏi của tình thế. Cứu cánh biện minh cho phương tiện, phương tiện dù tàn ác, đê hèn đến đâu miễn sao đạt được mục đích. Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản đã đạt được mục đích nhất thời, rảnh tay với Pháp, tiêu diệt đối lập, mua chuộc quân đội Trung Hoa Quốc Gia rút về nước. Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản trở thành độc tôn hiệu triệu toàn dân chống Pháp.

Đánh ngoại xâm giành độc lập dân tộc, chính nghĩa sáng ngời - toàn dân Việt Nam nô nức theo “bác Hồ” đi kháng chiến, không ai nghĩ đến cái tổ chức cốt lõi của bác Hồ là đảng viên Cộng Sản Quốc Tế. Bác và đảng đang thi hành nhiệm vụ của đảng Cộng Sản Quốc Tế do Liên Sô lãnh đạo trong âm mưu xích hóa toàn cầu.

Nhiều người yêu nước theo kháng chiến, đem hết khả năng tưởng phục vụ dân tộc, trong khi đó, đảng Cộng sản lần hồi kiện toàn tổ chức, đối với những thành phần tư sản, trí thức tiểu tư sản không thể kết nạp đảng hoặc không chấp nhận đảng, không đầu hàng giai cấp thì hoặc bị tiêu diệt hoặc bị loại dần ra khỏi tổ chức. Chiến tranh Pháp-Việt đã diễn ra và tạm thời phân định chiến tuyến rõ rệt, quân đội thực dân Pháp chiếm các thành thị, quân kháng chiến chiếm các vùng rừng núi và nông thôn. Người quốc gia chân chính không có chỗ đứng, không thể tiếp tục chiến đấu trong hàng ngũ Cộng sản, bỏ về thành thì bị xem như một hình thức bỏ cuộc, nếu hoạt động bên cạnh người Pháp thì bị xem như là Việt gian. Người quốc gia ngậm đắng nuốt cay, không đảm nhiệm được vai trò lịch sử dân tộc. Trong khi đó, vì nhu cầu cai trị và âm mưu tái chiếm thuộc địa, thực dân Pháp xây dựng nên đám Việt gian tay chân trong chính quyền bù nhìn Bảo Đại, những tên đại Việt gian như Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Phan Văn Giáo, Nguyễn Văn Hinh và một số Việt gian ở cơ sở khác dựa vào thế lực quan thầy Pháp để tiếp tục sách nhiễu nhân dân.

Chính quyền Ngô Đình Diệm là chính quyền của người Quốc gia đầu tiên độc lập với thực dân Pháp. Mặc dầu cũng được Hoa Kỳ ủng hộ thành lập nên nhưng sự tương quan giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa không phải là tương quan đế quốc và thuộc địa. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, không phải chỉ miền Nam mới có tương quan với Hoa Kỳ mà nhiều nước nằm trong trường hợp đó. Phi Luật Tân, Đại Hàn, Nhật Bản và ngay cả Tây Âu cũng có tương quan chặt chẽ với Hoa Kỳ, và trong mối tương quan đó phải chấp nhận một số những ràng buộc. Phía Cộng sản phê phán mối tương quan đó, gọi Hoa Kỳ là đế quốc. Nhưng ngày nay lịch sử thế giới đã chứng minh rằng Tây Âu, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Đại Hàn đều là những quốc gia độc lập và tiến bộ. Là chính quyền của người Quốc gia, nhưng không thực sự do chính tổ chức mình lập nên mà phải nhờ vào bàn tay của người Mỹ, đó là nhược điểm đầu tiên của Đệ Nhất Cộng Hòa. Vì không có đủ cán bộ, phải sử dụng quá nhiều những tay chân của thực dân Pháp trong chính quyền và quân đội nên đối với quần chúng nhân dân, chính quyền không có bộ mặt mới mẻ, dễ bị lẫn lộn. Dân Việt Nam có tính bài ngoại cao nên dễ nghi ngờ và lầm lẫn.

Khuyết điểm nữa là thay vì nắm cơ hội đoàn kết những người Quốc gia yêu nước chống Cộng, Đệ Nhất Cộng Hòa cũng học bài học độc tài độc tôn của Cộng sản, tiêu diệt các thành phần Quốc gia để độc quyền chống Cộng sản, nên tự mình biến thành một chính quyền cô lập, một lúc phải chống hai kẻ thù, kẻ thù chính là Cộng sản và kẻ thù bên trong là tổ chức chính trị và tôn giáo bị loại bỏ. Về phương diện tư tưởng, Đệ Nhất Cộng Hòa vì muốn xây dựng và truyền bá lý thuyết Cần Lao Nhân Vị, tư tưởng Thiên Chúa Giáo. Thiên Chúa Giáo đã du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 16 qua thời gian lịch sử đã trở thành một luồng tư tưởng và một thành phần văn hóa của dân tộc, cùng với ba tư tưởng chính Nho, Thích, Lão đã ăn sâu vào nếp sống và lề lối suy nghĩ của người Việt Nam.

Tính công bằng và bác ái trong tư tưởng Thiên Chúa Giáo không ngược lại tâm hồn và nếp suy tưởng của người Việt. Ngày nay văn hóa và tư tưởng của người Việt Nam là kết quả của những sự hội nhập hài hòa của bốn nguồn tư tưởng Nho, Thích, Lão và Ki Tô. Do đó, nếu một thế lực nào và một cá nhân nào chủ trương độc tôn tư tưởng hoặc xây dựng một quốc gia đều không phù hợp với sự tiến hóa của lịch sử dân tộc. Một khuyết điểm trầm trọng của chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa là có nhiều người chủ trương độc tôn tư tưởng, biến Thiên Chúa Giáo thành quốc giáo trong khi tín đồ Thiên Chúa Giáo chỉ là một thành phần trong cộng đồng dân tộc. Độc tài chính trị và độc tôn tư tưởng không phù hợp với thời đại ngày hôm nay.

Những khuyết điểm của miền Nam nói trên bị Cộng sản lợi dụng tuyên truyền, đào sâu chia rẽ trong dân chúng, để cô lập chính quyền Quốc gia còn non trẻ. Cộng sản tuyên truyền đồng hóa sự viện trợ Mỹ với hình ảnh thực dân Pháp, đồng hóa chính quyền Quốc gia với chính quyền Việt gian tay sai, đồng hóa quân đội Việt Nam Cộng Hòa với quân đội thuộc địa. Từ đó, họ dần dần nắm ưu thế. Đến khi người Mỹ đưa quân ào ạt vào Việt Nam, tuy tạo cho miền Nam một sức mạnh về quân sự nhưng lại trở thành thế yếu về chính trị. Bắc Việt nắm được thời cơ tuyên truyền Mỹ xâm lăng, họ đạt được thắng lợi về chính trị, kích động dân Việt Nam hai miền Nam Bắc chống ngoại xâm và trong mặt trận ngoại giao họ hoàn toàn nắm ưu thế. Họ còn dùng tuyên truyền đánh thẳng vào lương tâm của nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới, cuối cùng họ đã thắng về quân sự.

Tại miền Nam, qua thời gian và qua chiến đấu đã hình thành được một lớp người có khả năng, yêu nước, chống Cộng sản, nhưng lớp người này chưa thực sự lãnh đạo, đa số những người lãnh đạo và kẻ chỉ huy cao cấp của chính quyền Đệ Nhị Cộng Hòa vẫn thoát ra từ thành phần Việt gian, tay sai Pháp cũ hoặc một số trí thức vong bản, làm việc chỉ biết tìm lợi ích cho bản thân cá nhân do nếp sống văn hóa chuộng vật chất, thái độ phi chính trị, kém ý thức trách nhiệm đối với xã hội mà họ hấp thụ được do thời gian du học ở ngoại quốc, họ từng sống trong một xã hội dân chủ trưởng thành trong đó cá nhân chỉ biết luật pháp và hạnh phúc cá nhân. Một nếp sống, một lối suy tưởng không phù hợp với văn hóa Việt Nam. Con người Việt Nam coi trọng tình cảm giữa con người với nhau và với quê hương dân tộc.

Văn hóa Việt Nam, nhu cầu của lịch sử Việt Nam luôn luôn đòi hỏi ở người trí thức phải có trách nhiệm, có ý thức về sự hướng dẫn và xây dựng xã hội. Người trí thức phải có ý thức chính trị, không phải cần tham gia vào tổ chức chính trị, nhưng phải biết suy nghĩ và đo lường hành động và thái độ sống như thế nào để góp phần xây dựng một đất nước tiến bộ về cả hai phương diện tinh thần và vật chất. Người trí thức Việt Nam không phải là người chỉ biết chuyên môn, hiểu luật pháp và tìm cách len lỏi vào khe hở của luật pháp để tìm cái lợi vật chất cho bản thân.

Miền Nam Việt Nam đã sụp đổ, người quốc gia lại thua Cộng sản một lần nữa, thua tan tác, kẻ bôn đào lưu vong, người ngậm hờn nuốt nhục trong các trại tù.

Giờ đây, Cộng sản lộ nguyên hình, họ đã chiếm xong miền Nam, lớp áo dân tộc đã được cởi ra. Đại Hội IV đã đổi tên đất nước giống như mẫu quốc Liên Sô, xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực thi đấu tranh giai cấp. Đã chấp nhận là một thành viên của khối đệ tam quốc tế thì phải nhận Liên Sô là người lãnh đạo, là đất thánh, và phải thực hiện chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp, tiêu diệt tất cả thành phần đối lập, không kể tội lỗi do hành động mà tội lỗi được qui định là do thành phần giai cấp, do tư tưởng của giai cấp xã hội.

Cộng sản lại áp đật trên dân tộc Việt Nam một chủ thuyết độc tôn, một chính quyền độc tài. Đi xa hơn, họ sử dụng bạo lực để truyền bá một tôn giáo mới xây dựng trên hận thù - dùng hận thù làm động lực đấu tranh. Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi đầu bằng phong trào đấu tranh giành độc lập, nhưng khi họ nắm chính quyền họ lại đưa dân tộc vào con đường nô lệ hóa, sự nô lệ tư tưởng, sự lệ thuộc ràng buộc vào Liên Sô mọi phương diện, bị Liên Sô khai thác bóc lột người, tài nguyên, trước tiên là để trả nợ súng đạn đã vay trong thời chinh chiến. Sự nô lệ đó được giải thích dưới những từ ngữ đẹp đẽ là “sự hợp tác toàn diện với nước xã hội chủ nghĩa anh em Liên Sô”.

Xã hội Việt Nam không có giai cấp tính, mọi sự thăng tiến trong xã hội Việt Nam là do sự làm việc và cố gắng của mỗi cá nhân. Việt Nam không có chế độ gia tộc như ở Trung Quốc. Căn bản tổ chức xã hội Việt Nam là gia đình và xã thôn tương đối dân chủ và bình đẳng với mọi người.

Người Việt Nam không xây dựng một triết lý riêng biệt, tư tưởng Việt Nam hài hòa và chiết trung mọi tư tưởng văn hóa du nhập đến Việt Nam: Nho, Thích, Lão, Ki Tô, không có mâu thuẫn tư tưởng, không có mâu thuẫn đối kháng. Do đó, những luận cứ của chủ nghĩa Cộng sản đều không phù hợp với trường hợp Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam trong nhất thời mạnh về tổ chức trong khi người Quốc gia đang tan vỡ. Nhưng dân chúng Việt Nam đang từ khước chủ thuyết Cộng sản vì nó không phù hợp. Vậy chế độ Cộng sản không thể nào tồn tại và phát triển ở Việt Nam được. Bằng hình thức này hay hình thức khác nó sẽ bị đánh bại và bị đào thải.

Hoạt và tôi cố gắng trong điều kiện khó khăn ở trong tù để trao đổi, tạo cho nhau một niềm tin - vì niềm tin đó rất cần thiết để vững sống trong những ngày cơ cực kéo dài trong nhà tù Cộng sản. Sau trại tạm giam, chúng tôi còn phải làm lao động khổ sai ở các trại lao động cải tạo mà ngày về thì thật xa vời.

Một khi đã khẳng định niềm tin là chế độ Cộng sản phải sụp đổ, chúng tôi thấy mình phải sống khỏe mạnh cho đến ngày về. Đấu tranh với bản thân để không bị hủy hoại về tinh thần và thể xác, để giữ được lòng tự trọng, một thái độ sống cũng là một vấn đề rất gay go của những người tù chính trị. Phải cố gắng tạo niềm tin và truyền niềm tin cho nhau, nếu không sẽ bị tha hóa trong môi trường khổ cực này.

Cách thức để có thể nói chuyện trao đổi với nhau trong phòng giam tránh sự dòm ngó, báo cáo của nhà trưởng và ăng ten là: trước tiên, chúng tôi phải cố quan sát và nhận định cho đúng người - Thứ đến là phải có cách để nói chuyện. Chúng tôi bày ra cách học tử vi, bói dịch và xem chỉ tay. Dĩ nhiên, những điều này đều bị nội qui cấm. Nhưng tất cả các tên ác ôn, trưởng phòng hay cán bộ Cộng sản thoái hóa đều ở chung với chúng tôi, tên nào cũng thích bói toán, tên nào cũng lo âu, muốn biết vận mạng của mình ra sao. Xem bói cho tên nào cũng nói thật tốt, chỉ ra một tương lai tốt đẹp cho họ, một hy vọng là sắp được ra khỏi tù thì không ai báo cáo, và nếu có bị báo cáo thì tội bói toán mê tín cũng chỉ bị kỷ luật nhẹ, không bị nâng quan điểm chính trị. Vốn hiểu biết về tử vi của tôi không bao nhiêu, và tôi cũng không mấy tin vào tử vi bói toán, chỉ đọc qua một vài cuốn sách để biết khái quát, những ước định và thuật ngữ để có thể nghe người khác nói chuyện mà hiểu được họ nói gì.

Thời kỳ trước 1975, tử vi, bói toán rất thịnh hành ở miền Nam, nhất là trong giới cầm quyền cao cấp. Mỗi lần đi công tác về các tỉnh, sau buổi làm việc ban ngày, buổi tối các ông Tỉnh thường hay mời cơm tại nhà. Trong khi ăn cơm nói chuyện, chúng tôi thường muốn biết những vấn đề chính trị tại địa phương, các ông Tỉnh trưởng thì lại muốn biết những mối quan hệ giữa ông Tổng thống và Thủ tướng ở mức độ nào, nhất là sau khi có sự mâu thuẫn giữa hai phủ Tổng thống và Thủ tướng, các ông Tỉnh trưởng lại cần biết rõ hơn mức độ mâu thuẫn để họ dễ đối xử, từ sự tìm hiểu đó, các ông Tỉnh trưởng xoay qua vấn đề tử vi, họ nói rất trôi chảy số mạng, vận mạng của lá số 4 tí, cách Tử Phủ Vũ Tướng của ông Thiệu và cách Sát Phá Liêm Tham của ông Trần Thiện Khiêm. Tử vi, bói toán, dịch lý, địa lý, các môn người ta gọi là khoa học huyền bí có ảnh hưởng sâu sắc trong giới cầm quyền cao cấp Nam Việt Nam, nhất là trong giới quân nhân cao cấp.

 

Một ông Tư Lệnh Quân Đoàn I, có phu nhân suốt ngày nhận áp phe tại một “điện” đồng bóng, mỗi tối trước khi mang gia đình và đoàn tùy tùng qua Hải Khu Đà Nẵng tránh pháo kích, phải tuân lời phu nhân đốt hương lạy tại bàn thờ mẫu. Một ông Đại tá, Thị trưởng Đà Nẵng, thầy bói toán nói ông ta mạng hỏa nên chỉ hợp với mầu xanh vì mộc sinh hỏa nên khi sơn quét Tòa Thị Chính, ông ra lệnh phải sơn màu xanh rồi mới quét màu trắng ra ngoài. Một ông Đại tá Tỉnh trưởng Quảng Ngãi luôn luôn mặc áo sơ mi màu mỡ gà trong bộ quân phục, vì thầy bói khuyên dùng thổ (màu vàng mỡ gà) để cho tương sinh với mạng kim của ông.

Một ông Trung Tướng Cục Trưởng được thầy địa lý xoay cái bàn làm việc hướng ngược vào bên trong xây lưng ra các bàn giấy của thuộc cấp, ngược lại tất cả quan niệm về quản trị nhân viên và công sở.

Một ông Trung tá tỉnh trưởng Lâm Đồng nghiên cứu về địa lý nói là Tổng thống Thiệu phát về bản thân thì ít, mà nhờ bà Thiệu có đất phát đệ nhất phu nhân. Cái mả của ông cụ nội phu nhân ở Phan Thiết trên giồng đất gần Lầu ông Hoàng kết phát. Chính ông Trung tá tỉnh trưởng đã tìm được một cuộc đất phát đệ nhất phu nhân ở Lâm Đồng nên đã dời mả bà cụ về cải táng nơi đó. Không biết về sau có sự linh ứng hay sự ngẫu nhiên nào đó hay là do sự kém tài địa lý của Trung tá mà cô con gái đi xe Honda bị tai nạn mù một con mắt. Không thành đệ nhất phu nhân mà thành độc nhãn. Ông Thủ tướng rất ít đi kinh lý các tỉnh hay đi thăm các đơn vị chiến đấu để khích lệ tinh thần binh sĩ, họa hoằn mỗi khi đi thì phải ra lệnh cho ông Thành, thư ký ở Bộ Nội Vụ xem ngày giờ để chọn thời điểm xuất hành cho tốt. Công trường Quốc Tế Quân Viện gọi là Công Viên Con Rùa, được xây ngoài mục đích, bên ngoài là ghi ơn các nước bạn đồng minh giúp Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu nhưng bên trong không kém quan trọng là để chận cái đuôi con rồng hay quậy. Thầy địa lý nói thế đất từ khu Trung Tâm Sài Gòn đó là một con rồng nằm, đầu rồng ở Dinh Độc Lập, đuôi rồng ở công trường trước Viện Đại Học Sài Gòn, nơi đây trước thực dân Pháp xây tượng ba người lính, được dân Sài Gòn gọi là Công Trường Ba Hình, năm 1965, sinh viên biểu tình chống lời tuyên bố lếu láo của ông De Gaule về Việt Nam, nên đã kéo sập tượng ba người lính Liên Hiệp Pháp xuống. Thầy địa lý nói từ đó, đuôi con rồng không có gì chận lại nên nó quậy làm cho Dinh Độc Lập không được yên nên trong nước hay có những biến động chính trị.

Hôm đặt viên đá đầu tiên xây công trường này, theo chỉ dẫn của thầy bói, ông Tổng thống cho tổ chức lễ trước năm giờ sáng. Đích thân ông Tổng thống đến đặt viên đá đầu tiên. Các thầy bói Diễn, thầy Ba La, thầy Minh Lộc, Đại tá Y trở thành những người nổi tiếng và thực sự có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống chính trị tại miền Nam Việt Nam trước 1975. Xã hội Việt Nam đến thời suy thoái, nên xảy ra hiện tượng lạ lùng như vậy, giai đoạn chính trị thật khó khăn, chiến trường thật khốc liệt, những người lãnh đạo không bao giờ được nhắc tới như là những người lỗi lạc, can đảm, liêm chính mà chỉ được nhắc là số tốt, vận tốt. Người chỉ huy không được thuộc cấp kinh nể vì tài ba mà được kính nể vì tính chịu chơi. Người ta phê phán tham nhũng, nhưng chỉ có một lần duy nhất một tờ báo đưa ra được hình ảnh bốn tướng sạch để làm gương - còn thông thường khi nghe nói một người nào “không biết ăn tiền” thì người ta gọi kẻ đó là ngu.

Tin vào sức mạnh thần quyền trong xã hội loài người, không dân tộc nào không có, kể cả xã hội cộng sản. Không biết trước kia dân Việt Nam tin ở mức độ nào nhưng thời đệ nhị Cộng Hòa quá phổ biến. Nguyên do là vì xã hội thay đổi nhanh quá, nhiều biến cố chính trị để cá nhân thăng tiến cũng quá nhanh, có quân nhân chỉ trong vòng vài tháng đã thăng cấp từ Trung tá lên Chuẩn tướng. Chiến tranh mở rộng, Hoa Kỳ đổ vào nhiều tài sản, nên có sự “rớt rụng” ra bên ngoài, nên những người may mắn làm giàu nhanh quá, từ tay trắng sớm trở thành tỉ phú. Sự thăng tiến quá nhanh và bất ngờ đó, không những khiến người ngoài mà ngay cả bản thân người may mắn lên quí, lên phú cũng không thể tin ở tài ba của mình, mà phải tin vào số mạng. Một người có thể ghi tên nhập vào trường sĩ quan không có một ước vọng gì cao xa ngay chính cho bản thân họ, đừng nói là ước vọng làm gì cho tổ quốc, khi ra trường làm việc dưới quyền của một sĩ quan Pháp. Thấy người Pháp nói tiếng Pháp giỏi hơn, xài muỗng, nĩa, dao trong bữa ăn thành thạo hơn, biết sử dụng đúng các loại rượu vang trắng, đỏ hợp với các món cá, món thịt hơn. Thời gian đó họ sống bình lặng, cam phận, đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, ông Tổng thống và đảng Cần Lao vẫn là cái gì xa cách, đáng nể, đáng sợ đến cả những anh em của Tổng thống và gọi những anh em của Tổng thống bằng Cụ và xưng con thì họ vẫn cam phận thủ thường, đến khi lật đổ chế độ, không còn có sự áp lực đè nặng lên trên, có người trong thời gian ngắn thăng tiến và có cơ hội nắm chính quyền. Khi nắm quyền Thủ tướng, Tư lệnh, Tổng Bộ trưởng thì họ gần như ngộp thở, ăn nói bậy bạ, tuyên bố vung vít, không đúng tác phong như một người từng có ý thức, có hoài bão tranh đấu nắm chính quyền để phục vụ.

Người ta ngạc nhiên tại sao tình trạng quân nhân nắm chính quyền tương đối phổ thông trên thế giới, ở những nước khác không có chiến tranh, hoặc chỉ có chiến tranh nhỏ, mà người quân nhân khi nắm chính quyền được uy tín. Trái lại tại miền Nam Việt Nam chiến tranh tàn khốc, chiến thắng lớn nhưng người quân nhân nắm chính quyền không được uy tín. Một nguyên nhân sâu xa là ý thức và hoài bão khác nhau. Đọc tiểu sử ông Nasser, ông Sadat lãnh đạo Ai Cập, mới biết họ là một nhóm sinh viên Ai Cập đi học luật khoa ở Anh Quốc. Ngay lúc còn trẻ tuổi đó, họ đã có ý thức là muốn đấu tranh giành độc lập cho một nước nhược tiểu phải đấu tranh và lãnh đạo quân sự cho nên họ đã từ bỏ trường luật để đi vào trường sĩ quan. Khi có cơ hội nắm được quyền hành chính trị, ông Nasser vẫn là Đại tá, không ham hố vội vã phong cho mình lên Tướng. Thiếu tướng De Gaule, lập chính phủ Pháp lưu vong chống Đức quốc xã, khi thành công De Gaule vẫn là Thiếu tướng, nhưng ông là Tổng thống, cha già của dân tộc Pháp.

Sau đảo chính năm 1963, sau khi lật đổ và giết chết ông Tổng thống mà trước đó họ gọi Cụ xưng Con, và ông cố vấn mà người ta sợ đến cả vợ con ông ta, “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng” không biết làm gì tiếp theo ngoài việc tự thăng chức cho mỗi người; bãi bỏ lệnh cấm nhảy đầm, và tuyên bố bỏ ấp chiến lược. Cả ba quyết định không có gì đáng gọi là cách mạng, kể cả việc mời ông Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ ra lập chính phủ cách mạng. Việc bãi bỏ ấp chiến lược là một sai lầm nghiêm trọng về chiến lược và làm sụp đổ cái ưu thế phòng thủ ở địa phương mà sau này xây dựng trở lại rất khó khăn.

Ý thức trách nhiệm của một người đối với đất nước, phục vụ cho quê hương dân tộc vô cùng quan trọng vì nó điều hướng việc học, việc làm của mỗi con người về sau - tài năng bản lãnh không khác nhau nhiều ở mọi người khi được huấn luyện và từng trải, nhưng khác nhau là cái sâu sắc ở mỗi con người có ý thức và hoài bão hay không. Chế độ thực dân Pháp nhằm đào tạo những người tay sai bản xứ trong mọi ngành trong chính quyền, nên chính sách giáo dục của họ nhằm tiêu diệt ý thức độc lập, tinh thần yêu nước, trong khi sử dụng người, họ cũng triệt tiêu mọi mầm mống chống đối, họ ưu đãi cho những người ngoan ngoãn tay sai, nên đời sống chính trị tại miền Nam sau này ảnh hưởng trầm trọng. Trong mọi địa hạt chính quyền, mọi giới trí thức: bác sĩ, luật sư đa số là những con người kém ý thức chính trị, nặng tinh thần nô lệ và đầu óc hưởng thụ vinh thân phì gia - nên đất nước không thể đi lên được, và miền Nam không trực diện đấu tranh về chính trị với miền Bắc được, trong khi miền Bắc Cộng Sản còn lợi dụng được ngọn cờ giải phóng dân tộc, họ còn mang huyền thoại kháng chiến yêu nước và cách mạng xã hội.

Thành phần sĩ quan viên chức trẻ sau này, có một thời gian ngắn ngủi thái bình, được giáo dục trong tinh thần độc lập, có được ý thức trách nhiệm và hoài bão đối với dân tộc nhưng một phần bị rơi rớt khi va chạm khó khăn thực tế, phần còn lại chưa đủ tầm cỡ nắm những nhiệm vụ then chốt trong chính quyền và quân đội để thi thố hoài bão của mình, trong khi những gì họ kết tạo được cho chính tim óc, mồ hôi, nước mắt và cả máu - ngược lại những người đàn anh ra nắm chính quyền chỉ nhờ sự khéo léo hay thời cơ lịch sử lúc giao thời, thành đạt nhanh chóng và bất ngờ như phép lạ nên họ tin vào số mạng.

Chúng tôi mong được đóng góp và chia sẻ với những anh em trẻ bị bắt trong các tổ chức phục quốc. Giúp họ thêm một phần hiểu biết, cộng với nhiệt tình của tuổi trẻ và lòng căm thù sâu sắc với Cộng sản, để trước hết là những ngày tù không trở nên vô ích, không bị hủy hoại tinh thần trí óc bởi sự nhàn rỗi. Thứ nữa, để anh em hiểu biết rằng là tại sao mình chống Cộng và mình chống Cộng để xây dựng cái gì cho đất nước - Lòng căm thù là một động lực để có hành động chống Cộng, nhưng lòng căm thù chưa đủ, và lòng căm thù lại càng không thích hợp cho sự xây dựng. Chúng tôi làm như vậy vì nghĩ là chúng tôi là thành phần sắp bị đào thải. Chúng tôi phải có trách nhiệm với những thanh niên ở thế hệ sau. ít ra, trước kia hơn một lần, thời mới bước chân vào đời, chúng tôi đã oán trách là thế hệ đàn anh không để lại cái gì cho chúng tôi. Sau này, với cái gia tài tan nát của đất nước, các bạn trẻ cũng sẽ có ý nghĩ là thế hệ chúng tôi không để lại cái gì cho họ ngoài sự thất trận nhục nhã.

 



 


Chương Chín

 

Tổ chức phục quốc những năm 1975, 1976, 1977 thu hút nhóm học sinh, sinh viên ở các tỉnh miền Nam, nhất là tại Sài Gòn, đa số các anh em ở các khu Công Giáo như Bùi Phát, Chí Linh, Tân Sa Châu, Tân Hiệp, Tân Phú, Tam Hà, Cái Sắn. Các em bị loại ra khỏi trường học vì lý lịch có cha anh đi cải tạo. Vì những khuyết điểm trong khi móc nối tổ chức, các em bị bắt rất nhiều và rất sớm, tổ chức mới hình thành đã bị trinh sát chính trị xâm nhập. Do đó hầu hết các tổ chức đều chưa có tài liệu học tập hoặc rèn luyện cho các em ý thức chống cộng, sự hiểu biết chính trị căn bản.

 

Chúng tôi được khích lệ để làm việc nguy hiểm đó trong nhà tù, vì quả tình các em thấy thích thú và hăng say trong khi được giải thích các điểm các em cần hiểu.

Chúng tôi quan niệm giúp đỡ các em có được sự hiểu biết chừng nào tốt chừng đó để rồi trong nhà tù và trong cuộc đời các em học hỏi thêm và tùy khả năng và lý tưởng các em sẽ đóng góp hữu ích cho xã hội mai sau.

 

 

Tháng 5 năm 1977, chúng tôi được chuyển về trại Phan Đăng Lưu tức T-20, là Đề Lao Gia Định bên cạnh trường tiểu học Gia Định và trường Hồ Ngọc Cẩn.

Trại Phan Đăng Lưu có bốn khu, khu A nằm phía trong cùng phạm vi đề lao cũ. Cộng sản xây cất thêm ba khu để giam người. Khu B gồm phòng giam cho phụ nữ và những người bị bịnh truyền nhiễm như lao, cùi, khu C-1 và C-2 được xây trên khoảng sân trống bên cạnh dinh Tỉnh trưởng Gia Định. Mỗi khu có 9 phòng giam và 25 nhà biệt giam. Ngoài ra có một khu gồm các phòng nhỏ để hỏi cung tức là phòng chấp pháp. Vào trong tù mới biết những nhà vách xây lợp tôle đó là nhà tù. Có nhiều lần đi ngang qua tôi cứ ngỡ đó là nhà kho. Nhà xây thấp và kín mít, không có cửa sổ, mỗi phòng chỉ có một cửa ra vào bề ngang khoảng một thước. Cửa có nhiều chấn song sắt vững chắc bị che khuất một nửa phía dưới. Không khí không luân lưu được trong phòng. Phòng lúc nào cũng hầm hập nóng.

 

Người tù bị giam ở đâu tùy theo cơ quan bắt. Qua giai đoạn hỏi cung sơ khởi thì sẽ được chuyển về trại giam Chí Hòa và trại Phan Đăng Lưu. Những chuyến đi lao động cải tạo xuất phát từ trại giam này. Đó là diễn trình chính thức của một người tù bị bắt, tạm giam để hỏi cung đến khi ra trại Lao Cải. Trước khi phân tán những người cùng vụ án đi tới những phòng khác nhau, lúc đó tôi mới biết bị bắt chung với Ngô Văn Vinh và Vĩnh Hầu. Ngô Văn Vinh trước kia làm Ty trưởng Xã Hội Quảng Trị là ủy viên chính phủ tòa án mặt trận vùng 2 - Vĩnh Hầu thông dịch viên Juspao, Nguyễn Đình Hòe - nghị viên thành phố Đà Nẵng. Ba người này tổ chức một mặt trận chính trị chủ yếu dựa vào số bạn là thân hữu của họ trong hai đảng Đại Việt và Quốc Dân Đảng - Vinh là ủy viên thanh niên của đảng Đại Việt hệ phái Hà Thúc Ký, Hòe là ủy viên thanh niên của Quốc Dân Đảng hệ phái Quốc Dân Đảng tiến bộ của Trung tá Duy Lam. Vinh đã móc nối với Trần Văn Hoàng, Dự thẩm Tòa án Thừa Thiên và Trần Đình Sào, Đốc sự Hành Chánh, Tổng thơ ký Hội Đồng Tỉnh Thừa Thiên. Sau khi bị bắt Vinh và Hầu không chịu nổi tra tấn đã khai tất cả những người họ tiếp xúc móc nối vào tổ chức. Vinh khai là qua trung gian của Sào nhờ tôi viết Cương Lĩnh cho tổ chức. Sào có nhờ tôi làm việc đó nhưng tôi đã từ chối vì nghĩ là chưa có thể làm gì được, nhất là trong khi chúng tôi là những người không tuân lệnh trình diện đi học tập cải tạo, đang bị Công an ở thành phố và Công an các tỉnh miền Trung truy tầm. Đối với tôi, chỉ có hai con đường lựa chọn, một là vượt biên trốn ra nước ngoài - hai là tham gia một tổ chức nào có mật khu. Đã có vài tổ chức khác quan hệ với tôi, họ trình bày đầy đủ từ mật khu đến thành phố. Nhưng khi tôi xin vào mật khu thì họ hoãn, viện lý do này khác để từ chối. Tôi quyết định cùng Thảo, Sào tổ chức vượt biên - ở lại Sài Gòn sớm muộn gì cũng bị bắt. Tổ chức Vinh phạm một sai lầm là móc nối Trần Văn Hoàng, Vinh tưởng Hoàng là người trốn trình diện học tập. Thực sự Hoàng là học trò của luật sư Nguyễn Long trong cánh luật sư Trần Ngọc Liễng tự xưng là thành phần thứ ba.

 

Nguyễn Long là cán bộ cộng sản điều khiển hoạt động của Trần Ngọc Liễng. Thời gian làm dự thẩm ở Huế, Trần Văn Hoàng tìm cách che chở cho những cán bộ cộng sản. Hoàng đã được trả công cho miễn học tập. Hưởng một ân huệ đối với cộng sản không phải là dễ. Những viên chức, chính trị gia, sĩ quan của chế độ cũ, được miễn học tập hay học tập ngắn ngày năm bảy tháng một năm đều có cộng tác với cộng sản khi họ làm việc với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Đối với những sĩ quan cao cấp bị bắt hay đi trình diện nếu không vì nhu cầu điều tra thì việc ở lại miền Nam của họ cũng là một ân huệ trả giá cho sự cộng tác hay có thân nhân bảo lãnh. Nếu không ở trong hai trường hợp này họ bị tập trung ở các trại miền Bắc hay miền Trung.

 

Sau khi miền Nam sụp đổ, nhận diện một người phản bội rất dễ. Cộng sản là một tổ chức chặt chẽ và có tính thư lại. Một cá nhân dù là cao cấp không thể tự ý có quyết định ngoài quy tắc, không thể tự ý ban phát một ân huệ cho người khác. Những người được hưởng ân huệ phải nằm trong chính sách, hoặc phải được sự bảo đảm của thân nhân, Kỹ sư Dương Kích Nhưỡng, Tổng trưởng Công Chánh, Phó Thủ tướng chỉ ở bốn tháng tại Long Thành được về tiếp tục làm trong Ủy Ban Sông Cửu Long, cựu Phó Chủ Tịch Quốc Hội, Đổng lý văn phòng Bộ Thông Tin, tức Đổng Lân chồng đào cải lương Thanh Nga được miễn học tập vì có công nuôi đám nghệ sĩ cải lương Việt Cộng trong nhà, Nguyễn Xuân Oánh Phó thủ tướng có cha là bạn của Hồ Chí Minh, và Thẩm Thúy Hằng là cháu của Tôn Đức Thắng, Phạm Hoàng Hộ, Tổng Trưởng Giáo Dục có công phá hoại kinh tế miền Nam. Ông Phạm Hoàng Hộ viết báo kể công rằng chính ông đã viết bài về sự nguy hại của chất độc khai quang, nên tôm cá ở khu vực sông Cửu Long và bờ biển Việt Nam có nhiễm chất dioxine. Sau bài viết của ông Phạm Hoàng Hộ các khế ước xuất cảng tôm cá qua Nhật và Tân Gia Ba bị bãi bỏ, ông Hộ tiếp tục làm công tác tuyên truyền bằng cách đưa ra lý luận “một nước đã bị Cộng sản hóa rồi không quay trở lại!”. Ông còn viết những bài chứng minh khoai mì, rau muống là những chất bổ dưỡng - ba ký rau muống bằng một ký thịt bò - rau muống là bíp tết xanh. Trần Kim Thạch kể công đã viết bài báo chứng minh thềm lục địa Việt Nam không có dầu hỏa để đánh tan hy vọng của người miền Nam về một nguồn tài nguyên mới trong khi Mỹ giảm viện trợ. Phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo được trả công cho hành động giữ lại 16 tấn vàng và một trong những người thúc đẩy Dương Văn Minh đầu hàng và đưa Nguyễn Văn Diệp, đảng viên Cộng sản làm Bộ trưởng Kinh tế. Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Lý Quí Chung trả công cho sự đầu hàng vô điều kiện và gây rối giới chính trị tại miền Nam được khỏi đi học tập. Ngô Công Đức trả công đối lập miễn đi học tập và sau này y tạo điều kiện cho Việt Cộng tịch thu cơ sở nhà in Nguyễn Bá Tòng của giáo hội Công Giáo nên được cho xuất ngoại. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh trả công nằm vùng bằng cách cho đắc cử Hội Đồng Nhân Dân Thành Phố. Đại tá Nguyễn Văn Lộc, chỉ huy trưởng Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ, tỉnh trưởng Vĩnh Bình đi trình diện 4 tháng về tiếp tục đi xe hơi có người bộ đội lái. Trung tá Đinh Văn Đệ, Tỉnh trưởng Tuyên Đức Đà Lạt, Chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện, nay mang cấp Đại úy Công An làm chấp pháp ở Sở Công An Thành Phố. Hôm bị gọi đi hỏi cung, nhìn thấy ông Đệ đang hỏi cung anh Ngô Công Minh, chủ báo Lẽ Sống, tôi tưởng là nhìn lầm người. Đến khi về phòng hỏi lại anh Minh xác nhận là đúng. Sự hiểu biết của tôi có giới hạn, nên tôi chỉ biết chừng đó. Chắc là còn nhiều, nhất là ở các chức vụ trung cấp - không ai biết hết được. Nhưng có một điều chắc chắn là Cộng sản bắt bỏ tù từ người cán bộ thấp nhất như viên chức trong xã ấp, đến những người đã thôi làm việc trong chính quyền và quân đội hàng chục năm. Vậy những người được miễn đi học tập hay chỉ đi học tập ngắn ngày đều hưởng ân huệ của Cộng sản. Được Cộng sản trả công cho sự hợp tác trước ngày 30-4-75 hay trả công cho gia đình thân nhân là đảng viên cao cấp hay liệt sĩ.

 

Lúc này tôi mới xác nhận được là Sào không bị bắt. Tại sao Sào đưa Cương Lĩnh tổ chức cho Vinh nói là của tôi viết trong khi tôi từ chối? Thảo, Sào và tôi chuẩn bị vượt biên, giờ đây Thảo, tôi và Lộ không dính dáng gì đến tổ chức của Vinh, Hầu và Hòe, cả ba chúng tôi đều bị bắt chung nhóm, thật là vô lý. Riêng Hoàng thì đã rõ ràng là tay hợp tác với Công an; nhưng tại sao Sào lại đưa tôi và Thảo vào trong đó? Qua biến chuyển của xã hội, con người thay đổi thật nhanh. Những con người thật thà thì chới với trong hoàn cảnh mới, những con người tráo trở, lật lường thì lộ ra trong hành động. Lòng ích kỷ, sự mưu sống cho cá nhân họ đã đạp lên tất cả tình cảm, đạo lý thông thường của xã hội. Nếu người ta còn hy vọng cho tương lai, người ta đóng đủ mọi bộ mặt anh hùng, đạo đức, mỗi khi thấy không cần đóng trò nữa thì ai lộ ra bản tính của người ấy. Người ta không ngạc nhiên trước năm 1975, một người sang quý, nay trở thành kẻ lật lường, mánh mung.

 

Bảy tháng ở trại Phan Đăng Lưu được chuyển qua nhiều phòng, tôi được tiếp xúc làm quen với nhiều bạn tù mới ở nhiều thành phần xã hội và lứa tuổi khác nhau. Tại phòng 9 khu C-2 ở chung với nhà Cách Mạng lão thành từng chống Pháp và chống Cộng như Tạ Nguyên Minh, Thái Nam, Hạng Văn Giai, Phan Vô Kỵ. Những nhà cách mạng lão thành này thật điềm đạm chững chạc, hòa nhã và bình tĩnh. Cung cách đối xử với mọi người trong phòng không tự cao, và đối với Cộng sản không khúm núm.

 

Một hôm tên Trung tá Tuấn, trại trưởng Phan Đăng Lưu, đích thân đến phòng số 9 gọi cụ Minh đi làm việc. Hắn gọi:

 

- Thằng Tạ Nguyên Minh đâu, chuẩn bị đi làm việc.

 

Nghe tiếng gọi xấc xược, anh em chúng tôi nổi nóng. Cụ Minh vẫn bình thản mặc quần áo xong Cụ ra đứng ngay cửa chờ tên cán bộ giám thị mở cửa. Ra đến ngoài Cụ chỉ vào tên Tuấn, Cụ nói:

 

- Chú còn trẻ tuổi, ăn nói mất dạy, kêu ai thằng này thằng nọ, tôi tiếc là ông Hồ Chí Minh đào tạo ra lớp người như chú thì làm sao xây dựng đất nước. Chúng tôi chống cộng sản nhưng chúng tôi vẫn gọi ông Hồ Chí Minh là “Ông Hồ” hay “Cụ Hồ”, chúng tôi tôn trọng người lớn tuổi.

 

Tên Tuấn thật ngượng ngùng không nói gì quay đi thật nhanh sau khi bảo tên giám thị dẫn Cụ Minh đi.

 

Một hôm khác, trưởng khu C-2, Mười Thăng gọi Cụ Hạng Văn Giai đi làm việc, hắn nói:

 

- Anh bán nước theo Tưởng Giới Thạch làm đến Thiếu tướng hả?

 

Cụ Giai đáp:

 

- Chú còn nhỏ biết gì, tôi Trung tướng chứ không phải Thiếu tướng. Việc chúng tôi làm ông Hồ Chí Minh biết, còn ai bán nước sau này lịch sử sẽ xét.

 

Tôi thấy những người thành đạt trong xã hội cũ - có người lên đến cấp Tướng, học đến Bác sĩ, Luật sư, làm đến Thủ tướng, Tổng trưởng, Bộ trưởng đa số không có được cái dũng khí như những bậc tiền bối cách mạng tôi đã gặp. Đa số những người sau này đều có những tính chung là sợ đói, sợ chết, tham vọng, kiêu căng, ích kỷ và dễ khuất phục trước bạo lực. Các cụ Thái Nam và Tạ Nguyên Minh đã bị chết trong trại Phan Đăng Lưu, các cụ Hạng Văn Giai, Phan Vô Kỵ không biết sau này còn sống được trong các trại lưu đày không, nhưng hình ảnh của các Cụ vẫn sống mãi trong lòng của những người trẻ có dịp gần gũi - những hình ảnh rất thực - các Cụ sống bằng bản lãnh và tâm hồn mình. Dù cuộc đời chính trị của các Cụ có thất bại, nhưng ai lấy thành bại luận anh hùng. Tôi nghĩ lịch sử Việt Nam đã có những gương sáng như Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu bất khuất trước bạo lực của ngoại xâm - những cái chết của các bậc anh hùng đó làm cho dân tộc sống. Và giờ đây dù Cộng sản có bạo ngược, thâm độc đến đâu, dân tộc vẫn sống, vẫn tồn tại từ sức sống tiềm tàng của người nông dân, thái độ bỏ tổ chức của những đảng viên, đến tinh thần anh hùng của những người tù. Tôi không thể nào ghi hết được những tấm gương oanh liệt đó vì trí nhớ của tôi kém, mà sự hiểu biết cũng bị giới hạn, tôi chỉ ở trong một góc của toàn trại giam Phan Đăng Lưu, trong khi trại Phan Đăng Lưu có bốn khu và chỉ trong Sài Gòn Việt Cộng đã có hàng mấy chục trại giam như Phan Đăng Lưu, Sở Công An Thành Phố, Chí Hòa.

 

Ai ở trong thời gian 1977 không nhớ tiếng hát của Ali Hùng, binh sĩ Người Nhái, đã bắn chết Công An Cộng Sản trong vụ tấn công nhà thờ Vinh Sơn. Ali Hùng bị án tử hình, thời gian chờ đợi ngày đi ra pháp trường Thủ Đức, mỗi ngày Ali Hùng vẫn ca hát, tù cùng khu không thấy mặt vì chân anh bị còng, nhưng tiếng hát của Ali Hùng vẫn trong và rõ ở mọi bài hát chứng tỏ sự bình thản của anh khi chờ đợi cái chết. Anh em tù chỉ nghe được lời nghẹn ngào cảm xúc của Ali Hùng khi hát bản “Đường Xưa Lối Cũ”. Anh cảm xúc khi nhắc đến mẹ, đến vợ; người phụ nữ Việt Nam qua gương lịch sử dân tộc luôn luôn đau khổ từ khi làm vợ và làm mẹ, người chồng, người con đi chinh chiến xa, hay bị tù đày làm nặng nỗi nhớ thương của người vợ trẻ và mẹ già ở nhà, rồi người đàn bà chờ mong không bao giờ thấy người ra đi trở về, hoặc khi người trở về thì không còn vợ hay mẹ ra khỏi nhà chờ đón. Và chính thời kỳ Cộng sản chiếm miền Nam này là thời kỳ ly tán nhiều nhất, đau đớn nhất mà sự khổ đau vẫn là người mẹ và người vợ phải gánh nặng nhất.

Anh em cũng còn nhớ người tù tên Lộc ở xà lim tử hình số 2 khu C-2, người bị còng hai chân, hai vế bị siết chặt bởi hai sợi dây kẽm vì anh đã cướp súng giết 8 tên Công an bót Lê Văn Ken, tử thủ trên nhà hàng Olympic cũ trước khi bị bắt. Anh Lộc vẫn ca hát và tôi nhớ mãi cái giọng hùng hồn của anh khi ngâm bản “Hồ Trường”. Một ngày trong tháng 8-1977 cả khu C-2 yên lặng để tiễn đưa người bạn vĩnh viễn ra đi; tù nhân biết người tử tội bị đi hành quyết vì ngày hôm trước, cán bộ mở còng bắt anh tắm rửa sạch sẽ và sáng hôm đó anh được nhận một dĩa xôi gà và một điếu thuốc. Dĩa xôi gà và điếu thuốc đầu bằng, tiêu chuẩn cộng sản dành cho tử tội trước khi hành quyết.

Nếu tôi không bị kỷ luật ở xà lim Chí Hòa ở cầu thang lầu ba thì tôi không biết được ở lầu ba có phòng giam phạm nhân án tử hình. Suốt ngày bị còng hai chân hai tay, chỉ mở ra khi giờ ăn, các anh vẫn chuyện trò râm ran, vẫn ca hát ngâm thơ, tôi vẫn ngạc nhiên về thái độ bình tĩnh trước cái chết đó. Bình thường tôi thấy hầu như ai cũng như ai, thất tình lục dục đủ cả, cũng có người ưu tư lo lắng sợ nữa, nhưng tại sao trước khi chết họ bình tĩnh như vậy được. Tôi không nghĩ đó là sự liều lĩnh hay bất cần cuối cùng của con người nhưng đó là thái độ chấp nhận một cách có ý thức. Thái độ liều lĩnh chỉ xảy ra cho con người trong một lúc nào đó, đằng này các tử tội cái chết rõ trước mặt và họ biết trước hàng nhiều tháng.

 

Nhưng một ý thức do mệnh lệnh từ lý trí và quả tim đã khiến cho những người tử tù có thái độ ung dung đón nhận, tất cả có thể gọi là một tinh thần chống Cộng và yêu nước cao độ của những người tù tử hình đó.

 

Những buổi nói chuyện với nhau quanh điếu thuốc lào của những anh đã có nhiều kinh nghiệm trong mọi ngành nghề giúp cho các bạn trẻ thu thập hiểu biết và tạo niềm tin. Chúng tôi sống trong tù nhưng thoải mái tinh thần. Những người bị nghi ngờ là an ten báo cáo đều bị canh chừng và cô lập. Sự hăng hái của các anh em trẻ khiến những người này phải sợ không giở trò gì được. Vả lại anh em trẻ họ chấp nhận đấu tranh, họ không sợ bị giam, bị cùm trong xà lim, kỷ luật trở thành quen và không đáng kể, anh em chịu đựng được. Ngay cả các em hoạt động chống đối có chứng cớ bị đưa ra tòa cũng không sợ. Tháng 7 năm 1979 trong phòng tôi có em Đoan, Tuấn, Hùng, tổ chức phục quốc, các em bị bắt có súng, dù chưa sử dụng. Ra tòa, các em lãnh án từ 20 năm đến chung thân, các em vẫn tỉnh bơ. Khi tòa kêu án các em Đoan 20 năm, Đoan nói: “Các ông kêu án tôi 20 năm rồi các ông ở chứ tôi không ở đâu”. Tòa bị xúc phạm, liền nghị án ngay tại chỗ và nâng thành bản án chung thân. Em Thắng trước là lính, hoạt động phục quốc, ra tòa kêu án 18 năm, em xin án chẵn, 18 năm lẻ buồn lắm, tòa cũng nghị án thành chung thân ngay tại chỗ. Thắng về lại phòng “tỉnh như không”. Ở cùng với Thắng từ tháng 4-1978 tại Sở Công An Thành Phố, nhớ ngày nào em mới vào, chân phải đầm đìa những máu vì em chạy khi Công an đến nhà bắt, bị bắn vào chân em vẫn cố chạy đến khi bị bắt, vào trại Công an ghét không chữa vết thương, viên đạn còn nằm trong chân vài ngày sưng tấy lên, em vẫn không rên, nhờ Huệ Nhật săn sóc mỗi ngày rửa bằng nước muối, từ sưng, mưng mủ rồi xẹp vết thương, dù viên đạn vẫn còn nằm trong bắp thịt, chỉ toàn rửa bằng nước muối.

 

Kể cung cách những người tù trẻ ở Saigon sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến người tù chính trị trẻ nhất thời đó. Tôn, mới 12 tuổi. Con của một Đại-úy đi học tập cải tạo, nhớ cha và oán Cộng sản, tự ý em viết hai khẩu hiệu “đả đảo Cộng sản” và “đả đảo Hồ Chí Minh” rồi đem dán ở cổng trường Lý Thường Kiệt Tân Bình. Công an bắt hỏi em làm gì, Tôn xưng là “Đại tướng Tổng Tham Mưu QLVNCH”, hỏi ai xúi viết truyền đơn, em trả lời: “Làm Đại tướng thì tự ý làm còn nghe ai xúi”. Hỏi đồng bọn có những ai thì em trả lời: “đã bắt được Tướng còn hỏi quân làm gì?”. Việt Cộng tức lắm, đánh đập, dụ dỗ thế nào em cũng chỉ trả lời như vậy.

 

Trong phòng sống với các anh, chú, bác rất lễ phép nên ai cũng thương em. Bọn cán bộ thấy em còn bé, cho ra ngoài để lao động trong trại, em từ chối không nhận. Công việc lao động trong trại giam là một ân huệ mà những nhà tư sản, sĩ quan, viên chức cao cấp nhiều người đã làm an ten báo cáo để hy vọng được chọn. Tôn không thèm làm.

 

Việt Cộng đưa Tôn đi các trại tập trung, quản lý trại không nhận vì em ít tuổi, chúng lại đưa em về nhốt ở trại Chí Hòa hay Phan Đăng Lưu (trụ sở Công an, Phan Đăng Lưu, Chí Hòa, tù thuộc Sở Công An thuyên chuyển thường xuyên từ trại này qua trại kia cho đến khi đi trại tập trung, ít có người ở nguyên một trại). Đầu năm 1979, tôi ở trại Long Khánh, Tôn còn được đưa lên đó một lần, trại tập trung vẫn không nhận em. Sau này không biết chúng giam ở đâu và đến bao giờ mới cho về.

Tôi cũng đã gặp một số các Thượng-tọa, Đại-đức như thầy Quảng Độ, Huyền Quang, Thông Bửu, các thầy bị bắt trong vụ Việt Cộng tiếp thu Cô Nhi Viện Quách Thị Trang. Cuối năm 1976, Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất mở Đại Hội, Việt Cộng đã cho cán bộ giả làm sư từ các tỉnh về dự Đại Hội để mong khuynh loát toàn thể Giáo Hội; nhưng thầy Đức Nghiệp đã tổ chức thành công Đại Hội. Ban lãnh đạo Giáo Hội ngoài Hòa-thượng Trí Thủ còn các Thượng-tọa, Đại-đức chân chính đều được bầu vào những chức vụ then chốt. Không có một tên VC hay tay sai nào được chấp nhận vào Ban lãnh đạo của Giáo Hội. Việt Cộng đòi tiếp thu Cô Nhi Viện Quách Thị Trang, các Đại-đức và Ni-sư chống lại; lấy cớ đó Mai Chí Thọ cho bắt toàn thể Ban lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất, trừ Hòa-thượng Trí Thủ chúng cô lập tại chùa Già Lam, Gia Định. Thái độ chịu đựng những ngày đói khổ ở xà lim, tác phong đúng đắn, tư cách bình tĩnh của các thầy làm nhiều người rất kính phục.

 

Một hôm tôi đang ngồi viết bản lý lịch trong phòng hỏi cung, bên cạnh có tiếng đập bàn và tiếng người hét, tôi để ý nghe mẫu đối thoại:

 

- Bọn thầy tu các anh thật ngoan cố, tội lỗi không chịu nhận - các anh chỉ quen thói truyền bá mê tín để lợi dụng nhân dân hưởng thụ mà không lao động.

 

Có tiếng trả lời gọn gàng dứt khoát:

 

- Cán bộ không biết gì về tôn giáo và tín ngưỡng, cán bộ không nên nói, tôi đã được biết chính sách của nhà nước và Bác Hồ tuyên bố tự do tín ngưỡng.

 

Tiếng tên chấp pháp vẫn hằn học, gằn từng tiếng:

 

- Anh đừng nói đến Bác Hồ và tự do tín ngưỡng, tự do tín ngưỡng là quyền của người công dân, còn anh là người đã bị bắt, đã phạm tội thì không được tự do tín ngưỡng nữa.

 

-Tôi bị bắt, nhưng chưa phạm tội, cán bộ không chứng minh tôi phạm tội gì, cán bộ chỉ buộc tôi nhận tội, thì tôi không có tội gì để nhận - như vậy làm sao buộc tội tôi không còn tự do tín ngưỡng.

 

- Tôi đã bảo anh ngoan cố có sai đâu, bị bắt mà anh bảo không có tội có phải là anh bảo chúng tôi bắt sai, bắt lầm anh. Đảng không bao giờ lầm lẫn, chúng tôi là những người đại diện cho Đảng để thi hành pháp luật.

 

- Con người thì không thể nào bảo là không sai lầm, mà Đảng là tập thể của con người thì làm sao bảo là không sai lầm...

 

Tiếng đập bàn:

 

- Anh im ngay, anh nói thế là chống lại Đảng, thế mà anh bảo không có tội. Anh chống lại Đảng, anh chống lại chế độ vô sản, anh chống lại nhân dân.

 

- Trước kia tôi có hành động chống lại chính quyền miền Nam, mà tôi chưa bao giờ bị buộc tội và không ai nói là chúng tôi có tội với nhân dân. Từ ngày miền Nam giải phóng, tôi chưa làm một hành động và lời nói nào chống lại chính quyền, chúng tôi thi hành mọi chỉ thị của chính quyền thì làm sao gọi là chống lại chính quyền.

 

- Các anh tổ chức Đại Hội Toàn Quốc, có người đến dự Đại Hội các anh không chấp nhận có đúng hay không?

 

- Chúng tôi có tổ chức Đại Hội, các vị lãnh đạo Giáo Hội có xin phép chính quyền mới có Đại Hội, còn có những phái đoàn ở tỉnh lên họp không được tham dự vào ứng cử và bầu cử vì họ không có giấy chứng nhận của Giáo Hội, họ không có tư cách đại diện cho Giáo Hội ở địa phương.

 

- Nhưng họ có giấy chứng nhận của chính quyền cách mạng địa phương, sao các anh không công nhận - không công nhận chính quyền cách mạng địa phương là chống lại cách mạng.

 

- Nếu họ là tu sĩ đại diện các tỉnh Giáo Hội thì phải có công nhận của Giáo Hội, còn giấy chứng nhận của chính quyền họ là người của chính quyền, họ là tu sĩ quốc doanh.

 

Lại có tiếng đập bàn:

 

- Anh ngoan cố, anh bảo tu sĩ quốc doanh là có ý gì? Nhà nước chúng tôi là nhà nước chuyên chính vô sản, ngoài nhà nước ra thì không có một tổ chức nào khác có đầy đủ thẩm quyền hơn, anh biết chưa?

 

Tiếng trả lời vẫn ôn tồn:

 

- Đây không nói về thẩm quyền, nhà nước có thẩm quyền của nhà nước, nhưng Giáo Hội Phật Giáo chúng tôi đã tổ chức từ lâu, nên cũng biết rõ những người không nằm trong Giáo Hội thì những người đó dù có giấy chứng nhận của chính quyền là tu sĩ, thì họ có quyền tu của họ, và ai cũng tu được, nhưng không phải ai cũng tự xưng là đại diện ở địa phương để đi dự Đại Hội Toàn Quốc. Nãy giờ cán bộ nói nhiều đến chính quyền của nhân dân và tôi là người có tội với nhân dân, tôi đề nghị chúng ta làm một cuộc thử nghiệm. Cán bộ cùng tôi làm một cuộc đi bộ xuyên qua nước Việt Nam, chúng ta không mang theo món vật gì để chứng tỏ cán bộ là vô sản, tôi không dám nhận tôi là người vô sản, cán bộ mặc đồng phục, mang phù hiệu để mọi người biết cán bộ là đảng viên, là công nhân viên nhà nước. Tôi chỉ mặc bộ áo nâu của người tu hành. Chúng ta sẽ nhờ vào sự giúp đỡ của người dân trong đoạn đường mà chúng ta đi qua để xem ai là người sẽ được dân chúng giúp đỡ và xem tôi có tội với nhân dân không?

 

Tiếng đập bàn và tiếng quát của chấp pháp:

 

- Anh thật láo, tôi không cần anh nhận tội. Anh cần có thì giờ để suy nghĩ nhiều hơn.

 

Người tu sĩ được dẫn trở lại xà lim. Về sau tôi biết người bị hỏi cung là thầy Thông Bửu.

 

Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất đối lập với chính quyền miền Nam. Giáo Hội đấu tranh trên lập trường dân tộc độc lập, không lệ thuộc ngoại bang.

 

Trong khi chiêu bài dân tộc của cộng sản là “ngụy danh dân tộc”, cộng sản nhìn thấy thế mạnh của Phật giáo, chúng cho cán bộ nằm vùng giả làm tu sĩ hay cư sĩ, những tên này luôn luôn xúi giục những cuộc đấu tranh của Phật giáo từ sau năm 1963 trở nên quá khích. Cộng sản đã có lợi nhiều trong phong trào Phật giáo. Những người lãnh đạo chân chính của Phật giáo đứng trước những khó khăn đó, không có những vận động chính trị, thì miền Nam Việt Nam cứ lún sâu vào ảnh hưởng ngoại quốc và phi dân chủ. Làm cuộc vận động mạnh mẽ thì không kiểm soát được, cộng sản sẽ lợi dụng. Cũng từ đó bên ngoài có người nghĩ Phật giáo là cộng sản.

 

Sau ngày 30-4-75, những cán bộ cộng sản đội lốt tu sĩ, những cán bộ nằm vùng trong hàng ngũ cư sĩ đã được nhận diện, chúng được đảng đền công, ban phát ân huệ trong các cuộc bầu cử Quốc Hội, đến các hội đồng địa phương, hoặc Mặt Trận Tổ Quốc hay chức vụ trong Giáo Hội Phật Giáo Yêu Nước, mà dân chúng gọi là Giáo Hội Quốc Doanh. Bọn ngụy danh dân tộc, không để cho giáo hội có lập trường dân tộc chân chính được đứng vững. Những nhà lãnh đạo Phật giáo cũng thấy sự nguy hại của một chủ nghĩa phi dân tộc vong bản đang nô lệ đất nước. Chính quyền cộng sản không để cho những nhà lãnh đạo Phật giáo được yên vì chúng sợ Giáo Hội cũng vận động dân chúng chống lại như Giáo Hội đã từng chống lại chính quyền thực dân Pháp và các chính quyền lệ thuộc ngoại quốc.

Từ sau khi chiếm miền Nam, Phật giáo là đối tượng cộng sản cần triệt hạ. Dĩ nhiên Thiên Chúa giáo luôn luôn là kẻ thù chính của cộng sản, nhưng đối với Việt Cộng, thì Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Việt Nam và các Giáo Hội Cơ Đốc khác, là kẻ thù đã được nhận diện rõ, ngay cả đặc tính phân bố dân cư tập trung trong vùng của giáo dân Thiên Chúa giáo, Việt Cộng dễ kiểm soát, chúng bắt tức khắc những Linh-mục ở giáo xứ nào có manh nha chống đối.

 

Trên lý luận sử học, Việt Cộng xem Giáo Hội Thiên Chúa Giáo là lực lượng từ bên ngoài, do phong trào chiếm thuộc địa từ Tây phương đem lại. Ngược lại, Phật giáo vẫn là kẻ thù tiềm ẩn, chưa nhận diện hết, cộng sản không thể dùng lý luận dân tộc (ngụy danh) để chống phá Phật giáo, nên Phật giáo là mối bận tâm rất sâu sắc của cộng sản. Cộng sản đã giam Thượng-tọa Thích Thiện Minh đến chết và kết án các Thượng-tọa khác, và đày một số Thượng-tọa ra khỏi số tín đồ đông đảo ở các tỉnh miền Nam. Sống chung với một số Thượng-tọa, Đại-đức, học được thái độ an nhiên tự tại, tôi khám phá ra đó là phương thức sống hay nhất trong nhà tù cộng sản và sau này suốt thời gian dài hơn, khổ hơn, nhục hơn ở các trại cải tạo lao động, càng thấy điều đó rất đúng. Cắt được mọi ray rứt, ân hận, tiếc nuối, mong ước, giữ cho tinh thần thật thảnh thơi càng có sức để chống lại âm mưu hủy diệt của cộng sản bằng những thủ đoạn bỏ đói, bỏ khát, cùm kẹp trong xà lim. Cộng sản chủ trương dùng vật chất để chế ngự con người, thì những người được nuôi dưỡng quen trong các môi trường vật chất, những con người còn nhiều lòng ham muốn, còn nhiều tham vọng càng mau bị đánh gục. Bọn cán bộ cộng sản được giáo dục hận thù, chúng càng thấy người tù khổ sở, đau đớn chúng càng thích thú. Chỉ có giữ cho tinh thần vững mạnh là một phương thức chống cộng sản căn bản nhất trong nhà tù. Chịu sự hành hạ mà không tỏ ra khổ sở, vẫn dửng dưng càng làm cho bọn cán bộ cộng sản tức tối.

 

Khoảng tháng 8-1977, Mặt Trận Liên Tôn tức Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng 2 do Linh-mục Nguyễn Văn Vàng lãnh đạo bị bể. Cha Vàng và người em là Thiếu-tá Nguyễn Văn Viên cùng tất cả bộ phận đầu não và những người tham gia tổ chức bị bắt gần 100 người. Thiếu-tá Nguyễn Văn Viên là một trong những người Tiểu Đoàn Trưởng kỳ cựu của Lữ Đoàn Dù VNCH. Cha Vàng bị giam ở xà lim 25 khu C-1 và ông Viên giam ở xà lim 11 khu C-2 tại Phan Đăng Lưu.

 

Thời gian hỏi cung, Cha Vàng và ông Viên được đối xử rất đặc biệt làm ngạc nhiên tất cả tù ở khu C-1 và C-2. Chúng tôi ăn tiêu chuẩn mỗi ngày một khúc khoai mì buổi trưa và 1 chén cơm với nước muối vào buổi chiều, thì Cha Vàng và ông Viên được một tô cơm với thịt hoặc cá và một trái chuối tráng miệng, mỗi ngày trại trưởng đều xuống tận xà lim hỏi han sức khỏe. Tù nhân xì xào bàn tán, người lạc quan thì giải thích là tình hình sắp có chuyển biến nên đối với những người có tên tuổi như Cha Vàng, Việt Cộng phải đối xử đặc biệt - đa số người tù có bệnh lạc quan tếu, ai cũng nghĩ là Việt Cộng sắp phải rút về Bắc và Mỹ sẽ trở lại miền Nam Việt Nam, một tin tưởng rất mơ hồ nhưng đa số tù đã sống với ảo tưởng đó. Họ chỉ tin mà không lý luận. Ai nói ngược lại với niềm tin đó sẽ bị họ kết án là phản lại niềm tin của anh em, đầu hàng và đâm sau lưng chiến sĩ.

 

Sự biệt đãi hai anh em Cha Vàng kéo dài hơn hai tháng cho đến khi kết thúc hỏi cung. Vụ án ra tòa, ông Nguyễn Văn Viên bị tử hình, Cha Vàng và ông Nguyễn Quốc Bảo, Ủy-viên Quân Sự của tổ chức bị kết án chung thân, những người khác trong Bộ Tham Mưu lãnh án 20 năm. Những người không ra tòa bị đưa đi tập trung cải tạo lao động.

 

Năm 1982, gặp Cha Vàng ở trại Xuân Phước, tôi hỏi Cha vì sao Cha và ông Viên được “ưu đãi”, Cha Vàng giải thích đó là một thủ đoạn dụ cung rẻ tiền của chấp pháp. Công an đã bắt trọn ổ Mặt Trận Liên Tôn khi Mặt Trận mới ở giai đoạn tổ chức và chỉ mới truyền bá nội san - chúng nghĩ Cha Vàng là một Linh-mục có uy tín và ông Viên là một sĩ quan kỳ cựu, chúng sợ chưa nắm hết được tổ chức. Thay vì đánh đập tra tấn, áp dụng ít có kết quả ở nhiều người bị bắt. Chúng xoay qua dụ dỗ - chấp pháp đề cao Cha Vàng và ông Viên là người có uy tín, nên trước hết xin Cha Vàng và ông Viên cộng tác. Chúng giải thích là vì những khó khăn kinh tế do chế độ cũ để lại, nhiều vấn đề xã hội chưa giải quyết được - có nhiều người chưa hiểu nên đã có những tổ chức chống đối. Chúng giả vờ nói yêu cầu Cha Vàng hợp tác trình bày rõ quan điểm và tổ chức Mặt Trận Liên Tôn. Cha Vàng biết đó là một thủ đoạn dụ cung nên Cha không khai gì hơn những điều chấp pháp đã biết. Hầu hết các tổ chức chống đối đều đưa ra hoạt động cụ thể, mới ở trong giai đoạn tổ chức. Nhóm của Cha Vàng có phổ biến một tờ nội san trong các khu giáo dân Công giáo quanh Saigon. Tổ chức nào có hoạt động thì đều phải ra tòa, những người chủ chốt đều lãnh án chung thân hay tử hình. Đối với sĩ quan hay viên chức chế độ cũ, nếu có hoạt động chống đối có bằng chứng cụ thể, ra tòa hầu hết đều bị kêu án tử hình vì cộng sản xem đó là một trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Pháp chế cộng sản quan niệm luật pháp của họ áp dụng cho cả nước dù là họ không cai trị miền Nam trước 30-4-75 nên người tham gia vào chế độ miền Nam đều là có tội và người không bị xử án hay cầm tù ở các trại tập trung như binh sĩ và nhân viên thuộc cấp đó là trường hợp khoan hồng. Đó là cách giải thích luật pháp cưỡng từ đoạt lý, che đậy chủ trương đấu tranh giai cấp.

 

Thời gian ở trại giam tôi có được tiếp xúc với một số người trong những tổ chức thành lập sau ngày 30-4-75.

 

Đây chỉ là một phần nhỏ trong hàng ngàn tổ chức chống Cộng lớn nhỏ đã bị bắt như:

 

- Phạm Văn Mậu, Nguyễn Văn Chính, vụ nhà thờ Vinh Sơn. Trong tất cả những vụ chống Cộng sau năm 75, cho đến thời gian tôi gặp trong trại, vụ Linh Sơn là tương đối có tổ chức nhất. Nhóm Phục Quốc này có tổ chức một số buổi phát thanh vào khoảng tháng 8 đến tháng 9 năm 1975. Họ dùng danh nghĩa Thiếu-tướng Nguyễn Cao Kỳ để tuyên truyền kết hợp, tổ chức có in tiền giả để sử dụng. Lúc bị vây bắt ở nhà thờ Vinh Sơn, có kháng cự bắn chết một công an. Vụ Vinh Sơn bị bắt 13 người. Thiếu-tá Nguyễn Duy Tiếp bị bịnh chết trước khi xử án chung thẩm. Ali Hùng án tử hình vì bắn chết công an, những người còn lại án từ 20 năm đến chung thân.

 

Sau vụ Vinh Sơn, Việt Cộng bắt rất nhiều Linh-mục ở các giáo xứ Saigon đến Biên Hòa, Long Khánh và Bà Rịa, tất cả đều bị giam ở Chí Hòa đến năm 1982 mới đưa ra trại lao động cải tạo Xuân Phước, tức A-20 ở tỉnh Phú Yên, và đến năm 1986 mới có người được cho về. Đa số về đợt cuối năm 1987 và đầu năm 1988.

 

Tôi gặp anh Dương Trung Can, Trương Quốc Bảo, Mục-sư Phan Tần, tổ chức Việt Tiến. Anh Dương Trung Can là một nghiệp chủ ở Long Xuyên nên kết nạp người từ Saigon đến Long Xuyên và Cần Thơ. Tổ chức bị bắt có cương lĩnh, bài ca, khí tài để lập đài phát thanh. Trừ một người Việt gốc Hoa là Nhiêu Tô đã phản bội cung khai tất cả, được tập trung cải tạo. Những người khác ra tòa, anh Dương Trung Can, Đỗ Vang Lý, Mục sư Phan Tần bị án tử hình, anh Trương Quốc Bảo án chung thân, Linh mục Huyền Linh tác giả bài ca Việt Tiến án hai mươi năm.

 

Tôi gặp các Luật sư Trần Danh San, Triệu Bá Thiệp, Nguyễn Hữu Giao trong tổ chức “Ủy Ban Nhân Quyền”. Tổ chức này còn có Luật sư Nguyễn Hữu Doãn và nhà báo Huỳnh Thanh Vị. Tổ chức mới hội họp, ủy cho anh Trần Danh San soạn tuyên ngôn nhân quyền và tuyên cáo sự vi phạm nhân quyền của Cộng Sản Việt Nam. Tổ chức chưa được hoạt động gì thì bị bắt. Trừ Luật sư Nguyễn Hữu Doãn được bạn thân là Hoàng Phủ Ngọc Phan bảo lãnh cho về từ trại tạm giam - những người khác đều bị đưa đi trại lao động cải tạo.

 

Các anh Phạm Văn Tường, Nguyễn Văn Tân, Trương Văn Quới, tổ chức Mặt Trận Toàn Dân Chống Cộng. Anh Tường Thượng sĩ Cảnh Sát, hai anh Tân và Quới là Thượng sĩ Quân Cụ. Anh Tường có nói về mật khu ở Phương Lâm nhưng tôi không tin điều đó có thật.

 

Các anh Nguyễn Văn Lạc, Lê Văn Thương, Thiếu tá Lê Văn Bằng, Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia - anh Bằng sĩ quan nên bị đưa ra khỏi trại tạm giam 1977, tôi không còn gặp. Các anh Lạc, Thương đưa đi cải tạo án tập trung, anh Lê Văn Thương chết ở trại Xuân Phước năm 1983.

 

Các anh Huỳnh Ngọc Diệp, Nguyễn Trung Thạch, Mặt Trận Dân Tộc Tự Quyết. Đặc biệt Mặt Trận Dân Tộc Tự Quyết chủ trương cộng tác với những người của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để chống lại Cộng Sản Bắc Việt. Trong khi tổ chức của các anh đã “móc nối” với Đại tá Nam Thành, Trưởng Ban Chấp Pháp Sở Công An Thành Phố nên bị bắt gọn.

 

Tôi gặp các anh Nguyễn Văn Ninh và Trần Văn Phương trong Binh Đoàn Lê Văn Duyệt, Thủ lãnh Binh Đoàn Lê Văn Duyệt là ông Khổng Trung Lộ. Binh đoàn chủ trương tổ chức lực lượng quân sự nòng cốt là các khu công giáo để đấu tranh lật đổ chính quyền. Ông Khổng Trung Lộ bị án tử hình.

 

Tổ chức thành phần thứ ba của ông Bùi Ngọc Phương gồm các ông Vũ Đăng Dung, Thủ-lãnh Luật Sư Đoàn Miền Trung; Nguyễn Văn Hiếu, thông dịch viên làm Tòa Đại Sứ Mỹ; Kỹ-sư Phạm Tá, chủ tiệm nhuộm ở đường Lê Thánh Tôn; ông Bùi Minh Đức tức Ôn Hòa Hiệp; Nguyễn Cao Thanh, Giáo-sư Đại Học Phương Nam; Lương Thiện, Giáo sư Hoa ngữ; Đoàn Công Lập, cựu Trưởng-ty Cảnh Sát Thừa Thiên. Do sự thúc đẩy của Đoàn Công Lập, ông Bùi Ngọc Phương tự xưng là thành phần thứ ba đánh điện tín ra Hà Nội đòi Phạm Văn Đồng thi hành Hiệp Định Paris hòa hợp hòa giải dân tộc.

 

Đoàn Công Lập cán bộ cộng sản hồi chánh, gia nhập Đảng Đại Việt hệ phái Hà Thúc Ký, được làm Ty trưởng Cảnh Sát Thừa Thiên Huế thời kỳ miền Trung tranh đấu. Lập không đi cải tạo và được Sở Công An Thành Phố giao phó tổ chức chống Cộng giả để bắt nhiều người. Lập và con trai là Đoàn Công Việt“bị bắt” và được thả ra khỏi trại giam nhiều lần trong những tổ chức phản động khác nhau. Những người trong tổ chức Bùi Ngọc Phương đi lao động cải tạo. Ông Lương Thiện chết năm 1981 và ông Bùi Ngọc Phương chết năm 1984 ở trại Xuân Phước.

 

Việt Cộng triệt tiêu kẻ thù bằng nhiều mức độ, hoặc tiêu diệt nếu bị đánh giá là nguy hiểm cho chế độ, hoặc vô hiệu bằng cách cầm tù, hoặc khuất phục những thành phần ít nguy hiểm hơn phải đầu hàng không còn hành động chống đối nữa.

Sau khi chiếm miền Nam, cộng sản tập trung những sĩ quan viên chức chế độ cũ, các đảng phái chính trị, xong chúng mở chiến dịch nhắm vào các nhà văn, nhà báo, các lãnh đạo tôn giáo và các nhà tư sản.

 

Vấn đề an ninh chính trị là số một của cộng sản. Lực lượng công an là sức mạnh chính, là cánh tay bạo lực để trấn áp. Mai Chí Thọ chỉ huy khoảng 100 ngàn công an rải khắp mọi nơi tại Saigon-Gia Định.

 

Các phong trào Phục Quốc thời gian đầu đều xuất phát từ Thủ Đô Saigon cũ. Hầu hết đều bị bắt ngay trong giai đoạn đầu tiên, tức giai đoạn mới tổ chức.

 

Ngoài ra, Mai Chí Thọ còn cho nhân viên công an đứng ra tổ chức những Mặt Trận chống đối giả hiệu, nhân viên công an chìm cũng đi rỉ tai móc nối. Những ai nghe theo chúng bắt nhốt hết, người nào dè dặt không nhận lời tham gia, cũng bị bắt vì không tố cáo người chống chính quyền. Theo luân lý và luật pháp của cộng sản, một người dân được xem là tốt khi người đó biết đấu tranh với kẻ khác để bảo vệ chế độ cộng sản; biết rình mò hay tố cáo hành động hay tư tưởng người khác với công an. Ai cũng có thể bị bắt vì tội danh phản động. Phản động là một từ ngữ mơ hồ cộng sản dùng để chỉ người khác giai cấp kể cả nhân vật lịch sử sống trước thời Karl Marx. Người nào bị bắt cũng đều có tội, vì “đảng và nhà nước không bắt lầm”.

 

Mục đích của những tổ chức phản động ma do công an lập ra để:

 

- Bắt tất cả những người dám chống đối và còn tư tưởng chống đối.

- Làm cho những người không thích chế độ phải khuất phục, mất sức đề kháng.

- Làm cho những phong trào chống đối trở thành kém nghiêm túc như một trò khôi hài để người dân không còn ngóng trông gì ở lực lượng đối kháng.

 

Trong một chế độ dân chủ thực sự, chính quyền tạo mọi cơ hội để người dân tham gia chính trị, trực tiếp là ứng cử viên các chức vụ hiến định, hoặc đi bầu cử để lựa chọn người đại diện, hoặc phát biểu ý kiến công khai trên báo chí, trực tiếp đề nghị ý kiến với viên chức chính quyền kể cả Tổng Thống là chức vụ dân cử cao nhất, tự do biểu tình để bày tỏ thái độ, lập trường v.v...

 

Các chế độ phản dân chủ đều không muốn người dân tham gia vào sinh hoạt chính trị. Chế độ quân chủ, chế độ thuộc địa tổ chức những trò chơi, cờ bạc, rượu chè, hút xách để người dân thụ hưởng. Chế độ độc tài qui định sự tham gia chính trị của người dân vào một hành động duy nhất là hoan hô lãnh tụ và ca tụng chế độ. Có dân chủ hay không là tùy mức độ tham gia chính trị của người dân. Phi chính trị là một thái độ tiêu cực mà chính quyền độc tài mong muốn. Xã hội Việt Nam trải qua quá nhiều biến cố trong một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, mọi người dân ở bất cứ tuổi tác nào cũng bị chính trị chi phối; nhưng càng ngày thái độ phi chính trị càng phổ biến.

 

Có một thời đi làm cách mạng, làm chính trị là một hành động cao cả được ngưỡng mộ. Rồi từ ngữ cách mạng bị lạm dụng, một hành động lừa thầy phản bạn, tranh giành quyền lợi cá nhân cũng tự xưng là cách mạng. Một tổ chức lừa đảo, trấn áp, câu thúc, bóc lột toàn dân, biến đảng viên thành những con người đầy thú tính, đê tiện giành độc quyền từ ngữ cách mạng.

 

Ý nghĩa tốt đẹp của hai chữ chính trị cũng biến mất. Chính trị trở thành một hành động thủ đoạn lừa lọc. Người ta không còn nghĩ là làm chính trị là để đem khả năng ra phục vụ đất nước, phục vụ xã hội. Người ta chỉ nghĩ đến chính trị có nghĩa là tiêu diệt nhau để nắm quyền lực, gom góp quyền lợi, chính trị trở thành đáng sợ đáng ghét.

 

Năm 1977, cộng sản ban hành nghị quyết 228 nhằm càn quét tất cả những lực lượng đối kháng ở Saigon và các thành phố miền Nam. Nhà tù không có chỗ nhốt người, các trại tập trung mọc lên như nấm ở khắp nơi - chúng đã thành công ở giai đoạn đầu trong mục tiêu trấn áp.

 

Thái độ phi chính trị của người dân là một mục tiêu mà cộng sản đã đạt được. Không tham gia, không ủng hộ, người làm chính trị trở thành một hành động đồng lõa với cộng sản.

 

Dân chúng đã mất niềm tin, các cuộc vận động chính trị trở nên rất khó khăn. Người dân đã chán ghét chế độ cộng sản, muốn nó bị lật đổ, nhưng lại nghi ngờ đối với những thành phần đối kháng. Đây là một nguy cơ cho tương lai của Việt Nam - một khó khăn cho những người có hoài bão chống cộng xây dựng đất nước. Làm thế nào có thể lấy lại niềm tin của toàn dân?

 

Trước hết phải quan niệm lại việc làm chính trị, nếu không lấy lại được tính cao thượng của hành động này thì ít nhất phải xem đó là một đối tượng của người làm chính trị cần phải được tôn trọng không bị đánh lừa, ít ra người làm chính trị phải thấy là người dân Việt Nam hiện nay đã rất trưởng thành, ngoài việc giáo dục văn hóa được phổ cập nâng trình độ nhận thức của họ lên. Những diễn biến chính trị trong suốt mấy chục năm qua, nạn nhân chính là người dân, nên họ rất có nhiều kinh nghiệm, có nhận thức sắc bén và không để cho tiếp tục bị lừa.

 

Hồ Chí Minh thành công nhờ lừa lọc, thủ đoạn gian trá. Ông ta chết rồi, ông ta cũng mang theo những thủ đoạn chính trị xuống mồ.

 

Bài học Hồ Chí Minh gian manh lừa lọc những lãnh tụ quốc gia cứ ám ảnh các người làm chính trị - nên ai bước chân vào con đường chính trị cũng nghĩ là chính trị cần có thủ đoạn.

 

Thủ đoạn, mưu lược rất cần thiết, nhưng phải đặt trên quan niệm là để đạt được mục tiêu cao thượng là phục vụ dân tộc. Hãy trả lại cho chính trị ý nghĩa nghiêm túc của nó. Làm chính trị phải từ tấm lòng yêu nước, thương dân, muốn phục vụ cho sự tiến bộ và hạnh phúc của con người. Hiện nay, sau một lần thua đau, chúng ta có thì giờ để chuẩn bị ngay từ đầu, không phải vá víu và không còn phải đứng giữa nhiều kẻ thù. Hiện tại, chúng ta chỉ còn có kẻ thù trước mặt là cộng sản độc tài - nghèo đói và lạc hậu. Nghèo đói và lạc hậu cũng chỉ là hậu quả của chế độ cộng sản đem lại.

 

Tổ chức đối kháng bị bắt thật nhiều, nhưng những đặc điểm chung là:

 

1- Chỉ mới giai đoạn tổ chức kết nạp, chưa có hành động chống đối cụ thể.

2- Không có phát động đồng đều trong một vùng rộng lớn, chỉ mới ở giai đoạn lẻ tẻ.

3- Không có kế hoạch bảo mật nên bị cộng sản phát hiện từ trong trứng nước - thường là kết nạp phải trinh sát của công an vào tổ chức.

4- Chỉ tổ chức ở thành phố, không nghĩ đến tổ chức mật khu an toàn để chiến đấu. Một số người nói về số quân trong rừng hay mật khu chỉ là sự khoa trương để gây uy tín, cũng như mượn danh một số tướng lãnh cũ đều nhằm mục đích đó mà không có thực.

 

Sở dĩ Saigon thường nhắc các mật khu vì sau 1975, ở vùng núi non có một số tàn quân còn hoạt động trước khi bị tiêu diệt. Vùng Bàu Cá có một số tàn quân do Linh mục Hiệu ở Long Khánh chỉ huy. Khởi đầu trú quân tại vùng Bàu Cá, sau rút về đông bắc Long Khánh, trên đường di chuyển vào dịp Tết Bính Thìn đã tấn công vào huyện Kiệm Tân, đốt kho lương thực gây chấn động Saigon; trên đường rút lui về Long Khánh đã bị Việt Cộng hành quân vùng Phương Lâm tiêu diệt. Linh mục Hiệu bị bắt, lãnh án tử hình, số tàn quân còn lại cải tạo tại Z-30A.

 

- Vùng Dốc Mơ Gia Kiệm và Phương Lâm, có đơn vị tàn quân do Thiếu-tá Tài chỉ huy hoạt động từ năm 1975. Trong năm 1976, Việt Cộng dùng cả sư đoàn hành quân càn quét tiêu diệt.

 

- Một số anh em binh sĩ không chịu đầu hàng rút vào hoạt động tại khu Thị Vãi, Long Lễ ở Phước Tuy sau cũng bị tiêu diệt.

 

Để lập công, tên Luật sư Cảnh dựng nên vụ án Sông Vĩnh, hắn cho tổ chức những đường dây đưa người vào mật khu. Ở Saigon, nhiều thanh niên nóng lòng chống Cộng tham gia. Đầu tháng 6 năm 1976, trong ba ngày liên tiếp, công an thành phố chặn tất cả xe đò, xe lam đưa người từ Saigon đến Sông Vĩnh Phước Tuy, bắt gần 200 người.

 

Tháng 12, chúng tôi được chuyển trại về Chí Hòa. So với trại giam ở Sở Công An Thành Phố và Phan Đăng Lưu, trại Chí Hòa cũng thoải mái hơn nhiều. Phòng được xây cao, những chấn song sắt và các hành lang rộng, gió vào lồng lộng, ban đêm nằm chật ních người vẫn lạnh.

 

Trại giam Chí Hòa cũng phân biệt nhiều loại tù, đối xử khác nhau. Các sĩ quan trình diện từ các trại lao động đưa về ở khu DE, mỗi ngày được xuống ô đánh bóng chuyền một lần, sau đó được tắm rửa. Tù mới bị bắt, mỗi tuần được tắm hai lần, mỗi lần mười lăm phút. Tù bị án tử hình bị cùm chân tay suốt ngày đêm trên tầng thứ ba dãy khu FG. Vào ngày thứ ba, trong khi xách nước để dự trữ vệ sinh và dọn phòng, một số anh em trẻ dùng nước vừa tắm dội thật nhanh trên người để lấy nước rửa phòng một thể. Nhưng sáng kiến đó không được chấp nhận; tên Châu, tù thường phạm, làm trật tự báo cáo trực trại nên phòng bị phạt cấm lấy nước. Phòng nhốt hơn 40 người chỉ có một nhà cầu mà không được cấp nước giội rửa mỗi ngày thì thật là tai hại. Chỉ qua ngày thứ hai là phân và nước tiểu tràn ra hôi thối nồng nặc.

 

Cả phòng xôn xao, mỗi người một tiếng ồn ào ô hợp, cuối cùng những anh tù trẻ hăng lên la lối đòi trại phải cấp nước. Cộng sản cho đó là một cuộc đấu tranh, điều tối kỵ trong tù của cộng sản. Cán bộ cộng sản có nhiều kinh nghiệm về ở tù. Trong tù họ luôn tìm dịp để đấu tranh. Đấu tranh là một hình thức để rèn luyện cán bộ, tạo gắn bó và tinh thần kỷ luật của cán bộ trong tù. Đấu tranh để nuôi dưỡng ý chí không bị đời sống khổ cực, buồn tẻ, chán nản trong thời gian ở tù hủy hoại. Từ kinh nghiệm đó, khi giam giữ tù, cộng sản triệt hạ tất cả những mầm mống đấu tranh, nhất là những cuộc đấu tranh có tổ chức. Anh em la lối làm cả ban giám thị, gồm cả trưởng khu tên Trung-úy Trạc chạy xuống với súng ống để đàn áp. Anh em trình bày sự việc, và trước sự kiện hiển nhiên chúng cũng thấy rõ là phòng giam bốc mùi hôi thối ra đến bên ngoài. Tên Trạc hứa cho mở phòng đi lấy nước đặc biệt. Vấn đề tưởng như vậy là đã được giải quyết một cách bình thường. Phòng chuẩn bị những người để chờ mở cửa đi xách nước. Nhưng đến khi mở cửa không những để đi lấy nước, tên trưởng khu còn gọi tôi đi làm việc. Mới ra khỏi cửa phòng, hắn đã ra lệnh cho tên trật tự còng tôi lại, dẫn về đầu cầu thang lên xuống của khu, xong tên Châu đẩy tôi vào trong góc tường và đánh đá túi bụi.

 

Tôi la to để các phòng ở cạnh nghe biết tên Châu đánh tôi, tên Trung-úy Trạc giả như không biết sự việc tôi bị đánh, ra lệnh cho tên Châu đưa tôi lên nhốt ở xà lim kỷ luật ở phòng trên.

 

Ngoài dãy xà lim ở trước khu DE và dãy xà lim ở dưới ô, tại mỗi chân cầu thang ở Chí Hòa có ba xà lim kỷ luật. Đã bị cùm ở xà lim các trại giam tưởng đó là địa ngục nhưng so với xà lim kỷ luật, xà lim tạm giam là thiên đường vì ở đó mỗi phòng đều có cầu tiêu và vòi nước, có nước uống, có một bục xi măng để nằm cao ráo. Xà lim kỷ luật bốn bề vuông vức khoảng 2m, tối tăm bẩn thỉu. Phòng giam nồng nặc mùi phân và nước tiểu. Tên Châu loay hoay mở khóa để còng chân tôi, cánh cửa được mở rộng có ánh sáng, tôi thấy cái thùng đựng phân ngay giữa phòng, đầy tràn ra ngoài nhớp nháp. Cố ém hơi để mùi hôi thúi hết xông vào mũi, vào mồm, tôi đảo mắt để có thể tìm một chỗ có thể nằm được, để khỏi dùng tay mò mẫm khi cửa đóng tối lại. Thời gian ở tù cũng đã hơn một năm, tôi rút được kinh nghiệm, phải chấp nhận những gì xảy đến, có oán than cũng không ích lợi gì, vì ở trong tù, nhất là bị giam kín trong xà lim, người tù hết còn làm gì được, mọi phương tiện đều tối thiểu, mọi khả năng đều bị tước đoạt - chỉ còn có chịu đựng không trách móc, than thở là điều tốt nhất. Cái cùm sống, tức là không đóng chặt một chỗ nên tôi có thể mang cùm đi lại trong phòng. Không chỗ nào có thể nằm được, phân và nước tiểu tràn ra cả lớp ướt nhão nhoẹt, chỉ còn ở sát bên tường xà lim là hơi khô, có thể ngồi thu mình dựa lưng vào để nghỉ ngơi hoặc là có thể ngủ. Cố gắng trấn áp cơn buồn nôn dâng lên tận cổ, cuối cùng đành chịu thua, mùi thối cứt lâu ngày, nó lợm trong cuống cổ, khi không kềm được nữa phải mửa thốc tháo, mửa đến hết tất cả những gì còn ở trong bụng ra đến khi miệng đã hết lớp chua đến đắng, biết là đã ói mửa đến mật. Hết còn gì để ói nữa, cái bao tử vẫn trạo trực dâng lên những cơn co thắt và cái cổ nấc cụt. Tôi nghe tiếng la lối ở dưới nhà. Cố phân biệt tiếng la của Đoàn Kế Tường, Trần Nhật Tân, Dương Đức Dũng. Không phải chỉ mình tôi bị đánh ghép tội sách động mà cả số bạn trẻ trong phòng cũng bị bắt đánh sau tôi.

 

Tên trưởng khu Trạc muốn đánh chúng tôi, nhưng hắn sai tên Châu trật tự đánh để chối trách nhiệm. Tuy là công an với nhau, nhưng bọn cán bộ cũng chia ra nhiều ngành có nhiều mâu thuẫn vì quyền lợi không đồng đều. Bọn cai tù không ưa bọn chấp pháp, vì chấp pháp làm việc ít và nhiều quyền hơn, cũng như bọn vệ binh ít quyền lợi nhất nên không ưa bọn khác. Nhưng tổ chức của Cộng Sản chặt chẽ, qui định trách nhiệm nặng, nên tên nào cũng phải thủ nguyên tắc.

 

Ở xà lim gần nhau, tôi và Tường đều mệt mỏi và thấm đòn, chúng tôi chỉ dặn nhau dứt khoát không nhận tội gì cả, và phản ứng chuyện bị đánh bằng cách xin làm việc với chấp pháp. Chúng cho gặp thì chính thức phản đối, nếu không cho gặp thì cũng hy vọng là với phản ứng mạnh mẽ, sau này chúng sẽ bớt đánh thêm. Chúng tôi không muốn để chúng đối xử như một người tù thường phạm muốn đánh đập lúc nào thì đánh, dù phản ứng có thiệt hại nhiều cho cá nhân, hồ sơ cải tạo có bị ghi thêm nhiều nốt đen bởi những lời phê thái độ cải tạo xấu.

 

Suốt đêm không ngủ được. Những con gián bò nhột nhạt ở hai chân, bò lên cả mặt. Tôi suy nghĩ về trường hợp của chúng tôi. Rõ ràng là tên giám thị Trại cố tình bắt chúng tôi ra mà đánh. Sự việc vừa xảy ra, tên Trạc xuống đã bắt tôi đi. Như vậy có thể là do hồ sơ của tôi lúc mới bị bắt, tên Đỗ Hữu Cảnh ghi vào cuối biên bản, thái độ của tôi lúc bị bắt là bình tĩnh và tỏ ra ngoan cố. Lời ghi chú đó đã làm cho tôi bị cùm mấy tháng trong xà lim sở công an, bây giờ đến trại mới, cái lời ghi đó tiếp tục có tác dụng. Chỉ có lời ghi thái độ ngoan cố lúc bị bắt mà tôi phải nhiều lần bị giam cùm trong xà lim, có những lúc tôi thật sự không làm gì cả, nhưng trại có lộn xộn, y như rằng nếu không tìm ra thủ phạm thì tôi phải nằm trong số những người bị bọn giám thị còng đầu tiên.

 

Ngày hôm sau tôi lại được gọi ra làm việc. Mở còng cho tôi là một người trật tự khác, cũng thường phạm. Vừa mở còng hắn nói nhỏ:

 

- Em tên Minh, lính không quân cũ, hôm qua thằng Châu đánh các anh, tụi em về có chửi nó, thằng đó ngu nhưng biết hối hận, anh thông cảm.

 

Qua giọng nói, tôi biết Minh nói thật, đa số người tù thường phạm rất xốc nổi, họ sống theo bản năng nhiều hơn lý trí, ngoài đời hay đối với nhau rất hung bạo, nhưng vào tù rất sợ bị đánh cùm và sẵn sàng làm tay sai cho cán bộ, bọn Cộng Sản rất kinh nghiệm, trong các trại tù, nhốt chung giữa chính trị và thường phạm, chúng rất nâng đỡ tù thường phạm để sử dụng làm tay sai. Tù chính trị ít người chịu làm công việc đê hèn đó.

 

Tôi nói với Minh:

 

- Tôi hiểu các anh làm nhiệm vụ.

 

- Anh hiểu vậy tụi em mừng rồi, nhưng đáng lẽ thằng Châu được lịnh, nó chỉ nên đánh nhẹ, đằng này em biết nó đánh mấy anh đau lắm. Anh nhớ uống nước muối để tránh bịnh hậu.

 

- Thôi đừng áy náy Minh, tôi biết phải làm gì.

 

Ra khỏi xà lim, tôi thấy tên Trạc đứng ở xa nhìn lại, hắn dùng cái khăn bịt mũi vì thối quá.

 

Làm việc với tôi là một tên Thiếu úy người miền Nam, hắn tự giới thiệu là Thành. Cán bộ miền Nam rất hiếm trong hàng ngũ công an.

 

Vừa chỉ ghế cho tôi, hắn nói:

 

- Tôi làm việc với anh vì việc anh sách động đấu tranh. Chống lại trại giam tức là anh đã chống lại cách mạng.

 

Thấy hắn cả vú lấp miệng em, tôi đáp:

 

- Báo cáo cán bộ, tôi không đấu tranh và cũng không sách động ai cả. Chúng tôi không ai sách động hay thúc đẩy người khác được - mỗi người đều tự ý hành động. Tôi phản đối là tôi đã bị đánh đập, cán bộ chấp pháp đã xác nhận nhiều lần là chúng tôi được tôn trọng phẩm giá, không bị đánh.

 

Hắn vẫn ràng buộc lời nói:

 

- Anh khỏi phản đối, người đánh anh là trật tự, cũng là tù, chúng tôi đã thay đổi công tác, cán bộ thi hành đúng chính sách không đánh đập ai hết. Đó là tù đánh tù. Anh không sách động mà khi bắt anh đi rồi, có bọn thằng Tân, thằng Tường, thằng Dũng la đòi thả anh ra, chúng tôi bắt bọn đó, thì bọn thằng Quách Diệu Định, Vũ Hùng Cương tuyệt thực.

 

Chuyện thành lớn. Việt Cộng thiện nghệ về tổ chức nên rất ghét hành động có tổ chức. Tự phát chúng không sợ nên xử phạt nhẹ, hành động chứng tỏ có tổ chức chúng phạt rất nặng. Nhưng dù sao, chuyện cũng đã xảy ra rồi. Và anh em làm như vậy cũng hay, vừa có tình với nhau, dù ở nhiều nơi họp lại sống chung với nhau có hai ngày. Vừa chứng tỏ khí thế đề kháng sẵn có trong mọi người.

 

Tôi vừa suy nghĩ vừa trả lời tên cán bộ Thành:

 

- Báo cáo cán bộ, chúng tôi mới ở chung với nhau hai ngày, có người chưa kịp nói chuyện với nhau. Việc xảy ra vì phòng thối quá không chịu được, và anh em làm theo phản ứng tự nhiên.

 

- Các anh lợi dụng sơ hở là đấu tranh, việc của phòng phải để cho trưởng phòng trình lên cán bộ, đằng này các anh đã gây náo loạn cả trại. Anh biết gây náo loạn trại, các anh đã phạm tội gì không?

 

Tôi tránh né:

 

- Báo cáo, tôi không gây náo loạn, trong phòng đã đề nghị trưởng phòng làm nhiệm vụ, trưởng phòng từ chối, nên mới xảy ra sự việc.

 

- Anh biết những người nào la to nhất không?

 

- Báo cáo, tôi không biết gì cả, lúc đó phòng đông, ai cũng nhao nhao lên tiếng, chỉ có một vài người lớn tuổi ngồi im lặng, thế mà tôi bị bắt ra trước tiên hết.

 

Hắn lại bắt câu nói của tôi để bẻ quặt câu hỏi:

 

- Thế là anh bảo anh oan à, cán bộ bắt oan anh à, cán bộ là đại diện cho đảng, đảng không bao giờ sai lầm cả. Anh trả lời không biết, không biết, không nghe, không thấy à, tôi biết chủ trương bao che của các anh... làm như vậy làm sao học tập tiến bộ, làm sao anh về được.

 

Lại nghe điệp khúc cán bộ là đại diện của đảng, chống cán bộ là chống đảng, hay là đảng không bao giờ sai lầm nên cán bộ không bao giờ sai, không bắt người sai. Lý luận một chiều ngu xuẩn đó cứ hết tên này nhắc, tên khác nhắc như vẹt.

 

Sau khi viết lý lịch của tôi vào biên bản, đến mục can tội ghi “sách động chống đối” tôi không ký vào biên bản. Nên hắn tức giận nói:

 

- Anh vẫn một mực ngoan cố, không tiến bộ, anh cần phải suy nghĩ nhiều nữa.

 

Hắn giao tôi lại cho cán bộ Trạc đem tôi về xà lim. Xà lim đang được dọn vệ sinh nên hắn đưa tôi vào cùng phòng với Đoàn Kế Tường. Tôi nằm được một lúc thì Đoàn Kế Tường cũng được đưa về phòng. Tường cũng bị ghép tội sách động đấu tranh và cũng không ký biên bản.

 

Anh em đã tuyệt thực, vụ này thành lớn chuyện, chắc chắn chúng tôi sẽ bị giam lâu. Có những việc muốn tránh cũng không được, tốt hơn là chấp nhận nó với thái độ tự nhiên, còn hơn là than trách.

 



 


Chương Mười

 

Sáu mươi bảy người tập trung một phòng dưới ô để làm các thủ tục cần thiết để đi trại lao cải. Mọi người lo âu, băn khoăn vì sắp bước qua một giai đoạn mới trong cuộc đời tù tội. Căn phòng chật chội vẫn yên lặng, mỗi người ngồi thừ ra bên cạnh gói hành trang gồm ít áo quần và thức ăn còn lại của đợt thăm nuôi vừa qua.

 

Cơm chiều xong đa số đã đi nằm, chỉ có những người hút thuốc lào tụm lại với nhau thay phiên kéo chiếc điếu cầy, tiếng nước sôi sùng sục nghe rõ mồn một. Tôi lại nghĩ đến gia đình tôi, không biết thân nhân của tôi sống bằng cách nào trong hoàn cảnh càng lúc càng khó khăn. Qua gói quà gửi tôi hiểu gia đình đã sa sút lắm. Tôi không xin quà, để gia đình gửi cho tùy ý theo khả năng, đỡ cảm tưởng mình là gánh nặng cho thân nhân, vừa để có thể đo lường mức độ sinh sống ở nhà. Đã hơn mười sáu tháng rồi, tôi chưa gặp mặt vợ con. Nhớ lắm.

 

Hai phòng hình sự tập trung cũng chuẩn bị ra đi, anh em trẻ họ ca hát suốt đêm, hát giã từ thành phố để đi đến một nơi nào chưa ai biết, nhưng chắc chắn nhiều cam go. Có chịu đựng được không? Nghĩ đến ngày về xa vời vợi. Án tập trung là án dây thun, nó cứ dài ra mãi vì có tăng mà không có giảm án. Ngày về có thể ngày mai, mà có thể chục năm nữa, và có thể chẳng bao giờ.

 

Sáng sớm chúng tôi được gọi dậy ra ngồi ngoài sân, gần Tết trời lạnh se sắt, lạnh ngấm từ bên ngoài và cũng thoát ra từ bên trong, từ nỗi cô đơn và sự lo lắng.

Trại trưởng đến đọc lệnh tập trung, sơ yếu lý lịch và tội danh mỗi người để kiểm điểm lại lần cuối. Tôi bị ghi là tham gia tổ chức phản cách mạng, đúng như trưởng ban chấp pháp Năm Thành nói với tôi, không cần tôi nhận tội, không cần phải làm cung theo đúng thủ tục, không cần chứng minh tội trạng, công an giải thích “Đảng không bao giờ nhầm lẫn”, bị bắt là đương nhiên có tội, không tội này thì tội khác.

Không ai thắc mắc khiếu nại, chỉ uổng công, cán bộ không có thẩm quyền giải quyết. Chúng tôi được phát mỗi người một nắm cơm bằng quả bưởi và nhúm muối trắng cho một ngày ăn đường. Nhiều người thở ra nhẹ nhõm, ít ra cũng đỡ được một phần, chúng tôi đi cải tạo ở một trại gần Saigon.

 

Hai chiếc xe hàng chạy chầm chậm, buổi trưa mới tới trại Xuân Lộc. Trại nằm phía đông bắc núi Chứa Chan, từ ngã ba Ông Đồn trên quốc lộ 1 đi vào khoảng 4 cây số. Trại lập tại Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 53 Bộ Binh, bộ chỉ huy trại và phân trại A nằm ngay trên đồi Phượng Vĩ, phân trại B sâu vào rừng 2 km, và Việt Cộng đang xây thêm một trung tâm kiên cố gồm nhà xây tường đúc lợp tôle và có tường bao quanh.

 

Thời gian “Trăng mật” cũng qua nhanh. Tụi VC coi trại tù rất tâm lý, tù mới ở trại giam ra chúng cho làm việc nhẹ khoảng một tháng, ai cũng muốn được vận động, phơi nắng vì tù túng quá lâu trong phòng tạm giam nóng bức và ngộp thở. Chừng lao động được một tháng, chúng đưa vào những công tác chính như cuốc đất, xẻ núi làm đường đào ao, lúc đó tù nhân mới bắt đầu thấm mệt và hiểu thế nào là lao động cải tạo và chỉ mong được trở lại phòng tạm giam. Mỗi ngày làm việc quần quật, trên đất núi cứng như đá vôi, dụng cụ thô sơ, dưới trời nắng chang chang. Trưa và tối mỗi bữa một chén cơm độn khoai mì với nước muối, nên mới có hơn hai năm cải tạo mà những người trình diện trông đã tiều tụy lắm. Lương thực mỗi ngày cắt dần phần gạo, thời gian đầu ăn toàn cơm nhưng gạo hẩm, sau nửa cơm nửa ngô, rồi ngô được thay bằng khoai mì khô. Mức độ độn tăng dần theo thời gian, 50% độn, rồi 75%, 80% rồi đến cuối năm 1978 mỗi tuần trại Long Khánh chỉ ăn 2 bữa cơm, 12 bữa ăn còn lại chỉ ăn khoai mì khô. Phần gạo ít quá, không thể nấu chung với thức độn, anh em nhà bếp cũng kinh nghiệm hễ nấu chung với độn tên quản giáo nhà bếp ăn cắp nhiều gạo, nên họ đã nấu thành hai bữa cơm nguyên mỗi tuần còn ăn độn riêng để đảm bảo phần gạo ít ỏi của tiêu chuẩn. Cũng may là trại ở gần Saigon nên nhiều gia đình đi thăm nuôi đều đặn hàng tháng, nên kẻ có người không bạn bè còn chia sớt cho nhau để sống chung, thử thách với thời gian và gánh nặng gian khổ.

 

Sau 10 ngày ở trại lao động tôi được gia đình thăm. Chỉ mới xa cách 16 tháng mà vợ tôi trông già hẳn đi đến mấy tuổi và Thụy Vũ, đứa con trai mạnh khỏe bụ bẫm của tôi bây giờ trở thành đứa bé khẳng kheo. Mười mấy phút gặp mặt không đủ để hỏi thăm tin tức gia đình. Lần đầu được thăm nuôi, anh em đã có dặn trước, chuẩn bị trước những câu hỏi, khi gặp gia đình vẫn cứ lúng túng, có việc hỏi tới hai ba lần, còn có điều muốn hỏi lại quên đi, đến khi vào trại mới sực nhớ lại. Ba mẹ tôi ở Đà Nẵng đều khỏe mạnh, những đứa em trai tôi đều nghỉ học, đứa thì bị đại học gạt ra biên chế, đứa thì không được dự thi lớp 10. Học sinh thi theo lý lịch, mấy anh em tôi có 3 anh ở trong chính quyền và quân đội VNCH đương nhiên là lý lịch xấu, không được cấp giấy cho thi. Đời sống vợ con tôi đã rất bi đát; không còn cách gì để đủ ăn ngoài việc bán lần hồi những gì đang có kể cả quần áo cũ. Mong muốn con được đi học chắc không thành. Vợ tôi xác nhận Sào không bị bắt, hắn vẫn nhởn nhơ đi lại tại Saigon. Hắn đến nhà nói với vợ tôi là tôi sẽ không bao giờ về được vì tôi đã trốn trình diện mà còn tham gia tổ chức phản động.

 

Thành phần tù cải tạo ở trại Xuân Lộc lúc đó, phân biệt khá rõ, sĩ quan trình diện đa số là cảnh sát và sĩ quan biệt phái từ cấp Trung úy trở xuống. Tù chính trị mới đa số là thanh niên trẻ trong tổ chức Phục Quốc, một số rất ít tội vượt biên.

 

Cách biên chế đội, cách bố trí phòng ở và khu vực làm việc cũng nói lên sự phân biệt đó. Tù phản động biên chế từ đội 4 đến đội 10, ở trong các dãy nhà trung tâm phân trại, các đội trình diện ở các dãy nhà gần hàng rào hơn. Tại hiện trường lao động các đội trình diện làm gần bìa rừng, đội bị bắt làm khu vực giữa đồng.

Sự phối trí như vậy cho các anh sĩ quan trình diện cảm tưởng là họ nhẹ tội hơn và có thể được về sớm nên họ làm lao động rất hăng và kiểm soát lỏng lẻo vẫn không trốn trại. Cán bộ Việt Cộng giải thích sở dĩ các sĩ quan trình diện chậm được thả ra vì tình hình nội chính bên ngoài chưa ổn định, vẫn còn những tổ chức chống đối. Việt Cộng đã rất giảo hoạt khi chúng dồn sự oán thán chúng về phía những người đối kháng. Nhiều người đã dễ dàng tin sự giải thích đó, nên trong trại họ ít tiếp xúc với tù nhân bị bắt. Họ nghĩ là những người tù mới bị bắt là những người manh động, và tham vọng quyền lực mơ hồ. Về phía tù nhân bị bắt thì họ có sự kiêu hãnh riêng đối với hành động đối kháng của họ dù chưa làm cho Cộng Sản thiệt hại về người và vật chất, nhưng họ cũng chứng tỏ được tinh thần bất khuất của nhân dân miền Nam. Trong trại tù, họ thể hiện tinh thần đó qua cách lao động miễn cưỡng, lề mề. Lập trường của họ về lao động khác với bên tù nhân trình diện, họ không làm lao động tích cực như tù trình diện, xem sự tích cực lao động là hình thức đầu hàng. Họ không chịu ở trong các đội phục vụ cá nhân cán bộ. Xem đó là sự sỉ nhục. Họ ngấm ngầm phá hoại hoa mầu một cách có ý thức, vì hoa mầu là phục vụ trước hết đời sống cán bộ, còn lại mới cho tù. Trại trồng ngô, khi hái bắp, hái một bắp bỏ lại một hai bắp để đến khi đội có nhiệm vụ dọn cây lá có cái ăn. Tù trình diện coi việc làm của tù bị bắt là manh động, là “ruồi bu”, họ chưa thấy hành động chống đối nhỏ nhưng nó thể hiện được tính đối kháng hơn là thái độ phục vụ ngoan ngoãn làm đẹp trại theo khẩu hiệu và sự thúc đẩy của bọn cai tù.

 

Tập trung cải tạo là chính sách thực hiện chủ trương đấu tranh giai cấp của Cộng Sản để tiêu diệt và vô hiệu hóa thành phần khác giai cấp dù có đối kháng hay không. Về phương diện kinh tế, tập trung cải tạo để khai thác sức lao động; Việt Cộng không giết hàng loạt để tạo biển máu ở Saigon như hệ thống tuyên truyền của Mỹ và VNCH loan ra trước khi Saigon sụp đổ. Nhưng Cộng Sản vắt từ giọt máu của người tù ở trong trại cải tạo. Người tù đem sức ra làm lao động đến kiệt sức và chết ở đó. Lénine đã viết rất rõ để hướng dẫn chính sách lao động. Hắn viết “Tập trung chúng lại để làm công tác lao động, tạo cho chúng luôn luôn nuôi hy vọng chúng được thả, đổi trại thường xuyên để chúng nuôi hy vọng đó, cuối cùng chúng gặp nhau và chết ở Sibéria”. Trong thời khủng hoảng kinh tế cuối thập niên 1920, Staline đã sử dụng các trại tập trung như những nông trường sản xuất nông nghiệp năng suất cao hơn những nông trường quốc doanh. Cộng sản Việt Nam rập khuôn theo đúng mô thức của Liên Xô. Cũng xây dựng nhiều trại tập trung, dùng sức tù làm công cụ sản xuất. Khi chiếm miền Nam, chính sách cải tạo đã có sẵn và Việt Cộng có chương trình đưa tất cả sĩ quan, nhân viên và các thành phần xã hội cần được “cải tạo” khác ra miền Bắc ở trong các trại tù, sau đó, nếu được thả cũng phải cư trú trên vùng rừng thiêng, nước độc miền Bắc không cho về miền Nam. Vì có sự mâu thuẫn trầm trọng với Trung Quốc, nên chương trình đưa cải tạo ra miền Bắc tạm ngưng từ tháng 4 năm 1977.

 

Do đó các lực lượng đối kháng của nhân dân miền Nam có tạo tình trạng bất ổn về chính trị cho Việt Cộng nhưng không có ảnh hưởng nhiều đến quyết định thả hay không thả tù cải tạo. Bọn Việt Cộng rất gian manh và chúng thường tìm mọi cách để giải thích các hiện tượng xã hội cũng như các quyết định để tuyên truyền. Đối với các gia đình thân nhân của người tù cải tạo, chúng giải thích là người tù học tập chưa tốt.

 

Số người được cho về sớm, đầu tiên là những người có quan hệ gia đình với bọn cán bộ Cộng Sản, có nằm vùng lập công trước 1975, sau đó đến các chuyên viên các ngành kỹ thuật. Trong những đợt xét tha có cả những người cấp bậc chức vụ lớn để tuyên truyền cho chính sách nhân đạo. Nhưng bên ngoài biết đâu những người này trước 75 có móc nối làm việc hai bên, hoặc những người có quan hệ gia đình với cán bộ cao cấp, hoặc những người quá già yếu cho về để chết ở nhà, những người hết sức đề kháng. Việt Cộng có thể thả một Đại Tá già vào thời điểm 1978. Nhưng mấy Thiếu Úy trẻ bị đánh giá là ngoan cố phải đến 1988 mới được thả. Việt Cộng quan tâm đến những người còn sức chống đối hơn là địa vị của tù nhân.

 

Tổ chức Phục Quốc tuy chưa gây được thiệt hại về vật chất cho Việt Cộng, nhưng sự nổi dậy của họ có nhiều giá trị:

 

- Về phương diện chính trị: cho thấy Việt Cộng không hoàn toàn chinh phục được nhân dân miền Nam, không phải chỉ có những người liên hệ đến chính quyền VNCH chống lại chúng như chúng đã tuyên truyền, mà những nông dân, công nhân là những người trước đây ủng hộ chúng đã chống lại.

 

- Về phương diện lịch sử: toàn dân Việt Nam đều mong mỏi đất nước độc lập thanh bình, người dân đã tham gia các phong trào yêu nước đánh thực dân Pháp, và Việt Cộng đã lợi dụng hoàn cảnh lịch sử đó để cướp đoạt quyền lãnh đạo kháng chiến.

 

Sau ngày 30-4-1975, các chiêu bài giải phóng dân tộc đã hết hiệu lực - Sự xây dựng xã hội chủ nghĩa không được dân chúng ủng hộ, nên phong trào chống đối nổi lên khắp nơi.

 

Tôi gặp Phố trong số anh em tù Phục Quốc đầu tiên tới trại Xuân Lộc. Tốt nghiệp Sĩ Quan Võ Bị Đà Lạt, vô binh chủng Biệt Động Quân, bị thương giải ngũ với cấp bậc Trung Úy. Phố hoạt động Phục Quốc bị bắt. Trong trại, Phố quy tụ được một số anh em cựu sĩ quan Võ Bị Đà Lạt, có người trốn trình diện, có người đã là thương phế binh, và có cả những em còn là sinh viên sĩ quan khi Việt Cộng chiếm miền Nam. Hơn 10 anh em họ sống với nhau rất thân thiết, chia sẻ cho nhau từ món ăn nhỏ, đến những sự vui buồn trong những ngày tù tội đầy ải. Truyền thống Võ Bị Đà Lạt gắn bó họ sống thân thiết và có kỷ luật, giữ tinh thần huynh trưởng. Họ được các anh em trẻ quí mến, mỗi người tập họp được một số bạn khác.

 

Nhóm anh em đó thường tụ họp với nhau để trao đổi sự hiểu biết, kinh nghiệm, những nhận định về chế độ Cộng Sản, và họ cũng muốn duy trì một tinh thần chung cho những người tù bị bắt, dù nhiệt tâm chống cộng nhưng ô hợp không tổ chức. Những anh em sĩ quan trẻ này, cũng có những nhu cầu như Hoạt, như tôi khi sống chung với những tù nhân thế hệ trẻ, những người đối kháng sau 1975. Không nhiều thì ít chúng tôi đã có trách nhiệm trong việc làm mất nước, nên chúng tôi cũng phải có trách nhiệm với những người tù trẻ này. Chúng tôi không thể vô tình để mặc họ trước bao nhiêu những vấn nạn. Không thể tự tìm lấy lối sống khôn ngoan để tự bảo vệ lấy mình, làm Hàn Tín chịu luồn trôn hay Câu Tiễn nếm phân. Thực tế trong lịch sử Trung Hoa cũng như Việt Nam cũng không mấy ai đủ bản lãnh làm được như Hàn Tín và Câu Tiễn, nên những sự khôn ngoan lúc đầu nó là cái vỏ bảo vệ bản thân, nhưng rồi với thời gian chịu đựng, cái vỏ đó càng lúc càng biến thành một thứ xơ cứng đến khi muốn vùng lên cũng không còn đủ sức. Con người nhẫn nhục chịu đựng mãi qua thời gian lâu dài, sức phản ứng cũng bị tiêu tan như một cái lò xo bị nén lại lúc bung ra thì rất mạnh, nhưng nếu nén mãi không bung, sức đàn hồi bị tiêu diệt; khi sức đè nén bị cất đi cái lò so chỉ còn là một khoanh bẹp dí. Nhẫn nhục chịu đựng là một đức tính vô cùng quí báu của con người có đảm lược, nhưng với người bình thường trở thành sự nhu nhược. Chủ trương của Cộng Sản là tiêu diệt sức đề kháng của người bị chúng cai trị, chúng lấy thí nghiệm Pavlov với con chó cắt thực quản làm kinh nghiệm, làm cho người ta sợ hãi, làm cho con người phản xạ có điều kiện, lúc đầu là ý thức chịu đựng, nhưng dần dần thành thói quen. Chúng bắt một người tù gặp cán bộ phải giở nón chào, đi qua cổng gác phải giở nón cúi đầu, lúc đầu người tù làm vì bảo vệ an toàn cá nhân, nhưng nếu cứ làm mãi, làm mãi, trở thành thói quen, thấy cán bộ Cộng Sản là cúi đầu sợ hãi, không còn ý thức chống đối nữa. Không phải chỉ có những bài học tuyên truyền, bằng luận cứ một chiều, bằng những từ ngữ khuôn mẫu để tẩy não người tù; mà bằng cách sống hàng ngày, tạo sự sợ hãi và tuân phục cũng là một biện pháp tẩy não.

 

Chúng tôi thấy cần phải chống lại biện pháp cải tạo đó, để duy trì sức đề kháng, và chút hơi nóng còn sót lại trong bản thân của mình và truyền nhau giữ chung cái hơi ấm mỏng manh đó trong những người tù với nhau. Có nhiều anh em khác biết việc làm của chúng tôi, thương thì khuyên răn, ghét thì kê kích; họ gọi chúng tôi là những người ngu - nhưng chúng tôi cam chịu làm những người ngu. Có thể đất nước được xây dựng bằng những bộ óc khôn ngoan nhưng đất nước được bảo vệ bằng cả bàn tay của những người ngu lẫn người khôn. Dù có thể chịu nhiều nguy hiểm và thiệt hại, bản thân chúng tôi vẫn cố duy trì một hình thức chiến đấu trong tù, chiến đấu không phải để thắng, mà chiến đấu với bản thân, chiến đấu với những mưu toan của địch để duy trì sức đề kháng cần thiết.

 

Dịp Tết, gia đình thăm nuôi tấp nập, tù nhân qua lại thăm viếng nhau, tổ chức những bữa cơm bạn bè tập thể từ chiều 30 được nghỉ lao động. Anh em bên trình diện có nhiều phấn khởi vì họ nghĩ ra Tết chỉ khoảng hơn 4 tháng là hết hạn ba năm cải tạo, họ có thể được về. Khi các cửa nhà giam khóa lại sau buổi cơm chiều mọi người đều muốn giữ yên lặng để suy tư, nhớ về gia đình; không phải chỉ có mình họ ngồi trong tù tưởng nhớ mà giờ này gia đình cha mẹ vợ con cũng đang thổn thức nhớ thương. Một người nào đó như không chịu được không khí ngột ngạt nặng nề cất tiếng hát bài “Xuân này con không về”. Bài hát thật tầm thường, lời lẽ giản dị sao mỗi lần có người hát lên nghe buồn thúi ruột.... “Con biết bây giờ mẹ chờ mong con, khi pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi... nếu con không về chắc mẹ buồn lắm... đàn trẻ thơ ngây chờ mong anh trai sẽ mang về cho tà áo mới, ba ngày xuân đi khoe xóm giềng...”. Tâm sự của người lính nơi chiến trường vì trách nhiệm không thể bỏ bạn bè để về thăm nhà mà nó da diết như vậy, huống hồ tâm sự của người tù, của những người đã mất nước không còn chiến trường để chiến đấu, không còn chiến tuyến để giữ, trở thành những người đói khổ, lếch thếch. Gia đình người tù không những buồn vì thương nhớ người thân mà còn phải lo chạy gạo hàng bữa nuôi con ở các chợ trời không đủ còn phải đem bán dần tài sản trong nhà từ cái áo quần, cho tới miếng gạch bông trong bếp hay miếng tôle đang lợp trên mái, cái gì cũng bán nếu thấy nó còn có thể bán được, nó không quá cần thiết cho sự sống bấp bênh hàng ngày.

 

Tiếng hát mới kết thúc là đã có tiếng phản đối:

 

- Hát buồn thúi ruột, hát bài khác cho vui không được sao. “Ly Rượu Mừng” đi, tiếng nói không có người hưởng ứng, người đó nói tiếp:

 

- Tết mà không có bài “Ly Rượu Mừng” là thiếu.

 

- “Ly Rượu Mừng” à, vô duyên quá, khung cảnh này mà mừng nỗi gì, mà chúc ai đây?

 

Một tiếng khác:

 

- Phải đó, hát bài nào cho hợp cảnh; “Ly Rượu Mừng” lạc lõng quá.

 

Người hát không chú ý đến những tán đồng hay phản đối chung quanh, với giọng thật buồn, anh chuyển qua ngâm thơ, anh thuộc gần như cả cuốn Chinh Phụ Ngâm lúc đọc lúc ngâm những câu thơ được anh diễn tả lúc hùng hồn, lúc tha thiết. Cả phòng không ai nói lời nào, mọi người đều lắng nghe. Nhiều tiếng thổn thức chứng tỏ có người đã khóc vì xúc động. Nhớ vợ con, nhớ cha mẹ anh em ở nhà. Hoàn cảnh giống nhau, tâm trạng giống nhau, cũng câu thơ, bài hát như xoáy vào trong lòng của người tù vào đêm 30 Tết chuẩn bị đón giao thừa. Người đàn ông nằm trong tù đày, những đàn ông đang bị đày đọa vì đã thua cuộc chiến, vì đã bỏ súng xuống mà không chiến đấu. Những người đàn ông không làm tròn bổn phận đối với tổ quốc và đối với gia đình, chỉ tội nghiệp cho những người đàn bà, khi trao thân ai cũng muốn cùng chồng sống hạnh phúc tới đầu bạc răng long, chỉ có tình yêu tổ quốc mới có thể đặt trên tình gia đình. Khi người chồng đi chinh chiến để bảo vệ tổ quốc, người vợ mới cam lòng làm kiếp chinh phụ nhưng ngày ra đi của người chinh phu thật đẹp đẽ và hào hùng (... giã nhà đeo bức chiến bào, thét roi cầu vị ào ào gió thu, ... áo chàng đỏ tựa ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in...) và nhiều người vợ hiện tại cũng đã từng làm kiếp chinh phụ. Quảng Trị, Kontum, Bình Long, An Lộc... bao nhiêu địa danh bao nhiêu chờ đợi, người chinh phụ thời đại vẫn không sờn lòng. Nhưng rồi người chiến sĩ bỏ chiến trường, không chiến đấu. Ngày đi trình diện hay bị giặc bắt tận nhà đều thiểu não, còn đâu hình bóng hào hùng lúc chia tay, nếu không phải là một kẻ chiến bại ngơ ngác, thúc thủ gục đầu, còn đâu là hy vọng tương lai mong khúc khải hoàn về chốn triều trung hay chỉ là một kẻ đói rách còm cõi thân tàn ma dại, mà tháng tháng người vợ phải nhịn ăn, nhịn mặc mang thức ăn lên trại tù tiếp tế.

 

Tội nghiệp cho những người vợ ở nhà chờ chồng đi cải tạo, tiếng gì để gọi tên họ cho xứng đáng, vinh quang nào cho họ trong hoàn cảnh này.

 

Người mẹ, không có cái văn chương nào đủ để diễn tả được người mẹ Việt Nam, ngoài cái vinh dự cao quí nhất là đã đồng hóa mẹ với đất nước, “Mẹ Việt Nam” ai đã dùng ba chữ ngắn ngủi đó mà giá trị hơn cả ngàn bài thơ. Chỉ như thế mới xứng đáng với cái hy sinh của mẹ đối với con, của tình mẹ đối với con từ khi con lọt lòng đến khi con trưởng thành và kể cả con đã già. Ai mà không cảm động khi bà mẹ gần chín mươi tuổi lặn lội chống gậy mang đồ ăn từ Long Xuyên lên thăm con ở tù ở trại Xuân Lộc. “Ngoại đi thăm ai vậy ngoại?” “À, ngoại đi thăm thằng Hai,” thằng Hai tiếng gọi thật âu yếm của mẹ dành cho đứa con mà thằng Hai năm đó đã 64 tuổi.

 

Mẹ thương con, mẹ thương từ đứa con nên đến đứa con hư, đứa con thành công cũng như đứa con thất bại, vì tâm của mẹ không giới hạn, đứa nào mẹ cũng thương. Người cha cũng thương con, nhưng người cha vẫn thương đứa con thành công là ước vọng của người cha, hoài bão của người cha nhiều khi ông không đạt được. Cái trí của người cha nhiều khi làm cho tình thương của ông giới hạn, người cha cũng xót xa cho đứa con thất bại, nhưng không quí mến nó, và cũng có nhiều người cha ghét những đứa con hư; nhưng mẹ thì không vậy, vì mẹ sống với Tâm không giới hạn mà cha thường sống với Trí luôn luôn bị giới hạn.

 

Đêm giao thừa nằm nhớ nhà, người tù muốn dùng giây phút yên lặng thiêng liêng đó để trầm tư cho rõ lại thân phận mình và những lỗi lầm của mình trong thời gian qua, vì cuốn hút bởi cuộc sống, với những thành công cũng như thất bại, vui sướng hạnh phúc hoặc chán nản thất chí, người tù đều không có dịp để suy tư. Người tù đã thấy được cái tội lỗi của mình với nhân dân, cái tội buông súng không chiến đấu để bảo vệ cuộc sống tự do no ấm cho toàn dân, và người tù ước mơ, ước mơ có dịp chiến đấu trở lại.

 

Gặp gỡ đều đặn các anh em trong nhóm của Phố, trước tiên tôi khuyên họ nên đọc sách, trong nhà văn hóa có nhiều sách. Nếu anh em thấy cuốn “Tư Bản Luận” khó đọc thì đọc cuốn sách do Lénine viết, đọc để tìm hiểu thêm về Cộng Sản, cần đọc và chỉ đọc Lénine cũng đủ vì sách của Hồ Chí Minh hay các tác giả miền Bắc chỉ là những sách lập lại những gì Lénine đã viết. Cộng Sản Việt Nam muốn thần thánh hóa Hồ Chí Minh, ông ta có viết sách, làm thơ, nhưng tất cả ý kiến đều là lập lại, cóp nhặt; Hồ là một người đạo văn, đạo thơ trắng trợn nhất. Ở tù có 40 ngày ông ta viết tập thơ “Ngục Trung Nhật Ký”, khi đọc Đường Thi mới biết ông ta cóp Đường Thi, có bài cóp nguyên chỉ sửa lại vài chữ, ý của ông chỉ lập lại ý của người xưa mà không ghi xuất xứ.

 

Anh em trẻ hầu hết đều chống việc đọc sách của Cộng Sản.

 

Cách thức tuyên truyền cái gì của địch cũng xấu, cũng dở và ngăn cấm tiếp xúc, tìm hiểu địch là cách thức của Đảng Cộng Sản đối với đảng viên và dân chúng của vùng họ cai trị, luôn luôn buộc đảng viên và người dân tin vào lãnh tụ và chỉ biết lý luận một chiều. Nhưng phía VNCH, các chính phủ trước cũng có sai lầm là cấm đọc sách Cộng Sản, nên sự hiểu biết về Cộng Sản quá ít.

 

Chúng ta đã theo chính sách giáo dục khai phóng, dân chúng có thể sử dụng mọi phương tiện truyền thông để tìm hiểu, thì không thể ngăn cấm bất cứ điều gì. Trong hoàn cảnh giao thời tranh tối tranh sáng của lịch sử, dân chưa đủ kiến thức và kinh nghiệm để học hỏi, họ có thể nhận định chưa chính xác, thì chính quyền cũng không nên ngăn cấm mà chỉ bổ khuyết bằng sự giải thích. Trong nhà tù những người có ý thức chống Cộng càng phải đọc sách của họ và vừa đọc vừa đối chiếu với thực tế, rất dễ tìm ra những sai lầm của họ, và hệ thống hóa những điều hiểu biết đó để chia sẻ với nhau. Chúng tôi đã lợi dụng được những bữa cơm, những buổi trưa nghỉ để trao đổi với nhau một số đề tài:

 

1- Các lý luận của Karl Marx trong tập Tư Bản Luận dựa trên sự đơn giản quá mức của sinh hoạt kinh tế vốn phức tạp và sinh động. Do đó, khám phá về “thặng dư giá trị” không đứng vững đưa đến kết luận về giai cấp bóc lột và bị bóc lột cũng sai, vì hiện tại đã cho thấy trong sự giao dịch giữa hai con người, hai tổ chức, hai quốc gia có thể đạt được lợi ích cho cả hai bên không cứ phải một bên có lợi và một bên bị bất lợi. Khối lượng tư bản được sử dụng trong quá trình sản xuất không phải để bóc lột giá trị thặng dư mà chính yếu là tái đầu tư tạo điều kiện để đẩy mạnh guồng máy sản xuất.

 

2- Chế độ Cộng sản chỉ phát triển tại các nước chậm tiến nghèo đói, mà không thể phát triển được ở các nước Tư Bản như Marx và Engels tiên đoán. Tại các nước Tư Bản, chủ thuyết Cộng Sản là một tư tưởng đối lập, để xã hội Tư Bản điều chỉnh những nhược điểm của họ nên các nước Tư Bản tổ chức xã hội càng ngày càng hoàn chỉnh hơn, trái với sự tiên đoán của Marx là “Tư Bản Sẽ Giẫy Chết”.

 

3- Lợi dụng được hoàn cảnh lịch sử và xã hội đầy bất công của chế độ Sa Hoàng. Lénine thành lập và phát triển Đảng Cộng Sản thành công để cướp chính quyền. Đảng Cộng Sản và chủ trương bạo lực là phương tiện để các nhà lãnh đạo củng cố chính quyền độc tài của mình, biến người dân thành một công cụ sản xuất. Tập trung Dân Chủ là một thuật ngữ để biện minh cho tính độc tài, đấu tranh giai cấp là một đường lối để tiêu diệt kẻ đối lập. Chính quyền Cộng sản trở nên lạc hậu hơn chính quyền quân chủ và phong kiến, không giải phóng giai cấp bị bóc lột mà họ biến đảng viên cộng sản thành một giai cấp mới bóc lột nhiều hơn bất cứ nhân viên các chính quyền từ trước đến nay.

 

4- Tôn sùng thần thánh hóa lãnh tụ. Đảng viên tin tưởng cuồng tín vào lãnh tụ. Đảng Cộng sản trở thành một tôn giáo xây dựng trên lòng thù hận. Mọi tôn giáo đều xây dựng trên tình thương đã tồn tại. Tôn giáo xây dựng trên thù hận không thể tồn tại được vì trái thiên nhiên, đi ngược lại tính người và ước vọng của con người. Chủ trương đấu tranh giai cấp từ 1976 đã bị một số đảng cộng sản ở Tây Phương như cộng sản Ý, cộng sản Pháp, cộng sản Nhật, là ba đảng cộng sản lớn ở các nước tư bản từ bỏ.

 

5- Phong trào chống cộng đang âm ỉ không dứt tại các nước Đông Âu, và định ước Helsinki năm 1976 sẽ tạo điều kiện để các phong trào đó lớn mạnh.

 

6- Mâu thuẫn Trung Quốc - Liên Xô không thể hàn gắn được. Trung Quốc đang đi tìm một đường hướng mới và muốn chứng tỏ mình là một mẫu mực phát triển cho các nước thế giới thứ ba, một chính quyền mạnh và một chủ trương kinh tế cởi mở.

 

7- Thuyết 4 thế giới của Brezinski nhằm đẩy mạnh sự chia rẽ của khối Cộng sản. Ba Lan là một điểm quan trọng để thực thi học thuyết đó vì Brezinski là người Ba Lan di cư.

 

8- Tại Việt Nam, Cộng Sản dùng chiến tranh giải phóng để ngụy trang cho cuộc xâm lăng của Cộng Sản Quốc Tế. Lénine đã viết rõ hai sách lược cách mạng, trong đó, cuộc cách mạng dân chủ nhân dân là bước một để đi tới Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa - chiến tranh giải phóng dân tộc là áp dụng linh động chiến lược đó.

 

9- Các lý thuyết gia Cộng sản đang truyền bá và cổ vũ cho lý luận về ba dòng thác Cách Mạng, sự tin tưởng này không còn vững vì “dòng thác số 1”, khối cộng sản thế giới chỉ là một đế quốc do Liên Xô chi phối đang có nguy cơ tan vỡ vì tinh thần quốc gia của nhân dân Đông Âu luôn luôn muốn nước họ độc lập với Liên Xô, gây ra một sự chia rẽ mà thế giới Tây Phương đang đẩy mạnh; ngoài sự chia rẽ đã có giữa Liên Xô và Trung Quốc. “Dòng thác 2” phong trào giải phóng dân tộc sẽ kết thúc khi các nước nhược tiểu độc lập. Thuyết 4 thế giới của Brezinski cũng giải tỏa không còn tương quan thuộc địa và mẫu quốc. Do đó, các nhà lãnh đạo ở các quốc gia này có tự do chọn lựa mô thức phát triển của họ, họ không có nguy cơ bị lệ thuộc trở lại mẫu quốc nên không bị đẩy một cách tự nhiên về phía Cộng Sản, “Dòng thác thức 3”, Cộng sản mong đợi là các phong trào đòi dân sinh ở các nước Tư bản, hệ thống an ninh xã hội ở các nước Tư bản giải quyết hầu hết mâu thuẫn chủ nhân và công nhân, tạo sự gắn bó quyền lợi của công nhân vào nhà máy (ưu điểm quản trị của Nhật Bản) - nếu có đấu tranh chỉ là những phản ứng và đòi hỏi nhỏ sẽ được giải quyết thỏa đáng với sự trọng tài của chính quyền. Do đó, những vận động đó không thể là phong trào làm sụp đổ chế độ Tư bản như Cộng sản mong đợi.

 

10- Chế độ Tư bản không phải là mẫu mực lý tưởng nhưng so với chế độ Cộng sản thì vẫn hơn. Người công nhân trong chế độ tư bản cũng phải làm để phục vụ quyền lợi chủ nhân nhưng họ được tự do và no ấm. Trái lại, công nhân trong chế độ Cộng sản được gọi là làm chủ xã hội nhưng không có tự do và bị nhà nước và Đảng Cộng sản bóc lột.

 

11- Các tác giả Cộng sản thường chỉ trích nạn thất nghiệp trong xã hội Tư bản. Điều này đúng; nhưng Tư bản đã giải quyết một phần nhờ quỹ thất nghiệp và chế độ an sinh xã hội. Chế độ Cộng sản tự hào là mọi người có việc làm không bị thất nghiệp. Nhưng thực tế, nhân công bị bóc lột, lương không đủ sống, làm việc không năng suất, tạo tình trạng thất nghiệp trá hình cho cả xã hội. Trong khi đó, đảng và nhà nước tập trung thành phần ăn bám không sản xuất quá đông đảo.

 

12- Vì hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, Việt Cộng sử dụng hữu hiệu lá bài dành độc lập dân tộc và họ dùng cả Viện Sử học để lý luận cho tính dân tộc, và tự nhận là thành phần yêu nước trong lúc họ miệt thị các thành phần dân chúng khác. Càng dùng lịch sử để ngụy chứng dân tộc, Cộng sản càng đi xa căn bản của họ là chính sách quốc tế. Khi nhu cầu giải phóng dân tộc không còn nữa, tuyên bố xây dựng xã hội chủ nghĩa họ đã đi ngược lại, tự mâu thuẫn với quá khứ.

 

13- Lịch sử Việt Nam không cần thiết phải qua giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa. Và Marxism không thích hợp với văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam là một văn hóa hội nhập và lọc lựa của Nho Thích Lão, và Ki Tô, văn hóa Việt Nam không chủ trương độc tôn như Marxism, dân tộc Việt Nam là một dân tộc thống nhất, sự chia rẽ là do các âm mưu của nhà cầm quyền, nên chủ trương phân chia giai cấp, đấu tranh tiêu diệt thành phần dân tộc khác là sai lầm. Xã hội Việt Nam không có giai cấp tính những thứ bực trong xã hội thay đổi rất nhanh qua cố gắng của mỗi người.

 

14- Hồ Chí Minh là con người Cộng sản quốc tế. Cũng từ một người yêu nước đi tìm đường giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ Pháp. Hồ Chí Minh quá tin vào chủ nghĩa Cộng sản, và nhờ sự giúp đỡ của Cộng Sản Quốc Tế ông đã đoạt được chính quyền trong tay thực dân Pháp lại đưa dân tộc vào con đường nô lệ mới, nô lệ tư tưởng Marxism và nô lệ cho đế quốc Liên Xô và Trung Quốc.

 

Vì Hồ Chí Minh là đảng viên cộng sản quốc tế, nên trong cuộc chiến tranh ý thức hệ sau Đệ Nhị Thế Chiến, Việt Nam trở thành một chiến trường tranh chấp và thử nghiệm của hai thế lực quốc tế. Dân tộc Việt Nam phải điêu linh và chết chóc hàng chục triệu người.

 

Nếu ông Hồ Chí Minh là người quốc gia, việc thu hồi độc lập ở Việt Nam dễ dàng hơn, không tốn xương máu, vì phù hợp với phong trào giải thực, kinh nghiệm các nước Indonesia, Malaysia, Miến Điện thu hồi độc lập dễ dàng là một minh chứng.

 

Sau năm 1975, nhiều nhà trí thức đã lập thuyết nhằm chống lại thuyết Cộng Sản, ai cũng nghĩ là một trong những khuyết điểm của chính quyền cũ là họ điều hành chống Cộng không có lý thuyết. Việc lập thuyết là việc của những bậc trí thức, triết gia, chúng tôi cũng chờ đợi để có lý thuyết hướng dẫn tư tưởng và có người lãnh đạo. Ở vị trí một người kém hiểu biết về triết học; chúng tôi chỉ đọc và suy nghiệm một số ý kiến để trao đổi với nhau để cùng nhau giữ một niềm tin và một chút hơi nóng để chống lại âm mưu hủy diệt của địch và để làm cho thời gian ở tù bớt vô ích. Tạo điều kiện cho đầu óc làm việc. Trí óc không làm việc con người trở nên yếu hèn và mụ mẫm đi, trong lâu dài con người sẽ trở nên đờ đẫn hết sinh khí, đó là chủ trương tiêu diệt sức đề kháng của Cộng sản. Cần phải chống lại chủ trương đó bằng cách giữ cho được sức đề kháng dù phải trả những giá đắt trong xà lim.

 

Suy nghĩ về tổ chức đảng và chính quyền Cộng sản, chúng tôi nhận thấy Cộng sản là một tổ chức đồ sộ gồm hai hệ thống Đảng và Chính quyền, bên cạnh đó còn có những đoàn thể ngoại vi, Đoàn, Đội. Một tổ chức phải có qui luật của nó, nên muốn hiểu Cộng sản phải tìm cho ra các qui luật điều hành bộ máy đó. Khuynh hướng phát triển tự nhiên của các guồng máy là càng ngày càng bành trướng đưa đến sự phí phạm nhân lực và tài chánh bởi những khu vực vô ích hoặc không hợp thời. Tính nguyên tắc và sự bó buộc tôn trọng nguyên tắc đưa đến tính thư lại bàn giấy, kém hiệu năng. Cán bộ trong một hệ thống tổ chức vừa nặng nề, thư lại vừa độc đoán tàn nhẫn như vậy không thể nào có sáng kiến vì rõ ràng là sáng kiến nếu đúng không đem cho họ một lợi ích nào hoặc rất ít - ngược lại nếu sai họ sẽ bị trừng phạt một cách rất nặng. Từ đó, thái độ đương nhiên là họ phải tìm cách bảo vệ bản thân bằng cách dựa vào luật lệ cứng nhắc và sự trình báo tốn thì giờ.

 

Kết lại, trong một tổ chức như vậy, nếu người lãnh đạo muốn phục vụ dân thì tổ chức cũng không phục vụ được, muốn sửa đổi không thể sửa đổi được. Đảng Cộng sản chỉ có thể là phương tiện tranh đoạt chính quyền mà không thể làm cách mạng xã hội.

 

Trường hợp ở nhà tù, cán bộ quản lý ở trại trình gia hạn bản án tập trung để Bộ Nội Vụ sẽ thuận đề nghị một cách rất dễ dàng - nhưng ngược lại nếu trình xin thả một người tù rất khó khăn và có thể đưa đến cho người đề nghị nhiều phiền toái nếu người tù được tha lại tái phạm.

 

Chính sách của Cộng sản đã phi nhân, tàn nhẫn mà tổ chức chính quyền còn làm cho sự tàn nhẫn đó tăng thêm nữa.

 

Hệ quả khác của tính tổ chức là Cộng sản nhằm tiêu diệt các tổ chức đối kháng một cách triệt để. Lénine đã phân biệt một hành động có tính tự giác và tính tự phát. Họ đánh giá cao tính tự giác do đó kinh nghiệm rút ra là đừng để Cộng sản phát hiện tính cách tổ chức khi hoạt động, nếu bị phát giác làm cho họ tin đó là hành động cá nhân lẻ tẻ.

 

Về sau vì số các em càng đông, không thể ngồi nói chuyện được, anh em đề nghị làm tài liệu viết. Thể thức này rất khó khăn và tốn thì giờ, nguy hiểm và dễ bị khám phá, và khi khám phá thì không chối được yếu tố buộc tội. Tuy nhiên nó có lợi là có thể phổ biến được rộng rãi hơn; công việc làm cũng trở nên quan trọng hơn, tập đức tính cẩn thận cho anh em khi làm việc, khi đọc và có thể càng làm việc khó anh em trở nên gắn bó hơn.

 

Chúng tôi bắt đầu phổ biến tài liệu viết, đặt tên là tập “Rèn Luyện”. Thể thức phổ biến là lập các địa điểm hộp thư tại sân khấu hội trường, anh em thân thiết tin cậy được chỉ những hộp thư đó, đọc xong để lại và thống nhất cách khai nếu bị bắt, khai là lượm được tò mò đọc chơi không biết của ai. Những anh em có nhiệm vụ “lên khuôn” cố gắng viết chữ in và tránh nét chữ quen thuộc của mình để tránh điều tra phát hiện. Tài liệu “Rèn Luyện” được duy trì cho tới tháng 3-1979, đa số anh em chuyển trại vào khu nhà xây mới chấm dứt.

 

Đến giữa năm 1978, tù bên phía trình diện bắt đầu thất vọng vì hết hạn ba năm họ không được thả theo chính sách qui định. Cái buồn của anh em trình diện nhưng là sự thuận lợi chung của trại tù. Anh em trình diện bắt đầu hiểu Cộng sản hơn, sự cách biệt giữa hai thành phần tù được xóa đi và tù sống thông cảm nhau hơn; anh em tham gia nếp sống chung ở trại hơn là tìm cách đi riêng để tìm thuận lợi do bọn cán bộ Cộng sản ban phát.

 

Chúng tôi được anh em đội nhà bếp thông báo trong lần chở bắp đi đổi khoai mì, cán bộ hậu cần và cán bộ quản giáo nhà bếp thông đồng nhau chở về 10 tấn khoai mì thối của kho thực phẩm huyện Xuân Lộc. Trại sản xuất chính là ngô trắng, ngô dùng ăn độn là phần tự túc của trại cùng với phần tiêu chuẩn gạo của Bộ Nội Vụ. Theo công thức đổi các loại lương thực của nhà nước Việt Cộng đề ra là gạo = 2 ngô = 3 khoai lang = 4 khoai mì tức 1kg đổi 4kg khoai mì. Như vậy tiêu chuẩn phần ăn là 15kg gạo cho mỗi người tù trong một tháng; nếu độn 50% thì đáng lẽ phải ăn 7.5kg gạo + 15kg ngô hoặc 7.5kg gạo + 22.5kg khoai lang hay 30 kg khoai mì (sắn). Nhưng quản lý trại đã ăn gian chỉ cho ăn 7.5kg gạo + 7.5kg ngô, hoặc 7.5kg khoai các loại - tức là giảm lược tiêu chuẩn tổng cộng chỉ 15kg dù ăn loại lương thực nào. Đó là bước gian lận thứ nhất. Bước thứ hai là chúng đem ngô trắng chúng tôi sản xuất ra kho huyện đổi thành ngô đỏ. Giá ngô trắng gấp đôi giá ngô đỏ.

 

Đến năm 1978 thì mức độn càng cao, chúng càng ăn gian qua bước thứ ba là đem ngô đổi khoai mì khô. Tù nhân vẫn chịu đựng. Họ sống nhờ vào quà gia đình thăm, người không có gia đình tiếp tế thì nhờ anh em khác hay là phải... khắc phục. Tù càng chịu đựng chúng càng tăng thêm sự bóc lột. Ban quản lý ăn gian từ ngô ra sắn, hai thằng cán bộ lẻ tẻ lại ăn gian bằng cách nhận sắn mục thối của kho hợp tác xã để lấy tiền riêng.

 

Nhà bếp lưu ý nếu anh em không có ý kiến thì sẽ ăn khoai mì thối dài dài vì ngoài huyện cả kho hàng mấy trăm tấn bị hư hỏng vì quản lý kém ngoài việc đẩy cho tù chịu họ không có cách giải quyết khác.

 

Hội ý chớp nhoáng nhiều anh em, các đội đưa đến quyết định là lần phát khoai thối đầu tiên sẽ trả lại không nhận.

 

Kết quả 23 đội tù ở phân trại, trừ “đội 1 hoàng gia” toàn anh em tù có thân thế đi làm các công tác lẻ tức công tác phục dịch cán bộ và giữ an ninh trật tự, các chức vụ tự quản coi nhà thăm nuôi, văn hóa, y tế, chăn nuôi, đội 1 “xe be” là đội được tin tưởng đi làm xa lấy gỗ trong rừng sâu làm lợi cho giám thị trại và đội 23 của đội trưởng thiếu úy cảnh sát Nghĩa - còn 20 đội gồm cả 2 thành phần trình diện và bị bắt đều không nhận khoai mì thối. Thiếu úy Nghĩa, người đã “cương quyết giúp đỡ”, cho anh em cải tạo tức là báo cáo rất kỹ hành động của các bạn tù trong đội anh, đồng thời anh đã góp ý kiến rất nổi danh để xây dựng trại, xin cho tù đi làm ngày mưa vì theo anh “mưa lớn, xem như mưa nhỏ, mưa nhỏ xem như không mưa.” Ban chỉ huy không chấp nhận. Cho tù nghỉ mưa không phải chúng thương tù phải lao động dưới mưa ướt mà chúng sợ nhân trời mưa tù trốn.

 

Hai mươi đội trả phần ăn để phản đối, lần đầu tiên xảy ra trong trại tù Xuân Lộc. Cộng sản luôn luôn đấu tranh trong nhà tù mục đích để đạt được điều chúng đòi hỏi nhưng đồng thời là kỹ thuật rèn luyện cán bộ, cán bộ được tổ chức, học tập, luôn luôn phải có hành động cụ thể như là học tập.

 

Cái gì Cộng sản thường làm thì chúng ngăn cấm người khác làm. Chúng học văn hóa trong trại tù, chúng ngăn cấm tù học văn hóa, chúng thường đấu tranh trong nhà tù chúng quyết liệt tiêu diệt đấu tranh.

 

Thượng úy Vinh, trại phó kiêm phân trại trưởng họp các đội trưởng và đích thân xem xét lại thức ăn. Các đội trưởng hoan hỉ khi nghe hắn nói: “Đúng là khoai thối, lợn cũng không ăn được,” hắn chỉ thị nhà bếp ra kho cán bộ đem gạo về nấu ngay phần cơm bù thế, và ngày mai chở khoai mì thối ra lấy gạo. Anh em được một bữa bàn tán và khỏi sinh hoạt trước giờ ngủ - 9 giờ tối nhận bữa cơm trắng ngon lành.

Quyết định của tên phân trại trưởng quá dễ dàng và “quá dễ thương” nên chúng tôi rất nghi ngờ, thông báo anh em cẩn thận để tránh sự điều tra và thu lượm tin tức của hệ thống an ten (tù nhân làm tay sai báo cáo).

 

Quá phấn khởi trước sự đồng lòng của anh em tù không nhận khoai mì thối, anh Trần Danh San họp nhóm anh em trẻ mới gia nhập tổ chức nhân quyền của anh để biểu dương thành tích. Việc làm của anh San đem lại cho anh hai điều hại, anh bị bọn an ten phát hiện báo cáo đồng thời gây ra một sự mất đoàn kết. Các nhóm chính trị khác chỉ trích anh là người “cướp công”, vì việc trả khoai là hành động chung của toàn thể người tù không riêng gì của tổ chức chính trị nào.

 

Anh Trần Danh San là một luật sư tại Đà Nẵng - một người có kiến thức rất uyên bác và nhiều ý kiến sâu sắc. Anh là mẫu người trí thức dám dấn thân để đấu tranh, dám làm, dám chịu. Trong thời gian ở trại tạm giam và sau này ở trại lao động lúc nào Anh San cũng tuyên truyền các lý luận chống Cộng, tổ chức và thúc đẩy đấu tranh. Anh San có ưu điểm là sự chịu đựng bền bỉ, tính kiên trì đáng phục. Ngay khi bị cùm chân trong xà lim tối, Anh San vẫn đều đặn tập thể dục để giữ cho thân thể không hủy hoại, tê liệt, và luôn luôn suy nghĩ và trao đổi ý kiến và lý luận chống Cộng Sản với người khác. Sinh hoạt và tập thể dục trong xà lim để chống lại sự hủy hoại và sự chết là một kinh nghiệm quí báu của Anh San đã giúp chúng tôi tồn tại sau những thời gian bị giam cầm kỷ luật có những lần kéo dài hơn cả hai năm.

 

Trần Danh San bị bắt giam vào xà lim vì bị xem như là người cầm đầu xúi giục đấu tranh trả khoai mì thối. Tinh thần anh em lung lay, sợ hãi; nên tên Thượng úy Vinh cho chở lại 10 tấn khoai mì thối. Anh em không ăn được thì lấy đổ đi không trả lại nữa. Qua kinh nghiệm này, chúng tôi rút được một kết luận là Cộng sản quan niệm mọi hành động đều phải có người cầm đầu xúi giục; và khi chúng tìm ra người lãnh đạo hay gán cho một người nào đó trách nhiệm lãnh đạo thì công việc xem như đã giải quyết phần lớn, chúng cũng không truy cứu tiếp tục.

 

Chúng tôi khẳng định đấu tranh trong nhà tù Cộng sản chỉ nhằm mục đích duy nhất là duy trì sự phản kháng để nhà tù không phải chỉ là nơi người tù cam chịu một cách tồi tệ, nhục nhã. Cuộc đấu tranh trong nhà tù hoàn toàn đơn độc - khác với trường hợp tù nhân Cộng sản trước kia - họ đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo và liên hợp với bên ngoài và còn đạt được sự ủng hộ của dư luận quốc tế do mặt trận ngoại giao của họ đem lại. Họ đấu tranh để thắng, tù nhân chúng tôi đấu tranh chỉ để truyền cho nhau chút hơi ấm và một niềm tin tương đối mỏng manh, đấu tranh để giữ danh dự.

 

Sau thời hạn 3 năm anh em không được về, đã làm nhiều người thức tỉnh và họ chịu hiểu hơn về Cộng sản. Cán bộ trại chính thức giải thích ba năm chỉ là một mốc thời gian; như vậy người tù cải tạo có thể ở 3 năm, 6 năm, 9 năm, 12 năm hay 15 năm...

 

Thuật ngữ “tập trung cải tạo” đã đánh lừa được nhiều người, rất nhiều người kể cả người Việt Nam cũng lầm tưởng là “tập trung cải tạo” không phải là tù, hoặc nhẹ hơn tù có án. Khởi đầu mức độ tội phạm của họ là nhẹ, nhưng khi thụ hình cũng cùng một qui chế như người có án, từ việc mặc quần áo có đóng dấu, mức lao động, chế độ ăn uống hoàn toàn như nhau.

 

Sự khác biệt chỉ ở vấn đề quản lý hồ sơ; một người tù có án do tòa phán quyết, khi thụ hình, công an quản lý họ, trách nhiệm công an phải theo dõi và ghi hồ sơ cải tạo, nhưng thực tế, công an quản lý không bị gắn chặt vào trách nhiệm với người tù, nên nếu người tù không phạm một tội nặng khác họ sẽ được thả ra khi hết án. Ngoài ra luật pháp của Cộng sản cũng có cơ hội đặc xá, giảm án hàng năm cho tù có án.

 

Ngược lại, đối với tù cải tạo tập trung, khởi đầu mức độ tội phạm nhẹ, tòa án không thụ lý, giao quyền cho công an xử trên quan điểm bảo vệ an ninh xã hội. Công an có quyền xử tập trung mọi người trong thời hạn ba năm, có tái hạn. Sự tàn nhẫn nhất là quyền tái hạn tập trung trong ba năm và không có giới hạn, tức là hết ba năm gia hạn thêm ba năm khác nếu họ kết luận người tù chưa cải tạo tốt.

 

Từ cơ quan công an xử lý tội tức các ty sở công an, giao qua công an quản lý tức cục quản lý trại giam mà đại diện là bộ chỉ huy các trại tù. Công an ở trại cải tạo có trách nhiệm quản lý và theo dõi thái độ cải tạo của người tù tập trung cải tạo và họ có quyền đề nghị gia hạn hay xét tha sau suốt các mốc cải tạo ba năm; nguyên tắc thì không khác với sự quản lý tù có án, nhưng đối với cơ quan công an, tội trạng của tù có án đã được tòa án quyết định rồi, trách nhiệm của họ với người tù có án không quan trọng. Trái lại trách nhiệm của công an quản lý với người tù tập trung rất nặng nề.

 

Trong một hệ thống chính quyền đầy tính thư lại, nặng nề và tàn nhẫn, cơ quan công an quản lý phải tự bảo vệ họ trước nên họ không dám đề nghị xét tha rộng rãi cho tù cải tạo. Họ phê xấu để gia hạn tập trung là một việc thông thường, nhẹ nhàng nhưng rất tàn nhẫn. Ngoài ra cũng từ tính thư lại, tắc trách của hệ thống chính quyền quản lý đó, những đề nghị xấu tức đề nghị gia hạn tập trung lại được chấp thuận dễ dàng ở Bộ Nội Vụ, mà đề nghị xét tha thì rất khó được chấp thuận vì qua mỗi cấp độ quyền hành họ cắt bớt. Sợ trách nhiệm là đặc tính của chính quyền Cộng sản làm họ giải quyết chậm chạp mọi việc. Do đó, trên thực tế, vận mạng của người tù cải tạo tập trung được quyết định tăng án ở cấp thấp nhất và được quyết định thả ra ở cấp cao nhất. Một lỗi nhỏ trong thời gian thụ hình như ăn cắp một củ khoai bị phạt 7 ngày giam xà lim sẽ không ảnh hưởng đến việc tha ra trại khi mãn án đối với người tù có án. Nhưng cũng với lỗi lầm nhỏ đó, là một yếu tố chắc chắn để gia hạn tập trung ba năm khác.

 

Một phường trưởng, một công an khu vực có thể đề nghị tập trung cải tạo một người dân, nhưng khi thả ra cấp quyết định thấp nhất phải là Thứ trưởng Bộ Nội Vụ chiếu đề nghị của Cục trưởng quản lý trại giam.

 

Về phía tập trung cải tạo hình sự, có nhiều trường hợp điển hình cụ thể, thời gian 1975, 1976 khi người dân miền Nam chưa hiểu ý nghĩa của sự học tập cải tạo, có nhiều gia đình có con ngỗ nghịch hay bỏ học, khuyên răn không được, đưa lên phường nhờ giáo dục, phường đề nghị đưa đi tập trung cải tạo, sau thời gian gia đình thấy đủ để phạt con em mình, làm đơn xin cho con được tha, phường không có thẩm quyền tha, đưa lên quận cũng không có quyền tha, sở cũng không có quyền; vì quyết định tha phải từ bộ, sở chỉ làm đề nghị và chuyển đơn của gia đình lên bộ. Bộ chưa cứu xét thì đứa con đã chết trong trại cải tạo vì sốt rét.

 

Đó là phân tích trên ý kiến là các cán bộ ở mọi cấp của Cộng sản có thiện chí giúp người dân mà họ cũng đành bất lực trước nguyên tắc của tổ chức. Trong khi thực tế, người cán bộ Cộng sản không “dễ thương” như vậy, tuyệt đại đa số là những người rất ác, vì Đảng dạy cho họ hận thù mà không dạy cho họ tình thương. Con người bản chất có tính ác và tính thiện, nhưng tính ác dễ phát triển hơn tính thiện; điều kiện xã hội tốt tính thiện phát triển, cô lập tính ác; điều kiện xã hội xấu tính ác phát triển tiêu diệt tính thiện. Xã hội Cộng sản, con người chỉ phát triển tính ác. Tóm lại, chế độ Cộng sản được xây dựng trên một lý thuyết sai lầm, dùng hận thù làm một động lực kết hợp và phát triển, khai thác tính ác, tính xấu và tính đố kỵ bần tiện của con người; tổ chức nặng nề và thư lại nên chế độ Cộng sản là một chế độ cực kỳ xấu xa, con người Cộng sản hầu hết là những người độc ác và đê tiện. Dân chúng sống trong chế độ Cộng sản cực kỳ nghèo đói, khổ sở.

 

Năm 1978, Việt Cộng lại đổi tiền, mở chiến dịch đánh tư sản. Sau lần đánh tư sản thứ hai, người dân lại nghèo hơn nữa - phải ăn bo bo thay gạo. Bo bo là nông sản dùng cho ngựa ăn, hạt tròn tròn bằng đầu mút đũa, có vỏ dầy, dẻo như cao su, ăn vào không tiêu, hôm sau bài tiết ra nguyên hột. Bo bo, Việt Cộng gọi là cao lương, một trong những tài của Cộng sản là sự giải thích và sử dụng từ ngữ, việc tệ hại đều có những giải thích nghe hợp lý, có những nhà trí thức được trả lương để làm công việc giải thích. Trong xã hội Cộng sản, có nhiều từ ngữ được sáng tạo để phục vụ chủ trương đường lối giải thích tô hồng chế độ, suy tôn lãnh tụ mà không cần biết thực chất.

 

Trại tổ chức học tập nói về thắng lợi to lớn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng qua thăm viếng Ấn Độ. Bà Thủ tướng Indira Gandhi đã trải thảm đỏ từ phi trường về đến nhà quốc khách. Bà quả phụ Nehru nhận ông Phạm Văn Đồng là em nuôi. Trong chuyến công du “thắng lợi vĩ đại” đó, có hai văn kiện được ký kết. Thứ nhất sự trao đổi hàng hóa Việt Nam đổi gạo lấy bo bo của Ấn. Một tấn gạo đổi lấy 4 tấn bo bo và văn kiện thứ hai là Ấn Độ viện trợ cho Việt Nam 4 con trâu Murat để lấy sữa và gây giống - nhà nước làm lễ thật lớn để nhận 4 con trâu và đem về nuôi ở trại nông nghiệp Tam Đảo.

 

Chuyện về kinh tế của một nước mà như chuyện diễu, thắng lợi thật vĩ đại với 4 con trâu sữa, trong lúc toàn dân đang đói, nền kinh tế đang xuống dốc.

 

Cán bộ giáo dục cũng giải thích sự khôn ngoan ưu việt của các lãnh đạo Đảng qua việc Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký với Thủ tướng Ấn Độ hiệp ước giao thương đổi một tấn gạo lấy 4 tấn bo bo của Ấn Độ.

 

Cuối buổi thuyết trình tài liệu học tập, cán bộ giáo dục còn khoe uy tín của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Hắn nói: “Bây giờ nước ta là một cường quốc chính trị, ta sẽ làm cố vấn cho mọi phong trào chống đế quốc trên thế giới, những nhà lãnh đạo của Đảng ta đi tới đâu cũng được đón tiếp long trọng; trong hội nghị các nước phi liên kết ở Colombo, các nhà lãnh đạo trên thế giới không ai dám phát biểu, phải đợi Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát biểu trước rồi họ mới phát biểu tiếp theo sau”. Hắn nói rất thành thật. Tội nghiệp cán bộ Cộng sản khi họ nói họ tin lời nói của họ là thật nên nói không ngượng miệng. Trình độ hiểu biết cán bộ quá thấp, họ nói theo bài học cho Đảng viết ra. Họ tin vào tài liệu dối trá của Đảng.

 

Chính sách ngu dân của Đảng Cộng sản có kết quả khi trình độ dân trí còn thấp, giờ đây trước nhóm người nghe là tù nhưng có trình độ hiểu biết khá, nên cảnh học tập thật buồn cười. Người nghe bị buộc phải ngồi nghe, nên miễn cưỡng, còn người nói dóc lại tin là mình nói thật, nên giảng viên không biết mình trở thành tên hề diễu dở.

 

Chế độ Cộng sản có thể phát triển trong xã hội nghèo đói, bất công, trình độ dân trí thấp kém. Khi dân trí đã cao, đời sống kinh tế sung túc, không ai tin được những lý luận của Cộng sản nữa.

 

Hoàn cảnh kinh tế càng ngày càng xuống dốc thê thảm ảnh hưởng cả nước không riêng gì trong trại cải tạo. Gia đình bên ngoài dù thiếu ăn vẫn tìm mọi cách để thăm nuôi tiếp tế, người trong tù cũng hiểu hoàn cảnh ở nhà, nhưng vẫn chờ đợi giỏ đồ thăm vì nếu không có thăm nuôi hàng tháng hay vài tháng một lần không ai chịu đựng nổi. Đi làm lao động kiếm thêm ngọn rau dại, củ sắn, khoai mì còn sót, bắt con dế, cào cào, châu chấu, chuột, nhái, bất cứ vật gì có thể ăn được. Nhưng người đông, phạm vi lao động đi lại trong đám ruộng nhỏ bé, đâu dễ gì tìm ra cọng rau hay sinh vật ăn được, chỉ những anh em được làm ruộng, làm tự giác, chăn nuôi, làm rừng mới có thể tìm thêm miếng ăn bằng cách đó thôi. Còn các đội đào ao, làm đường, đập đá thì cứ tiêu chuẩn nhà nước chén cơm, chén khoai mì và muỗng nước muối mỗi ngày và chờ gia đình.

 

Hình ảnh của khu kinh tế mới Xuân Trường bên cạnh trại làm cho anh em tù càng lo nghĩ về gia đình nhiều hơn. Họ là những người dân nghèo ở Saigon trong những ngày đầu sau 30-4-1975, họ được cấp phát gạo cứu đói, sau đó lãnh gạo cứu đói là một lý do vững chắc để phải đi vùng kinh tế mới, họ cũng còn là gia đình của những sĩ quan viên chức đi cải tạo vì sợ nên sớm chấp hành chính sách giãn dân; những người đi sớm nên còn được đến vùng Long Khánh này không có nước độc. Những người bị cưỡng bức về sau bị đưa lên các vùng Bình Long, Sông Bé, Tây Ninh, nước độc và sốt rét chết bao nhiêu người. Làm ngoài bãi lao động gặp những trẻ em, phụ nữ đi tìm rau dại, đi mót ngô, khoai mì còn sót trong các ruộng của trại cải tạo. Khu kinh tế mới nghèo lắm, nhà cửa được làm sơ sài không che nổi nắng. Trời mưa thì dột như xối, đó là công trình của thanh niên xung phong đi xây dựng vùng kinh tế mới cho dân. Chế độ Cộng sản người ta làm gì cũng giả dối, cái gì rồi người dân cũng phải chịu không ai dám phê bình phản đối. Nếu đọc báo những bài phóng sự về công tác của thanh niên xung phong, người ta có cảm tưởng đó là hiệp sĩ của thời đại Hồ Chí Minh. Nhưng có ở vùng kinh tế mới, có biết một vùng kinh tế mới, thì sẽ thấy cái tinh thần tắc trách của đám “hiệp sĩ” đó.

 

Tin về một vụ tự tử ngoài khu kinh tế mới làm trong trại xôn xao. Hai chị em gái đang tuổi thanh niên, cha là một sĩ quan đi cải tạo, mẹ ở nhà đi mất biệt theo tình nhân mới, bỏ lại 5 đứa con, hai gái lớn và 3 con trai. Cô chị 18, cô em 16 phải bỏ học ở nhà bán chợ trời nuôi em. Vừa buôn bán chợ trời, vừa bán đồ nhà tưởng đắp đổi qua ngày chờ cha cải tạo hoặc mẹ hồi tâm trở về. Không may nhan sắc cô gái 18 tuổi lọt vào mắt xanh của tên bí thư phường ủy, tuổi đã gần 40, thuyết phục giúp đỡ để dụ dỗ không xong, đến đe dọa cô gái vẫn không chấp thuận. Tên bí thư phường đã trả thù bằng cách đưa cả gia đình đi kinh tế mới. Năm chị em mới ngày nào sống dưới sự che chở của cha mẹ êm đềm hạnh phúc; thời thế đổi thay, xáo trộn đời sống nhưng trời xanh cay nghiệt lại bắt các em chịu sự thay đổi nặng nề quá.

 

Không tiền, không sức khỏe, không biết làm nông, nhận một căn nhà lụp xụp trên đồi tranh, các em không biết cách gì để sống ngoài đi làm lặt vặt như mót củi, hái rau. Chịu đựng không nổi hoàn cảnh đó, hai chị em gái đã tự tử chết để lại bức thơ, hai em cho biết mua thuốc độc về định giết chết cả 5 chị em, cuối cùng nhìn các em còn thơ ngây hai chị lại không nỡ nên nhờ bà con trong khu thương tình nuôi giúp ba em, chờ ba mẹ về nhận. Bà con khu kinh tế mới đem xác hai em chôn trên một ngọn đồi nhìn vào trại cải tạo như để hai em trông chờ một người cha trong đó.

 

Thảm kịch làm bàng hoàng mọi người tù, ai cũng thương cảm các em và trách người mẹ - người nào cũng liên tưởng đến bản thân mình, đến vợ con ở nhà, qua ba năm cải tạo bao nhiêu là cay đắng. Nhiều người vợ vẫn kiên trì nuôi con chờ chồng, nhưng thời gian còn dài, hoàn cảnh kinh tế càng khó khăn, sức người có hạn, mỏi mòn trông ngóng và chịu đựng không biết đến bao giờ.

 

Thảm kịch của hai em nhỏ vùng kinh tế mới chưa hết xúc động thì thêm một chuyện đau lòng khác lại được truyền lan trong trại. Chuyện riêng của một người nhưng cũng thành cái đau chung của mọi người. Kỳ thăm gặp vừa qua, vợ bác sĩ T lên thăm để từ giã anh, chị báo tin là thăm lần cuối cùng. Bác sĩ T còn trẻ, anh là một Đại úy Bác sĩ trưng tập. Chị T đẹp lắm, “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, ông trời thật đa đoan, không cho ai hạnh phúc trọn vẹn; nhất là ông trời cay nghiệt với phái yếu, người con gái sinh ra không có nhan sắc đã là cái khổ cho họ và nếu có nhan sắc rồi cũng chịu cái khổ do đời đưa đến. Chồng đi cải tạo, chị T dấn thân đi buôn bán để nuôi gia đình - chị đi buôn hàng lậu từ Nha Trang về. Nói là hàng lậu nghe ly kỳ nhưng sự thật chị đã đi buôn cà phê; cà phê dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là một thứ quốc cấm. Khối xã hội chủ nghĩa chỉ mới có Việt Nam là xứ nhiệt đới, nên sản phẩm nhiệt đới như trà, cà phê, hồ tiêu, quế, trầm hương đều trở thành món hàng hiếm có trong khối các nước anh em. Việt Nam là con nợ, bán hàng trả nợ, nợ súng đạn mà lúc sinh tiền ông Hồ đã cả quyết là con cháu sẽ trả được. Ông đâu có biết được khi ông quyết định dùng súng đạn đánh miền Nam rồi con cháu sẽ trả nợ súng đạn đó, sẽ đem lại sự đau khổ cho dân chúng đến bao giờ không? Khi chiến tranh thì khổ sở chết chóc vì bom đạn; hết chiến tranh thì phải dồn nỗ lực để trả nợ. Ông đày ải dân chúng từ thế hệ này qua thế hệ khác để thỏa mộng giải phóng của ông.

 

Miền Nam trước 1975, người ta chỉ sợ chết vì chiến tranh mà không sợ đói, không có người tự tử vì đói, không có cán bộ hạ tầng cưỡng bức dân, không được ép dân đi kinh tế mới. Không có tình trạng người đàn bà vừa phải nuôi con, vừa phải nuôi chồng trong tù. Miền Nam trước đây có trại tù, nhưng tù được nuôi no đủ. Ông có biết cán bộ của ông ở tù đấu tranh vì mỗi ngày phải ăn cá khô, mà là cá khô sặc, Hoàng Quốc Việt viết: “Bọn ngụy quyền tàn ác bắt tù phải ăn cơm với cá khô mỗi ngày.” Ông có biết là những người cán bộ thấy bị ăn cơm với cá khô mỗi ngày là một việc không chấp nhận được. Khi họ nắm chính quyền, họ cho tù ăn gì không? Gạo hẩm với nước muối đã là một ân huệ, phải ăn độn đến 80%; mỗi tuần chỉ có hai buổi cơm, còn 12 buổi khác phải ăn khoai mì mục. Cá khô không bao giờ có trong nhà tù của chế độ ưu việt do ông lập ra, nếu có cá khô đó là một bữa đại tiệc của tù trong chế độ Cộng sản. Miền Nam trong thời chiến tranh bị xem là lệ thuộc kinh tế, nhưng người dân được đầy đủ tất cả, cà phê, trà, tiêu, là những sản phẩm tự do, ai muốn mua bán cũng được, lúc nào cũng có, không phải là thứ qui hoạch nhà nước và bị xem là hàng quốc cấm.

 

Trước kia người dân miền Nam buôn bán gạo, nông sản người ta kể hàng trăm tấn, hàng ngàn tấn. Theo lời kể của cán bộ đó là phồn vinh giả tạo, nhưng đến khi “đất nước ta hòa bình, đất nước ta giàu đẹp, tiền rừng bạc bể do những đỉnh cao trí tuệ của loài người, lương tâm của thời đại, do Bác muôn vàn kính yêu của đảng Cộng sản bách chiến bách thắng và chủ nghĩa Mác Lê Nin vô địch” thì buôn bán gạo trên giỏ hàng vài ký, nông sản khác cũng buôn lậu tính theo đơn vị hàng ký lô. Người dân được cho ăn nhiều từ ngữ đẹp để thay cho gạo cơm.

 

Chị T đã đi buôn lậu cà phê từ Nha Trang về Saigon. Đi buôn lậu nhờ sự che chở của những bọn tài xế và lơ xe đò hoặc phải móc ngoặc với bọn công an. Chị đã kể lại với anh T là chị đi nhiều chuyến qua cũng kiếm được ít tiền để nuôi gia đình, lúc đem hàng lên xe nhờ tài xế cất giấu cán bộ, chị góp vốn buôn càng ngày càng nhiều hơn. Sự đời đâu có trôi êm ả cho một người đàn bà trẻ cô thế mà lại đẹp não nùng. Tài xế xe đò là tên gian ác, nó lừa hôm chị mua nhiều cà phê, nó chạy xe đến trạm nghỉ buổi tối, trắng trợn đề nghị chị phải ăn nằm với hắn, nếu không đến trạm gác công an, hắn sẽ chỉ để công an bắt. Khó khăn nào bằng khó khăn của chị T lúc đó, phải chọn một bên là tiết hạnh, danh dự một bên là cái ăn của gia đình. Cuối cùng chị đã đành nhắm mắt để bảo vệ món hàng. Chị quá đau khổ, thấy không còn xứng đáng với chồng nên chị quyết định lên thăm anh và nói sự thật với anh T lần cuối cùng rồi đem con ra khỏi gia đình chồng. Tai nạn của chị T không phải chỉ một mình chị mà là một trường hợp khá phổ biến - nhiều người đàn bà đi buôn hàng chuyến trên xe đò, xe lửa đã phải trao đổi thân xác với bọn công an, với bọn tài xế, bọn lơ xe là những thành phần ưu thế của xã hội mới, nhưng nhiều chị đã giấu giếm rồi trở thành quen. Chỉ có chị T là dám nói sự thật với chồng. Còn đau khổ nào cho người đàn bà Việt Nam nữa không?

 

Sự an nguy bền vững của gia đình bây giờ là mối quan tâm chính của người cải tạo, hầu hết đều có vợ, có con. Có người trách chị T là đầu hàng hoàn cảnh dễ dàng. Làm sao trách một người đàn bà khi người đàn ông không bảo vệ được họ. Đến tuổi lấy chồng, cô gái nào cũng muốn được trao thân cho người đàn ông họ tin tưởng sẽ bảo vệ và đem hạnh phúc suốt đời cho họ. Những đổ vỡ nếu không trực tiếp cũng gián tiếp là cái lỗi của người chồng. Người đàn ông không bảo vệ được đất nước làm sao giữ được sự bình an cho gia đình. Từ xưa đến nay, kẻ xâm lăng nào cũng chiếm đoạt của cải, tài sản và phụ nữ, giết chóc và nô dịch đàn ông.

Cộng sản miền Bắc cũng vậy, họ đã chiếm của cải của miền Nam đem về miền Bắc, tài sản của dân họ không trực tiếp cướp đoạt thì bằng cách đổi tiền, đánh tư sản họ làm cho dân miền Nam nghèo đi phải đem đồ vật ra bán, rồi họ tung tiền, thứ giấy lộn được in không bảo chứng ra vơ vét mua hết. Đàn bà họ không trực tiếp chiếm đoạt như kiểu quân Hung Nô thời trước, thì họ bằng nhiều cách làm cho gia đình người miền Nam ly tán, người đàn bà miền Nam trước khó khăn về đời sống, cán bộ của họ giả nhân giả nghĩa giúp đỡ, dụ dỗ, gây tình cảm hoặc mạnh hơn là ép buộc đe dọa, cuối cùng nếu không tự ý hoặc gượng ép kết hôn với cán bộ thì phải đi vùng kinh tế mới hoặc phải chịu đối xử như là một loại dân hạng bét bị mọi thứ kỳ thị bất công. Họ ban hành luật gia đình qui định việc ly dị dễ dàng phá vỡ hệ thống gia đình theo tập tục cổ truyền, trong đó chồng đi cải tạo là lý do luật pháp xem là chính đáng để người vợ ly dị.

 

Hoàn cảnh xã hội như vậy làm sao trách người đàn bà tội nghiệp. Hãy tôn vinh những người đàn bà vượt qua mọi khó khăn để thủ tiết chờ chồng cải tạo, và yên lặng thông cảm cho những người đàn bà có những quyết định khác. Cảm thông chứ không phải tha thứ vì người đàn ông làm mất nước, lỗi lầm còn nặng hơn nhiều thì còn tư cách gì để nói chuyện tha thứ cho người khác.

 

Sau đợt cho về đông đảo dịp Tết 1978 dành cho những người cải tạo ngắn hạn dưới ba năm, từ giữa năm 1978 hầu như không có đợt về nữa, chỉ có trường hợp lẻ tẻ. Cán bộ trại giải thích rằng do tình hình bên ngoài chưa thuận tiện hoặc là cải tạo bước qua mốc khác. Nếu bình tĩnh thì thấy rõ ràng là thời gian cải tạo của anh em trình diện kéo dài, nhưng Việt Cộng vẫn tiếp tục mánh lới giảo hoạt lừa đảo, chúng không cho người tù thất vọng, nên bằng mọi cách tung ra nhiều tin tức thất thiệt về những đợt sắp thả. Chúng không nói hay hứa hẹn công khai trong các buổi học tập như trước: “chuyện về của các anh tính hàng giờ, hàng ngày không tính hàng tháng, hàng năm”. Chúng gián tiếp tung tin qua người bán hàng rong cho gia đình thăm nuôi để gia đình nói lại, hoặc hai cán bộ đứng nói chuyện với nhau: “ kỳ lễ tới cải tạo về hết rồi lấy ai làm đây.” Chúng nói với nhau nhưng biết có người tù đứng gần đó nghe lén. Người này nghe được tin phấn khởi về trại nói ra. Chúng nhờ người tù khéo tay may quần áo, hẹn 10 ngày lấy, rồi đột nhiên sau vài ngày đến lấy, cán bộ giục: “anh may gấp giùm tôi kẻo sợ không kịp”. Người tù hỏi tôi còn ở lâu làm sao không kịp? Hắn úp mở: “Biết đâu đấy, gần đến lễ các anh về hết thì sao?” Người tù nghe như mở cờ trong bụng. “Lễ có lịnh về hở cán bộ?” Hắn làm ra vẻ bí mật: “Làm sao nói được, anh phải tự nghĩ ra chứ...” Ban giám thị bảo một vài đội bỏ bớt một khoảnh đất canh tác - tù nghi ngờ bàn tán, rồi có người tù thân tín với cán bộ quản giáo hỏi vì sao thu hẹp hoạt động, cán bộ quản giáo trả lời: “Nay mai các anh về hết lấy ai làm” v.v... Đủ mọi cách, cán bộ thì tiếp tục bịp và tù tiếp tục tin và ngoan ngoãn chấp hành vì e nếu mình không chấp hành vi phạm lỗi gì khi có tên sẽ bị giữ lại. Việt Cộng quản lý tù rất nhiều kinh nghiệm, người tù không có án mong đợi ngày về, ngày mai có thể về, đợi mãi, đợi mãi và ngoan ngoãn chấp hành mãi, không bao giờ để cho tù nhân quá thất vọng - thất vọng tù có thể trốn trại, chống đối hoặc không làm lao động.

 

Những anh em tù bị bắt ít hy vọng ngày về hơn nên không tin vào những sự hứa hẹn và những tin đồn, anh em gọi đó là “thuốc an thần” - anh em cứ chuẩn bị những cơ hội thoát thân.

 

Những lần có người trốn trại, anh em phấn khởi, bạn bè thoát thân được xem như mình thoát. Hình như ai cũng như ai, khi nghe ba phát súng báo động mọi người đều ngước mắt lên sáng rỡ và thầm cầu xin cho bạn mình thoát khỏi sự truy lùng vì nếu bị bắt lại thì sẽ bị cắt gân chân hoặc đánh hội đồng cho đến chết, nếu không bị đánh chết thì bị cùm vào xà lim thiếu ăn, bị bệnh hoạn như ho lao rồi cũng sẽ bị chết.

 

Thấy tù có nhiều hành động chống đối, bọn chỉ huy một mặt trấn áp, đe dọa nhưng mặt khác lại tìm cách xoa dịu, ban ân, chúng làm thêm nhà thăm gặp để gia đình có thể ngủ lại, gọi đó là nhà hạnh phúc và ban qui chế hưởng ân huệ về nhà hạnh phúc. Những trại viên thực hiện tốt 4 chỉ tiêu cải tạo và được cán bộ quản giáo đề nghị. Bốn chỉ tiêu cải tạo là:

 

- An tâm tin tưởng vào chính sách của Đảng và nhà nước.

 

- Lao động học tập tốt.

 

- Phê và tự phê, để giúp đỡ người khác tiến bộ.

 

- Phát hiện hành vi sai trái của người khác và báo cáo.

 

Hai mục trước liên hệ đến thái độ chấp hành và hai mục sau tức là làm tay sai báo cáo bạn bè. Ngoài ra phải làm vừa lòng cán bộ quản giáo, tức phục dịch bản thân của hắn để được hắn chấp thuận phê tốt.

 

Phần thưởng cho việc này là được ở lại đêm với vợ tại “nhà hạnh phúc”. Qui chế ban hành, nhiều anh em phấn khởi chấp hành, đa số bên thành phần trình diện, xa gia đình, xa vợ đã ba năm nay được gần gũi một đêm, đề nghị quá hấp dẫn, ai trách được sự thèm muốn rất người đó. Nhưng muốn được cái “hạnh phúc” nhỏ nhoi đó phả bước qua sự đau khổ của bạn bè. Đa số anh em trẻ bên thành phần bị bắt họ chống đối, bài xích những người được phần thưởng này. Tôi nhớ mãi câu nói của Nam, cậu bé ở tù từ năm 1976 lúc 16 tuổi vì đã hát bản Thu Vàng trong lớp học ở trường Đạt Đức, Nam hỏi một người sĩ quan được hưởng nhà hạnh phúc: “Người ta đem vợ anh ra làm giải thưởng mà anh cũng nhận sao?” Dĩ nhiên là người bạn sĩ quan rất khó trả lời. Ai bảo tuổi trẻ không sâu sắc. Hưởng một ân huệ của Việt Cộng không phải dễ và phải trả một giá đắt, nhiều khi cái giá của lương tâm. Còn ân huệ thì chính Việt Cộng không bỏ ra, nó lấy của chính người tù để cho họ hoặc lấy của bạn bè cho họ. Những anh em đi làm lẻ, đi làm các công tác đặc biệt như trật tự, thi đua, thăm nuôi, văn hóa, nấu bếp, chăn nuôi đều được cho tiêu chuẩn ăn cao hơn tù khác, nhưng phần ăn của họ cũng lấy trong tiêu chuẩn chung của tù ở nhà bếp, Việt Cộng không bỏ thêm ra một hột gạo. Do đó, trong trại tù, những anh em tự trọng biết suy nghĩ đều từ chối tất cả ân huệ của Cộng sản cho họ và từ chối tất cả công tác riêng rẽ. Họ xem như là ăn trên mồ hôi và sống trên sự an nguy của anh em.

 

Nói đến tốt hay xấu cũng tùy quan niệm, luân lý Cộng sản người nào báo cáo người khác, rình mò đời sống người khác họ cho đó là cá nhân tốt, người tù tiến bộ. Nếu không làm những hành động đó là thành phần xấu.

 

Khi người ta thuần tính là một con thú người ta bảo con thú ngoan, nuôi một con chim, thả ra chim không bay vào bầu trời bao la mà quanh quẩn bên chiếc lồng, gọi con chim đó khôn. Người tù ngoan ngoãn chấp hành, có cơ hội không đào thoát, gọi đó là người tù tốt, người tù tiến bộ. Con thú sống với rừng xanh, con chim bay trong bầu trời và con người phải có tự do, người cai tù quên điều đó, nhưng tù không thể quên được. Sự chống đối trong nhà tù để duy trì mức đề kháng và giữ ý thức tự do.

 



 


Chương Mười Một

 

 

Đối với tù ở trại cải tạo lao động thì giờ qua nhanh lắm, quần quật suốt ngày ngoài đồng, buổi tối còn phải ngồi sinh hoạt hai giờ trước khi ngủ, chương trình đều đặn ngày nào cũng giống như ngày nào, cuối tuần chỉ trông mong được nghỉ trọn ngày chủ nhật mà không được vì cứ hai tuần một lần, buổi sáng chủ nhật làm lao động xã hội chủ nghĩa. Chỉ có những ngày mưa là được nghỉ, nhưng miền đông mưa ít, mà chỉ có mưa ban đêm, hoặc mưa ngoài giờ hành chính.

 

Trông mong một ngày nghỉ, trông mong một ngày mưa, người tù chỉ mong đợi chừng đó, còn thì ngoài tầm tay. Biết quên càng khỏe, còn dễ sống. Nếu cứ ân hận, tiếc nuối, bực tức chỉ thêm khổ thân. Mới hơn 30 tuổi nhiều người tóc đã bạc, trán đã hằn ngang những nếp nhăn. Gặp gia đình cũng lại đếm thời gian ở nếp nhăn trên khóe mắt vợ. Gạt hết tất cả để an tâm mà sống chờ ngày về, dặn dò nhau và dặn chính mình, nhưng đâu phải ai cũng làm được, hoặc là lúc nào cũng quên được. Cứ mỗi lần gặp gia đình là thêm bao đêm không ngủ được. Thời gian qua mau quá, vợ đã khắc khoải mỏi mòn trông chờ - con lớn lên không có người dạy dỗ. Giá như chết được thì đã giải quyết hết mọi chuyện cho người chết lẫn người sống; chết chỉ làm cho người thân buồn khổ một lần, rồi thời gian làm họ quên đi. Chết thì 3 năm vợ đã mãn tang, có thể lập gia đình khác mà không sợ bị dị nghị. Người tù không chết, vẫn sống mà lại không có ngày về, người tù như người đã chết mà chưa chôn, nên mọi việc cứ dùng dằng không giải quyết. Trở thành gánh nặng cho gia đình. Vợ phải chờ đợi, con cái, người thân phải trông mong... Không nỡ dứt tình, một người khổ kéo theo hàng chục người đau khổ - ân hận biết bao, sao không chiến đấu đến phút cuối cùng rồi chết, chết là hết. Tại sao đã không dám chết mà không chạy ra ngoại quốc. Chạy là hèn nhưng còn giúp được cho kinh tế gia đình. Ray rứt từ ngày đầu tiên vào tù, cứ xoáy đi xoáy lại trong đầu làm cho cằn cỗi đi, sự hành hạ đó còn khổ hơn là sự hành hạ thân thể, sự sỉ nhục của bọn cán bộ.

 

Tết đến càng nhớ càng thương và càng thấy mỗi ngày mỗi xa. Năm Mậu Ngọ tháng chạp thiếu, trại nghỉ từ ngày 29 để chuẩn bị Tết Kỷ Mùi. Sáng sớm Thượng Tọa Trí Không đến gặp tôi, Thượng Tọa nói với tôi là có cuộc họp để “anh em ngồi lại với nhau”. “Chúng ta ngồi lại với nhau” hay “anh em ngồi lại với nhau” cũng là nhóm từ ngữ được dùng quá nhiều trong giới chính trị, cứ kêu gọi ngồi với nhau mà không bao giờ đoàn kết được vì người nào cũng muốn người khác đoàn kết sau lưng mình, nếu không đạt được mục đích đó thì tách riêng. Có rất nhiều buổi tiệc tổ chức để anh em ngồi với nhau, nhưng ngồi cãi nhau, để chỉ trích người vắng mặt hay để nói suông rồi sau đó ai về nhà nấy không ai làm gì hết. Trong tù, dù bị kiểm soát thật chặt nhưng anh em vẫn có thể “ngồi lại với nhau”, nghĩa là cũng giống như bao lần khác ngồi lại để nói cho vui thôi.

 

Người ta thường phê phán người Việt Nam không đoàn kết, hoặc là người Việt Nam có truyền thống chia rẽ. Người ta kêu gọi đoàn kết vì ai cũng biết đoàn kết là sức mạnh.

 

Thực tế người Việt Nam có truyền thống đoàn kết. Chỉ có âm mưu chia rẽ của những người cầm quyền và những người làm chính trị. Dân tộc Việt Nam là một khối thống nhất từ Bắc tới Nam và gần như thuần nhất vĩ đại đa số là dân Việt và nói cùng tiếng nói, có nhiều sắc dân khác và ngôn ngữ khác nhưng là thiểu số. Một người dân từ miền Bắc hay miền Trung dễ dàng di cư đến sinh cơ lập nghiệp tại miền Nam và được ngay sự giúp đỡ của dân địa phương để an cư lập nghiệp xây dựng gia đình với người hôn phối tại địa phương đó. Thời Pháp thuộc, người Pháp phân chia 3 miền Nam, Bắc, Trung với ba thể chế chính trị và hành chánh khác nhau, nhưng người Việt Nam vẫn sống thống nhất; người dân miền Nam luôn luôn ủng hộ và che chở cho những người yêu nước từ Bắc và Trung vào hoạt động tại miền Nam và ngược lại. Chính Cộng sản cũng đã đưa cán bộ từ miền Bắc vào Nam tổ chức Đảng và mặt trận chống Pháp và đã được dân miền Nam ủng hộ.

 

Dân Việt Nam không chia rẽ, nhưng các chính quyền nỗ lực phân chia để mưu cầu lợi ích của triều đình hoặc phe nhóm:

 

- Từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh - Đào Duy Từ giúp chúa Nguyễn, chế ra nhiều sự khác biệt trong phong tục tập quán miền Nam so với miền Bắc vì lúc đó, miền Nam của chúa Nguyễn là vùng mới khai phá còn thua kém miền Bắc nhiều. Đào Duy Từ tạo sự phân cách hai bên vì nhu cầu tồn tại của đàng trong.

 

- Vua Gia Long thống nhất đất nước, nhưng chính sách cai trị chủ trương chia rẽ, phân biệt đối xử. Triều đình nhà Nguyễn nâng đỡ dân Thanh Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên vì là đất tổ của nhà Nguyễn cũng như nâng đỡ người miền Nam vì là đất phục nghiệp và quê ngoại của các vị vua (nhà Nguyễn có tập tục là hoàng hậu người miền Nam ở các tỉnh Gia Định - Gò Công). Ngược lại, nhà Nguyễn kỳ thị miền Bắc vì là đất của Vua Lê Chúa Trịnh; sĩ phu miền Bắc còn hoài Lê. Nhà Nguyễn chèn ép dân chúng các tỉnh Nam Ngãi Bình Phú vì dân Nam Ngãi Bình Phú là dân của Tây Sơn, chính sách nhà Nguyễn trả thù Tây Sơn rất thâm độc, đa số quan lại và lính tinh nhuệ của Tây Sơn là dân Nam Ngãi Bình Phú, do đó suốt triều đình nhà Nguyễn mở mang học hành rất ít ở các tỉnh này để kềm hãm dân địa phương luôn luôn thua kém các tỉnh miền Bắc đèo Hải Vân.

 

Thời Pháp thuộc, ngoài lý do lịch sử, các hòa ước với triều đình nhà Nguyễn chia ba miền Nam, Bắc, Trung với ba chế độ thuộc địa, giám hộ và bảo hộ thì ngay trong phần đất miền Trung bảo hộ chính quyền Pháp cũng theo chính sách nhà Nguyễn kỳ thị các tỉnh miền Nam Hải Vân và họ tiếp tục nhận chìm dân chúng vùng này trong sự thất học. Trong khi Huế có trường học Quốc Học, Đồng Khánh, Vinh có trường College de Vinh thì các tỉnh miền Nam đèo Hải Vân chỉ có các lớp sơ học và mỗi tỉnh lị chỉ có một trường tiểu học.

 

Khi đất nước phân chia Nam Bắc ở vĩ tuyến 17, chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục nâng đỡ người Thanh Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên sống ở miền Nam vĩ tuyến 17, họ nắm mọi chức vụ then chốt và người dân các tỉnh miền Nam Hải Vân thì bị nghi ngờ. Sự nghi ngờ đó đẩy dân các tỉnh miền Nam đèo Hải Vân vào thế chống lại chính quyền. Liên khu 5 trở thành vùng kháng chiến mạnh mẽ nhất. Cũng từ đó thành ra vùng có nhiều ảnh hưởng của Cộng sản nhất miền Nam vĩ tuyến 17. Dĩ nhiên trong các chính sách phân biệt, triều đình nào cũng dùng một ít người ở địa phương bị kỳ thị để che lấp âm mưu của mình. Đến thời Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu thì sự phân chia do ảnh hưởng trầm trọng các thời khác để lại: phân chia địa phương, phân chia tôn giáo, đảng phái, xuất thân các trường học khác nhau... và để thủ lợi, Nguyễn Văn Thiệu đẩy mạnh sự chia rẽ đó làm các tôn giáo, đảng phái phân chia đến độ như mảnh vụn.

 

- Cộng sản cũng chủ trương chia rẽ dân chúng trong đường lối đấu tranh giai cấp. Chỉ có đảng viên và gia đình mới được hưởng các quyền lợi. Tuyệt đại dân chúng thì bị đàn áp bóc lột.

 

Các chính quyền nhắm chia rẽ dân chúng để dễ cai trị. Sau thời kỳ đảo chánh Ngô Đình Diệm, sinh hoạt chính trị miền Nam chịu hậu quả của chính sách phân chia và hoàn cảnh lịch sử khắc nghiệt để lại. Các tổ chức chính trị luôn luôn bị đánh phá, bắt bớ nên không có hoạt động công khai, càng ngày càng bị già cỗi tiêu hao. Khi có dịp sinh hoạt trở lại, họ không có tầm cỡ toàn quốc nên phải dựa vào những ưu điểm nhất thời như tôn giáo, địa phương. Ví như Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến được thành lập với cốt lõi là Đại Việt xứ bộ Nam Kỳ, và Phong Trào Phục Hưng miền Nam hậu thân của Hội Liên Trường. Hội Liên Trường và Phong Trào Phục Hưng Miền Nam là phản ứng nhất thời của các chính trị gia người Nam khi thấy chính quyền hầu như hoàn toàn do người miền Bắc điều khiển và người miền Nam bị gạt ra khỏi các chức vụ then chốt, dưới thời chính phủ Nguyễn Cao Kỳ.

 

Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến lợi dụng ưu thế địa phương phát triển nhanh chóng tại miền Nam, nhưng bắt đầu khựng lại không ra khỏi tỉnh Phan Thiết. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy rất cố gắng ra tận đại học Huế để dạy học và tổ chức tỉnh đảng bộ Thừa Thiên gồm một vài người ít ỏi không uy tín và không phát triển được, vì người miền Trung thấy rõ đặc tính phân ly trong Phong Trào Phục Hưng Miền Nam tiền thân của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến. Tóm lại sự chia rẽ mà người ta gọi là tập quán của người Việt là không đúng. Dân tộc Việt Nam thống nhất và đoàn kết - chỉ có chia rẽ từ các hoạt động chính trị và của những người làm chính trị. Cũng như các người cầm quyền chủ trương chia rẽ dân chúng để cai trị và thủ lợi.

 

Muốn chấm dứt tình trạng chia rẽ đó là nhiệm vụ của người làm chính trị. Họ phải ý thức trước hết giai đoạn lịch sử phân chia đã qua, và họ cũng thấy bao nhiêu chính quyền và chính trị gia chủ trương dùng các ưu thế tạm thời về địa phương, tôn giáo cuối cùng bị bế tắc; cũng như thuật chính trị hay thủ đoạn chính trị chỉ nhất thời - và người dân càng ngày càng tiến bộ, càng khó lừa bịp như trước. Con đường chính trị rõ ràng trước mắt sau thời đại của Cộng sản phải là dân chủ tự do, người dân sẽ được tự do chọn lựa bằng lá phiếu của mình, tuy không hoàn hảo nhưng chắc chắn là tốt hơn là các chế độ độc tài. Những hình thức chủ trương phân ly địa phương chia rẽ đều hoàn toàn lỗi thời. Việc trước mắt để đoàn kết tức là nên chấm dứt sự chỉ trích bôi nhọ chụp mũ lẫn nhau. Vì người dân sẽ là một trọng tài đúng đắn, hãy nên làm việc và giá trị của việc làm, của sự đóng góp cho quốc gia, của bản lãnh và tài năng sẽ được nhận định rõ. Đất nước là của toàn dân, việc nước là việc chung, đất nước cần sự đóng góp của nhiều người không phải của riêng ai và không nên sợ không có chỗ đứng chỉ sợ không có đủ sức để đảm trách công việc. Chỉ có thực tế công việc làm sẽ giải quyết rất nhiều bế tắc vì sự chia rẽ, cũng như tư thế của các người làm chính trị. Sự đào thải một cách tự nhiên qua công việc, sẽ hình thành nên những người lãnh đạo. Thời đại ngày nay người ta không thể chờ đợi một bậc vĩ nhân từ trên trời sai xuống. Quần chúng sẽ lựa chọn người lãnh đạo. Con đường dân chủ không thể không tới, dân chúng đã trưởng thành, không còn điều gì có thể che dấu sự phán xét của dân chúng ở thời đại này.

 

Đêm giao thừa sau khi nhận thùng nước chè cho cả đội và một điếu thuốc lá tiêu chuẩn cho mỗi người tù, trong phòng từng nhóm ngồi lại với nhau uống nước, hút thuốc; giở bánh mứt gia đình gửi lên ngồi nói chuyện cho đỡ nhớ nhà. Rồi anh em cất tiếng hát, lúc đầu còn sợ, còn ngại. Nhưng cái không khí là lạ của đêm giao thừa làm mọi người quên sợ; anh em bắt đầu hát nhạc vàng khởi đầu từ nhạc tiền chiến. Khi nghe nhà bên cạnh có người hát bản “Đường Xưa Lối Cũ”, tôi nhớ Ali Hùng ở trại Phan Đăng Lưu, mỗi lần Hùng hát bản nhạc này thì giọng nghẹn ngào vì nhớ mẹ. Tôi bùi ngùi kể lại thời gian ở Phan Đăng Lưu, hôm Ali Hùng bị dẫn đi hành quyết; Hùng rất bình tĩnh đưa tay chào chúng tôi ở phòng tập thể. Ali Hùng là người tù thuộc tổ chức nhà thờ Vinh Sơn. Anh em tù tập họp lại từng nhóm ca hát. Lúc đầu thì nhạc tiền chiến, chuyển qua nhạc tình yêu rồi ai đó bắt đầu hát nhạc chính huấn. Phòng này hát, rồi các phòng khác cũng hát. Anh em hát cả nhạc đấu tranh.

 

Ngày Mồng Một Tết, trại thật vui, anh em đi chúc Tết nhau, rồi tụm lại từng nhóm để hát nhạc vàng, hát nhạc chính huấn, nhạc XDNT, nhạc Trịnh Công Sơn; nhớ bài nào hát bài nấy, rồi nhiều nhóm gặp nhau “nối vòng tay lớn” ra cả ngoài sân.

 

Đó là sinh hoạt của đám đông bộc phát, không có tổ chức, sự duy trì tương đối dễ khi đã có một số anh em có ý thức tham gia. Họ chỉ có nhiệm vụ “châm lửa” khi thấy không khí loãng đi. Anh em đội văn nghệ hóa trang đi chúc Tết các nhà được anh em hoan hô. Long thương phế binh có sáng kiến hay. Anh nhờ tôi mượn son phấn và y phục của đội văn nghệ để trình diễn một hoạt cảnh cảm động bản “Ngày Trở Về” của Phạm Duy, mẹ Việt Nam đón đứa con thương phế binh trở về, sau đó hoạt cảnh Mẹ Việt Nam được đưa đi chúc Tết tất cả các nhà trong trại. Từ đó gần như mọi người đều say với tiếng hát. Người ta kéo nhau đi từng đoàn, từng nhóm tiếp tục ca, và rồi không ai còn kiểm soát nữa, tự ý anh em cứ có ai bắt lời ca là có người ca theo và có nhiều nơi anh em đã hát quốc ca. Khi bài Quốc Ca Việt Nam cất lên, mọi người đều đứng im phăng phắc, cảm động, nhiều người đã khóc. Bọn công an một phần vì đi vắng, những tên còn lại xách súng chạy bên ngoài hàng rào, chĩa súng và đe dọa bắt anh em giải tán, nhưng đám đông cứ mặc, chẳng ai nghe.

 

Chiều xuống, trước khi vào nhà, một cuộc gặp mặt chớp nhoáng với các “trưởng nhóm”, chúng tôi quyết định tiếp tục hát trong mỗi nhà nhưng phải thật cẩn thận, vẫn giữ cho được tính chất bộc phát của đám đông, phải tác động một cách tự nhiên và tế nhị không có người chủ động và không có tính tổ chức.

 

Lê Phước Thọ, một Thiếu úy Cảnh sát thông báo với tôi rằng một số đông anh em sĩ quan cảnh sát sẽ hát quốc ca tại hội trường trong buổi lễ đầu năm vào sáng Mồng Hai. Theo kế hoạch là họ sẽ hát lúc người quản ca bắt nhịp hát bài “Ngày Vui Đại Thắng” khi tên trại trưởng khai mạc buổi lễ, Thọ hỏi tôi liệu có phát động cả hội trường được không, tôi nghĩ sẽ được, nếu có một nhóm anh em bắt giọng trước. Tôi thảo luận với những anh “trưởng nhóm” khác và phối trí anh em chủ lực tản ra len lỏi vào tất cả các đội, để khi giọng hát bắt lên thì tất cả đám đông nơi đâu cũng có tiếng hát để cán bộ không thể kiểm soát được.

 

Dự tính không thành, khi người quản ca bắt tiếng hát bài “Ngày Vui Đại Thắng” , Thọ và số anh em bạn bè của anh không ai dám bắt qua bài quốc ca. Nhiệt tâm của anh em làm đến đâu cũng tốt, không thể đòi hỏi họ làm quá khả năng.

 

Dù thất bại không hát được bản quốc ca của VNCH tại hội trường nhưng bản “Ngày Vui Đại Thắng” chỉ có quản ca và ban văn nghệ ca, anh em tù chỉ có vài người ca theo lẻ tẻ rồi im. Chính trị viên trại Thượng úy Vinh khai mạc buổi lễ, sau bài diễn văn dài dòng về chính sách khoan hồng và những hứa hẹn cứu xét thả tù trong năm tới. Vinh đã nói: “Trong đêm giao thừa và ngày hôm qua, tôi đã nghe các anh ca hát mừng xuân thật là vui. Đáng lẽ trại có bổn phận phải lo cho các anh, nhưng chúng tôi không thể làm hết được mọi chuyện, các anh ca hát để đỡ nhớ nhà, tôi khuyến khích việc đó. Các anh nên tiếp tục.” Anh em tù hoan hô, trở về trại họ tiếp tục ca.

 

Để bù vào sự thất bại tại hội trường. Thọ và Linh tổ chức họp mặt ở phòng 4 để chào cờ và hát quốc ca.

 

Buổi họp mặt ở nhà 4 thành công, anh em dự rất đông và mở đầu Thọ và Linh đã đứng ra điều khiển chào cờ hát quốc ca. Anh em đã tìm được gần 10 vỏ chai bia quân tiếp vụ cũ, khi hát quốc ca các anh xếp hàng giơ vỏ chai có in hình quốc kỳ VNCH lên. Như vậy cũng đã quá tốt trong hoàn cảnh một trại tù.

 

Mọi người đều phấn khởi và tham gia tích cực ca hát.

 

Tối mồng Hai chương trình văn nghệ mừng Xuân. Đại úy Phát trưởng ban nhạc, đã không chơi các bản “Nhạc Cách Mạng”, anh đệm và hòa tấu theo hòa âm của miền Nam không theo hòa âm của miền Bắc rất khó nghe. Những bản nhạc bị bỏ quên được anh Phát làm sống lại với tiếng kèn Saxo thật điêu luyện. Người nghe càng hoan hô, các nhạc công trên sân khấu càng hứng khởi biểu diễn - các anh đã chơi một đêm văn nghệ đầy cảm hứng như ngoài đời trước 1975.

 

Triệu Bá Thiệp nói với tôi là nên dấn thêm nữa vào hôm sau nhưng tôi suy nghĩ mãi về lời tên Thượng úy Vinh, hắn khuyến khích nhạc vàng? Thực không? Tôi bàn với Phố nên lặn đi để tránh tai mắt của ăng ten, vả lại đã đến lúc đám đông bộc phát và nhiều anh em trước kia dè dặt đã tham gia tích cực.

 

Tối Mùng Hai sau buổi văn nghệ, anh em mệt mỏi đều nghỉ, chỉ có một vài nhà anh em tiếp tục hát trong đó có đội 10 của Nguyễn Hữu Trí làm đội trưởng là hát nhiều nhất vì các đêm trước Trí đã kềm chế không cho đội hát, và chuyện đã đến là tụi cán bộ đã mở cửa ập vào đội 10 bắt Trí và một vài người đem đi giam ở nhà kỷ luật.

 

Ngày Mồng Ba, trại trở lại yên tĩnh, anh em đã xao xuyến nhiều. Nhóm trẻ quyết định làm tới, họ vạch kế hoạch đấu tranh đòi thả người bị bắt, với lý do cán bộ Vinh chính thức khuyến khích hát để đỡ nhớ nhà. Chương trình phân công để làm trong buổi xuất trại đầu năm ngày Mồng 4:

 

- Đội 10 viết biểu ngữ đòi thả người bị bắt.

 

- Đội 4 là đội xuất trại đầu sẽ không đi lao động. Huề sẽ đứng lên ngay đầu hàng để thực hiện kế hoạch. Tôi liên lạc với các anh đứng đầu tổ chức phản động, yêu cầu họ thông báo các thành viên của họ hưởng ứng không xuất trại.

 

Đúng 6 giờ 30 sáng xuất trại. Khi trực trại gọi đến đội 4, Huề đứng lên ngay trước hàng hô mấy tiếng thật to: “Không đi, không đi, không đi”. Tức thì anh em thuộc đội 10 ngồi hàng đầu rút ra một cuộn giấy thành một biểu ngữ: “Yêu cầu ban giám thị thả những người bị bắt.”

 

Việc xảy ra thật bất ngờ cho cán bộ, trung đội trưởng võ trang ra lệnh trung đội võ trang bao quanh vòng rào chĩa súng vào trong. Trực trại tiếp tục gọi đội 4. Huề vẫn đứng thẳng dõng dạc la lên: “không đi, không đi, không đi, yêu cầu thả người bị bắt.” Bọn cán bộ súng ống túa ra đầy cả sân ngoài trung tâm, trung đội võ trang Hà Lớn vào lôi Huề ra khỏi hàng, đội 4 anh em giằng lại, nhiều tiếng hô: “Không được đánh người, không được đánh người”, rồi cả sân tập họp cũng hô lên như vậy. Lớn thả Huề ra, lúc đó phân trại trưởng Vinh xuất hiện, hắn nói: “Tối hôm qua, tôi đã ra lệnh bắt một số anh em ở đội 10, vì các anh đó đã hát ồn ào trong khi cả trại cần ngủ để đảm bảo sức khỏe sau hai ngày tự do ca hát. Tôi hứa sẽ cứu xét trường hợp đó. Trong trại có những tên xấu lợi dụng gây rối loạn sẽ bị nghiêm trị, còn những người vô tình bị xúi giục sẽ được khoan hồng. Các anh phải xuất trại đi lao động đầu năm, hôm nay xuất trại lấy ngày tốt, tôi đã nhất trí với các đồng chí quản giáo, các anh chỉ làm một giờ rồi đi tắm giặt, bốn ngày nghỉ Tết của các anh đã không có nước tắm.”

 

Tên Vinh khôn ngoan tách ra hai thành phần, xúi giục và vô tình - anh em làm theo sự sôi nổi của đám đông nhưng đều sợ - Hắn lại nhắc chuyện đi tắm, sau bốn ngày Tết, ở trong trại không có nước tắm là đòn cuối cùng đánh vào nhu cầu thiết yếu hàng ngày, chắc chắn đám đông sẽ ngã.

 

Nói xong Vinh đọc lệnh bắt giam anh Trần Danh San, Nguyễn Văn Hoàng (tức Thượng Tọa Trí Không) và Huề, và gọi chung tất cả những ai có dự phiên họp sáng ngày 29 phải lên trình diện. Vinh cầm sổ gọi đội 23 xuất trại trước, hắn đã biết rõ tình hình tù ở trại. Đội 23 là đội do Nghĩa làm đội trưởng,

 

Nghĩa đã tích cực trấn áp nên đội rất ngoan ngoãn. Lần lượt các đội xuất trại.

Suốt cả tháng Giêng, hầu như ngày nào cũng có người bị bắt nhốt xà lim, an ninh ra tại hiện trường bắt trói tay bằng dây thừng dẫn về trại, tình hình rất đe dọa căng thẳng. Nhưng rồi nhiều người cũng được thả ra sau khi làm kiểm điểm hứa không tái phạm, chỉ còn lại hai anh San và Hoàng và những người quan hệ thân thiết với hai anh là bị nhốt lâu ngày như Tân, Biên, Duyên, Tòng, Thành, Bằng, Huề, Dục.

Ngày 7-2-1978, chúng tôi được chính thức thông báo là quân đội Việt Cộng đã giúp “những người Khmer yêu nước” lật đổ chính quyền “diệt chủng Pol Pot”. Người thông báo là Trung tá Thích, trưởng trại, hắn mới đi phép về. Khi thông báo tin này, hắn đã phân tích sự căng thẳng giữa Hà Nội và Bắc Kinh mà hắn gọi là tên “Bành Trướng Trung Quốc”. Mười ngày sau, chúng tôi được thông báo tiếp về chiến tranh Việt - Trung bùng nổ ở sáu tỉnh biên giới. Tin tức làm cho không khí đe dọa ở trại sau vụ náo loạn Tết trở nên loãng đi. Cả cán bộ và tù đều chờ đợi những diễn biến quan trọng xảy ra, dĩ nhiên là mỗi bên đều chờ đợi khác nhau. Anh em tù phấn khởi vì mong mỏi tình hình sẽ biến chuyển, dù không ai biết là sẽ biến chuyển ra sao. Trung Cộng là kẻ thù của Bắc Việt, vẫn là một kẻ đáng sợ. Nhưng dù sao có diễn biến, rồi ra thế nào thì ra. Việt Cộng tồn tại thì công việc lao động mỗi ngày ở trại tù sẽ giết dần giết mòn mọi người. Hầu hết các đội tù bị bắt được chuyển vào khu nhà gạch mới xây, có tường rào kín hơn ở khu B. Được ở khu nhà gạch mới sạch sẽ khang trang hơn, như tên trực trại Phong giải thích: “Các anh là người có tội với Đảng và nhà nước mà được Đảng và nhà nước quan tâm cho ở nhà xây sạch sẽ, mát mẻ đã nói lên chính sách khoan hồng ưu việt của Đảng và Bác Hồ muôn vàn kính yêu đã dạy. Chúng tôi là “con em của kẻ chiến thắng” mà chúng tôi còn phải hy sinh phương tiện tốt cho các anh, các anh thấy đó, cán bộ chúng tôi vẫn phải ở nhà gỗ.” Cán bộ Cộng sản lớn nhỏ, tên nào cũng giống nhau, có dịp là nhắc tới Đảng, tới Bác Hồ như một lời kinh. Lời kinh đó chúng biết là không thuyết phục gì đối với những người chúng nói với, nhưng có giá trị bảo vệ cái vị trí và con đường tiến thân của chúng. Sự giải thích dù có vô lý cũng mặc, cứ giải thích cho có. Giai đoạn đầu của cuộc cách mạng chống Pháp, dân chúng còn yêu kháng chiến, còn tin vào sự lãnh đạo của Việt Minh, còn tin Bác Hồ, sự giải thích thế nào cũng được tin; rồi thành thói quen, nhưng bây giời niềm tin không còn nữa, sự giải thích của cán bộ Cộng Sản trở thành trơ trẽn, chúng vẫn cứ làm. Điều này không còn là ưu điểm trong chính sách tuyên truyền nữa mà trở thành một khuyết điểm trầm trọng mà chế độ Cộng sản không sửa được hoặc chẳng còn cấp nào muốn sửa.

 

Không phải chỉ tên Phong trực trại mở miệng lếu láo tù được ở nhà xây là đãi ngộ hơn cán bộ ở nhà gỗ mà chính tên trưởng trại Trung-tá Thích cũng đã giải thích như một minh chứng hùng hồn của chính sách khoan hồn nhân vụ cán bộ bắn chết một người vượt trại. Có hai người tù nhân đêm tối cạy cửa ra, băng qua rào trốn. Một người thoát vào rừng, một người rủi ro bị vướng áo vào cọc rào treo tòn ten. Từ trạm gác, tên võ trang đã bắn 13 phát mới trúng, giết chết người tù bất hạnh đó. Hôm sau chúng tôi được nghỉ lao động, lên hội trường nghe giảng về chính sách khoan hồng. Sau một hồi huyên thuyên nhàm chán, Thích cụ thể giải thích là “Đêm qua cán bộ đã thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo, khi cán bộ phát hiện tù trốn trại, cán bộ đã bắn 12 phát cảnh cáo, nhưng cải tạo viên vẫn ngoan cố không quay lại (vì bị treo tòn ten trên cọc) nên đến phát thứ 13 đành phải bắn chết...”

 

Phân trại A bị cấm nấu ăn, chỉ được thực phẩm ăn ngay và hạn chế cân lượng, mỗi người được nhận nhiều hay ít tùy theo thái độ cải tạo. Cán bộ quản giáo, cán bộ giáo dục và cán bộ an ninh sẽ đánh giá mức độ chấp hành cải tạo.

 

Chúng đã biết rõ thành phần tù bị bắt là những người chủ động gây ra những “lộn xộn” trong trại nên chúng đưa vào khu nhà mới để siết chặt hơn và biện pháp hữu hiệu nhất đối với Cộng sản là thắt chặt bao tử. Làm việc nặng nhọc và hạn chế phần ăn kể cả phần chính của gia đình mang đến để nuôi tù.

 

Ở trong tù sống chung với một đội trẻ tuổi ô hợp có nhiều điều tế nhị. Những người trẻ tuổi thường có lý tưởng, nóng nảy và quá khích. Họ hay đòi hỏi ở những thế hệ đàn anh có thái độ mà họ cho là “coi được” trong đời sống hàng ngày từ cung cách đối với bạn tù cũng như đối với bọn cai tù. Những người trẻ tuổi họ cũng rất nhạy bén để nhanh chóng nhìn ra thực chất - nếu ai đánh lừa họ thì chỉ trong thời gian ngắn, còn sống lâu ngày trong môi trường vừa đói khổ, đầy thử thách, sự đóng kịch không được lâu. Mỗi khi họ thất vọng về một người nào, họ thường có thái độ dứt khoát và tàn nhẫn từ lời ăn tiếng nói cho đến cách đối xử. Từ đó ở trong tù thường có những hiện tượng sĩ quan trẻ tuổi cấp nhỏ khinh thường những sĩ quan cấp cao về những thái độ mà họ cho là hèn nhát; người trẻ tuổi khinh người lớn mà họ cho là không còn đáng được cho họ kính trọng. Sự đòi hỏi của thế hệ trẻ dù có hơi khó khăn, nhưng cũng rất hợp lý. Do đó, muốn bảo vệ một chút gì còn sót lại của một con người tự trọng, với thời gian lâu dài trong nhà tù là cả một sự đấu tranh không nhỏ và không ngừng đối với bản thân người tù, để có thể tạo cho những người tù trẻ tuổi một chút tin tưởng nào đó ở lời nói của mình để có thể chia sẻ với nhau một vài ý nghĩ giữa hai thế hệ.

 

Gần đến ngày 30-4-1979, anh em nhà bếp thông báo là bữa ăn có phần thịt được tổ chức vào ngày 30-4 thay vì 1-5 như những năm trước. Tiêu chuẩn ăn thịt vào ngày lễ ở trong tù thật quan trọng - vì mỗi năm chỉ có 4 lần được tiêu chuẩn đó. Dịp Tết được 3 bữa ăn, một bữa chiều 30, bữa trưa Mồng Một và bữa trưa Mồng 3. Dịp lễ Quốc Tế Lao Động 1/5 và sinh nhật Hồ Chí Minh 19/5 ăn lễ vào buổi trưa 1/5. Lễ 2/9 ăn vào trưa và dịp tổng kết thành tích cuối năm thường là đầu tháng Giêng năm sau. Một năm 4 dịp được ăn cơm trắng có thịt; những buổi ăn khác là ăn cơm độn và nước muối.

 

Anh em thắc mắc không biết trại có hậu ý gì mà đổi ngày ăn lễ từ 1/5 ra 30/4. Những chuyện rất nhỏ ở trong trại khi được nhắc tới cũng thành ra một luồng dư luận bàn tán. Qua trao đổi anh em quyết định không cần biết trại vô tình hay cố ý đổi ngày ăn lễ, nhưng đã chú ý bàn tán thì cũng cần một cái gì đáp ứng.

 

Cuộc vận động thành công. Buổi trưa hôm đó, các đội đều trả lại phần thịt chỉ nhận cơm trắng với nước mắm. Đối với cán bộ đó là chuyện bất ngờ, nên ngay hôm 1/5, thay vì nghỉ lễ chúng tôi lại được lên hội trường để nghe đe dọa là sẽ nghiêm trị các phần tử sách động. Khi được hỏi lý do tại sao “cải tạo viên” không nhận phần thịt. Anh Thanh, một sĩ quan trẻ trong nhóm Vườn Đào mới chuyển về đã thẳng thắn phát biểu: “30-4 là ngày chiến bại của chúng tôi, cán bộ ăn mừng chiến thắng, nhưng chúng tôi không thể ăn mừng chiến bại.” Sau đó Thanh bị đem cùm trong xà lim kỷ luật.

 

Sau thời gian học tập chính trị, anh em sĩ quan mới chuyển về được tham gia một buổi đóng phim trình diễn nhân phái đoàn báo chí của ba Đảng Cộng sản Nhật Bản, Ấn Độ và Pháp đến thăm trại. Tuy là đón phái đoàn báo chí của các “Đảng Cộng sản anh em”, trại cũng tổ chức trình diễn rất ngoạn mục.

 

Toàn trại được nghỉ lao động, mỗi người tù được phát khẩu phần ăn một cục bột. Quản giáo cùng hai cảnh vệ dẫn đội vào trong rừng làm công tác lao động chờ đến khi có kẻng báo thì dẫn đội về.

 

Nhà bếp mang về 4 con lợn đã làm sẵn, hai con móc treo trên giá, một con được chặt thịt dang dở, và một con đã chặt xong bỏ vào chảo nấu. Số 400 tù trại Vườn Đào được tuyển chọn còn 200 người trẻ và khỏe mạnh, một số đưa lên nằm trạm xá, tại mỗi giường bệnh bày một phích nước sôi, một hộp sữa đã đục sẵn và một hộp sữa còn nguyên, một bao thuốc lá đã mở. Trước khi đưa lên nằm đã được dặn dò kỹ là không ai được quyền động đến những đồ vật quí giá đó. Số còn lại chia ra ở các nhà, mỗi nhà hơn 10 người, người thì quét tước, người khác ngồi đánh cờ tướng. Đến bữa cơm, những người diễn viên này ngồi vào bàn ăn khẩu phần 4 người ăn cơm trắng với rau và thịt hai món kho và luộc.

 

Các diễn viên đã được học tập trước và đã được răn đe rằng họ phải hạn chế sự phát biểu, và nếu được hỏi đến phải phát biểu theo đúng chính sách, để tránh sự phiền toái không có lợi cho bản thân. Anh em dù bị răn đe, phải đóng tuồng nhưng khi được hỏi trả lời rất hay. Bác sĩ Quí được hỏi, nếu được thả ra sẽ làm gì, anh đáp là sẽ đem gia đình đi kinh tế mới. Được hỏi là sao không tiếp tục hành nghề bác sĩ, anh trả lời đi kinh tế mới là chính sách của nhà nước đối với tù cải tạo.

 

Nhà bếp được hỏi là mỗi ngày ăn mấy bữa, anh em trả lời là tù ăn sáu bữa cơm với thịt, được hỏi là tại sao được ăn nhiều như vậy, thì anh em trả lời là cán bộ dặn trả lời như vậy. Những lối trả lời theo cách chống đối tiêu cực, trả lời mà người hỏi không thể tin được, hoặc câu trả lời nói lên được tính cưỡng chế mà Cộng sản có biết cũng không trừng phạt được. Thêm vào đó, anh em tìm mọi cách dùng than và gạch viết 3 chữ SOS ở mọi nơi có thể viết được. Có ký giả đã dùng máy quay phim để quay chữ SOS đó. Dĩ nhiên, cũng không có giá trị gì nhiều, nhưng làm cách gì tỏ sự chống đối được càng nhiều càng tốt.

 

Một số anh em bị kỷ luật ra không được về đội cũ, biên chế về các đội vượt biên ở Chí Hòa chuyển lên. Anh em đến nơi nào phổ biến tinh thần chống đối đến nơi đó, kỷ luật không làm cho anh em chùn mà càng làm cho tinh thần chống đối cao hơn. Đúng là càng có áp bức càng có đấu tranh. Trong hoàn cảnh đó, theo yêu cầu, anh em phải tập trung cố viết tài liệu lý luận một lần nữa để chuyển cho các anh em phổ biến cho người tù mới đến.

 

Lê Phước Thọ làm ở nhà bếp đã lập được một hệ thống tiếp tế thức ăn và thuốc men cho anh em bị kỷ luật qua các anh trật tự có nhiệm vụ đưa cơm. Từ đó chúng tôi có thể chuyển những thức thiết yếu như đường, thuốc rê, thuốc bổ như Vitamine B1 và C cho anh em bị kỷ luật để anh em có thể chịu đựng dài ngày sự đày ải trong địa ngục trần gian. Thọ cũng lập được đường dây chuyển những bài viết đến khu B cho Định ở đội văn nghệ. Chúng tôi nhận được báo chí từ khu B sang. Khu B thuộc sĩ quan trình diện chưa xảy ra việc gì đáng nghi ngờ về chính trị trừ những vụ trốn trại. Giám thị trại cấm khu A nhận báo từ gia đình đưa lên dù đó là Báo Nhân Dân của Đảng Cộng sản.

 

Đã có nhiều anh em chết vì bị cùm đến kiệt sức trong các nhà kiên giam kỷ luật, những cái chết đó cũng góp thêm sức sống, góp thêm sức ấm cho ngọn lửa đấu tranh của những người còn sống.

 

Hớn vẫn liên lạc với tôi để dự trù một cuộc đào thoát; ở trong tù tôi gặp nhiều người thanh niên có nhiều tài năng. Hớn là một trong những người đó. Hớn là một Thượng sĩ Biệt Kích còn trẻ tuổi, có thể hướng dẫn đi đường rừng qua Thái Lan - mọi chuẩn bị đang tiến hành thì Hớn bị kỷ luật dịp Tết và khi được thả ra lại, đưa về biên chế tù vượt biên. Hớn muốn được về khu tù chính trị của chúng tôi để anh em cùng tính chuyện đào thoát. Một hôm anh đã cố tình cãi lại Thượng úy Hưởng để bị nhốt kỷ luật. Trong khi ở kỷ luật, Hớn đã mở được còng để ra khỏi xà lim và mở luôn hai xà lim khác để dẫn Lân và Thành cùng trốn. Hớn có khả năng mở được nhiều loại khóa với một que thép luôn luôn được dấu trong người. Việc trốn trại của Hớn làm cho bọn Cộng sản thêm tức bực nên chúng buộc chúng tôi phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn. Nhiều người bị cắt không cho gặp gia đình trong nhiều tháng liên tiếp.

 

Trong tù đã có nhiều anh em can đảm hơn, đấu tranh trực tiếp với cán bộ, luôn luôn nêu cao tinh thần bất khuất, thà bị chết, thà bị giam cùm trong xà lim kỷ luật, như trường hợp anh Điệp, dứt khoát chống đối không chịu lao động. Nguyễn Đức Điệp đến trại tháng 5/1978 trong đợt tù chuyển từ trại giam Long Xuyên đến. Hầu hết số tù nhân hơn 500 người này là những chiến sĩ trước thuộc các tiểu đoàn Địa Phương Quân Giáo phái, các Trung Đội Nghĩa Quân hoặc Nhân Dân Tự Vệ sau khi tan hàng họ không chịu nộp vũ khí, kéo nhau vào các vùng núi Thất Sơn hoặc đồng bằng biên giới để chiến đấu thành từng nhóm. Khi bị bắt, họ bị ghép tội tàn quân, những người cầm đầu là sĩ quan QLVNCH, hoặc chức sắc thuộc Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo hoặc đã bị tử hình, hoặc xử án từ hai mươi năm đến chung thân còn bị giam ở các đề lao Long Xuyên, Châu Đốc hoặc Chí Hòa. Những chiến sĩ cấp dưới đồng loạt bị kêu án tập trung cải tạo. Anh Điệp là một người Thiên Chúa Giáo trong tổ chức Phục Quốc Long Xuyên, liên hệ trong đường dây phục quốc từ Saigon đến các tỉnh miền Tây mà trung tâm là vùng Cái Sắn.

 

Từ ngày bị bắt anh Điệp không bao giờ nhận tội; lời khai duy nhất của anh là “không thể sống dưới chế độ Cộng sản, không chấp nhận chế độ đó, vì Cộng sản chỉ làm khổ dân.” Điệp sinh tại Nghệ An, gia đình cha mẹ là nạn nhân trong cuộc đấu tố về cải cách ruộng đất. Điệp một mình vượt tuyến vào Nam năm 1955 lúc chưa được 20 tuổi.

 

Học dang dở trường Mỹ Thuật Gia Định, mưu sinh luân lạc đến lập gia đình ở Long Xuyên hành nghề điêu khắc.

 

Thái độ chống Cộng công khai và dứt khoát của Điệp khiến anh nhiều lần bị đánh đập tàn nhẫn. Từ một người khỏe mạnh, chỉ hơn một năm bị giam ở Long Xuyên anh đã bị lao phổi. Đi trại lao động cải tạo địa phương, Điệp không chịu lao động, bị đánh, bị giam xà lim Điệp vẫn không hề thay đổi. Đánh đập giam cùm mãi chán, Điệp lại bị chuyển trại về thị xã Long Xuyên rồi chuyển ra Xuân Lộc. Tại đây, vẫn không chịu lao động, vẫn chỉ một lời khai không chấp nhận chế độ Cộng sản, Điệp lại bị đánh, bị cùm. Khi bệnh lao nặng, Điệp về đội già yếu bịnh tật, Điệp có thì giờ để khắc tượng gỗ, bằng những dụng cụ thật thô sơ làm từ cái đinh hay cọng thép. Điệp đã khắc cho anh em nhiều tượng Chúa Jesus Christ hay tượng Phật. Một hôm tên trực trại bắt gặp Điệp mang một tượng đức Chúa Jésus và cây thánh giá lớn cả tấc, hắn bảo Điệp vất bỏ, anh không chịu, hắn giật, anh giữ lại, nhất định bảo vệ tượng không thả ra, bị nhiều tên cán bộ xúm vào đánh, Điệp bị ngã xuống đất hai tay vẫn bảo vệ tượng. Nhìn Điệp bị đánh hộc ra cả chén máu, chúng tôi đau xót lắm nhưng chỉ biết nhìn nhau mà không biết làm gì được. Thật hổ thẹn, có những lúc thấy mình thật hèn. Đêm đến chỉ biết nằm khóc cho bạn. Hình ảnh Điệp nằm quằn quại ôm tượng Chúa Jésus miệng bê bết máu ám ảnh mãi trong tôi không bao giờ quên được.

 

Một buổi sáng chúa nhật lao động xã hội chủ nghĩa, chuyển gỗ từ rừng về trại để làm củi đốt. Những cây gỗ bị sử dụng thật phí phạm, xài phí tài nguyên trong khi đất nước và mọi người nghèo đói là một đặc tính của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hai hay bốn người khiêng chuyển một cây gỗ tùy lớn nhỏ. Đội trưởng và cán bộ đứng kiểm soát rải rác trên đường. Khi chuyển xong hai đợt, chúng tôi đi trở lại địa điểm tập trung thì tên quản giáo gọi tôi ra khỏi hàng, chỉ tôi ngồi xuống bên lề, hắn hỏi:

 

- Trong chuyến chuyển gỗ trước, anh biết trong đội có người nói gì không?

 

Câu hỏi thật bất ngờ, khó trả lời vì trong khi khiêng gỗ di chuyển tù nói chuyện, đùa giỡn với nhau là chuyện bình thường làm sao để ý biết ai nói gì. Nghĩ vậy nên tôi trả lời rất tự nhiên và thật tình:

 

- Báo cáo cán bộ, đang lúc lao động anh em nói chuyện cười đùa với nhau, tôi đâu có để ý để biết ai nói gì.

 

Tên quản giáo nhìn tôi cười gằn, nói:

 

- Nói cười cho vui thì tôi hỏi anh làm gì, trong đội có người xúi giục chống đối lao động, anh có biết là ai không?

 

Tôi thấy hắn bắt đầu chuyển cuộc nói chuyện qua ý chụp mũ nên tôi dè dặt hơn:

 

- Báo cáo, tôi không nghe ai nói gì có tính cách chống đối sách động.

 

Hắn “hừ” nhẹ một tiếng, rồi nói:

 

- Anh thực sự không biết hả, anh lúc nào cũng nói không biết nhưng có người nói là anh biết nhiều.

 

Tôi đáp:

 

- Đó là ý của họ, tôi chỉ biết làm lao động và chấp hành.

 

- Nói chuyện để đo lường ý thức tự giác của anh, vừa rồi anh nói: “Không có hắn thì nghỉ”, anh nói vậy có phải là xúi giục chống đối lao động không? Anh đã trây lười lao động mà còn xúi giục chống đối lao động. Tôi biết trong đội những người kia nghe anh nhiều hơn là đội trưởng.

 

Hắn gán tôi vào tội chống đối lao động, tôi hơi ngạc nhiên, vì thường ngày tên quản giáo này không bao giờ kiếm chuyện để khó dễ với tù. Khi lao động tôi vẫn giữ ở mức độ vừa sức, không làm nhiều lắm nhưng cũng không làm ít. Đã đi tù, đến trại lao động, bắt buộc phải làm không tránh né được, mình tránh né thì bạn phải làm, không khác đi được. Tôi vẫn quan niệm như vậy, nhưng không làm nhiều quá vì làm nhiều quá sức là dại. Thời kỳ đầu nhiều người tù vẫn tin là làm lao động nhiều để được cứu xét cho về sớm. Đã qua 3 năm tù rồi thì không còn mấy ai tin ở điều đó nữa. Nếu lao động quá sức là một cực hình, nhưng giữ được mức vừa phải, cũng có lợi cho việc duy trì sức khỏe chịu đựng lâu dài, không làm lao động cũng hủy hoại thể xác.

 

- Báo cáo cán bộ, tôi không trây lười lao động, từ ngày cán bộ làm quản giáo đội, cán bộ chưa hề chỉ trích tôi về kết quả lao động, còn chuyện xúi giục thì tôi nghĩ trong tù này không có ai xúi giục được ai cả, người tù nào cũng trưởng thành và họ có ý thức việc làm của họ.

 

Hắn có vẻ lúng túng vì câu trả lời đúng sự thực của tôi nên tôi càng tin vào sự suy luận của tôi là chúng đang tìm cách nhốt tôi để dằn mặt vì những sự kiện liên tiếp xảy ra trong trại tù, mà tôi thuộc thành phần bị nghi ngờ mà an ninh chưa có chứng cớ cụ thể. Công an làm việc có bài bản, muốn bắt giam kỷ luật phải có bằng cớ, nếu không có thì phải tạo ra cớ để bắt. Tù nằm trong tay muốn làm gì thì làm, không phải chúng e ngại gì, không nhốt khi chưa có cớ, không phải chúng sợ hay thương người tù, nhưng đó là công việc của chúng nó; mỗi sự việc chúng còn phải báo cáo với cấp trên để lập thành tích, phải tạo sự việc có bài bản, thì sự khám phá hay triệt hạ của chúng mới có công lao để tiến thân, cá nhân hay tập thể mới được tuyên dương thành tích. Trong khi tôi đang nghĩ ngợi, tên quản giáo lấy giấy viết ra, tôi trả lời cho hắn ghi xong phần lý lịch, ngày bị bắt, ngày vào trại xong, đến khi nghe bị ghép tội xúi giục chống đối lao động, tôi nói:

 

- Cán bộ muốn nhốt tôi là quyền của cán bộ, còn tôi không xúi giục ai cả, tôi không ký biên bản.

 

Hắn giận dữ:

 

- Anh nói cán bộ muốn nhốt ai thì nhốt là anh xuyên tạc chính sách của Đảng và nhà nước. Đảng chỉ muốn giáo dục các anh, không phải đảng muốn trừng trị, nếu đảng trừng trị thì các anh đều đáng tội chết. Chính sách các anh đã học rồi. Đảng không bắt lầm, không xử phạt oan, đã bị bắt là có tội với Đảng với nhân dân, anh hiểu chưa? Anh nói “không có hắn thì nghỉ” tức là không có tôi kiểm soát thì cả đội ngưng lao động có phải là xúi giục không?

 

- Tôi nói lúc nào, có ai nghe thấy, cán bộ không ở đó thì làm sao cán bộ biết được?

 

- Dĩ nhiên không có tôi anh mới dám nói. Các anh bỏ gỗ ở sau nhà cán bộ võ trang, anh nói, cán bộ võ trang trong phòng nghe thấy.

 

- Cán bộ võ trang ở trong phòng, nếu có ai nói, cán bộ nghe làm sao cán bộ biết tôi nói mà không phải người khác?

 

Đuối lý vì câu hỏi của tôi, hắn đứng dậy và nói:

 

- Tôi hỏi anh chứ không phải anh hỏi tôi, anh không ký biên bản thì theo tôi về phòng an ninh giải quyết.

 

Vừa đi tôi vừa đoán chắc đây là một vụ xếp đặt từ phòng an ninh để lấy cớ nhốt tôi mà tên cán bộ quản giáo thực hiện màn kịch dở, không đầu đuôi, không tìm được một bằng cớ gì buộc tội tôi cho dù đã làm việc với hầu hết những đội viên trong đội mong tìm được lời tố cáo. Tôi quyết định là cho dù bị nhốt bao lâu cũng không nhận bất cứ tội gì bị gán cho. Vào phòng an ninh, tội gặp Long, trưởng ban an ninh, tên cán bộ nổi tiếng ác, hắn có cặp mắt nhỏ ti hí và bộ răng vàng lúc nào cũng chìa ra hai môi tím ngắt trên khuôn mặt quắt queo, da tái vàng vì bệnh sốt rét.

Long chỉ tôi ngồi vào chiếc ghế vuông đặt trong góc phòng cách xa bàn giấy. Cách thức này để đàn áp tinh thần người bị hỏi. Dưới cặp mắt soi mói và khoảng không gian như vậy, con người sẽ cảm thấy nhỏ bé hơn và lúng túng hơn là được ngồi vào ghế trước mép bàn như thường lệ. Tôi cố trấn tĩnh để ngồi thật ngay ngắn và giữ thoải mái để không tỏ ra sợ và cũng không sai phạm gì để bị bắt bẻ. Công an thường buộc người bị hỏi ngồi thật ngay, hai chân buông thõng, hai tay đặt ngay ngắn trên hai đầu gối, chờ nghe từng câu hỏi. Nếu ngồi khác đi hoặc có cử chỉ bằng tay khi trả lời sẽ bị bắt bẻ, nhiều khi là cớ để bị đập bàn chửi bới.

 

Nhìn tôi từ đầu đến chân như kiểu con thú muốn vờn mồi làm cho con mồi sợ hãi trước khi vồ cắn, Long chậm rãi hỏi:

 

- Mày làm gì trong tổ chức của thằng Trần Danh San. Tụi mày chuyên xúi giục chống phá trong trại.

 

Biết hắn hỏi chuyện trong trại nhưng tôi đánh trống lảng:

 

- Báo cáo, tôi bị bắt trước anh San và không có liên hệ gì với tổ chức nhân quyền của anh San.

 

- Mày đừng giả vờ, tao muốn hỏi mày về những hành động của chúng mày chống đối trong trại.

 

- Báo cáo, tôi không hề phạm nội qui, tôi không chống đối, và không biết gì về hành động chống đối trong trại.

 

- Những chuyện sờ sờ ra từ Tết đến bây giờ mà mày bảo mày không biết.

 

- Báo cáo, những chuyện gì trong trại xảy ra mọi người đều thấy, tôi cũng như mọi người, tôi có thấy, còn do đâu và ai làm thì tôi không biết. Tôi không bao giờ muốn biết đến việc làm của người khác.

 

- Mày đã học nội qui chưa, cải tạo phải phát giác những âm mưu chống phá và thành thật khai báo.

 

- Báo cáo, tôi đã thành thật khai báo những gì về cá nhân tôi, còn chuyện của người khác, tôi chưa làm được, xin cán bộ thông cảm, tôi không có thói quen nhìn vào đời sống kẻ khác.

 

- Mày đã xúi giục đội nghỉ làm lúc không có cán bộ quản giáo mà mày vẫn chối là không xúi giục, mày hèn lắm, đã làm mà không dám nhận.

 

Ngay lúc đó tên trực trại Hoạt bước vào, hắn đặt lên bàn hai tượng Phật nhỏ. Tôi chợt thấy lạnh người. Trong khi tôi bị hỏi cung. Hoạt đã xét tư trang của tôi, hắn đã tìm ra hai tượng Phật bằng gỗ mà Nguyễn Đức Điệp đã khắc cho tôi. Tôi dự định khi nhà lên thăm nuôi sẽ gửi về cho hai đứa con làm quà, gởi về cho mấy đứa con một niềm tin vào Phật. Tôi đi tù lúc con tôi còn nhỏ, tôi không dạy dỗ gì được chúng. Tôi sợ nền giáo dục của Cộng sản và xã hội Cộng sản sẽ làm cho con tôi trở thành những con người độc ác ti tiện, tôi muốn con tôi tin vào lòng từ bi, bác ái của giáo lý nhà Phật để chúng vẫn còn là một con người Việt Nam, không bị nhuộm đỏ. Với dụng cụ thô sơ làm bằng những chiếc đinh, Điệp đã khắc rất đẹp, rất sống. Mỗi ngày khi rảnh rỗi, tôi vẫn đưa hai tượng Phật ra để ngắm nét hiền lành từ bi của Phật để giúp củng cố thêm niềm tin. Tôi quí hai tượng gỗ đó vì giá trị tinh thần của nó và vì tình bạn quí mới có với Điệp và sự khâm phục của tôi dành cho sự can đảm của Điệp. Tôi đang suy nghĩ miên man, khi tên Long đang cầm hai pho tượng trong lòng bàn tay. Hắn ném mạnh hai pho tượng xuống đất rồi nhìn tôi cười gằn, hắn nói:

 

- Chúng mày cấu kết với nhau để chống đối, mày, thằng San kết với thằng Điệp. Thế là mày hết chối cãi nhé. Mày âm mưu gì với thằng Điệp?

 

Hắn vừa nói vừa bước ra khỏi bàn, tiến về phía chỗ tôi ngồi. Thấy hắn hỏi nhưng không chờ câu trả lời của tôi, tôi biết là hắn sắp đánh tôi nhưng tôi không biết cách gì đối phó chỉ ngồi chịu trận, cố nhìn về hai tượng Phật đang nằm dưới chân của tên Hoạt. Long lôi ngực áo tôi đứng dậy, hắn tát vào mặt tôi, tôi đỡ nhưng không được, sau đó, cả Long và Hoạt cùng đánh tôi. Tôi thu người để chịu đòn, tôi nhìn hai tượng Phật bị giẫm gãy, thấy uất hận và thấy mình hèn, tôi nhớ hôm Điệp bị đánh, anh đã ôm lấy tượng Chúa. Tôi nhoài người đến định chộp lấy hai tượng Phật. Nhưng Hoạt đã đá tôi thối lui trong khi Long dùng chân giẫm gãy nát tượng và đá ra ngoài khung cửa. Tôi đã thua kém Điệp. Tôi không bảo vệ được tượng - tôi hèn quá. Tôi chỉ cố gắng nuốt uất hận cùng với máu mồm máu mũi bị đánh giập ra.

 

Tôi gặp Thọ trong xà lim. Thọ nói cho tôi biết khi đưa tài liệu cho Định, bị bắt, anh đã nhanh tay bỏ vào miệng nhai, sau đó khai là tờ giấy viết bản Thu Vàng, từ đó anh không bị hỏi cung lại. Chúng tôi ước tính là chúng đã tin lời khai của Thọ và hy vọng là Thọ sắp được ra.

 

Bị nhốt kỷ luật thường có biên bản và quyết định thời hạn nhất định, mỗi lịnh phạt là hai tuần lễ, nếu gia hạn thì sau hạn hai tuần có quyết định khác. Theo thủ tục lịnh phạt được đọc trước sân tập họp vào mỗi buổi sáng trước khi xuất trại lao động. Trường hợp không có đọc lịnh phạt bị nhốt thời gian lâu dài, không biết thả ra lúc nào.

 

Kiểm điểm lại với Thọ thì hệ thống chuyển đường và thuốc tây cho anh em trong xà lim có làm việc tốt, tuy chuyển không đầy đủ những gì chúng tôi đã giao, nhưng việc làm đó của các anh đi đưa cơm cũng đáng được mang ơn .

 

Được làm nhà bếp và đi đưa cơm kỷ luật là đã được tín nhiệm của trực trại, ở trong tư thế đó mà các anh vẫn giúp đỡ nhận quà chuyển vào trong xà lim là một hành động đáng quí. Một cục đường, một viên thuốc hay chỉ một điếu thuốc lá được chuyển đến cho người nằm trong kỷ luật quí hơn bên ngoài cả trăm lần.

 

Khu kỷ luật trại Xuân Lộc có 4 nhà, mỗi nhà bên trong chia làm 4 phòng, mỗi phòng có 3 bệ gỗ để nằm. Người bị kỷ luật bị còng 1 hay 2 chân tùy mức độ nặng nhẹ, khi còng hai chân cũng tùy mức độ mà bị còng chéo hay còng thẳng, còng chéo cả hai chân là mức độ nặng nhất. Vòng sắt đánh thành hình chữ U bó sát vào ống chân có hai khoen ở cuối còng để xuyên một cây sắt từ ngoài tường, qua các trụ ciment xây cạnh mỗi bệ nằm, nên khi bị còng, chân của phạm nhân bị giơ cao hơn mặt bệ nằm gần hai tấc. Cuối cùng đầu cây sắt xuyên qua tường ở bên trong và cái khóa giữ cây xuyên qua đó. Bên ngoài đầu cuối của thanh xuyên đánh vòng sắt tròn đường kính khoảng hai tấc. Ban đêm, cứ mỗi giờ đổi gác, những tên cán bộ võ trang điểm danh xà lim bằng cách đạp vào vòng tròn này. Người bị còng chân bị nghiến giữa vòng sắt chữ U và thanh sắt xuyên đau điếng phải hô đáp có. Nếu không, sẽ bị đá cái thứ hai. Do đó, cứ đêm tối, tù xà lim phải chờ điểm danh lắc còng. Một đôi khi có tên võ trang ác độc cầm vòng sắt lay nhiều lần, bên trong chân bị siết đau đến tận óc, chảy cả nước mắt, nước mũi. Thời gian đầu, chân còn mập bị còng siết, ai cũng một lần bị sưng ống chân thành mụn lở thành cái sẹo to tướng.

 

Từ ngày Hớn giở nóc xà lim trốn trại, trần nhà đã bị đổ mạt cưa che kín, nên ngay ban ngày ánh sáng lờ mờ chỉ lọt vào qua khe cửa và khe hở những tấm gỗ đóng chèn khung cửa sổ, cái khung hở bằng bàn tay nơi cửa sổ cũng đóng kín chỉ mở vào ban đêm, để cán bộ tuần tra thỉnh thoảng rọi đèn pin vào. Cái khung mở vào ban đêm đó rất tai hại vì đàn muỗi từ rừng bay vào, muỗi nhiều quá nên cứ bám khắp cả mặt mũi tay chân tha hồ đốt, đập cũng không hết. Ở xà lim, khổ nhất là ban đêm, vừa muỗi, vừa lạnh, vừa bị đá còng không thể nào ngủ được.

 

Tôi ở xà lim một tuần thì Thọ được thả ra. Thọ gởi vào cho tôi một cục đường. Hệ thống gởi quà vào xà lim chỉ có tôi và Thọ liên lạc được với người bạn đưa cơm. Trong tuần lễ ở chung, tôi đã dặn dò Thọ những điều cần thiết chuẩn bị khi được ra, thông báo cho những anh em thân thiết được biết mà an tâm, tôi chỉ bị nhốt vì chúng nghi ngờ, không có yếu tố chính xác. Thọ cho anh em bên ngoài biết để tiếp tục, tùy hoàn cảnh làm được cái gì thì làm. Hệ thống an ninh của trại rất kém, chúng không nắm được gì cụ thể. Chúng chỉ biết được hoạt động trong tù một cách lờ mờ qua báo cáo của an ten tức là những người tù hèn hạ làm tay sai. Sống lâu với nhau, những tên tay sai cũng bị anh em nhận diện xa lánh nên cũng không lượm được tin tức. Do đó, an ninh còn có cách khác là làm bài toán trừ. Chúng nghi ngờ ai hay thành phần nào thì cứ đổi đội, đổi phân trại, khi cá nhân hay số người bị tình nghi được đổi đi, nếu đội và trại yên tĩnh thì bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu những người bị tình nghi đó. Phương pháp làm việc đó tắc trách nhưng cũng hữu hiệu, vì tù cũng còn e sợ, thiếu tổ chức lãnh đạo nên khi có người bị bắt là hầu hết những người khác đều thu lại sợ sệt, lắng tạm yên nên bao nhiêu tội lỗi, nghi vấn đều đổ lên những người bị bắt nhốt kỷ luật, dĩ nhiên nhiều khi cũng nhốt đúng người, nhưng trong đó cũng có người bị tình nghi oan. Số an ten làm việc, không sưu tầm tin tức báo cáo chính xác mà cũng chỉ dựa trên tình cảm thương ghét, giận hờn, thù oán mà báo cáo, vừa lập công vừa trả thù hay mượn tay cán bộ để triệt hạ nhau.

 

Chúng tôi luôn luôn cố gắng duy trì đối kháng liên tục một phần cũng để cho an ninh không kết luận chính xác ai là người hướng dẫn tổ chức đối kháng, làm cho những lần bộc phát đối kháng trở thành những hành động của đám đông, tự phát.

Năm 1979, tiêu chuẩn ăn có lúc đã bị độn đến 90%, mỗi tuần chỉ có hai bữa cơm còn thì ăn ngô, bo bo và khoai mì khô. Trong các thứ độn, ngô được xem là quí nhất, bo bo ăn vào không tiêu, ăn vào thế nào là bài tiết ra nguyên cả hột như thế đó. Về sau, tù mới sáng kiến ra phần ăn trước dành lại nghiền dập rồi bỏ vào cái lon nhôm đựng sữa Guigoz ra bãi gửi nấu lại. Khoai mì khô thì rất thê thảm, vừa nặng vừa mục, nên tiêu chuẩn ăn còn lại rất ít. Cái lon nhôm hiệu sữa bột Guigoz được gọi vắn tắt là cái Gô, là bạn đồng hành thân thiết của tù, người tù nào cũng kè kè bên mình một cái, vừa đựng nước uống ra bãi, vừa dùng để nấu canh tại bãi lao động. Những loại rau cỏ dại ăn được tìm thấy ngay hiện trường, lén nhổ cho vào gô rồi nhờ nhà bếp nấu. Nấu chín xong để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau cũng đỡ cái bao tử rỗng một lúc. Hôm nào bắt được con cóc, con nhái thì “canh có người lái”, tù gọi là Protéin; con gì cũng quí vì có chất thịt, chất protéin bổ dưỡng; tù có câu: “con gì nhúc nhích là ăn được”, “rau gì không chết thì ăn”, rau cỏ không có tên, ăn được là may mắn, nếu cần đặt cho một cái tên trước rồi ăn sau, do đó cây cỏ ngoài những loại rau dại thông thường như dền, sam, tàu bay, cải trời, chua lẻ, trong tù còn có rau bột ngọt, rau cà ri, và củ gì ăn được nếu chưa có cái tên đều gọi là sâm, sâm đại hành, sâm nam, sâm gòn, sâm tím v.v... Nằm xà lim lắng nghe tiếng kẻng để biết thì giờ, từ sáng đến tối đi ngủ 13 lần tiếng kẻng; biết lúc anh em thức dậy, tập họp, xuất trại, lao động, giải lao, vào lao, thu dụng cụ... Sinh hoạt buổi tối, đi ngủ. Tiêu chuẩn kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước muối, 9 kg mỗi tháng, mỗi ngày chia hai bữa hai chén nhỏ xíu. Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái lưỡi đã đưa cơm vào cổ. Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm, khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng cho con người được sống, nhai thật kỹ để chất thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại, tiểu tiện đều vào cái thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó.

 

Hôm nào ăn ngô là tốt nhất, bốc từng hạt ngô vừa nhai vừa đếm, mỗi hạt ngô nhai thành 50 hay 100 lần thật kỹ, nhai kỹ hơn cả kiểu ăn Ozawa gạo lức muối mè. Nhai nhiều lần không nuốt thì hạt ngô cũng biến vào cổ lúc nào không hay. Lại tiếp tục nhai đến hạt khác. Thường thường mỗi bữa ăn từ hơn 250 đến 260 hạt, lần nhiều nhất được 267 hạt và có lần ít chỉ được 187 hạt. Nhận được của Thọ một lần đường thì người đưa cơm bị thay thế.

 

Người đưa cơm mới bây giờ tôi nhìn mặt quen, mãi mấy ngày mới nhớ nhận ra anh là Cải, trung úy cảnh sát, trước làm tùy phái cho văn phòng đại tá Huỳnh Ngọc Diệp, Đổng Lý Văn Phòng Bộ Nội Vụ. Tôi nhớ mãi anh này vì trong đời tù ít gặp ai được như Cải, con người thật độc ác và phục vụ cho quan thầy thật đắc lực. Tiêu chuẩn nước cho xà lim mỗi ngày một ca bị Cải rút xuống còn hơn 1/2 ca, tôi nhớ rất rõ lời nói của anh với tên trực trại Hoạt: “Xin cán bộ bớt nước tụi nó xuống, cho nhiều tụi nó uống đái ra nhiều quá không đổ cầu kịp”. Một ca nước để dùng đủ thứ cho một ngày mà anh Cải gọi là nhiều, còn đề nghị bớt xuống. Chế độ tù đã khắc nghiệt, bọn cai tù đã độc ác mà không nghĩ cách rút bớt nước, mà anh Cải cũng là một người tù nỡ đề nghị bớt nước. Còn 1/2 ca nước cho mỗi ngày thì chỉ còn để uống, không còn khoản rửa hai con mắt kèm nhèm vào buổi sáng và rửa hậu môn khi đi đại tiện. Tốt nhất là bất cứ hoàn cảnh nào cũng chấp nhận và biến nó thành hữu ích để mà sống, vì sự sống và cái chết đối với những người tù bị cùm trong xà lim lâu ngày nó gần gũi nhau, chỉ cách nhau là cái hơi thở, tắt hơi thở là chết, còn thân xác khi đã ở xà lim trên ba tháng rồi còn gì nữa ngoài bộ xương bọc da. Nằm nắn bóp thân thể hằng này, sờ rõ những khoản lồi lõm trên đầu, trên mặt, ở cổ tay, cổ chăn, khuỷu tay, đầu gối, chỗ nào cũng lòi ra, hai cái mông đã teo hết thịt, xương mông lồi ra chạm vào bệ nằm đau điếng khi chuyển trở mình.

Mỗi ngày tôi vẫn cố đứng vài lần để tập thể dục, để phụ cùng cách xoa bóp để hy vọng cho hai chân khỏi bị tê liệt, để ngồi ngay ngắn điều tức hơi thở để cái phổi cho chắc chắn ngăn chận sự gậm nhấm của vi trùng lao, và để xoa bóp hai bên thận để cho thận được khỏe. Đó là những kinh nghiệm mà anh em tù đã dạy cho tôi từ khi mới vào nằm xà lim, mỗi người dạy thêm cho một kinh nghiệm, xoa bóp là một phương pháp chữa bệnh và đề phòng bệnh rất tốt. Ở trong tù bị kỷ luật cùm trong xà lim lâu ngày thường bị các chứng rụng răng, mù mắt, ho lao, bại liệt cả hai chân, suy gan, bao tử và suy thận; nói chung là bị suy tất cả bộ phận trong cơ thể nếu không bị kiệt sức đến chết.

Bộ áo quần mỏng manh trên người không đủ chống trả cái lạnh tấn công từ trong ra ngoài và từ mọi phía, trước hết từ cái bao tử trống rỗng lúc nào cũng nôn nao và nóng: có đói và lạnh mới hiểu được thế nào là “lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da”. Đói quá, nằm không được. Khi nằm bao tử trải rộng nó càng cồn cào, càng nóng. Từ đói đến lạnh từ trong tủy sống lạnh ra, lúc nào cũng cố kềm để khỏi run lên vì run lên rồi hai hàm lại chạm nhau cầm cập rồi cả người lên cơn rét run muốn dừng lại không được. Chỉ muốn xỉu. Lạnh phát ra từ cái bệ nằm càng về đêm cái bệ càng tiết ra hơi lạnh. Ban đêm chỉ có ngồi lên mới chịu đựng nổi.

 

Thành ra ở xà lim phải cố gắng tập giấc ngủ ban ngày. Còn ban đêm phải thức đối phó với lạnh, với đàn muỗi rừng đói máu, bám vào đốt khắp cả mặt mũi tay chân ngứa ngáy khó chịu. Muỗi rừng rất độc, vết ngứa cào xước thành ghẻ có mủ. Trong đêm tối thanh vắng tiếng muỗi vo ve bên tai nghe rất rõ, hòa với tiếng dế ri rỉ, nỉ non làm thành bản nhạc đêm buồn vời vợi. Bên ngoài thỉnh thoảng tiếng mang tác đâu đó, con chim heo đi ăn đêm bay qua kêu ùng ục, trong tiếng gió xua những tàn cây rừng ào ào. Người ngồi lắng nghe tưởng như thấy được những tàng cây lao xao ngã rạp về một phía, đứng dựng lên rồi ngả sang phía khác. Bóng đêm dày đặc như trùm hết cả trong phòng xà lim, chỉ có tưởng tượng, dùng sức tưởng tượng để cho đầu óc làm việc, để cho có ánh sáng lóe lên trong óc, để đầu óc khỏi mù lòa vì đôi mắt không còn nhìn thấy gì trong bóng đêm dày đặc.

 

Lê Phước Thọ dặn dò tôi cách thức dùng hai bàn tay che cái mặt, đôi cánh tay che thân thể và khom xuống mỗi khi bị tên Hoạt trực trại vào đánh. Hoạt là tên trực trại rất ác, cứ mỗi buổi chiều đi uống rượu về mặt mày đỏ gay là vào mở xà lim ra đánh người bị giam kỷ luật. Có khi hắn còn dẫn thêm vệ binh nữa để hai tên cùng đánh. Thọ bảo tôi phải cắn răng chịu, đừng phản ứng đỡ, gạt, vì càng đỡ gạt chúng càng đánh nhiều hơn. Ở xà lim bị đánh cũng không la được, la không có ai nghe thấy, anh em tập thể ở xa quá, giờ vào phòng rồi ai nấy đều bận rộn với những chuyện lỉnh kỉnh, không ai còn quan tâm đến những người bị cùm cách biệt trong các xà lim kín ở góc cuối trại. Các bạn nằm xà lim bên cạnh có nghe bạn bị đánh cũng không ai làm gì được. Chỉ có chịu đựng. Cách duy nhất mà người tù phải làm là chịu đựng. Lần đầu tôi vừa bị đánh vừa bị chửi là ngoan cố, sách động. Tôi cố gắng chịu những cái thoi, cái đánh cái tát vào người cố không để trúng mặt và ngực. Lúc đó mới thấy rõ được sự hèn hạ của những cán bộ Cộng sản. Những người tuổi trẻ nhưng trong lòng đầy thù hận, sự thù hận mà Đảng và Bác của họ dạy cho họ, hận thù những người họ không quen biết, vì thù giai cấp. Người miền Nam đối với họ là kẻ thù, nên khi họ đánh, tất cả những hận thù họ học được đều phát ra bằng sức mạnh ở cánh tay họ một cách không thương tiếc, không ngượng ngùng. Chỉ có nền giáo dục hận thù của Cộng sản mới tạo nên con người đê tiện. Những người thanh niên sung sướng hả hê khi đánh đập một người bị còng hai chân không còn khả năng và quyền tự vệ.

 

Tôi cảm thấy thật nhục nhã khi phải cong người lại để cho những cái thoi cái đấm nó vào lưng mà không vào ngực. Sau những lần bị đánh thấy hận thù chồng chất, có lúc ước ao có quyền lực thì đem thằng Hoạt ra lột da đầu mới hả giận.

 

Nhưng nhiều lần bị đánh rồi cũng thấy quen, thấy không cần phải cong người để né, tôi cứ thẳng người cho hắn đánh và cố gắng mở to đôi mắt nhìn thẳng vào hắn. Nhìn khuôn mặt đỏ gay, đôi môi mỏng dính và con mắt nẩy lửa của hắn tôi bỗng thấy mình lớn hơn, và thương hại cho hắn.

 

Quả tình hắn là nạn nhân của một đường lối giáo dục, hắn đánh tôi là thực hành những điều người ta dạy cho hắn. Giữa tôi và hắn không có hận thù cá nhân. Tôi thật thương cho người tuổi trẻ này; tôi thầm nghĩ tha thứ cho hắn. Hắn chỉ là nạn nhân của một chính sách biến người thành thú mà thôi.

 

Tôi vẫn không chịu ký biên bản kết tội xúi giục chống lao động, nên tiếp tục bị giam không được hỏi han đến. Bị giam trong xà lim như trong đáy tầng địa ngục. Nằm nghe tiếng kẻng lao động, tiếng người nói chuyện xôn xao bên ngoài, thấy đi lao động cũng còn sướng, đôi lúc thèm được đi lao động cho thoải mái hơn. Chợt thấy như vậy là sự thỏa hiệp mau chóng với hoàn cảnh, con người nhiều khi chỉ muốn được cái thật gần, ở tù muốn được ra ngoài, ở trong xà lim thấy ở ngoài lao động sướng hơn, muốn được lao động mà không nghĩ thêm nữa. Tôi chống lại sự ước muốn thật gần đó của tôi, tôi không ký biên bản. Vả lại tôi vẫn giữ lấy sự suy đoán về cách làm việc của công an, rằng nếu tôi ký biên bản là giúp cho bọn an ninh hoàn tất một vụ án, hoàn thành một công lao của chúng để báo cáo thành tích, để thăng cấp. Tôi phải chịu đựng. Không dễ gì tự hại mình để giúp bọn đê tiện có cơ hội thành công. Không ký biên bản thỉnh thoảng được kêu đi “làm việc”. Một buổi xả còng đi lên để được hỏi cung, trả lời dấm dớ ba câu, nghe những lời “giáo dục” ngọt ngào về chính sách khoan hồng nhân đạo, hoặc là nhìn thấy bộ mặt giận dữ đập bàn chửi mắng, để rồi có thể được uống một ly nước trà hay được hút một điếu thuốc lá. Đó cũng là cách giải trí của chúng tôi, những người tù bị giam nhiều lần ở xà lim.

 

Không phải lúc nào mình cùng nghĩ đúng, không phải lúc nào sự suy tính cũng trôi chảy. Tôi bị thêm một hình phạt, cúp phần muối trong bữa ăn. Bữa ăn của tù thường xuyên là cơm hoặc ngô, bo bo, khoai mì với muối, ăn muối mãi ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác nên thấy muối muốn sợ, cảm tưởng chát ở miệng và khô đắng ở cuống cổ. Chỉ có khi bị cúp muối, phải ăn nhạt mới thấy khó nuốt, bữa nào ăn ngô còn đỡ vì ngô nhai nhuyễn có vị ngọt, ăn khoai mì lát không có muối thì khổ hơn. Nằm mãi xà lim, kiểm lại thân thể và những nhu cầu đòi hỏi, tôi tưởng mỡ với đường là quan trọng; nhưng khi thèm muối mới thấy muối còn quan trọng hơn cả đường mỡ. Không có muối con người cứ mỏi mệt dần dần, mỏi từ thớ thịt đến từng khớp xương. Tôi vẫn cố gắng nhiều hơn để mỗi ngày xoa bóp từng bộ phận cơ thể, nhờ hai bàn tay hoạt động để làm cho các phần cơ thể khác được hoạt động đều, nhưng rồi cả cánh tay và bàn tay cũng mỏi nhừ ra không muốn làm việc vì thiếu muối. Mỗi ngày chân bị cùm tôi vẫn cố gắng ngồi tư thế thẳng mình để điều tức hơi thở và tập các thế Yoga, tập Yoga mỗi sáng thức dậy trở thành thói quen, nên hôm nào mệt mỏi hay ở nơi lạ không tiện tập là thấy khó chịu. Ở xà lim có thì giờ tôi tập thật đều và tập cả trước giờ ngủ, trước khi ngồi tĩnh tâm. Nhưng từ ngày thiếu muối có nhiều hôm tôi đã đầu hàng, trí óc bảo ngồi dậy mà thân thể mỏi nhừ không muốn ngồi lên. Tôi phải cố gắng và trách móc bản thân của tôi. Tôi biết đó là thử thách của tôi trước sự sống và sự chết. Nếu tôi còn gắng gượng duy trì được sự tập và xoa bóp, điều hơi thở mỗi ngày, tôi có thể kéo dài sự sống, nếu tôi đầu hàng nằm bẹp dí xuống, chắc chắn tôi sẽ mau chết hơn. Tôi phải sống thật đàng hoàng trong tù, để cho đến ngày về với một thân thể khỏe mạnh, một tinh thần vững chắc và một tâm hồn trong sáng, đó là mục tiêu của tôi phải phấn đấu với chính tôi. Ngày 2-9 là một lễ lớn, tù được nghỉ lao động, nằm nghe tiếng anh em nói chuyện ngoài sân râm ran và tiếng loa phóng thanh trên hội trường chuẩn bị làm lễ. Lễ lạt quan trọng gì không cần biết, đối với tù quan trọng là được nghỉ lao động và được ăn no.

 

Ăn một bữa cơm trắng có thịt và nghỉ lao động một ngày, bù lại phải ngồi nghe tên trưởng trại lải nhải về chính sách nhân đạo, về sự giàu có tiền rừng bạc biển của đất nước. Nói dở, nói dai, nói dài, nói dóc là nghề của Cộng sản. Cán bộ Cộng sản cứ nói, tù cứ nghe, nhưng nghe tai này ra tai kia, không có gì để lại trong óc thì không còn bực tức nữa. Kể từ sau khi chiếm miền Nam, cán bộ Cộng sản chỉ kể lại toàn chuyện láu cá vặt và họ hãnh diện vì những chuyện đó. Họ kể chuyện tại hội nghị Paris mỗi lần Lê Đức Thọ gặp Kissinger, Thọ luôn bước lên trên một bậc cấp mới chìa tay ra bắt để tỏ ra mình ở vị trí cao hơn, họ kể chuyện phái đoàn nông nghiệp Hà Nội đi thăm Nhật Bản, được Nhật Bản dẫn đi thăm cánh đồng lúa năng suất cao. Trưởng phái đoàn Việt Cộng giả bộ lỡ chân bước xuống ruộng để cho giày vấy bùn, đem bùn về Hà Nội nghiên cứu phẩm chất phân bón của Nhật... nhiều nữa, toàn chuyện mánh mung, toàn chuyện khôn vặt, láu cá. Tạo niềm kiêu hãnh, tạo niềm tin vào lãnh đạo. Dân miền Bắc bị dồn trong bóng tối, kiến thức hẹp hòi, tác phong làng xã mới còn có thể hãnh diện vì những hành động vừa mặc cảm vừa nhà quê đó. Dân miền Nam trình độ nhận thức cao, không ai tin những điều cán bộ Cộng sản nói ra.

 

Viện dẫn sử học để ngụy chứng vai trò lịch sử yêu nước giải phóng dân tộc, để che dấu con đường đưa đất nước vào vòng nô lệ cho khối đệ tam quốc tế. Người Cộng sản đã thúc đẩy niềm tự hào quá đáng của người Việt Nam về đất nước anh hùng với tài nguyên tiền rừng bạc bể, cái nôi văn minh của nhân loại và đỉnh cao của trí tuệ loài người.

 

Dân tộc Việt Nam có rất nhiều điểm đáng tự hào, đáng cho con cháu hãnh diện, ra sức bảo vệ và xây dựng đất nước.

 

Niềm tự hào là sức sống mãnh liệt của dân tộc, là sự tồn tại của dân Việt trong lịch sử chống lại âm mưu thôn tính và đồng hóa của Hán tộc phương Bắc. Lịch sử Việt Nam ghi lại bao nhiêu chiến công hiển hách của tiền nhân trong cuộc chiến đấu tự vệ, bẻ gãy tất cả các cuộc tấn công của Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Thanh, đánh đuổi bao lần chính quyền thuộc địa để tồn tại, trong khi có rất nhiều dân tộc bị người Hán đồng hóa thành một nước Trung Hoa to lớn ngày nay.

 

Sau khi thắng những cuộc chiến tự vệ, tổ tiên ta đã áp dụng chính sách ngoại giao khôn khéo, nêu cao tính hiếu hòa và nhân bản của người Việt Nam. Chiến thắng nhưng không kiêu căng, cầu hòa và xưng thần với nước lớn Trung Quốc, triều cống để giữ độc lập. Học đạo Khổng, du nhập định chế chính trị và ảnh hưởng văn hóa của Trung Quốc nhưng xây dựng một lối sống riêng.

 

Trong khi xã hội Trung Hoa là một xã hội phong kiến gia tộc, thì Việt Nam xây dựng một xã hội tương đối dân chủ trên nền tảng gia đình và xã thôn. Trong đó con người bình đẳng và không có giai cấp.

 

Từ thế kỷ thứ 10 nhà Lý đã ban hành đạo luật bãi bỏ chế độ nô lệ, đó là đạo luật giải phóng con người sớm nhất thế giới. Trong khi ở Trung Quốc chế độ nô lệ vẫn duy trì cho đến khi có cách mạng vô sản. Sự phân biệt đối xử sắc dân vẫn còn tồn tại trên thế giới văn minh ngày nay. Mỗi dân tộc đều có những niềm tin và tự hào riêng về dân tộc mình, nhưng không nên tự hào một cách quá đáng. Đất nước Việt Nam tươi đẹp, có đủ tài nguyên nếu được khai thác đúng mức và quản lý đúng đắn có thể nuôi sống một dân số trung bình đủ sung túc, nhưng không phải tài nguyên của nước ta vô hạn. So với những nước được thiên nhiên ưu đãi, Việt Nam chúng ta thua kém hơn nhiều. Chúng ta lại chưa thăm dò, thống kê để chắc chắn được đất nước chúng ta có được những nguồn tài nguyên cụ thể như thế nào để lập kế hoạch khả thi xây dựng đất nước. Trên một kiến thức phổ thông về địa lý kinh tế, chúng ta biết là nước ta có đồng bằng lưu vực sông Hồng Hà và đồng bằng sông Cửu Long có thể đủ nuôi sống dân chúng, và nếu phát triển đúng mức kỹ thuật nông nghiệp hiện đại, gạo có thể dư dùng xuất cảng, chúng ta có những cánh rừng chưa khai thác, và một bờ biển dài hơn 2200 km có thể phát triển ngư nghiệp và hy vọng thềm lục địa có dầu lửa; miền Trung và thượng du Bắc Việt, cũng như dọc dãy Trường Sơn miền Trung hy vọng có mỏ khoáng sản nhưng chỉ mới tìm và khai thác được những mỏ trữ lượng ít và phẩm chất kém. Đó là những điều mà hầu hết đa số người Việt đã biết và có thể chỉ có như vậy. Trong khi dân số Việt Nam đã cao, với diện tích hơn 300 ngàn kílô mét vuông, chúng ta có hơn 70 triệu dân, mật độ dân số đã cao hơn Trung Hoa là nước đông dân nhất thế giới. Trong khi đó các hệ thống hạ tầng cơ sở về kinh tế chưa có, hệ thống giao thông còn nhiều trở ngại, trình độ kỹ thuật không cao và tích lũy tư bản không có. Trong những điều kiện như vậy bất cứ ai cũng thấy nhiều khó khăn để lập kế hoạch phát triển kinh tế, nếu chỉ nhằm mục đích đem lại đủ cơm no áo ấm, chưa nói đến hoài bão phát triển kỹ nghệ. Chính quyền Cộng sản không nhìn vào thực tế những khó khăn đó, ngược lại họ chỉ tiếp tục đánh lừa dân chúng bằng những khẩu hiệu rỗng tuếch, về chính trị họ cho là Việt Nam là một “cường quốc chính trị”, về quân sự thì tự hào là đã đánh thắng liên tiếp các đế quốc Pháp, Nhật, Mỹ và bành trướng Trung Quốc, về kinh tế thì nước Việt Nam tiền rừng bạc bể. Toàn là những điều giả dối, muốn tiếp tục ru ngủ dân chúng và cán bộ binh sĩ của họp trong tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc để tiếp tục kêu gọi dân chúng hy sinh và chịu đựng đói khổ, để dân chúng không nhìn thấy sự bất lực của họ.

 

Nhưng những khẩu hiệu rỗng tuếch để tuyên truyền, lòng tự hào quá đáng về dân tộc và “đảng quang vinh” sau ngày 30-4-1975 chỉ còn một số ít người tin hay là chỉ tin vì nhiệm vụ và quyền lợi, đó là một số trong những đảng viên của họ, còn dân chúng miền Nam trình độ hiểu biết đã cao, nhờ nhiều năm được tự do tìm hiểu qua hệ thống truyền thông phổ quát nhanh chóng của thế giới và dân chúng miền Bắc đã bừng tỉnh sau ngày giao lưu với miền Nam. Một lầm lẫn to lớn của những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam, là họ đánh giá tình trạng dân chúng quá thấp, họ tưởng là họ vẫn còn bịt mắt được toàn dân, nên tiếp tục tuyên truyền dối trá và dùng xảo thuật để cai trị, họ không lường được sự tiến bộ của người dân Việt Nam về trình độ nhận thức đã tiến quá xa trong 30 năm chinh chiến, nhận thức của người dân đã bỏ xa những lãnh tụ lạc hậu. Không còn thời kỳ bịp bợm được nữa - Bất cứ người làm chính trị nào không nhất thiết là những lãnh tụ Cộng sản hiện tại, nếu tiếp tục dùng xảo thuật đánh lừa dân chúng sẽ bị đào thải.

 

Ngày nay người dân Việt Nam đại đa số đã hiểu là họ không thể tìm ra một nhà lãnh đạo thần thánh, một đấng minh quân khác thường từ cách sinh ra cho đến cách sống hàng ngày, có tài năng siêu quần, xuất quỷ nhập thần. Đại đa số người dân đã hiểu người lãnh đạo chính trị cũng chỉ là một người bình thường có lòng yêu nước, thương người, biết xúc động vì cái khổ của người dân, và biết dung hòa quyền lợi của mình cho quyền lợi chung, một người có trình độ hiểu biết, khả năng phối hợp công tác và giải quyết công việc, biết kết hợp được đội ngũ trí thức đông đảo để duyệt lại các ưu khuyết điểm của một dân tộc đã bị điêu linh sau gần một trăm năm lệ thuộc và gần nửa thế kỷ bị tàn phá vì chiến tranh và tàn phá vì lý thuyết ngoại lai, duyệt lại những tiềm năng của đất nước một cách thực tế và tương đối chính xác để lập kế hoạch cụ thể đưa đất nước tiến dần từng bước từ nghèo đói đến tiến bộ. Người lãnh đạo biết sử dụng lòng yêu nước chân thật động viên toàn dân, để mọi người trên dưới cùng hiểu thế đứng và vị trí của dân tộc trong cộng đồng thế giới hiện tại. Không cần phải kích động lòng yêu nước cực đoan, sự tự hào quá đáng, không tưởng về tiềm năng đất nước, người dân Việt Nam xứng đáng tồn tại, chúng ta không phải là cái nôi của văn minh nhân loại, cũng không phải là nơi phát xuất các trào lưu tư tưởng của loài người. Chúng ta trải qua một môi trường thử thách, dân tộc Việt Nam đã chịu đựng và tồn tại trong môi trường thử thách của sự xung đột của các dòng lịch sử và các trào lưu tư tưởng và văn hóa Việt Nam được hình thành trong tinh thần hội nhập. Trong hơn 30 năm làm chiến trường cho cuộc chiến ý thức hệ giữa Cộng sản và Tư bản, từ đó từ bỏ những sự thái quá của mình và Cộng sản cũng sẽ tàn rụi. Cộng sản thường dùng thuật ngữ “thời kỳ sau Việt Nam” để nói lên sự chiến thắng của họ và Breznev đã kiêu căng thách đố “ai thắng ai”, nhưng họ không ngờ là tư tưởng Cộng sản không thể phát triển được ở miền Nam Việt Nam dù họ đã chiến thắng về quân sự, nên thời kỳ sau Việt Nam phải hiểu là thời kỳ suy thoái của Cộng sản. Không một người chính trị gia Việt Nam nào làm được chuyện đó, không một lực lượng chính trị hay tôn giáo nào làm chuyện đó, nhưng toàn dân Việt Nam đã làm, sức sống và sự sống Việt Nam, văn hóa Việt Nam đã làm nên chuyện đó, một cách tự nhiên. Bạo lực, tà thuyết rồi sẽ đi qua và Việt Nam vẫn tồn tại, đó là niềm tin của mọi người dân Việt Nam. Sức sống tiềm tàng và mãnh liệt đó đã giải thích được sự tồn tại của dân tộc Việt Nam sau 1000 năm lệ thuộc Trung Hoa, thì ngày nay sự tồn tại của dân tộc Việt Nam sau sự xâm lăng của Cộng sản quốc tế là điều tin tưởng được.

 

Ngày lễ Quốc Khánh được hai em Tiều và Tài ở hai xà lim gần tôi nhắc từ mấy ngày trước. Tiều và Tài trong nhóm 18 người ở đội 4 đánh cán bộ cướp súng đào thoát cuối năm ngoái, họ lần lượt bị bắt trở lại hoặc bị bắn chết trên đường đào thoát. Hùng và Tí đã bị cắt gân chân, di chuyển về Chí Hòa để truy tố tội chủ mưu. Châu Pâu đã được ra khỏi xà lim tháng trước vì bị liệt cả hai chân sau thời gian bị cùm. Tiều mới bị bắt cách đây 4 tháng, là người bị bắt cuối cùng. Bốn tháng bị giam không có được một chút chất béo. Tiều thèm thịt, nên suốt ngày chỉ gọi Tài để hỏi về bữa ăn lễ 30-4, bữa cơm có thịt. Tài đã xác nhận là lễ ăn cơm trắng với thịt. Tiều vẫn cứ hỏi mãi, để cho chắc chắn, củng cố sự hy vọng của em. Suốt ngày nằm một mình trong xà lim buồn không có gì để nói, không biết suy nghĩ gì, nên trí óc cứ bị quanh quẩn trong sự thèm muốn của một thể xác ốm đói từ lâu.

Nhắc tới thịt tôi cũng rỏ nước miếng, nuốt liền mấy lần nước miếng vẫn ứa ra đầy mồm. Tôi đang thèm mọi thứ, đã 38 ngày ăn lạt, không có tí muối, người đã rã rượi, mỏi nhừ, chỉ cần một muỗng nước muối đã là hạnh phúc lắm đừng nói đến đường hay một miếng thịt, nhất là miếng mỡ heo.

 

Cố xua đi sự thèm muốn và ý nghĩ về những món ăn đó vẫn không xua đi được, quanh quẩn lại vẫn cứ nghĩ đến và mong đợi giờ cơm, bên kia thì Tiều nó cứ nhắc cứ hỏi mãi, tôi có muốn quên cũng không quên nổi. Muốn ngồi lên để tập trung tư tưởng, ngồi lên một lúc thì đầu óc loạn, khắp người mỏi rã rời tôi phải nằm xuống. Tôi không biết tình trạng này tôi có thể chịu được bao lâu nữa, nếu kéo dài thêm thời gian nữa không biết ra sao, tôi chết? Tôi liệt? Tôi mù? không biết việc gì sẽ xảy đến; không biết bao giờ mới chấm dứt hình phạt ăn không có muối, thả ra thì không hy vọng, nếu thả tù đã thả trước ngày lễ. Tôi chỉ còn mong hai bữa ăn ngày lễ này, cơm nhiều một tí, có phần thịt buổi trưa và phần nước mắm pha mỡ vào buổi chiều.

 

Bị cùm giam xà lim phải dùng mọi nghị lực để chịu đựng, nếu không chịu đựng thì kiệt lực mà chết. Chịu đựng cho đến ngày được thả ra sẽ hồi phục, sẽ được anh em giúp đỡ bồi dưỡng trước khi được gia đình tiếp tế thăm nuôi trở lại. Chết và Sống đối với người tù kỷ luật tính hàng ngày, hàng giờ. Một món thức ăn vô cùng quan trọng, có thể kéo dài thêm sự sống một thời gian ngắn, không chừng trong thời gian đó lại được thả ra, lúc đó thì lại sống trở lại, giá trị miếng thịt, cục đường nó ngang với sự sống trong hoàn cảnh này.

 

Cuộc đấu bóng chuyền đã kết thúc, tôi biết rất rõ vì nghe tiếng dội của bóng rơi, cũng may là thân thể rũ liệt nhưng trí óc vẫn còn sáng. Anh em chắc đã về nhà chuẩn bị bữa cơm trưa. Xà lim chúng tôi sắp được phát cơm. Tiếng chân bước của anh Cải tôi nghe rất rõ. Anh Cải đến ngồi trước cửa xà lim tôi, qua khe hở cánh cửa tôi nhìn thấy Cải có vẻ sốt ruột mong mở cửa để làm xong công tác. Những ngày lễ có ăn uống, những tên trực trại hay mở xà lim trễ, có khi chúng mải ăn nhậu quên mở cửa, làm mất cả bữa ăn của tù bị giam trong xà lim. Một bữa cơm có thịt vào ngày lễ đối với người tù nào cũng quan trọng. Cứ mãi lẩn quẩn nghĩ đến miếng thịt vừa béo, vừa mặn, vừa ngọt, đủ thứ mùi vị, dù chỉ là thịt heo kho với muối, tôi nuốt nước miếng ừng ực, đầu óc không kềm chế được cái bao tử cồn cào réo gọi các hạch nước miếng. Đã lâu quá không được chất béo, chất ngọt, chất mặn, các tế bào cứ muốn nổi loạn. Phần cơm thịt đã ở trước mắt chỉ chờ mở cửa.

 

Cải đã ngồi hàng giờ trước cửa, nhiều lần anh đi ra đi vào nôn nóng; anh không biết trong xà lim chúng tôi cũng nôn nóng không ít, từ lúc có người bên ngoài Tiều không dám gọi nên khu xà lim vắng ngắt, và toàn trại cũng thật vắng, mọi người đã ăn xong đi nghỉ trưa.

 

Tiếng trực trại đi vào, tôi thở dài thoải mái vì sự chờ đợi đã đến, khi phần cơm được anh Cải đưa vào, tôi tưởng mình hoa mắt, cố trấn tĩnh để nhìn lại, trên ca cơm còn cái vết màu nâu cơm dính thịt kho, phần thịt không còn nữa. Ngồi chờ đợi mở của anh Cải đã ăn hết phần thịt tiêu chuẩn lễ của tôi.

 

Khi các xà lim được phát đủ và tiếng chân của người đưa cơm đã ra ngoài xa, thì tiếng Tiều lại vọng lên, em hỏi Tài có thịt hay không. Tài đáp không có, em hỏi qua tôi, tôi cũng đáp không có, tôi nói với Tiều có lẽ nhà bếp làm không kịp, khuyên Tiều nên chờ buổi chiều. Tôi ngồi ăn thật chậm, bữa ăn đã bị Cải ăn mất phần thịt nhưng đối với tôi lúc đó cũng ngon như một đại tiệc, một phần cơm đầy hơn nửa ca, gấp ba tiêu chuẩn ngày thường, có nước mắm mặn và có mùi mỡ phảng phất. Cái mũi tôi phân biệt có mùi mắm và mùi hơi mỡ và cái lưỡi của tôi giúp tôi thưởng thức trọn vẹn cái ngon của nước mắm và hơi mỡ thơm béo lờ mờ trên đầu lưỡi. Kể từ hôm đó tôi được phát muối trở lại.

 

Sáng ngày 4-9 tôi được gọi ra làm việc; lúc mở còng tôi vội vàng đứng lên, chưa đứng thẳng người tôi đã khụy xuống vì chân đứng không vững, hai đầu gối nhũn ra, liếc nhìn tên cán bộ Hoạt sợ hắn lấy cớ chửi, nhưng tôi hơi ngạc nhiên, không thấy hắn khó chịu, hắn sai Cải đỡ tôi dậy, dìu tôi ra ngoài, hắn bảo tôi ngồi xuống một lúc cho đỡ tê, sau đó bảo tôi làm động tác đứng lên ngồi xuống một lúc cho quen rồi mới bảo tôi theo hắn đi ra văn phòng trại. Đối với Hoạt như vậy được xem là đã quá tử tế với tù kỷ luật.

 

Tôi ngạc nhiên lần này tôi gặp Thích, trại trưởng, hắn chỉ tôi ngồi xuống ghế, xong hỏi han sức khỏe của tôi. Hỏi han sức khỏe tù và thăm tin tức gia đình tù là việc làm công thức của những tên cai tù cao cấp, lúc nào cũng đóng vai trò hiền lành dễ thương để thi hành chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và nhà nước. Bọn này làm như chúng không biết là chúng tôi đang đói, không biết là chúng tôi thường hay bị chửi bới đánh đập tàn nhẫn, không biết chúng tôi bị hành hạ ngày đêm ở khu xà lim và làm cho cổ chân tôi đã bị cây xuyên và chiếc vòng nghiến trợt da làm độc, từ làm độc sưng tấy lên, nở mủ thành mụn, rồi lành lại thành vết sẹo mà không hề được một viên thuốc.

 

Những tên giám thị cao cấp như phân trại trưởng, chính trị viên, trại trưởng chỉ đóng vai người hiền, còn ác độc thì bọn giám thị cấp dưới làm - một đồng một bóng đóng trò. Tôi rất yếu nhưng phải trả lời với Thích là tôi khỏe mạnh, trả lời đau yếu cũng vô ích, nó cũng không tốt gì cho tôi hơn lúc đó, tôi đã hiểu nhiều rồi. Sau đó là một màn độc thoại của Thích cho tôi nghe:

 

- Sao anh không nhận thức được thực tế, chống đối làm gì và vào trong tù anh còn chống đối, anh phải biết chính quyền bù nhìn của ngụy với triệu lính, hai trăm ngàn cảnh sát và hơn 500 ngàn lính Mỹ và chư hầu mà cách mạng và nhân dân cũng đánh tan. Bây giờ hệ thống chính quyền cách mạng đã vững chắc từ dưới lên trên, tai mắt của nhân dân ở khắp mọi nơi, hành động chống đối bị triệt tiêu từ trong trứng nước. Toàn dân đã an cư lạc nghiệp và đứng về phía cách mạng rồi, không còn có một thế lực đế quốc nào có thể xoay đổi tình thế, sau khi tên đế quốc đầu sỏ là Hoa Kỳ đã bị đánh tan tành... là nhân viên ngụy quyền anh cũng phải biết chính sách cải tạo của chúng tôi nhân đạo hơn chế độ tù của ngụy quyền các anh chứ? Anh có biết thằng Đại tá Hải và thằng Trung tá Vệ, giám đốc nhà giam Chí Hòa và trại tù Côn Đảo không, chính hai thằng đó đã xác nhận chính sách cải tạo nhân đạo của cách mạng là ưu điểm của chúng tôi khi so sánh trại cải tạo với nhà tù của các anh... chúng tôi đã thành công trong chính sách cải tạo. 70% cải tạo viên chấp hành chính sách, họ sẽ lần lượt được xét tha khỏi trại, 20% lừng khừng dễ bị xúi giục manh động, còn 10% thì không cải tạo được, còn tiếp tục chống đối, số này sẽ bị nghiêm trị, đảng sẽ kiên trì với họ, 10% này trong đó có anh... anh nói anh không chống đối, chúng tôi biết hết, anh thấy tôi đã biên chế các đội theo thành phần tuổi tác. Số người trên 50 tuổi biết nói mà không dám làm, chúng tôi không sợ, thành phần dưới 30 tuổi không biết suy nghĩ, manh động nghe theo sự xúi giục, chúng tôi cũng không sợ, chỉ có thành phần từ 30 đến 50 tuổi của các anh vừa biết suy nghĩ vừa dám làm là thành phần chúng tôi cần giam giữ lâu dài... Trại này không thuận lợi cho anh cải tạo, chúng tôi sẽ đưa anh đến một trại khác, nơi đó có đủ điều kiện cải tạo hơn, trước khi anh đi tôi thành thật khuyên anh, không làm gì được đâu, anh nên yên thân đi.

 

Ngồi nghe Thích nói chuyện, tôi hiểu được thêm về cách làm việc của công an và quan niệm của Cộng sản về người tù, không những nhốt tù vì sự vi phạm, vì giai cấp, vì trình độ học vấn, mà còn vì tuổi tác nữa. Thảo nào có những vị Đại tá hay Tổng trưởng đã được tha mà sĩ quan cấp Úy vẫn còn bị giam giữ. Nghe Thích nói cũng có ích cho tôi và lời khuyên của hắn cũng có vẻ thành thật dù trong đó hàm ẩn sự tự kiêu, thái độ của kẻ tiểu nhân đắc chí; tôi không thấy cần phải nói gì nhiều hơn vì Thích đã nói rõ là tôi sẽ được chuyển trại. Tôi nói trước khi được thả ra khỏi phòng về trại để chuẩn bị di chuyển:

 

- Cám ơn Trung tá về lời khuyên nên yên thân, lần đầu tiên tôi được nghe một lời nói thành thật.

 

Tôi biết Thích không bằng lòng lời nói của tôi, cần gì, sẽ chuyển trại và kinh nghiệm cho biết chuyển trại thì càng khổ hơn, vả lại Thích đã nói rất rõ, hắn ghép tôi vào thành phần không cải tạo được để đưa đến một trại có điều kiện cải tạo hơn, ngây thơ lắm chắc cũng biết là điều kiện sẽ gay go hơn trại Xuân Lộc này.

 



 


Chương Mười Hai

 

 

Tôi được ra khỏi xà lim. Thời điểm này ở trại có nhiều tin đồn sẽ đưa tù nhân cải tạo đi ngoại quốc do kết quả Hội Nghị Quốc Tế Nhân Quyền Genève năm 1979.

Sau buổi lao động, bạn bè đến mừng, cho thức ăn để bồi dưỡng. Anh em giữ được tình cảm với nhau, dù ở trong điều kiện khó khăn về vật chất, anh em vẫn thương người bị giam cầm trong kỷ luật. Bất cứ ai từ trong xà lim được thả ra, ít nhiều anh em cũng tìm cách giúp đỡ thức ăn và thuốc men.

 

Có nhiều anh em quá lạc quan, họ suy đoán chúng tôi là nhóm đầu tiên được chuyển ra nước ngoài.

 

Tôi đã được trại trưởng thông báo chuyển trại, và hắn còn nói rõ là sẽ đưa đến nơi có điều kiện cải tạo hơn, tức là điều kiện giam giữ và lao động sẽ khắt khe hơn. Tôi nói điều đó nhưng nhiều bạn vẫn không tin. Họ vẫn đoan chắc là chúng tôi được tống xuất.

 

Tù thường mơ ước, những ước mơ dựa trên những tin tức không chính xác được diễn dịch qua sự suy luận chủ quan. Ngày nào trong tù cũng có tin tức lạ, nhất là sau giờ thăm nuôi. Những tin tức loại “xịn” đó được chế đi chế lại qua nhiều người. Thăm gặp gia đình vào, đem biếu thức ăn cũng không quý bằng đưa ra một “hot news”. Nếu không có “hot news” không chừng bị anh em nóng tính mắng là người nhà chỉ biết lo ăn không lo nghe tin của đài BBC. Tin tức phải được xác nhận do đài BBC loan mới được xem là có giá trị cao. Người loan tin xịn được tù quí trọng. Tù mặc tình chế tạo tin, tin nào cũng xác nhận hoặc là sắp sửa được Mỹ rước, hoặc tin quân sự như các địa điểm chiến lược, hay rừng núi đều được quân ta ở trong rừng chiếm gần hết, những tên Nguyễn Cao Kỳ, Bùi Thế Lân, Ngô Quang Trưởng được nhắc đến hàng ngày. Không phải tù hoàn toàn tin vào những tin tức sốt dẻo đó, họ thích nghe thì đúng hơn, vì những tin đó hợp với sự mong đợi của họ hơn là những loại tin tức tuy hợp lý nhưng ngược lại, và khó nuốt như tin tức về việc gia hạn tập trung cải tạo, hoặc có người nào dám nói là không có lực lượng quân đội trong rừng sẽ gặp phản ứng dữ dội, bị buộc tội đâm sau lưng chiến sĩ, làm nản lòng anh em hay tay sai cho Cộng sản. Quần quật làm lao động, nghe và bình luận “hot news”, ăn khoai mì, hút thuốc lào, kể và nghe chuyện kiếm hiệp, đa số tù nhân bị hủy hoại từ thể xác đến tinh thần trong đời sống hàng ngày ở trại cải tạo như vậy. Có nhiều người cần những loại tin tức lạc quan giúp họ sống và hy vọng như một loại thuốc ngủ để cho người bịnh an tâm ngủ quên khỏi sợ hãi cơn bịnh trầm kha trong đêm dài vô tận.

 

Tôi quí những anh em trẻ trong nhóm Phố vì họ biết dùng thì giờ rảnh rỗi thật hiếm ở trong tù để tìm hiểu học hỏi thêm, biết hướng sự suy nghĩ để phân tích những đề tài ích lợi, làm cho đầu óc sắc bén và phong phú thêm, không hủy hoại bởi những trăn trở vô ích. Xa họ tôi rất buồn đồng thời cũng mừng cho họ, vì không ai phải chuyển trại cùng với tôi lần này. Dù khổ cực đến đâu các trại ở Saigon cũng đỡ hơn vì gần gia đình, có thể thăm gặp đều đặn. Mỗi lần có chuyển trại xa về hướng Bắc chừng nào càng khổ chừng đó.

 

Khoảng 4 giờ sáng ngày 5-9-79 chúng tôi bị đánh thức chuẩn bị rời trại, nghị sĩ Phan Thông nhờ bị thương từ trước, đi đứng khó khăn được cho ở lại cùng với hai người có án 18 năm được xem là án nhẹ. Tổng số bị chuyển tròn 30 người, 8 người có án từ 20 năm đến chung thân. Trong 22 người tập trung cải tạo chỉ có anh Tăng Ngọc Hiếu là sĩ quan trình diện - còn 21 người còn lại thuộc thành phần bị bắt.

 

Chiếc xe vận tải bít bùng không cho phép chúng tôi nhìn ra bên ngoài, nhưng chúng tôi cũng biết đến ngã ba ông Đồn xe rẽ trái, xe di chuyển về hướng Bắc, rõ ràng đã làm tiêu tan hy vọng của người “lạc quan tếu” nhất là anh Nguyễn Văn Hiếu. Đến lúc được còng tay đẩy lên xe, anh Hiếu vẫn thầm thì nói với người đồng còng là về Saigon để lên máy bay ra ngoại quốc.

 

Quốc lộ 1 đã hư hỏng nhiều nên xe di chuyển thật chậm. Mới hơn 4 năm, hệ thống giao thông đã lùi lại bằng thời kỳ những năm 50. Quá trưa xe tạm dừng nghỉ ven quốc lộ nơi đồng vắng ngoài tỉnh lỵ Phan Rang. Mỗi lần di chuyển tù bọn công an vũ trang bảo vệ rất chặt chẽ, chúng nói là sợ dân chúng phẫn nộ hành hung tù nhân. Anh em từ các tỉnh miền Tây kể lại họ di chuyển bằng xe đò, cứ mỗi lần dừng nghỉ ở thành phố hay vùng đông dân, đồng bào thấy tù chuyển trại, họ không phẫn nộ, trái lại còn ném thức ăn, trái cây hay tất cả những gì họ đang có lên xe cho tù. Để tránh tình trạng đó, nên chúng tôi được ngồi xe thùng kín mít và khi dừng nghỉ ăn trưa ở nơi đồng trống.

 

Buổi chiều xe nghỉ lần thứ hai tại dốc quận Tuy An tỉnh Phú Yên, để chúng tôi ăn nốt phần cơm còn lại. Đầm Ô Loan vẫn đẹp, nước xanh biếc in rõ bầu trời cao, lác đác vài cụm mây mỏng bồng bềnh di chuyển chậm chạp. Từ Phú Yên trở vào là vùng khí hậu khô và ít mưa, tháng chín vẫn còn là mùa nắng. Mười bốn năm trước tôi làm ở quận Đồng Xuân, gặp thời kỳ chiến tranh gia tăng ác liệt, nhiều vùng bị Việt Cộng tạm chiếm, quốc lộ di chuyển không an toàn, từ Tuy Hòa về quận phải đi bằng trực thăng, mỗi lần trực thăng từ bờ biển rẽ trái bay qua đầm Ô Loan tôi nhoài người để nhìn ngắm khắp cái cảnh đẹp bên dưới và mong có ngày hết chiến tranh trở lại sống nơi đây một thời gian để những lúc rảnh rỗi bơi thuyền khắp vũng đầm thỏa thích.

 

Chiến tranh đã kết thúc, nhưng tôi đã ghé lại đây trong hoàn cảnh của người tù. Ngước nhìn về phương Nam, núi Vọng Phu ẩn hiện mờ nhạt, chạnh lòng nhớ vợ con ở nhà, mỗi lần di chuyển càng xa gia đình hơn, biết có bao giờ được trở về, vừa thương gia đình, vừa thấy mình có lỗi. Tôi đã không làm trọn vẹn trách nhiệm của người chủ gia đình, một quyết định sai lầm bao nhiêu người phải khổ lụy theo. Hơn 5 tháng bị giam trong xà lim kỷ luật, vợ con tôi tháng nào cũng lên trại để xin gởi quà thăm gặp nhưng đều bị từ chối, hiểu rõ hoàn cảnh gia đình, tôi không biết là vợ con tôi còn có thể chịu đựng được bao lâu nữa với cuộc sống càng ngày càng bị thắt chặt lại.

 

Chỉ có một ngày ăn di chuyển, buổi tối chúng tôi đến trại Xuân Phước. Đó là một trại ở vùng nước độc chuyên giam giữ tù hình sự. Ở tù chung với tù hình sự là một điều không may mắn, một thành phần quá ô hợp và phức tạp, đa số chỉ sống theo bản năng, mặt khác cán bộ coi tù hình sự quen thói xử tàn bạo hơn là đối với tù chính trị.

 

Chúng tôi được “chào đón” tận tình ở trại, chỉ có 30 người tù được hơn một chục cán bộ xét kiểm đồ vật trước khi nhập trại, thuốc men, thức ăn đều bị tịch thu. Cán bộ giải thích, ở trại tổ chức ăn uống tập thể, không phân chia vì phân chia thức ăn là vết tích của tư sản, nặng đầu óc tư hữu và trại sẽ lo cho “đầy đủ”. Vấn đề gia đình thăm gặp, thời gian đầu tạm ngưng, trại sẽ cứu xét tùy thái độ chấp hành cải tạo.

 

Về ở trong phòng mới xây bằng gạch kiên cố còn nồng mùi vôi mới quét. Đầu hôm hơi rừng đã tràn về lạnh ngắt qua những cửa sổ chắn song sắt trống trơn để cán bộ đi bên ngoài có thể kiểm soát được bên trong. Tiếp xúc lần đầu với cán bộ trại, ai nấy đều lo âu, bởi ai cũng hiểu là sự hứa hẹn lo đầy đủ nó sẽ như thế nào, không được gia đình tiếp tế thuốc men và thức ăn không biết sẽ ra sao. Nằm bên cạnh tôi là hai ông Võ Văn Hải và Lý Thành Cầu trằn trọc và thở dài suốt đêm, tội nghiệp hai người đã trên 60 tuổi. Tôi nhớ đầu năm 1978 ông Hải vẫn còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn, làm lao động không thua một thanh niên, chỉ mới hơn một năm đã tiều tụy hẳn, nhất là cặp mắt không còn tinh anh. Muốn an ủi hai người, nhưng nghĩ là quá khách sáo nên thôi, vì bản thân tôi âu lo không kém. Còn trẻ nên tôi không để lộ ra và dễ dỗ giấc ngủ hơn. Ông Võ Văn Hải là con một người bạn đồng liêu của ông Ngô Đình Diệm. Thời gian ông Diệm ở Mỹ, ông Hải ở Pháp học tốt nghiệp trường kinh tế - trở về nước cùng với ông Ngô Đình Diệm từ ngày đầu tiên ông được kể như là một người thân tín nhất của ông Diệm ngoài những người anh em trong gia đình. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, ông Hải lúc đó là chánh văn phòng Tổng Thống, không hề bị làm khó dễ cũng như không bị chê trách đủ nói lên đức tính của ông. Sống cạnh ông Hải từ ngày đầu tiên ở trại lao động cải tạo, cho đến khi ông chết năm 1983, tôi biết rõ những tính tốt của ông. Biết thương và chia xẻ của riêng cho những bạn tù nghèo khó là điều tôi ít tìm thấy trong những người lớn tuổi và từng giữ chức vụ quan trọng ở chế độ cũ, đa số đều ích kỷ. Hài hòa với mọi người nhưng khắc kỷ với bản thân và nghiêm khắc với thân nhân trong gia đình là bản tính của ông.

 

Đây là lần thứ hai tôi thấy ông Võ Văn Hải mất tinh thần. Lần đầu ông hơi mất tinh thần khi đọc xong truyện trinh thám “X-30 phá lưới” của một nhà văn Cộng sản trong đó nhân vật Võ Văn Hải được mô tả như là một người chống Cộng sản mạnh mẽ nhất trong những người thân cận của Tổng Thống Diệm.

 

Ông Lý Thành Cầu là người thứ hai tôi hết lòng yêu mến trong những người đi cùng đến trại Xuân Lộc. Chuyến đi này cũng có ông, dù là trong một năm rưỡi ở trại, ông Lý Thành Cầu không vi phạm điều gì. Trường hợp ông Lý chứng tỏ sự trả thù dai dẳng của Cộng sản. Ông Lý là Đại tá của quân đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa, được cử theo cụ Nguyễn Hải Thần về Việt Nam, ông Lý biết rất rõ từng nhân vật cũng như biến chuyển nhanh chóng của lịch sử Việt Nam trong những ngày tháng trước và sau ngày Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập. Sau khi cụ Nguyễn Hải Thần thất bại, ông Lý trở về Trung Hoa thời gian ngắn, rồi trở lại Hải Phòng nơi ông được sinh và lớn lên trước khi về học ở đại học Bắc Kinh. Từ khi di cư vào Saigon ông Lý lấy vợ Việt Nam và lập xưởng làm nước tương, không còn tham gia hoạt động chính trị. Sau khi miền Nam sụp đổ ông Lý bị Việt Cộng bắt nhốt từ những ngày đầu tiên.

 

Ông Lý hiểu rõ phong tục tập quán của người Việt, ông thuộc rất nhiều thơ văn Việt Nam, lúc đầu gặp ông Lý tôi đã có cảm tình khi nghe ông đọc nhiều đoạn thơ trong Chinh Phụ Ngâm cũng như thơ Kiều. Học lịch sử Việt Nam, nhớ lại một ngàn năm đất nước bị Trung Hoa đô hộ, từ nhỏ tôi vốn không thích người Tàu, nhất là những người tài phú thương mãi. Từ ngày gặp một số người Hoa có trình độ học vấn cao như ông Lầu, một nhà báo Đài Loan, Trần Tỷ một nhà tư sản, Trương Dĩ Nhiên, nhà tư sản, ông Lý, chúng tôi có thể trao đổi những vấn đề của đời sống và con người. Tôi thấy có thể thông cảm với nhau được. Có nhiều vấn đề, ngoài tinh thần quốc gia cần suy nghĩ trên bình diện con người và tình cảm của con người. Chủ nghĩa Cộng sản muốn đặt quan hệ quốc tế tức ra ngoài biên giới quốc gia, nhưng lại không tôn trọng đến con người và hạnh phúc của con người nên nó không phục vụ được cho quốc gia và cũng không phục vụ con người; nó chỉ phục vụ cho một tập đoàn cấu kết nhau để nhằm cướp đoạt hạnh phúc của người khác. Đó là một tư tưởng quái dị và thoái hóa. Thời đại ngày nay mọi tiến bộ kỹ thuật đã làm cho con người gần gũi nhau hơn, dễ thông cảm nhau hơn, nên sự kiện con người tiêu diệt lẫn nhau không còn có thể chấp nhận được. Thực tế đời sống đã chứng minh được tương quan giữa con người với nhau không còn là tương quan tước đoạt và bóc lột nhau, mà ngày nay có thể hình thành tương quan tương nhượng để cả hai bên cùng có lợi, cùng hòa hợp với nhau. Từ đó rõ ràng là chế độ Cộng sản không còn lý do để tồn tại nữa vì nó không phục vụ cho sự tiến bộ của đất nước cũng như hạnh phúc của con người. Do đó việc chống lại Cộng sản dưới mọi hình thức là một việc làm đúng đắn, cho dù có thiệt hại, có bị tù đầy khi chế độ đó chưa bị tiêu diệt hẳn thì không có gì là đáng ân hận. Khi đất nước bị Cộng sản xâm lăng, một con người biết tự trọng hoặc là ở chiến trường để chiến đấu, hoặc là ở trong tù.

 

Ngày hôm sau chúng tôi lên hội trường để nghe trại trưởng nói chuyện, 30 người tù ngồi trong một hội trường quá lạc lõng và ít ỏi so với số cán bộ ngồi trên bục sân khấu. Sau khi giới thiệu qua thành phần cán bộ chỉ huy gồm chính trị viên, phân trại trưởng, cán bộ an ninh và trực trại hắn tự giới thiệu là Trung tá Thân Yên. Nhìn qua thành phần cán bộ vừa được giới thiệu tôi đã có nghĩ đến những khó khăn chúng tôi phải chịu đựng trong những ngày sắp tới, không hẹn mà tập trung những tên có hình dáng dị dạng, lộ rõ sự hung ác nham hiểm. Trại trưởng Thân Yên người nhỏ thó, mặt dơi, tai chuột, quắt queo; phân trại trưởng Lê Đồng Vũ, mắt trắng, môi thâm, mặt đỏ lừ như người vừa uống rượu; chính trị viên Nghị mắt lúc nào cũng láo liên mặt vác lên kênh kiệu; trưởng ban an ninh Nguyễn Minh Lý mắt lé, mặt lấm tấm rỗ hoa mè xanh nhợt; hai trực trại Luật mụn và Thái đen mắt lúc nào cũng trừng trừng đanh ác. Bằng giọng Bình Định, Thân Yên nói: “Đáng lẽ ra tôi phải nói chuyện trước hàng trăm, hàng ngàn người, các anh chỉ có 30 người mà tôi đến nói với các anh đó là điều hân hạnh cho các anh. Các anh phần lớn vi phạm kỷ luật ở trại cũ, tôi có thể nhốt các anh trở lại, nhưng tôi xóa hết để các anh bắt đầu lại. Đến trại này các anh chỉ có hai con đường để chọn, một là sống, hai là chết. Muốn sống các anh phải chấp hành nghiêm chỉnh nội qui trại, còn muốn chết là do thái độ của các anh, mà các anh có sống cũng bằng thừa, có chết cũng không thiếu. Đây là trại Kiên Giam, nhà nước kiên trì cải tạo phạm nhân, chúng tôi có thì giờ để làm việc đó, thời gian có thể là 10 năm, 20 năm, chúng tôi cũng có thể làm được... Chính sách của Đảng và nhà nước trước sau như một, Đảng luôn luôn khoan hồng nhưng cũng sẵn sàng nghiêm trị, khoan hồng với những ai, với người nào, và nghiêm trị với kẻ nào, tên nào, thằng nào...” Hắn nhấn mạnh từng chữ tên, thằng, kẻ. Đắc ý với lời nói hăm dọa, mặt vênh vênh nghiêng lên biểu lộ sự thích thú xong hắn gọi: “Thiệp đâu, San đâu, đứng lên”. San và tôi đứng lên. Thân Yên ngắm chúng tôi một lúc, đầu gật gù đắc thắng, và như ước lượng kẻ địch mà hắn có quyền dày vò cho thỏa thú tính. Rõ ràng là một buổi nói chuyện để dằn mặt chúng tôi, lần đầu tiên mới nghe đến trại Kiên Giam - tức là trại giam tù lâu dài không có thời hạn. Ngay sau buổi nói chuyện, cán bộ Lý, trưởng ban an ninh gọi tôi ở lại làm việc, hắn bảo tôi khai việc làm và lý do tôi bị giam kỷ luật ở trại cũ. Trước khi cho tôi về đội, hắn nhắc đi nhắc lại là có thể giam tôi trở lại bất cứ lúc nào vì thời hạn kỷ luật của tôi ở trại cũ chưa kết thúc. Hắn nhấn mạnh là khi hắn quyết định giam thì không ai ngoài hắn ra có thể thả.

 

Đây là trại Kiên Giam có qui chế giam giữ riêng cho tù nhân từng bị kỷ luật, bị ghi nhận là không chấp hành chế độ cải tạo, có hành động chống đối. Trại Xuân Phước tự nhiên đã là trại tù khắc nghiệt. Trại tù cộng sản đều giống nhau, người tù phải chấp hành nội quy 38 điểm quy định khai báo, chế độ lao động, tương quan với cán bộ, tương quan với người tù với nhau, chế độ thăm gặp gia đình, viết thư, chế độ kỷ luật v.v... Người tù phải làm để nuôi sống cán bộ, đóng góp và sản xuất chung cho ngân sách của bộ nội vụ hay tỉnh, và nuôi sống mình. Có hai loại trại cải tạo, trại thuộc trung ương và trại thuộc địa phương; trại thuộc bộ nội vụ để giam người có án từ 10 năm trở lên và tù tập trung không có án thời hạn lâu dài, và trại ở tỉnh giam tù có án dưới mười năm và tù tập trung cải tạo ngắn hạn.

 

Trên thực tế các trại tù có những điểm khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và cán bộ quản lý. Các trại tù ở tỉnh tương đối dễ chịu hơn vì hai điều kiện, thứ nhất trại tù phải tự túc kinh tế nên khi lập trại, tỉnh thường chọn những nơi đất đai tương đối tốt có điều kiện sản xuất hơn. Trái lại trại thuộc bộ nội vụ thường ở những vùng đất đai cằn cỗi hơn. Lúc mới chiếm miền Nam, tù cải tạo là viên chức sĩ quan chế độ cũ, do quân đội quản lý, họ sử dụng các căn cứ quân sự cũ làm trại cải tạo; sau dần dà chuyển về cho công an. Việc chuyển giao hoàn tất đầu năm 1979, tù nhân được chuyển về các trại thuộc bộ Xuân Lộc (Z-30A), Gia Trung, Xuyên Mộc, các trại khác thuộc các tỉnh quản lý. Do đó ở tù các tỉnh đồng bằng Cửu Long tương đối dễ chịu vì vừa gần gia đình tiếp tế dễ, khi lao động có thể tìm thức ăn như cá, rắn, chuột, ếch, nhái và rau cỏ dại, cán bộ quản lý cũng no đủ nên tính tình dễ chịu cởi mở hơn.

 

Trái lại nếu ở các trại tù từ vùng Ba trở ra, đồng khô cỏ cháy, và nhất là chuyển trại ra miền Bắc hoặc miền Trung thì điều kiện ở các trại tù cam go hơn nhiều.

Trại Xuân Phước nằm cách trại Lực Lượng Đặc Biệt Đồng Tre cũ khoảng ba cây số về hướng Tây. Trước năm 1975 là vùng giao tranh giữa trại Đồng Tre và mật khu Kỳ Lộ. Bộ chỉ huy trại nằm tại ngã ba đường Tây Bắc, lên Suối Cối, Kỳ Lộ. Từ Kỳ Lộ có thể ra miền núi Bình Định nay được thành lập huyện Tây Sơn; và đường lên Pleiku. Mật khu Kỳ Lộ là vùng du kích VC chiếm từ năm 1958. Quân đội VNCH chỉ đánh vào hai lần, một lần năm 1960 và một lần cuối năm 1964. Kỳ Lộ là một khu dưỡng quân và tiếp tế cho chiến trường Tây Nguyên của Việt Cộng trước năm 1975. Đường thứ hai từ Xuân Phước đi về hướng Tây Nam, đến vùng người đồng bào sắc tộc H’roi ở xã Xuân Định, lên thượng nguồn sông Đà Rằng, phần sông này được gọi là sông Hinh, nay Việt Cộng lập nên huyện Sông Hinh.

Trại Xuân Phước có nhiều phân trại nằm ở những đồi trên con đường này.

Phân trại A nằm ở gần bộ chỉ huy là trại tù giam giữ những người từ Guam về trên tàu Việt Nam Thương Tín, phân trại B giam tù hình sự có án và tù chính trị, phân trại C tù hình sự tập trung, phân trại D tù hình sự tập trung, phân trại E là khu trại nhà ngói tường gạch mới xây dựng ở bên cạnh phân trại A. Chúng tôi là toán tù thứ hai được chuyển đến, toán thứ nhất là tù chính trị có án từ các trại Mê Van Ban Mê Thuột và Rạch Giá.

 

Tù từ tàu Việt Nam Thương Tín, là những người xây nên trại tù Xuân Phước vào tháng 10 năm 1976. Những người đã di tản qua đến đảo Guam, rồi đấu tranh tình nguyện để “về xây dựng quê hương”. Họ kể lại, số người đấu tranh đòi được trở về lúc đầu khá đông, gần 10 ngàn người. Sau có sự thuyết phục và khuyên nhủ của người Mỹ và viên chức chính quyền VNCH ở trại, số người muốn trở về dần dần rút xuống, cuối cùng số người về nước theo tàu Việt Nam Thương Tín hơn 1600 người, thời gian đi trên tàu họ được tàu hải quân Mỹ hộ tống, và tàu này mỗi ngày đều nhắc nhở là họ có thể đổi ý quay trở lại, nhưng mọi người đều quyết định đi về, nhất là một ban lãnh đạo được hình thành do một số người tự nhận là họ được liên lạc với Nguyễn Thị Bình từ trước; những người này hứa sẽ được đón tiếp bằng những vòng hoa tươi thắm tại Vũng Tàu hay Saigon vì sự trở về nước lúc đó với họ là một hành động chứng tỏ lòng yêu nước hoặc là nếu không được đón tiếp nồng hậu thì họ cũng không gặp trở ngại gì vì họ tình nguyện trở về không chạy theo “Mỹ Ngụy”. Tàu không được cặp bến Vũng Tàu như họ nghĩ, sau hai ngày chờ đợi ngoài khơi, được tàu hải quân Việt Cộng hướng dẫn ra Nha Trang. Lúc lên bến họ được đón tiếp nồng hậu, bằng một lực lượng đông đảo công an võ trang AK. Còng chung hai người một chiếc còng số 8. Chuyển về trại Đồng Đế, làm thủ tục khai báo lý lịch và khám xét. Họ được khám xét thật kỹ từ bộ răng đến những nơi kín đáo nhất trong người để tìm máy móc gián điệp do CIA gài; những người cầm đầu và những sĩ quan cao cấp VNCH đưa về Chí Hòa để tiếp tục làm thủ tục khai báo, điều tra, sau đó được chuyển đi các trại tù cải tạo ở miền Bắc hoặc miền Trung. Đàn bà trẻ con được cho về, số người còn lại khoảng 1300, hầu hết là sĩ quan VNCH hoặc sĩ quan cảnh sát từ Trung Úy trở xuống, được đưa lên trại Xuân Phước, nơi đây họ phá rừng xây dựng trại tù. Những người tù tàu Việt Nam Thương Tín, có công lao xây dựng trại, chấp hành ngoan ngoãn nội qui trại, thái độ sợ sệt, tuân phục cán bộ; bù lại họ được tin cậy làm những công tác rộng như phá rừng, chăn nuôi, bốc dỡ hàng hóa, và mặc quần áo không có đóng số tù và dấu cải tạo. Anh em tù Việt Nam Thương Tín đều ân hận về việc làm của họ.

 

Những người tù VNTT ở trại Xuân Phước dần dần được tha ra khỏi từ năm 1979 và những người cuối cùng được về vào tháng 5/1982.

 

Năm ngày sau khi chúng tôi rời trại Z-30A đến, thì toán 78 người từ Z-30D đến. Vài ngày sau thì 118 người từ trại Z-30C ở Hàm Tân cũng được chuyển đến. Đa số là những người tù bị bắt vì mới tổ chức chống đối, hoặc sĩ quan không chấp hành lệnh tập trung, một số sĩ quan trình diện bị tình nghi là sách động trong những vụ lộn xộn trong trại vào dịp Tết Kỷ Mùi. Tháng 10 và tháng 11 hai đợt tù từ trại Suối Máu đến, nâng tổng số tù phân trại E lên hơn 700 và toàn Xuân Phước 5 phân trại lên hơn 10 ngàn người đủ tất cả các diện từ chính trị, hình sự và quân phạm của Việt Cộng. Ngoài ra trại Xuân Phước còn có một trại Hốc Kè nằm về phía đông bắc bộ chỉ huy, nơi đó là trại kỷ luật của công an, và nơi những người tù được lệnh tha ở thời gian thử thách. Chế độ thử thách trước khi về chỉ là một sáng kiến riêng biệt của trại Xuân Phước để bóc lột sức lao động của tù nhân đã được lệnh thả, thay vì đọc lệnh tha, bọn chỉ huy cho đọc “lệnh thử thách”. Đến Hốc Kè tù được quản lý rộng rãi hơn nhưng buộc làm lao động nặng hơn. Mỗi ngày họ được giao khoán hai thước khối củi, họ được tự do đi vào rừng để đốn củi cho đủ số. Thời gian thử thách là một đến hai tháng. Sau đó họ mới được thả.

 

Tù nhân nhiều trại tập trung về tại Xuân Phước, mới biết là trong năm 1978 và 1979 các trại tù miền Nam đều có những vụ chống đối. Lớn nhất là vụ khởi loạn mồng hai Tết Mậu Ngọ ở trại tù Kiến Hòa. Tù đã nổi loạn cướp súng giết cán bộ thoát ra khỏi trại. Nhưng chỉ số ít người trốn được, vì ra khỏi trại không biết đi đâu, bị truy lùng bắn chết hoặc bị bắt xử án, những người cầm đầu bị tử hình, những người khác đều bị xử 20 năm đến chung thân.

 

Âm mưu trốn trại bị phát giác ở trại giam Phan Thiết năm 1978, do sự phản bội của tên Nguyễn Văn Quyền cựu xã trưởng, những người cầm đầu đều bị án tử hình, số người còn lại bị tù từ 20 năm đến chung thân, tên Quyền được trả công cho về trại Xuân Lộc. Tết Kỷ Mùi các trại Suối Máu, Hàm Tân, Thủ Đức, Xuân Lộc đều có những vụ náo loạn, khởi đầu bằng những việc tập trung ca nhạc vàng, rồi đưa đến việc rải truyền đơn đả đảo cộng sản, đánh an ten hoặc chống đối không chịu đi lao động. Ở trại Z-30C còn có vụ tù nhân tên Hiếu (tù chính trị bị bắt trong tổ chức phản động của nhóm người Quảng Nam di dân ở các trại định cư vùng Rừng Lá) sau khi trốn trại đem súng về hoạt động quanh trại đón giết nhiều cán bộ Z-30C trước khi anh bị phục kích giết chết.

 

Trại Xuân Phước ở một vùng thung lũng khô cằn, đất núi chỉ trồng được một loại khoai mì kỹ nghệ có nhiều chất độc gọi là khoai mì H-34 và loại đậu cua. Đậu cua là một loại đậu hạt gầy dài cong cong và mầu nâu như cặp mắt cua. Loại đậu cua có sức sống rất mạnh, nên có thể sinh sản được trong vùng đất núi khô cằn Bình Định, Phú Yên. Cây đậu lúc còn bé mảnh khảnh, lá xanh có ba chia, thân lá có lông thành ra lá rám cứng. Khi cây đậu lên cao ngang một tấc thì tỉa bớt cho cây còn lại lớn mạnh, những cây tỉa ra đó giúp cho tù được một bữa canh. Ở trại rau xanh rất hiếm, không đủ đưa vào bếp của cán bộ, tù không có phần. Cây đậu được tỉa xong, lên rất mạnh, cây sinh nhiều cành nhiều nhánh phủ lên cả cỏ dại và những bụi cây rừng nhỏ, qua xong mùa mưa tháng mười thì đậu trổ bông chen qua các kẽ lá xanh, những bông tím man man vươn cao mạnh mẽ để đón đoàn bướm nhiều màu sắc làm cho cảnh núi rừng bớt đi vẻ hoang dại thê lương. Cuốc đất, dọn cỏ quần quật suốt ngày, nhưng có một lúc nào đó người tù chống cuốc đứng nhìn thấy cảnh hoa bướm tự nhiên vô tư này cũng cảm thấy lòng lâng lâng, muốn quên hết quá khứ cũng như muốn quên cái hiện tại đang đau khổ, rồi lẩm bẩm đọc lại vài câu thơ còn sót lại trong óc mình sau khi đã quên gần hết những gì đã học từ thời thơ ấu.

 

Hạt đậu cua ăn không ngon, có lẽ ít chất bổ dưỡng, lúc đầu ăn chưa quen thường sình bụng, nó là món thu hoạch của trại nên cán bộ cũng bớt giữ gìn; mùa thu hoạch người tù có thể ăn cắp một vài nắm về phụ cho bữa ăn ít ỏi vào dịp Tết. Dân miền núi Bình Định Phú Yên cũng đói quanh năm, họ cũng nhờ đậu cua ăn phụ vì vùng này không bao giờ đủ gạo ăn vì lúa gạo trồng ra thì đã nộp thuế cho nhà nước hơn 2/3 số thu hoạch.

 

Điều kiện khó khăn, tù nhân bị ghép vào tội chống đối, được quản lý bởi một người trại trưởng người Bình Định và cán bộ người miền Trung và miền Bắc. Ba yếu tố đó để trại Xuân Phước trở thành một trại kham khổ nhất và phân trại E, phân trại giam những người chống đối, bị kỷ luật, bị chế độ Kiên Giam trừng giới.

Nước Việt Nam nhỏ bé, nhưng điều kiện giao thông liên lạc dân chúng của các miền khó khăn vì cả lý do chính trị lẫn địa lý, thêm vào chịu ảnh hưởng của chính sách chia rẽ liên tục của các chính quyền hàng mấy trăm năm, nên tính tình và đời sống dân Việt Nam có nhiều khác biệt tùy theo địa phương họ sinh và lớn lên.

Miền Nam nhất là vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long đất đai phì nhiêu, đời sống kinh tế dễ dàng nên người miền Nam hiền hòa dễ tính. Sau ngày 30-4-1975, điều kiện sống có nhiều khó khăn, nhưng miền Nam vẫn dễ sống hơn các miền khác, và cũng vì tính hiền hòa, phóng khoáng của người miền Nam nên họ không thích hợp với chủ trương đấu tranh giai cấp, sống trong sự ganh tị, xoi mói nhau giữa người này và người khác, nên họ không chấp nhận chế độ Cộng sản và các chủ trương cai trị của chính quyền Cộng sản. Ngay cả cán bộ Cộng sản miền Nam dù là cán bộ hồi kết hay cán bộ nằm vùng cũng dễ dàng quay lại lối sống phóng khoáng, thoải mái của miền Nam. Đó cũng là sự thất bại của chế độ Cộng sản khi thi hành ở miền Nam Việt Nam sau ngày 30-4-1975. Bị từ khước và tiềm tàng chống đối, ngay cả từ những người nông dân hay gia đình có thân nhân là cán bộ cộng sản. Đa số người miền Nam chấp nhận và ủng hộ kháng chiến nhưng không ủng hộ cộng sản.

 

Người miền Bắc và các tỉnh phía Bắc Trung Việt, đất hẹp người đông, đời sống kinh tế chật vật, truyền thống chống ngoại xâm, giữ nước, nhất là với người Trung Hoa ở phương Bắc, khả năng sinh tồn và sức sống mãnh liệt, biết bám vào những điều kiện xã hội. Các nước chậm tiến và các nước Cộng sản, chính quyền là môi trường có điều kiện sống tốt hơn hết trong xã hội.

 

Dân các tỉnh miền Nam, Nghĩa, Bình, Phú tức là liên khu 5 cũ, một thành trì của chế độ Cộng sản. Những đức tính của người dân vùng này cũng là kết quả của sự ảnh hưởng của một vùng địa lý khô cằn đất cày lên sỏi đá, lại bị các chính quyền kỳ thị liên tục gần hai trăm năm kể từ khi vua Gia Long thi hành chính sách trả thù nhà Nguyễn Tây Sơn. Từ đó người dân liên khu 5 đứng về phía chống chính quyền và họ tiếp tục bị đàn áp và kỳ thị của thực dân Pháp. Cuộc kháng chiến chống Pháp 1954 và chế độ Cộng sản dễ được dân chúng vùng này hưởng ứng. Vì lâu năm bị đè nén và ngược đãi nên ý thức chống đối càng mãnh liệt nên tạo thành tính cực đoan và những tính phụ thuộc theo đó. Cho nên người dân Nam, Nghĩa, Bình, Phú nổi tiếng cực đoan và tàn nhẫn về chính trị: đã đứng về phía nào thì dứt khoát và tranh đấu quyết liệt và chấp nhận đổ máu, chấp nhận chết và sẵn sàng tiêu diệt đối thủ. Nhạy cảm và có ý thức và lập trường chính trị, nhiệt tình bảo vệ lý tưởng. Cán bộ cộng sản tàn ác, nhưng cán bộ người miền Nam có thể dùng tình bạn và tiệc rượu mua chuộc được, cán bộ cộng sản miền Bắc dùng tiền mua chuộc được, nhưng cán bộ cộng sản miền Trung thì những sự mua chuộc khó khăn hơn nhiều và người dân sẽ bị đối xử tàn nhẫn nhiều. Những tính tình cực đoan, sự cuồng tín bảo vệ chế độ đó không phải là hoàn toàn xấu. Vì người miền Trung nơi chiến trường ác liệt nhất, nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của các biến chuyển chính trị của đất nước, nên người dân cũng rất nhạy bén và nhận định chính trị có lập trường và lý tưởng chính trị. Họ sẽ nhanh chóng nhận được con đường đúng và sai, cũng như đặc tính cuồng nhiệt, dám làm cũng là nơi khởi diễn nên những cuộc đấu tranh chống cộng sản áp bức mãnh liệt nhất. Điều này đã có dấu hiệu cụ thể, những người tù chính trị sau ngày 30-4-1975 được đưa từ các tỉnh miền Trung đến Xuân Phước, phần nhiều đều có tổ chức võ trang chiến đấu thực sự, dù còn lẻ tẻ và chưa có lãnh đạo. Những tổ chức chính trị tổ chức từ Saigon hay các tỉnh miền Nam phần lớn chỉ mới kết hợp và đưa đến sự chờ đợi Mỹ sẽ chủ động làm ngược lại thế cờ chính trị tại Việt Nam.

 

Một dấu hiệu nữa thể hiện qua hàng ngũ cán bộ. Những cán bộ gốc Nghệ Tĩnh lúc đầu rất cực đoan và sắt máu, nhưng sau thời gian ở các trại tù, tiếp xúc với tù nhân, họ thấy tù nhân không giống như những người ác ôn, ăn gan người, uống máu người và hiếp dâm phụ nữ như đảng dạy cho họ. Những cán bộ gốc Nghệ Tĩnh là những người thay đổi thái độ trước nhất. Họ tỏ ra thông cảm và dễ chịu với tù. Những người cán bộ gốc Quảng Nam, Quảng Ngãi là hay đánh đập tù nhất, nhưng đến năm thứ 8 thứ 9, họ đã bắt đầu nói rằng họ ân hận vì đã đánh đập đối xử tàn nhẫn với người cải tạo. Chỉ có cán bộ miền Bắc đa số quan liêu hách dịch khó khăn.

 

Nạn nhân đầu tiên của tính cực đoan của cán bộ chính trị của cán bộ cộng sản liên khu 5 là Huỳnh Cự, anh là người sĩ quan Việt Cộng hồi chánh năm 1954 làm đến Tham Nghị Bộ Chiêu Hồi (ngang hàng với Giám Đốc Bộ Chiêu Hồi). Bị bắt trong những ngày đầu sau khi Saigon bị sụp đổ, anh Cự bị giam ở các nhà giam Phan Đăng Lưu, Chí Hòa, Hàm Tân, Xuân Phước. Biết rành chế độ cộng sản và những sự tàn nhẫn của nó, cũng như đã lớn tuổi và cái thế tế nhị của một người hồi chánh, nên nơi đâu anh cũng sống dè dặt và cố gắng thu mình trong công tác lao động. Nhưng những toan tính và kinh nghiệm của Cự không giúp cho anh được nhiều vì trong nhà tù anh luôn luôn bị hai mũi dùi. Cán bộ cộng sản xem anh như người phản bội nguy hiểm, ngoài Bắc trước năm 1975 đã có những bài học về trường hợp của Huỳnh Cự, mỗi khi cán bộ cộng sản mới đến trại, họ đi tìm để xem biết mặt anh. Phía người tù thì luôn luôn nghi ngờ Cự, xem anh là người cộng sản nguy hiểm. Thái độ lao động tích cực của Cự càng bị một số người chống đối cực đoan ghét, xem anh là phản bội người đồng cảnh. Đến trại Xuân Phước, Cự càng gặp khó khăn hơn, bởi Thân Yên trước kia là thuộc cấp của Huỳnh Cự.

 

Một hôm Thân Yên gặp Huỳnh Cự trong trại, để Cự nghiêm chỉnh chào mình xong, Thân Yên nói rất nhỏ nhẹ: “Anh Cự đó hả? Thấy anh còn sống tôi mừng cho anh, tôi nhớ lại thời gian sau khi anh bỏ chúng tôi về thành, ngày nào chúng tôi cũng bị B-52 đánh, bao nhiêu anh em đã chết...” Nghe Thân Yên nói, Cự tái xanh mặt. Từ đó, cứ mỗi lần lên hội trường, nói về chính sách khoan hồng, Thân Yên đều kể trường hợp của Huỳnh Cự, hắn luôn nhấn mạnh là Cự đáng tội chết nhưng đảng đã khoan hồng cho đi cải tạo. Mặt khác Thân Yên tỏ ra tín nhiệm cho Huỳnh Cự làm đội trưởng đội mộc và làm đội trưởng những người được xem là tiến bộ được gọi đi làm ban đêm. Trong nhà tù cộng sản cũng như xã hội cộng sản cả hai thành phần tích cực làm việc cho chế độ và chống đối chế độ đều khổ theo hai cách khác nhau. Người chống đối bị trừng phạt đày ải đến chết thì ngược lại người tích cực cũng bị thúc đẩy làm việc đến kiệt sức. Chỉ có người biết cách sống biết chịu đựng và lách né khéo là đỡ khổ. Nhưng đóng vai trò này rất khó - vì cuộc sống lôi kéo con người phải chọn hay tự nhiên sẽ bị đưa đẩy đến hoặc là bên thái độ này, hoặc là thái độ kia, không lưng chừng.

 

Vì ở cái thế phải đóng vai người biết hối lỗi, Huỳnh Cự thành người cải tạo tiến bộ. Nhưng Cự là người có kinh nghiệm với chế độ cộng sản, anh chỉ đem sức ra làm lao động và có thúc đẩy năng suất lao động của đội; và chỉ báo cáo những việc lặt vặt như nấu nướng trái phép, đánh lộn v.v... còn việc báo cáo và đặt điều báo cáo về hành vi chính trị và lời nói của người khác anh Cự không hề làm. Đa số người hiểu anh, nhưng cũng có ít người không hiểu, những người đã từng ở chung trại Chí Hòa và trại Hàm Tân, có tinh thần chống cộng cực đoan trong nhóm anh Vũ Văn Ánh và anh Ngô Văn Ly và họ đã mượn tay cộng sản để hại Huỳnh Văn Cự. Một hôm Ngô Văn Ly đã dán một truyền đơn “đả đảo cộng sản và Hồ Chí Minh”, dưới tờ truyền đơn ký tên Huỳnh Văn Cự. Dù thiệt thà đến đâu, không ai tin là Huỳnh Cự dám làm chuyện đó, nhưng đối với Thân Yên, đó là một cái cớ để đem Huỳnh Cự đi nhốt ở xà lim trên hai năm. Nếu không nhờ thân nhân bên vợ là cán bộ cao cấp của cộng sản thỉnh thoảng từ Nghệ An mang quà tiếp tế thì Huỳnh Cự chết rồi. Hơn 25 tháng bị cùm đến khi được thả Huỳnh Cự đã bò từ phòng an ninh về nhà giam tập thể.

 

Một trường hợp khác chứng tỏ sự tàn bạo của cán bộ liên khu 5. Trước ngày 30-4-1975, người ta tuyên truyền Saigon sẽ trở thành biển máu. Cộng sản đã biến Saigon thành biển nước mắt. Nước mắt chia ly, nước mắt chờ đợi của bao gia đình tan tác. Nhưng máu đã đỏ nhuộm ở vùng đất khô cằn ở thung lũng Xuân Phước, với núi rừng trùng điệp bao quanh.

 

Một hôm chúng tôi được điều đi lao động xa, dọn một nghĩa địa nằm giữa hai phân trại A và B lấy đất trồng khoai mì. Nghĩa địa rộng khoảng hai mẫu, nhiều mộ đã được bốc, chúng tôi lấp những mả bốc xong, san bằng khu đất. Lúc đó chúng tôi mới chú ý đến những nấm mộ còn lại, nấm đất đã bị lụn mòn vì thời gian không ai tu sửa, những thanh gỗ cắm trên đầu mỗi ngôi mộ còn ghi rõ tên tuổi quê quán, ngày chết. Vừa nhổ những thanh gỗ để làm củi nấu nước, chúng tôi đọc thấy những người nằm ở nghĩa địa này đã chết trong ngày 3 và 4 tháng 5 năm 1975. Họ sinh tại các làng xã vùng Tuy Hòa, Sơn Hòa, Hiếu Xương, Phú Đức. Ngày 2 tháng 4 năm 1975 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa bị quân ta bỏ ngỏ. Đây là những nhân viên, cán bộ cấp dưới không kịp chạy khỏi địa phương, họ bị bắt và đưa lên đây để bị giết hàng loạt. Thân nhân của họ đã đến tìm lập vội vàng mộ bia ghi nhớ - nhiều người đã bốc mộ - con số còn lại đến nay thân nhân không còn cơ hội quay trở lại nên trại quyết định san bằng. Đếm số mộ bia còn lại là 73 cái, cả nghĩa địa ước lượng khoảng 500. Đó chỉ là một địa phương, còn bao nhiêu địa điểm như nghĩa địa này ở Phú Yên và bao nhiêu cái khác ở toàn lãnh thổ các tỉnh liên khu 5 nổi tiếng quá khích. Về sau, nói chuyện với một số cán bộ chúng tôi được biết là sau khi chiếm được hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, số cán bộ của hạ tầng cơ sở của VNCH bị tập trung lại khoảng 8000 người. Nguyễn Hữu, bí thư tỉnh ủy Phú Khánh chủ trương đưa lên Xuân Phước giết hết. Trong hai ngày 3 và 4 tháng 5 năm 1975 họ mới giết hơn 1000 người thì có lệnh từ Hà Nội vào chỉ thị phải ngưng cuộc tàn sát đẫm máu lại nên nhiều người thoát chết. Thầm van vái cho người chết sớm được siêu thoát, họ đã trả nợ núi sông. Có ai còn nhớ đến chiến sĩ không tên tuổi. Gia đình xa họ cũng không còn đến được để bốc mộ. Thân xác các bạn đành làm phân cho cây khoai mì mà chúng tôi sắp trồng.

 

Con người là sản phẩm của xã hội, kinh tế là hoạt động căn bản của loài người. Điều phân tích của Karl Marx không sai, nhưng nó chỉ đúng ở xã hội sơ khai và được đơn giản hóa khi con người tìm lương thực, thực phẩm để mà sống, nhưng khi nhu cầu vật chất tương đối đầy đủ, xã hội phát triển đa dạng và sinh hoạt con người trong xã hội trở thành phong phú thì những nhu cầu khác sẽ trở thành quan trọng hơn. Con người không phải là con thú chỉ tìm cái ăn hàng ngày, mà con người tích lũy của cải, thành quả lao động của mình để tổ chức sản xuất tiến bộ, dư thừa sản phẩm, con người cần tổ chức sao cho mọi năng lực, tài nguyên và thời gian sử dụng vào việc mưu tìm sự sống thật ít, còn thì giờ để phát triển tìm sự thỏa mãn cho nhu cầu tinh thần và sự thụ hưởng hạnh phúc. Lý thuyết của cộng sản dựa trên sự giản lược tối đa về các hiện tượng xã hội và loài người, và chế độ cộng sản thì tước đoạt mọi tư hữu của con người, để hạ thấp giá trị con người đơn giản như con thú và guồng máy chính quyền của đảng sẽ nhân danh tập thể xã hội để nắm tất cả quyền hạn, quyền lợi và phương tiện sản xuất, và làm chủ sự phân phối của cải xã hội theo ý riêng của họ. Nhưng khi nhân danh tập thể, nhân danh xã hội guồng máy khổng lồ do chính quyền cộng sản thành lập vừa gặp phải các nhược điểm tất yếu của một tổ chức quá to lớn đưa đến sự uổng dụng phí phạm tài nguyên, sự cứng ngắc do hệ thống thư lại tính tham lam của con người có quyền hành vô hạn. Chế độ cộng sản dựa trên lý luận đơn giản của con người thì đúng, nhưng đưa ra áp dụng cho toàn thể xã hội thì sai. Chế độ cộng sản chỉ trích những sai lầm của chế độ phong kiến, quân chủ, tư bản thì đúng, nhưng khi nắm chính quyền thì chế độ cộng sản sai lầm lớn hơn tất cả mọi chế độ trước. Chế độ cộng sản không phục vụ được con người, không phát triển được xã hội. Người cộng sản thành công khi họ tranh đoạt chính quyền, họ hành động quyết liệt, đấu tranh không khoan nhượng, nhưng họ thất bại khi nắm chính quyền.

 

Thắt chặt bao tử để cai trị là chính sách của chính quyền cộng sản. Cùng với chính sách công an nhân dân, kiểm soát thật kỹ lưỡng hành động của người dân, tình trạng đói kém làm cho dân hết sức đề kháng, không có thực phẩm thuốc men, tài sản để tổ chức đối kháng, trong khi đó toàn dân đói; đảng viên công nhân được no đủ hơn sẽ trung thành, bám chắc và ra sức bảo vệ chính quyền.

 

Chính sách bao tử được triệt để thi hành trong các trại cải tạo, những người tù tương đối ngoan ngoãn được biên chế vào các đội nhà bếp, rau xanh, chăn nuôi, làm rừng gián tiếp cho phép tìm thức ăn ngoài tiêu chuẩn. Cái gì ăn được cũng quý, rau, cỏ dại, rễ cây, côn trùng mà người tù có thể tìm được, gọi là “món ăn cải thiện đời sống” cũng được cho phép công khai hay mặc nhiên, thức ăn do gia đình đưa lên cũng phải cải tạo tốt mới được nhận. Trái lại, những người tù bị gọi là xấu dù không bị nằm trong kỷ luật cũng nhận sự phân biệt đối xử, không được viết thư, không được nhận quà của gia đình lên thăm trại hoặc gửi bằng bưu phẩm qua ngả bưu điện; không được biên chế vào các đội có thể tìm thức ăn cải thiện, thường là phải làm công tác lao động vất vả hơn như đào ao, đập đá, san đồi làm đường giao thông, làm gạch ngói. Một ân huệ được Việt Cộng ban phát phải có điều kiện, làm đội trưởng, làm trật tự thi đua phải cải tạo tốt, đa số là những người đã từng báo cáo bạn bè hay ít nhất quá trình cải tạo không bao giờ vi phạm kỷ luật. Đa số tù nhân phân trại E Xuân Phước là thành phần cải tạo xấu - nên các biện pháp bóp chẹt thi hành triệt để. Khẩu phần ăn buổi sáng năm hoặc sáu lát khoai mì khô băm xéo còn nguyên vỏ, buổi trưa và chiều mỗi buổi một chén cơm độn độ 80% khoai mì băm nhỏ, tù chỉ được phát nước muối, tiêu chuẩn nước muối cũng phải chia vì nếu để lấy tự do sẽ không đủ cho mọi người. Gia đình tìm đến thăm bị từ chối đuổi về, dù thân nhân người tù phải tốn 3 hay 5 ngày đường mới đi từ Saigon đến ngã ba Chí Thạnh và từ ngã ba Chí Thạnh vào đến trại phải gánh quà đi bộ hơn 20km đường núi.

 

Tất cả lá cây ăn được ở trong trại đều được tù vặt sạch, những đội đi làm nông nghiệp mới may mắn tìm được rau trái hay bèo Nhật Bản để ăn thêm. Mùa đông năm 1979 tù nhân vừa đói vừa lạnh; nhưng hầu hết tù nhân trại E là những người từng đối kháng ở các trại nên số người bị nao núng thật ít. Trong hoàn cảnh đói rét đó, khi gia đình lên thăm, điều kiện duy nhất an ninh đòi hỏi là sự cộng tác trong việc làm người báo cáo, tù từ chối, dù rằng từ chối để bị cấm thăm gặp, bản thân bị đói, và làm cho thân nhân buồn bã lo âu. Ban ngày lao động, ban tối học tập hai giờ trước khi đi ngủ, chương trình học tập do cán bộ giáo dục đưa xuống, có thi đua trật tự đi kiểm soát, tù nhân phải ngồi ngay ngắn và phải phát biểu ý kiến chương trình học tập cho 7 ngày trong tuần như sau:

 

* Thứ hai phải học tập nội quy 38 điểm tóm lược thành 4 tiêu chuẩn cải tạo.

 

- An tâm tin tưởng vào chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước.

 

- Cố gắng lao động vượt chỉ tiêu đề ra và lao động là thước đo tinh thần cải tạo.

 

- Tham gia học tập nghiêm túc, sinh hoạt báo chí và các buổi văn nghệ chiếu phim.

 

- Tự phê và phê bình đồng đội để cùng nhau tiến bộ.

 

Thể hiện tinh thần chống đối của mình, đa số tù nhân khi phát biểu 4 tiêu chuẩn sửa lại:

 

- Luôn luôn tin tưởng vào tương lai huy hoàng của dân tộc.

 

- Cố gắng lao động tùy theo sức khỏe và khả năng vì lao động là thước đo tinh thần cải tạo.

 

- Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt học tập, nghe đọc báo xem văn nghệ.

 

- Thẳng thắn tự phê những lỗi lầm của mình, còn khuyết điểm chưa quen phê bình người khác sẽ từ từ khắc phục.

 

Tù nhân muốn nghe báo chí tuyên truyền có thể ghi nhận được tin tức thế giới bên ngoài - nhưng không thích đi xem văn nghệ chiếu phim vì nội dung phim ảnh và kịch nghệ nhằm bôi nhọ Việt Nam Cộng Hòa - muốn được nghỉ xem văn nghệ chiếu phim phải khai bịnh. Lúc đầu số người nghỉ ít cán bộ chưa để ý, sau số này đông, trại biết tù nhân chống đối ngầm, dùng biện pháp cưỡng bách xem văn nghệ, người nào không đi hôm sau cúp phần ăn, chỉ phát một chén nước cháo loãng nhà bếp gạt từ nước nấu cơm ra. Nhiều anh em quyết định thà ăn cháo loãng để không đi xem văn nghệ.

 

* Ngày thứ ba học tập 20 điều lệnh nếp sống văn hóa mới, nội dung cũng trích từ 38 điểm nội quy và nhấn mạnh điểm buộc tù phải tôn trọng cán bộ, gặp cán bộ phải giở nón chào, muốn nói chuyện với cán bộ phải đứng ra xa 5m, nghiêm chỉnh xin phép trước rồi mới được nói, v.v... Xuất trại, nhập trại qua cổng phải giở nón mũ, đi ngang qua hết hàng cán bộ võ trang mới được đội nón lên.

 

Tù nhân trại E xem đó là một sỉ nhục lớn, nên hầu hết đều né tránh không gặp mặt cán bộ, thấy cán bộ đến xây mặt đi chỗ khác. Một số anh em sáng kiến không đội nón đi làm để khi qua cổng và đi trước hàng công an võ trang không phải giở nón, khi đi đầu trần người tù có thể nhìn thẳng ngẩng đầu một cách bình thản, động tác giở nón thường kèm theo một động tác thứ hai một cách tự nhiên là cúi đầu xuống, trông thê thảm.

 

Nắng miền Trung vào những buổi trưa hè như thiêu đốt, chân đi đất lội trên cát bỏng vì phải đi chầm chậm để giữ hàng lối, giữ khoảng cách theo lệnh di chuyển của công an bảo vệ ra đến hiện trường lao động, việc làm được lập lại hàng ngày trong nhiều năm, có lẽ chỉ có thể những người tù ở phân trại E trại Xuân Phước mới hiểu hết được ý nghĩa danh dự, và cái giá phải trả như thế nào để duy trì được một số hành động nhỏ nhoi để bảo vệ danh dự đó. Những lúc đó người tù cố nuốt một sự nghẹn ngào nơi cổ, cố kìm không để nước mắt chảy ra và thấy cái nhục thế nào khi làm một người mất nước, và ân hận thế nào khi làm một chiến sĩ buông súng đầu hàng vô điều kiện không chiến đấu, trong khi sức chiến đấu hẵng còn.

 

* Ngày thứ tư và thứ năm đọc báo và sách vở tuyên truyền. Tôi vẫn được anh em toàn nhà đề nghị làm người đọc cho cả nhà nghe vì giọng tôi đọc to và rõ ràng, và nhiều anh em sống với tôi lâu ngày biết tôi đọc sách báo thường “nhận lớp” tức là bỏ qua những đoạn không cần thiết một cách nhanh chóng và trôi chảy. Đọc báo cho toàn nhà nghe xong, tôi có thể đọc nhanh những bài báo khác - những bài không có đánh dấu để đọc cho tù học tập. Qua những bài báo, dù là báo tuyên truyền cũng biết thêm những điều cần biết. Ngoài ra tôi cố gắng đọc tất cả sách của Lénine hiện có trong thư viện - theo sự giới thiệu của cơ quan tuyên huấn của Cộng sản, Lénine đã viết hơn 5.000 tác phẩm. Có lẽ ông ta chỉ viết một số, còn lại cả bộ tham mưu tuyên truyền của Đảng Cộng sản viết và ký tên Lénine, vì dù là người có thiên tài đến đâu, không thể vừa điều hành một đảng Cộng sản, một chính phủ của một nước lớn trong lúc còn nhiều khó khăn, ông Lénine khó có thì giờ để viết nhiều sách, dù có nhiều tác phẩm chỉ in lại những bài nói chuyện, chỉ thị của ông ta xuống thuộc cấp. Với vài chục tác phẩm hiện có ở thư viện, tôi đã đọc qua thì Lénine cũng đã bao trùm mọi vấn đề chính trị của một nước. Những điều Cộng Sản Việt Nam đang làm đều nằm trong tác phẩm của Lénine từ sách lược hai cuộc Cách Mạng, đến kỹ thuật cầm giữ, khai thác và đầy ải người tù cải tạo, nhất nhất đều được nói đến. Những sách ký của Hồ Chí Minh cũng đều cóp nhặt ý kiến của Lénine - Hồ Chí Minh không có khả năng trí tuệ để trước tác các tác phẩm có trình độ tư tưởng.

 

Trước năm 1975 các chính quyền miền Nam sợ sự chỉ trích của sách báo tuyên truyền của Cộng sản nên cấm đọc tài liệu do Cộng sản in, một phần vì sự chỉ trích của Cộng sản đúng, phần lớn vì lý thuyết Cộng sản hấp dẫn đối với những người có lương tâm muốn làm cái gì đó để góp cho sự công bằng xã hội. Nhưng bây giờ miền Nam đã mất, Cộng sản nắm toàn bộ chính quyền, lá cờ chính nghĩa giải phóng dân tộc đã kết thúc thay thế bằng lá cờ xây dựng xã hội chủ nghĩa đi ngược quyền lợi dân tộc. Cộng sản phơi bầy tất cả khuyết điểm, khiến họ thành một chính quyền tồi tệ nhất, tồi tệ hơn bất cứ chính quyền nào mà họ chỉ trích, nên những sự tuyên truyền của Cộng sản không những không tác dụng mà còn làm cho người đọc thấy rõ cái xấu xa của chế độ Cộng sản.

 

Một cán bộ hoạt động trong lòng địch họ rất khôn ngoan, để đạt được mục tiêu, đảng lãnh đạo cho phép họ dùng mọi phương tiện, nên họ rất dễ hoạt động về muôn mặt. Một lúc nào đó họ có thể tỏ ra chống Cộng hơn bất cứ người chống Cộng nào, muốn được tin cậy, họ có thể làm mọi hành động luồn cúi đê hèn nếu cần để được dự phần vào sự quyết định của lãnh đạo phe địch và nhận tin tức tình báo. Có đọc nhiều sách báo Cộng sản mới có thể có được cái bén nhạy để nhìn ra người Cộng sản hoạt động trong hàng ngũ của ta. Không dễ dàng tin vào lời nói của con người mà thật sự nhận xét từ hoạt động thường xuyên của họ. Cộng sản không xây dựng cán bộ cốt lõi bằng những người có uy tín cá nhân hay học thức sâu rộng, vì những người này thường có trong giai cấp tư sản mà Cộng sản đánh giá là không có tinh thần cách mạng, hoặc chỉ “cách mạng 3 ngày rồi bỏ” (lời Mao Trạch Đông), nếu cần những người này và có thể thuyết phục thì họ chỉ cần giữ ở các tổ chức ngoại vi. Cán bộ Cộng sản là những người biết tin và trung thành với Đảng và lãnh tụ, một người tên A tên B nào đó cũng được miễn làm đúng theo lệnh Đảng và với phương pháp họ được huấn luyện, người này sẽ kiên trì hoạt động. Lúc đầu họ không cần những chức vị phô trương mà cần nắm các vị trí làm then chốt, không tiếng tăm, không lợi lộc mà những phe chính trị khác thường bỏ lơ, rồi theo năm tháng, vượt qua các thăng trầm; những người Quốc gia không có lãnh đạo, làm việc theo tính tự phát theo tâm hồn yêu nước của mình, có lúc nản chí bỏ cuộc hoặc vì thiếu phương tiện hoạt động. Trong khi đó người cán bộ Cộng sản có lãnh đạo ngầm, có được cung cấp phương tiện, họ cứ tiếp tục làm việc và trong thời gian lâu dài họ nắm được tất cả và khi cơ hội đến cho toàn thể mọi người, thì họ dù thiểu số vẫn là người đủ điều kiện để nắm sự lãnh đạo quần chúng nhất. Trong khi đó người Quốc gia ngoài tấm lòng son sắt không có một cái gì khác để làm phương tiện chiến đấu.

 

* Chương trình hoạt động ngày thứ sáu là bình bầu cá nhân theo kết quả cải tạo trong tuần. Thứ sáu cuối tháng thì bình bầu kết quả cải tạo trong tháng. Từ kết quả đó qui định mức ăn:

 

- Hạng cải tạo xuất sắc tiêu chuẩn 18kg/tháng.

 

- Hạng cải tạo tốt tiêu chuẩn 16.5kg/tháng.

 

- Hạng cải tạo trung bình tiêu chuẩn 15kg/tháng.

 

- Hạng cải tạo kém tiêu chuẩn 12kg/tháng.

 

- Hạng cải tạo xấu tiêu chuẩn 9kg/tháng.

 

Tiêu chuẩn bình quân mỗi người 15kg vừa cơm vừa chất độn. Để kích thích lao động và gây mâu thuẫn, trại buộc tù phải bình bầu mức ăn, làm thế nào để lấy phần ăn của những người bị bầu kém và xấu để đập vào phần phụ trội cho người được bầu xuất sắc và tốt. Cộng sản giáo dục đấu tranh không khoan nhượng, tiêu diệt tính vị tha và lòng rộng lượng của con người, biến cán bộ Việt Cộng thành người bần tiện và hà tiện, chúng không cho ai quyền lợi mà không đòi điều kiện. Trên bình diện lớn của đất nước xã hội thì đảng Cộng sản muốn tước đoạt tóm thâu hết của cải vật chất của xã hội. Nếu nói đảng Cộng sản là một Đảng cướp lớn nhất thì không ngoa một tí nào. Trong phạm vi một trại cải tạo, người tù không còn gì để tước đoạt nữa, ngoài phần 15kg lương thực nấu chín mỗi tháng mà chúng vẫn tước đoạt của người này cho người khác. Tiêu chuẩn 15kg lương thực nấu chín đã quá ít vì chỉ có 9 hay 10kg lương thực sống; tiêu chuẩn này còn bị trừ đi phần ăn cắp bớt của thủ kho, của cán bộ nhà bếp, phần phụ trội cho những người được ưu đãi như đội nhà bếp, toán làm lẻ, chăn nuôi. Chén cơm độn nhỏ còn phải bớt đi một muỗng vì nồi cơm chia không đủ đồng đều một chén cho mọi người. Do đó những người bị ăn phần kém và xấu bị mất phần ăn buổi sáng và bớt phần ăn trưa. Cảnh chia cơm thật khó chịu, một người chia mà hàng chục cặp mắt ở bên ngoài lom lom dòm ngó. Khi đói con người bị hạ thấp như thế đó. Có người nhìn người chia để canh chừng vì nghi ngờ người chia không công bình, nhưng cũng có người đứng nhìn để chia xong lấy nhanh phần ăn để nuốt nhanh cho lẹ rồi nằm nghỉ ngơi. Không có ăn no, phải dưỡng sức bằng nằm, nằm để nghe tiếng rột rạt trong bao tử để thấy cái cảm tưởng là dường như mình đã ăn. Có anh chờ chia xong để vét láng sạch những hạt cơm còn lại trong nồi. Có những đội chia xong phải bắt thăm để bảo đảm sự công bình, nhất là trong 4 dịp ăn lễ có thịt mỗi năm. Người tù cải tạo vấn đề lớn nhất là đói ăn nên nói mãi đến cái ăn dù là phần ăn để sống cầm hơi lây lất qua ngày; phần ăn không phải là cơm mà phần lớn là khoai mì, khoai mì khô, khoai mì kỹ nghệ H-34 có chất độc, ăn vào một thời gian ai nấy sưng hai hạch nước miếng, nở hai mang tai, mặt mày biến dạng trông xấu xí.

 

Ra bãi cuốc đất lượm được con sùng, con dế, con mối lén bỏ vào mồm dùng nước miếng rửa phun đất ra ngoài rồi nhai nuốt để có chất tươi; anh Nay Luett ngồi nấu nước cho đội đã nướng cả sâu róm ăn. Cóc, nhái, chuột, thằn lằn, rắn mối là loại protein cao cấp không dễ gì có trong các ruộng đất khô cằn miền Trung. Chỉ có ruồi, dòi, muỗi mòng, vắt là nhiều nhưng loại này không ăn được. Ở phân trại B, tù nhân hình sự tên Nhơn đã thử ăn 500 con ruồi, nhưng sau đó bị ói mửa gần chết, nên không ai dám thử nữa.

 

Buổi trưa mỗi người tù phải đập 500 con ruồi để nộp. Tù đói quá nên ăn mọi thứ côn trùng và có người thử ăn ruồi thật khủng khiếp và khó tin. Nói về tù Cộng sản cứ xoay quanh cái ăn vì cái ăn quá quan trọng, tù lúc nào cũng đói. Người đang no thì khó thông cảm được. Nhưng chỉ xa nhà 10 ngày đã thèm cơm, mới bịnh tuần lễ nhịn ăn đã thấy thèm đủ thứ thì thông cảm cho sự thèm ăn của tù, suốt cả chục năm chỉ ăn khoai mì và nước muối, khẩu phần tiêu chuẩn không đủ no.

 

Ăn uống thật kham khổ, thật ít, làm lao động thật nhiều, học tập duy trì đều đặn mỗi đêm, tập thể dục đều đặn mỗi buổi sáng, tù phải trực gác mỗi đêm, đi làm phải đi chân đất, hạn chế tắm rửa, giam kỷ luật đến chết, còng một chân, hai chân, hai chân chéo nhau, hai chân chéo có kề thêm vòng sắt giữa hai chân. Đó là những biện pháp trại Kiên Giam Xuân Phước dành cho tù nhân chính trị. Đào ao nuôi cá là công tác nặng nhọc nhất vì đất đồi cứng, dụng cụ thô sơ và chỉ tiêu cao. Một thước khối đất chìm mỗi ngày mỗi người vừa đào vừa khiêng đi đổ, cứ mỗi toán ba người làm chung nhau, một người đào hai người khiêng đất, chỉ có tù Việt Nam Thương Tín và hình sự là hoàn thành mức khoán, họ là những người tù biết tuân hành làm việc mà không suy nghĩ, họ vừa đào vừa gánh hoặc đội đất đi đổ. Những người tù “Việt Nam Thương Tín” phải chứng tỏ mình là người sẵn sàng “về nước xây dựng quê hương”, trước khi xây dựng quê hương thì xây dựng trại. Cán bộ giáo dục đã mớm cho họ để họ có những quyết tâm như vậy, mỗi đợt thi đua họ đều làm quyết tâm thư xin vượt mức khoán. Những người hình sự thì có sắc thái khác, vào tù họ phục tùng cán bộ vì cán bộ là người có quyền uy. Tù hình sự đội viên rất khổ, họ vừa chịu đòn vọt của cán bộ, vừa chịu đòn vọt của đội trưởng của trật tự thi đua, và chịu sự xài xể của tổ trưởng.

 

Thân Yên thấy tù cải tạo phân trại E không hoàn tất chỉ tiêu nên tổ chức nhiều đợt thi đua, ra quân lao động có kèn trống, trình diễn âm nhạc tại hiện trường lao động. Người tốt việc tốt được đọc lên mỗi đêm trên máy phóng thanh, đội tốt được cờ đỏ, đội xấu cờ đen, người tốt được chấm điểm đỏ, người xấu điểm xanh, kết quả dồn vào chia xẻ mức ăn theo 5 hạng đã nêu trên. Mặc các đội thi đua, phân trại E chỉ lẻ tẻ xuất hiện vài cá nhân nổi bật như Phan Gi On, Phạm Quốc Bảo, Tăng Xuân Bá, Đoàn Đô, Huỳnh Cự, Nguyễn Văn Lạc, còn tất cả không ai bảo ai, không chỉ huy lãnh đạo, nhưng mọi người đều hiểu là phải làm thế nào để duy trì mức độ lao động vừa phải, chịu đựng được.

 

Đã đến năm thứ 4 trong tù, tù nhân đã ý thức được hoàn cảnh và thái độ đúng đắn không còn ai tin tưởng vào những hứa hẹn suông của Cộng sản. Khi cần thì chúng hứa hẹn, lúc không cần thì ném bỏ, giam cầm kỷ luật, nhiều anh em thời gian đầu tin chính sách cải tạo, thì nay họ đã sáng mắt.

 

Tù được chỉ định đào 3 chiếc ao, cái lớn nhất được gọi là “ao cá Bác Hồ” nuôi cá bán gây quỹ cho đoàn thanh niên, ao thứ hai trung bình để cải thiện bữa ăn cán bộ, ao thứ ba bé hơn cải thiện đời sống tù nhân.

 

Tiền mua cá giống là tiền ăn của tù, loại cá trắm và cá rô phi được nuôi bằng lá khoai mì, phân heo bò và ruồi. Dĩ nhiên mọi công tác đều do tù làm. Việt Cộng không hề bỏ ra một xu. Không bỏ vốn mà muốn nhiều lời đó là đặc tính của cán bộ Cộng sản, từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất. Cá nuôi với những loại thực phẩm đặc biệt đó rồi cũng lớn, dù chậm. Đến ngày lưới cá thu hoạch, hai ao cá được tù tát cạn bắt sạch, cán bộ chỉ thị tù phải nộp tất cả những con cá tự sinh ra trong ao tức là ngoài loại cá giống nuôi thả, như cá lóc, cá trê, lý do được giải thích rõ ràng, tù sẽ được thụ hưởng ao cá dành riêng, thu hoạch sau. Cũng đến ngày bắt cá cho tù cải thiện nhưng lần này ao không được tát nước. Trưởng Ban Thi Đua đem lưới về rồi chọn vài người tù lặn xuống ao lưới cá. Lặn hụp cả buổi vẫn không bắt được con nào, phân trại trưởng Lê Đồng Vũ nói lớn: “Các anh trại viên kém quá, muốn tìm bao nhiêu bác sĩ, kỹ sư cũng có, mà tìm người bắt cá để ăn thì không có”. Việc bắt cá diễn ra nhiều lần vẫn không bắt được con nào mà cá thì hết dần vì mỗi khi vào phòng khóa cửa lại thì cán bộ xách lưới đến bắt.

 

Một hôm tôi hỏi Hiên, người tù phụ trách lặn bắt cá: “Sao cậu lặn hụp mãi mà không bắt được con cá nào vậy”. Hiên trả lời: “Đ.M., bắt cho mà chết à, tôi được lệnh lặn xuống giở lưới cá ra đấy”. Hiên là Thiếu úy Công an người Bắc, can tội bán bãi cho tổ chức vượt biên bị tòa Đồng Nai xử 12 năm. Tiêu chuẩn ăn lễ có thịt 4 lần trong năm cũng bị tước đoạt bớt. Tiền ăn của tù nhà bếp mua lợn giống nuôi ăn dịp lễ. Ăn xong dịp Tết, nuôi ăn lễ 1/5 và sinh nhật Hồ Chí Minh, ăn lễ 1/5 xong nuôi ăn lễ Quốc Khánh, ăn lễ Quốc Khánh xong, nuôi lợn ăn tổng kết cuối năm và dịp Tết. Lợn nuôi bằng rau và cơm cháy của nhà bếp tức là phần ăn của tù. Đến gần ngày lễ con lợn lớn và mập mạp, tù mừng và trông chóng tới lễ, nhưng gần ngày hạ thịt lợn thì bỗng nhiên tù thấy con lợn nhỏ lại. Thì ra đội chăn nuôi đã nhận lệnh nhận con lợn nhỏ của phân trại trưởng đem xuống đổi. Khi làm thịt cán bộ quản giáo đội chăn nuôi được nhận cái đầu cắt đến tận vai, đó là công của hắn đã đốc thúc việc chăn nuôi, cán bộ quản giáo nhà bếp được hai ký thịt nạc, cán bộ trực trại đều có quyền lợi chia phần - phần những người tù được ưu đãi hơn trong phận sự nấu cơm nấu nước được quản giáo nhà bếp thông cảm cho tăng tiêu chuẩn, phần của trật tự thi đua. Cuối cùng lễ nào cũng giống nhau, tiêu chuẩn của mỗi người tù còn lại một mẫu thịt bằng ngón tay cái; nhưng đối với tù có còn hơn không, lâu lâu được một tí mỡ.

 

Lao động, sinh hoạt học tập, đọc báo, chiếu phim, trình diễn văn nghệ được thực hiện liên tục, chiếm hết thì giờ của tù và nhồi nhét vào đầu óc những người tù những lý luận Mác-xít sơ đẳng, phim ảnh, tuồng tích bôi bác chế độ cũ nhất là hình ảnh người lính Cộng Hòa, càng làm cho tinh thần chống Cộng củng cố thêm. Phim thần thoại tuyên truyền của Liên Sô rất kém về kỹ thuật, nghèo nàn về nội dung và hình ảnh. Không tưởng tượng được Liên Sô là một siêu cường đứng đầu thế giới Cộng sản mà sản phẩm phim ảnh họ kém cỏi như vậy, không hơn phim loại tồi của Việt Nam và kém cả phim Ba Lan, Tiệp Khắc và các nước Tây phương. Phim ảnh, văn chương nghệ thuật là sản phẩm của nền văn hóa của xã hội con người, như vậy chế độ chứng tỏ Cộng sản không những không giải quyết được nhu cầu vật chất của xã hội, mà độc tôn tư tưởng trong giáo điều Mác-xít đã hạn chế sự phát triển của con người, tiêu diệt sáng kiến và khả năng sáng tạo nghệ thuật. Tù nhân không thích xem các buổi trình diễn văn nghệ chiếu phim dù đời sống trong trại tù đơn điệu, buồn tẻ, thô bạo ở mức độ sơ khai; tù nhân còn tiếc vì mỗi lần có đoàn văn nghệ, chiếu phim, mọi phí tổn tiền ăn của tù phải chịu trang trải nên phần ăn ít ỏi là gạo bị cắt bớt, bữa ăn chỉ còn lại khoai mì. Nhìn thấy khoai mì đã phải sợ mà vẫn phải cố nuốt cho trôi mà sống qua ngày, làm lao động quần quật suốt tuần. Buổi sáng chủ nhật phải đi làm công tác xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra những buổi lên lớp học tập, viết thu hoạch không thì giờ nào được ngơi nghỉ. Mỗi tuần chỉ còn lại buổi chiều chủ nhật. Những buổi lên lớp thì không ai lạ gì, những đề tài cũ rích được nhắc đi nhắc lại mãi, những từ ngữ nhàm chán mà cán bộ chưa nói ra tù nhân đã biết. Tù được giải nghĩa về ý nghĩa của trận du kích trên không “của quân đội và nhân dân miền Bắc anh hùng”. Trong buổi học tập toàn trại rất trang trọng tại hội trường có Thân Yên chủ tọa, chính ủy trại, cán bộ Nghị, Bí Thư Đoàn Thanh Niên đã giải thích: ”... quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã đánh thắng liên tục những đế quốc lớn nhất, và là kẻ thù của loài người tiến bộ trong đó đế quốc Mỹ là tên hung nô thời đại, tên đế quốc đầu sỏ hung hãn nhất. Nghệ thuật đánh du kích của quân Việt Nam là thần thánh đã đi vào tư tưởng quân sự của thế giới, nhưng du kích trên bộ thì không còn lạ gì, mà Bác Hồ vĩ đại và Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh đã đề ra chiến thuật du kích trên không. Trận du kích trên không đã đánh thắng không lực Mỹ hùng mạnh nhất thế giới. Đánh hạ pháo đài B-52 và những phi cơ con ma của Mỹ bắt sống hàng ngàn tên giặc lái... ‘Phi công Việt Nam anh hùng’ của ‘quân lực Việt Nam anh hùng’ đưa phi cơ lên những đám mây, tắt máy chờ sẵn phi cơ địch bay qua, bất ngờ nổ máy trở lại đè B.52 của Mỹ từ trên không xuống bắt chúng phải hạ cánh...” Tù nhân ngơ ngác nhìn nhau, ai cũng tưởng tai mình nghe nhầm, tưởng là nằm mơ, nhưng là sự thật, đang học tập ở hội trường, thuyết trình viên cán bộ Nghị vẫn thao thao thuyết giảng, trại trưởng Trung Tá Thân Yên ngồi ngay ngắn, thỉnh thoảng gật gật đầu đắc ý và cả đoàn cán bộ ngồi trên sân khấu hội trường đều nghiêm trang. Không phải tên cán bộ Nghị đang diễu, mà hắn đang nói thật, và cả đoàn cán bộ cũng đang tin là trận du kích trên không là thật. Chỉ có những tù nhân biết mình đang nghe con vẹt lập lại một cách ngu xuẩn tài liệu học tập ngu xuẩn của đảng đưa xuống, và những tên người máy ngu xuẩn đang ngồi nghe và tin một cách máy móc.

 

Chúng tôi còn được học những bài học về tiềm năng kinh tế của Việt Nam, một nước Việt Nam “tiền rừng bạc bể”, một nước Việt Nam mà cái gì cũng quí giá. Cán bộ giáo dục trại Trung Úy Hanh đọc cho chúng tôi nghe “tài liệu lịch sử” cho biết thời Pháp thuộc, người Pháp đã biết quí phân người Việt Nam nên phơi khô đóng thùng mang về nước. Hắn cũng kể cho chúng tôi nghe là hiện tại ở miền Bắc có một món vô cùng quí giá, đó là khói của nhà máy ciment Hải Phòng, nước Nhật đã thương lượng với chính phủ Việt Cộng để mua khói đó, nhưng chính trị bộ đã quyết định không bán vì biết là Nhật mua khói đó để về chế tạo bom nguyên tử. Cán bộ nói hăng say, cán bộ nghe thích thú đắc ý, tù muốn cười to lên mà không dám cười, chỉ đưa mắt nhìn nhau và cùng cảm thấy ức. Trình độ cán bộ Cộng sản như vậy mà họ đã thắng mới thật đau.

 

Để kích thích lòng yêu nước và tự ái dân tộc, phục vụ chiêu bài giải phóng dân tộc, đảng Cộng sản dùng Viện Sử học để viết lại lịch sử một cách bừa bãi. Họ dìm dân chúng và cán bộ của họ ở trình độ hiểu biết thấp nhất, để tài liệu tuyên truyền của họ được nghe, tin và nói lại như con vẹt. Cán bộ chính trị chỉ biết nói theo đúng tài liệu học tập. Nói mãi, học mãi và tin điều mình nói, tin điều mình học, tin vào lãnh tụ và rồi chỉ biết tiến tới chiến đấu với kẻ thù như một thứ người máy được lên dây cót, như một thú vật bị trích thuốc kích thích. Trình độ của cán bộ giáo dục ngành công an cấp sĩ quan mà tin du kích trên không là phi cơ tắt máy nấp vào trong mây, tin khói ciment là của quí chỉ Việt Nam có và có thể dùng chế tạo bom nguyên tử.

Yêu nước, hãnh diện vì lịch sử dân tộc, có một niềm tin là dân tộc trường tồn và vững mạnh trong cộng đồng thế giới là điều đúng đắn nhưng khoa trương quá đáng về tiềm năng dân tộc một cách lố bịch là điều chỉ có Cộng sản Việt Nam làm và thành công trong điều kiện người dân bị dìm trong sự dốt nát. Trình độ giáo dục được nâng cao của người dân miền Nam; sự phổ quát kiến thức và tin tức khoa học kỹ thuật, những biến chuyển nhanh chóng của chính trị kinh tế thế giới mà người dân miền Nam đã hấp thụ được, đã làm cho kế hoạch tuyên truyền và giáo dục người dân của Cộng sản hoàn toàn thất bại. Trước mắt người dân miền Nam cán bộ Cộng sản trở thành một người kỳ quái, nói dai, nói dở, nói dài, nói dối. Mọi thủ đoạn lừa bịp dân chúng Việt Nam đều sẽ thất bại. Không riêng gì Cộng sản, những chính trị gia bắt chước theo Cộng sản dùng thủ đoạn để lừa bịp dân chúng Việt Nam cũng bị dân chúng nhìn như tên hề diễu dở.

 



 

 




 


 










 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn