(Xem: 1869)
Xuân Tóc Đỏ chỉ là nhân vật tưởng tượng, còn Xuân Tóc Quăn là nhân vật có thật, là thi sĩ số một của chế độ cộng sản Việt Nam. Xuân không là Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng như Tố Hữu, Huy Cận, Hoàng Minh Giám, Lưu Trọng Lư, hoặc là cập rằn Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Hoài Thanh, của chế độ, Xuân chỉ là con cún, con miêu được chủ cưng chiều, sáng chiều cho ở bên cạnh để… liếm đít.
(Xem: 13121)
Tô Lâm được công luận phong là “người hùng cướp đất Văn Giang”. Trong phi vụ Văn Giang tháng 4 năm 2012, Tướng Lâm đã huy động lực lượng đông đảo tới 2000 công an phục vụ mục đích giải phóng mặt bằng cho dự án khu đô thị Ecopark mà thực chất là c.ướp đất của dân 3 xã Phụng Công, Cửu Cao và Xuân Quan. Hàng chục nông dân đã bị b.ắt giữ vì dám phản kháng để giữ đất. Nhưng có ai biết được rằng, sau vụ đàn áp dân chúng cho một dự án thuần túy kinh doanh, một nhân vật có tên Tô Dũng đã được chủ tịch Hưng Yên phê duyệt cho phần diện tích đất hơn 1.000 héc ta, như một “đáp lễ”. Tô Dũng là em ruột của Tô Lâm, hiện là giám đốc công ty bất động sản Xuân Cầu Holding. Đồng thời Tô Dũng cũng là đơn vị độc quyền phân phối xe Vespa tại miền Bắc.
(Xem: 8788)
Bí thư Lan dùng quyền lực che đậy cho Phúc Sơn và các doanh nghiệp sân sau “ăn đất”, xé nát rừng Tam Đảo để xây khách sạn, phân lô bán nền. Ngân sách bị rút ruột, còn gia đình bí thư Lan thì giàu nứt đố đổ vách. Quyền lực nắm trong tay, tiền nhiều hơn lá rừng, nên quan bà Hoàng Thị Thuý Lan khuynh đảo cả hệ thống chính trị tỉnh Vĩnh Phúc. Luân chuyển cán bộ để bán ghế, sắp xếp bè cánh, trừng phạt các đối thủ… là nghề của Lan. Tuy suy thoái về mặt đạo đức, sa sút về nhân cách, vậy mà lần bỏ phiếu tín nhiệm lãnh đạo mới đây, số phiếu tín nhiệm của bà Lan cao ngất ngưỡng và chỉ bị duy nhất một phiếu tín nhiệm thấp.
(Xem: 8404)
Và mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, mỗi lần thay đổi chính sách lại có thứ tù nhân mới, có kẻ bị khai trừ mới. Có thứ bị khai trừ trong “thời kỳ” theo đệ tứ hay theo đệ tam, khai trừ “thời kỳ” cải cách ruộng đất, khai trừ “thời kỳ” Nhân Văn Giai Phẩm, khai trừ “thời kỳ” chính sách theo Nga hay theo Tàu, khai trừ “thời kỳ” trong “vụ án chống đảng, chống nhà nước ta đi theo chủ nghĩa xét lại và làm tình báo cho nước ngoài”, khai trừ “thời kỳ” Mặt trận Giải phóng miền Nam, khai trừ “thời kỳ” những người cựu kháng chiến Nam bộ.
(Xem: 8927)
Hiện nay Trạc đang trở lên điên cuồng vì tương lai tới của mình bởi không thể ngồi ghế trưởng ban nội chính được quá 2 nhiệm kỳ, nhất là kinh tài sân sau của Trạc là Bắc Á và Thái Hương đang trong cơn khó khăn. Mất chức không những mất quyền mà còn sẽ mất luôn nguồn lợi. Trạc đang đi vào con đường mà Trương Hoà Bình đã làm, đó là trước khi về đe doạ khủng bố các nơi, để sân sau mình cướp lợi ích như vụ Nguyễn Cao Trí cướp dự án Lâm Đồng do Trương Hoà Bình đạo diễn.
(Xem: 7325)
Vài tháng sau ngày bị ” Giải phóng ” người dân miền Nam nghe thông tin ngày mai sẽ có đổi tiền. Cả Saigon nhốn nháo bất kể giờ thứ 25, ai cũng tất bật chạy đôn đáo để tranh thủ không nhìn những đồng tiền kiếm bằng mồ hôi nước mắt biến thành đống giấy lộn, nhất là đồng tiền của 1 chế độ đã bị chôn. Nỗi đau cũng không khác gì khi nhìn lá cờ vàng mà mình từng trân trọng kính cẩn bị vất bỏ, bị chà đạp… Năm trăm đồng VNCH chỉ đổi được 1 đồng miền bắc và mỗi gia đình chỉ đổi được 200 đồng tiền mới.
(Xem: 9392)
Với sự chống lưng của đại tướng Lê Đức Anh, bố vợ Vũ Chính cùng con rể Nguyễn Chí Vịnh đã biến Tổng Cục 2 (TC2) thành cơ quan siêu quyền lực, đứng trên cả Bộ Chính trị, gây nên vô số bê bối trong cung đình cộng sản. Những thủ đoạn tàn độc mà một số cá nhân, phe nhóm trong Đảng CSVN sử dụng Tổng cục này để triệt hạ đối thủ của mình, nhằm thâu tóm quyền lực, đã hiện rõ trong giai đoạn này. Hai vụ án chấn động trong đảng và cả hệ thống chính trị phải kể đến, xảy ra từ trước đại hội 7 năm 1991
(Xem: 10260)
Đời binh nghiệp luôn là niềm tự hào và là những trang đời đẹp nhất đối với các đấng nam nhi khi cống hiến, phụng sự cho Tổ quốc. Nguyễn Chí Vịnh thì khác, Vịnh luôn chọn lối đi riêng, lối đi trải đầy bổng lộc, quyền lực cho bản thân, gia đình và phe nhóm. Tuy nhiên, luật Trời thật khắc nghiệt và công bằng. Làm đại quan mà cưỡi trên cổ nhân dân, hút máu và đạp lên đầu đồng đội để bước đi, cái kết sẽ cay đắng và thảm khốc. Khi anh không vì quốc gia, dân tộc, luôn bán linh hồn cho quỷ dữ và ngoại bang, thì cái giá phải trả sẽ không hề rẻ chút nào.
(Xem: 7861)
Hôm nay 8 tháng 5 năm 2023 ông Trọng chủ trì xem xét vụ việc này và kết luận rất nặng nề đối với ông Nguyễn Ngọc Ánh. Ông Ánh là cấp dưới, dây dưa sai phạm của ông từ những người trên ông, họ phó là tổng thanh tra chính phủ Trần Văn Minh, phó thủ tướng thường trực Trương Hoà Bình, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ( sau là chủ tich nước ) và ảnh hưởng của nguyên chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Với những gì nêu trên, có thể thấy ý kiến dư luận về hai chiều hướng xử đến ông Nguyễn Ngọc Ánh là dừng, hay do cân nhắc sợ vỡ bình, sợ phe nhóm ông Sang, Phúc , Bình còn ảnh hưởng mạnh mà phải cẩn trọng làm từng bước đều có cơ sở cho cả hai.
(Xem: 9504)
Hùng Phò Mã hiện nay đang giữ chức phó tổng cục trưởng tổng cục thuế, nếu ông Phúc không bị bắt về, có lẽ Hùng sẽ nắm chức tổng cục trưởng tổng cục thuế năm 2023 này và lên thứ trưởng vào năm 2025, vào uỷ viên trung đảng năm 2026. Nhưng con đường thăng tiến của Hùng đã bị ngưng lại khi ông Phúc về, Bộ Tài Chính trao quyền tổng cục trưởng cho người khác là ông Mai Xuân Thành. Hùng Phò Mã trước cảnh bố vợ mất quyền, mẹ vợ bị giam lỏng, viễn cảnh đen tối của nhà vợ hiện rõ trước mắt. Trong khi tuổi mình còn đang sung sức, đã tính chuyện li dị vợ để cắt đứt liên quan. Ôm khối tài sản khổng lồ đã kiếm chác được từ ảnh hưởng của ông Phúc để lo cho thân mình.
(Xem: 14242)
Nhà văn Nguyễn Trọng Tạo có bài "Tự dưng lại nghĩ đến tiền" để phản ánh tâm trạng lo âu, chán ngán của người dân trước vấn đề lạm phát tồi tệ nhất tại Việt Nam tính trong 3 năm qua. Từ đó ông hồi tưởng đến câu chuyện đổi tiền ngày xưa đã mang lại thảm ...
(Xem: 15653)
Tết nào tui cũng ngồi nhớ những cái tết thời bao cấp. Thời đó nghèo khổ lắm nhưng vui lắm. Cứ mỗi lần tết đến là háo hức vô cùng. Còn bé thì háo hức đến tết được mặc áo mới, được lì xì, được ăn thịt cá thoả thuê… Tuổi thanh niên thì háo hức được về quê ...
(Xem: 17973)
Thời bao cấp có rất nhiều loại tem phiếu, không thể nhớ hết được. Ví dụ Phiếu chứng nhận máy thu thanh chẳng hạn, tui quên khuấy đi mất. Còn các loại tem gạo, tem vải, tem đường thì nhiều vô kể. Trung ương phát hành rồi về tỉnh còn phát hành tem phiếu ...
(Xem: 14474)
Thời bao cấp trai gái thời thượng không ai gọi là hot boy, hot girl. Không biết miền Nam gọi là gì chứ ở miền Bắc trai gái thời thượng đều gọi là người yêu lý tưởng. Ngay cả cái từ hot hình như cũng chỉ được dùng hơn chục năm trở lại đây thôi, nó bắt ...
(Xem: 12480)
Đã có vài ba phim truyền hình kể về thời bao cấp rồi nhưng chưa có phim nào ghi lại thật đúng thời ấy cả. Mình rất muốn làm một phim về thời bao cấp, làm thật chuẩn để mọi người nhớ lại cái thời đã qua. Nhiều chuyện bây giờ kể lại cho trẻ con chúng nó ...
(Xem: 14281)
Một tuần sau khi tớ tung lên mạng “Phấn đấu kí số 27”, đã có khá nhiều người, đặc biệt là lớp trẻ (từ 50 tuổi trở xuống), comment, gửi message và gọi điện hỏi thăm tớ về những hiện tượng bao cấp mà tớ mới lướt qua vài dòng. Tớ mới chợt nghĩ ra: Ừ nhỉ, ...
PHÊ BÌNH MỚI
17 Tháng Sáu 202512:23 CH
mostbet. <a href=https://www.mostbet4001.ru>https://www.mostbet4001.ru</a>
bởi 
17 Tháng Sáu 20259:02 SA
lucky jet 1win <a href=https://1win3009.com>https://1win3009.com</a>
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0
16 Tháng Sáu 2025
Nhưng có một điều mà rất ít người nhận ra – hoặc nếu có, cũng không dám nói ra: đó là dân tộc này chưa bao giờ chiến thắng được kẻ thù nguy hiểm nhất của chính mình – sự ngu dốt. Và nguy hiểm hơn nữa là: họ không hề biết rằng mình đang thua trong cuộc chiến ấy. Họ cứ tưởng mình là nhất, trong khi lại trượt dài trong những thất bại âm thầm: thất bại trong giáo dục, trong khoa học, trong sáng tạo, trong quản trị xã hội – và trên hết, là thất bại trong việc tự vấn chính mình.
11 Tháng Sáu 2025
Thật ra hàng giả và chế độ cộng sản là mối quan hệ cộng sinh. CSVN phải dung túng cho hàng giả tồn tại vì hàng giả mang lại tiền thật cho CSVN. Chỉ khi nào triệt phá được hết đường dây cán bộ giả, bầu cử giả, đạo đức giả thì mới mong xử lý hết được nạn hàng giả ở Việt Nam. Mà triệt phá đường dây này thì lấy ai làm cán bộ?
11 Tháng Sáu 2025
Ngẫm lại câu nói của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Nửa thế kỷ sau khi Putin xua quân Nga xâm lăng Ukraine. Tổng Thống, Quân, Dân Ukraine quyết tâm chống trả với kẻ thù Nga tàn bạo sát hại và phá nát đất nước Ukraine. Trong khi đó nhiều “bạn” đồng minh hết lòng hỗ trợ nhưng cũng có “bạn” lúc thế nầy, lúc thế kia làm áp lực cho TT Zelensky không biết đâu mà lường!...
11 Tháng Sáu 2025
Không ai lạ gì truyền thống “cả họ làm quan” trong nội bộ Đảng, nhưng sự sắp đặt lần này đã vượt khỏi mọi giới hạn tối thiểu về thể diện chính trị. Hưng Yên, một tỉnh không nổi bật về thành tích chính trị hay truyền thống cách mạng, bỗng dưng trở thành trung tâm phát xuất quyền lực, khi lần lượt từng vị trí then chốt của ngành công an tại Hà Nội và Sài Gòn đều rơi vào tay người đồng hương của Tổng bí thư. Điều ấy đặt ra một câu hỏi nghiêm trọng: liệu bộ máy công an hiện nay còn là lực lượng bảo vệ pháp luật và trật tự xã hội, hay đã bị biến thành công cụ bảo vệ ngai vàng cá nhân?

Văn và ông Trần Phong Giao

05 Tháng Sáu 20258:09 SA(Xem: 407)
Văn và ông Trần Phong Giao
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00

Có thể nói, thập niên 60 là thời kỳ “nở rộ” của các tạp chí văn học miền Nam, với những tên tuổi lớn như Sáng Tạo của nhóm Thanh Tâm Tuyền; Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu; Hiện Đại của Nguyên Sa và trước đó là Chỉ Đạo của Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Đỗ… Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau các tạp chí này lần lượt tự đình bản. Duy nhất chỉ còn ba tờ “sống lâu” là Bách Khoa, Văn và Văn Học. Sau đó là những Vấn Đề, Nghệ Thuật, Tiếng Nói, Tin Văn, Thời Tập, Khởi Hành, Đối Diện, Ý Thức… nhưng cũng chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn.

Bách Khoa có lối đi riêng: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội; phần văn học chỉ chiếm một số trang khiêm nhường. Văn Học cũng vậy. Sau khi Dương Kiền ra đi, Phan Kim Thịnh thay thế thì Văn Học trở thành chuyên san về các nhà văn nhà thơ Việt Nam một thời ghi dấu ấn đậm nét cho dòng văn học Việt Nam từ thời Thơ Mói trở đi, với những bài nghiên cứu, phê bình và đăng tải lại các tác phẩm của họ.

Giữa “rừng” sách báo thời đó, Văn có cách chọn lựa của riêng mình. Đó là tạp chí chuyên về văn học nghệ thuật. Ngay từ số đầu tiên ra mắt ngày 1.1.1964, phía dưới logo Văn, nơi trang bìa có ghi Tập san văn chương tư tưởng nghệ thuật. Nhưng đến số 10 (chủ đề Văn hóa Phật giáo) trở đi, tiêu chí ban đầu của tạp chí lại đổi thành Tập san của những người ham đọc, hiếu học, ưa suy nghĩ. Chính tiêu đề này, cả ông chủ nhiệm lẫn thư ký tòa soạn (đặc biệt là ông thư ký Trần Phong Giao) bị nhận nhiều lời chỉ trích khá nặng nề. Và hình như, để cho những chỉ trích kia thêm “nặng ký”, họ lại chế thêm dầu vào mấy dòng chữ Ban tuyển đọc trong mục hộp thư thường kỳ trên các số báo, cho rằng đó là cách làm của kẻ bề trên, ban phát ơn huệ cho anh em mới cầm bút. Sau này có dịp gặp anh Dương Nghiễm Mậu ở Cần Thơ, tôi hỏi một cách tế nhị về cái Ban ấy, và biết thêm thông tin: Một mình ông Giao làm không xuể: vừa trả lời thư, sắp xếp đặt bài, làm thầy cò sửa morasse, phát hành; vừa đọc vừa viết nên phải mời thêm các nhà văn khác giúp chọn lựa bài vở của những người mới cộng tác lần đầu với Văn. Sau này thân quen, tôi hỏi ông thư ký Văn và chỉ nhận được câu trả lời là một nụ cười; một nụ cười rất “Ca Diếp!”

Trong số ra mắt, các tác giả có mặt hầu hết là những tên tuổi lớn trên văn đàn thời bấy giờ. Đó là Nguyễn Mạnh Côn, mở đầu với bài viết “Nhiệm vụ của người cầm bút”, tiếp theo là truyện vừa “Chim hót trong lồng” của Nhật Tiến, truyện ngắn “Con chó Uất Trì” của Lê Văn Siêu, thơ của Vũ Hoàng Chương, các truyện của Hồ Hữu Tường, Mai Thảo, Đỗ Tấn và một truyện dịch của Françoise Sagan…

Tạp chí VănVăn số ra mắt (1.1.1964) đã được độc giả nồng nhiệt đón nhận. Trong Thư gửi bạn đọc trên số 2, phát hành ngày 15.1.1964, có đoạn ghi: “Ngay sau khi vừa phát hành số ra mắt, Văn đã được đón nhận nhiều sự hưởng ứng của các bạn văn cũng như bạn đọc. Chúng tôi muốn nhân đây được ngỏ đôi lời: Văn lúc nào cũng sẵn sàng tiếp đón mọi sự cộng tác. Khởi đi là cơ sở của một nhóm người yêu văn, chúng tôi ước ao mai sau Văn sẽ trở thành diễn đàn chung của tất cả những người yêu văn, không phân biệt tuổi tác, khuynh hướng và trường phái…”. Và, để thực hiện tôn chỉ này, trong số 3, Giai phẩm Xuân, Văn đã tập hợp các bài viết của nhiều thế hệ, các vùng miền khác nhau, từ Vi Huyền Đắc tới Giản Chi, Doãn Quốc Sỹ tới Võ Phiến, Sơn Nam, Phạm Công Thiện, Đặng Tiến… và Nguyễn Đình Toàn, Lê Tất Điều, Y Uyên, Nhã Ca… cùng Vũ Hạnh v.v… để từ đó Văn ngày càng lớn mạnh, có một địa vị vững chắc trong làng báo Văn chương miền Nam thời bấy giờ.

Từ khi biết đọc, tôi đã đọc rất nhiều sách báo, đủ loại thượng vàng hạ cám, cốt nhét cho đầy cái đầu “đói khát”, nhưng một cách chủ quan và rất “duy ý chí”, tôi thấy ở đất nước khốn khổ này, cho tới giờ phút này, chỉ có duy nhất hai ông là có tầm cỡ làm báo văn học. Đó là ông Trần Phong Giao ở trong này và ông Nguyên Ngọc ngoài kia. Cả hai đều có cặp mắt xanh, phát hiện ra những tài năng văn học cho nước nhà: Những Y Uyên, Cảnh Cửu, Trần Thị NgH, Trần Hoài Thư, Ngụy Ngữ, Nguyễn Bắc Sơn… Tới Trần Huy Quang, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp.v.v.  Công lao ấy, tôi nghĩ, sau này những nhà viết văn học sử sẽ dành cho hai vị một chỗ đứng trang trọng nhất trên các trang sách! Bởi cả hai ông đều có một tư tưởng chung là tách bạch văn chương ra khỏi chính trị, chính xác là không chịu để chính trị khuynh đảo, lấn áp văn chương!

Riêng ở miền Nam, trong thời kỳ chữ nghĩa đa chiều, công khai và bởi tính nhân bản, tự do dân, chủ thật sự, Văn đã làm tròn thiên chức của một tờ báo (văn học) lớn nhất nước: giới thiệu các trào lưu văn học phương Tây (có cả văn học Nga La Tư, Mỹ La Tinh…), Châu Á (Ấn Độ, Nhựt Bổn, Nam Triều Tiên…) và bên cạnh những nhà văn tên tuổi, Văn còn có công lớn, khám phá những tài năng mới, có thể kể tên: Lê Tất Điều, Nhã Ca, Y Uyên, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Ngụy Ngữ, Trần thị NgH., Kinh Dương Vương, v.v… và v.v… Chủ đích này, có thể thấy ngay ở số 11 ngày 1.6.1964, với chủ đề NHỮNG CÂY BÚT TRẺ ĐANG LÊN. Trong Thư gửi bạn đọc, có đoạn: “Trong số báo này (…) chúng tôi xin mời bạn đọc những sáng tác mới nhất của những cây bút trẻ đang dồi dào phong độ. Văn nghiệp của những cây bút góp mặt nơi đây mặc dù còn đang được xây đắp bằng rất nhiều công khó, cũng đã có được ít nhiều sắc thái riêng biệt khả dĩ xác nhận sự hiện diện của họ trên văn đàn. Họ đang cố vươn tới, đi lên. Nội sự cố gắng đó thiết tưởng đã đủ để bạn đọc tiếp nhận tác phẩm của họ bằng rất nhiều thiện cảm”.

 Những “Họ” trong số chủ đề này là: Trần Như Liên Phượng, Dương Nghiễm Mậu, Huy Lực, Luân Hoán, Hoàng Đông Phương, Nguyễn Đức Sơn, Thảo Trường, Thế Nguyên, Viên Linh, Thế Uyên, Nguyễn Quang Hiện.

Cứ thế, Văn đều đặn giới thiệu đến độc giả Việt Nam các nhà văn thời danh thế giới: Boris Pasternak, F. Sagan. A. Camus, J.P. Sartre, Hemingway, J. Steinbeck, Lỗ Tấn, Kawabata, Nguyễn Du, Lâm Ngữ Đường, Tản Đà, Khái Hưng, Bích Khê, Nhất Linh … cùng những tuyển tập thơ văn của các tác giả trong nước, tạo thành một vườn văn đầy hương sắc, tạo được lòng mến mộ của độc giả với tờ báo bởi những thông tin đa chiều, những khuynh hướng trào lưu văn học trên thế giới được cập nhật đều đặn mỗi nửa tháng.

Với những người viết trẻ, Văn luôn là cánh cửa mở. Tất nhiên mỗi tác giả khi bước qua cánh cửa này luôn phải mất nhiều công khó, như trong thư gửi bạn đọc ở số 11. Đây có lẽ cũng là niềm tự hào của những người viết mới, khi được Văn chọn đăng tác phẩm của mình, như là bước khởi đầu cho sự thành công sau này. Còn thành công đến đâu, dài hay ngắn thì bản thân mỗi tác giả lại phải cố vươn tới, đi lên!

Tạp chí Văn-2Trong số những người viết trẻ đến với Văn, duy nhất chỉ có Cảnh Cửu luôn làm ông Trần Phong Giao nuối tiếc và buồn không ít. Không rõ, những anh em cùng lứa với chúng tôi hồi đó, ông có tâm sự về chuyện này hay không, nhưng với tôi, mỗi khi có dịp gặp nhau là ông lại nhắc đến, coi đó là một “tai nạn” nghề văn. Có lần, ông kêu tôi và Trần Hoài Thư đi uống la-ve ở đường Nguyễn Kim, Chợ Lớn, gần sân vận động Cộng Hòa, ông nói: “Cảnh Cửu là trường hợp ngoại lệ, độc nhất vô nhị của Văn, lũy gửi truyện đầu tiên, moa mở ra đọc. Chỉ vài đoạn đầu đã làm moa ngạc nhiên, thích thú vì quá hay, và quyết định cho đăng ngay, không cần qua Ban tuyển đọc. Cứ ngỡ rằng sẽ có một văn tài xuất hiện, nhưng sau đó truyện thứ hai lũy gửi đến làm moa vô cùng thất vọng. Nhưng để khuyến khích lũy, moa cho đăng. Khi gửi báo biếu và nhuận bút, moa kèm theo lá thư rất chân tình, đại ý truyện Khởi hành vào mùa xuân tương Lai (Văn số 79, ngày 1.4.1967) lũy viết quá dễ dãi …” (*)

Điều mà ông gọi là “độc nhất vô nhị” chính là truyện ngắn Thư từ Tuy Hòa của Cảnh Cửu được chọn đăng trên Văn số 45 ngày 1.11.1965. Đây là truyện ngắn hay, rất hay của Cảnh Cửu, viết về nỗi cô đơn của nhân vật nữ xưng tôi. Truyện có vẻ như tự truyện của cô gái trên chuyến tàu hỏa đi qua vùng cát cháy Vạn Giã, Tuy Hòa, lang thang trên các con phố Qui Nhơn để nhớ đến những kỷ niệm nhỏ về “Anh” nào đó vừa “dính men” chen vào ngóc ngách tình cảm của cô. “Anh” chỉ còn là cái bóng bên cạnh khiến cô gái càng thêm “trống”, cô đơn hơn bao giờ. Sự cô đơn kia lại được Cảnh Cửu phác họa một chi tiết rất nhỏ trong tầng sâu tâm cảm của cô khi chợt nhận ra “Tôi khoanh tay ra sau tì lưng vào thành tàu ưỡn người. Ngực tôi lồ lộ. Gió tung vạt áo trước tôi đi xa thấy rõ hàng nút xẻ dọc trên quần. Gió càng mạnh làm vải ở hai bên đùi tôi mỏng thêm và chiếc xì-líp dày cộm kinh khủng. Tôi biết nhưng cũng chẳng buồn sửa lại. Cuộc chiến tranh nào bi đát bằng cuộc chiến tranh này”, là những hẫng hụt về cảm giác đụng chạm thịt da trước đó không lâu, sự cô đơn đến cuống cuồng đau đớn mà Cảnh Cửu dùng chỉ một từ “bi đát”. Đọc truyện này, khiến tôi liên tưởng đến truyện Người đàn bà ngoại tình (La femme adultère, trong tập L’exil et le royaume) của A. Camus! Một truyện ngắn đầu tiên của một Cảnh Cửu chưa tên tuổi đã khiến người đọc sững sờ vì cái style rất riêng, cốt truyện rất lạ, thứ truyện không truyện.

Người thứ hai làm cho ông buồn nhiều, đó là Y Uyên. Cái chết của Y Uyên như một nỗi ám ảnh lớn đối với ông và như thể do chính ông gây ra. Sau số Văn (số 129, ngày 1.5.1969) tưởng niệm nhà văn tài hoa mệnh bạc này, ông có nhờ chúng tôi sưu tập lại những truyện ngắn của Y Uyên chưa từng công bố, sau đó xuất bản với tên Có loài chim lạ trong tủ sách Nguyệt san Tân Văn số 44 tháng 12.1971. Trong khi làm công việc sắp xếp, ông hỏi tôi (vừa từ Gò Công lên): Cậu có biết anh Nguyễn Hiếu Học ở Phan Thiết không? Tôi trả lời không. Ông nói, nghe đâu khi đóng quân ở Phan Thiết, Uy viết được gì đều gửi lại ở nhà Nguyễn Hiếu Học không mang theo chỗ đóng quân. Nếu có được thì hay quá! Tôi nói anh có thể nhờ các anh Từ Thế Mộng, Nguyễn Bắc Sơn hay Lê Văn Chính hỏi giúp. Sau đó một thời gian, tôi hỏi có tin gì về những bài lai cảo của anh Uy ở Phan Thiết? Ông lắc đầu tỏ vẻ chán nản và rủ tôi qua bên Thủ Thiêm uống bia. Uống đâu chừng hai ly, mắt ông đỏ lên, ngân ngấn: “Bao công lao chạy cho được cái giấy thuyên chuyển đều đổ sông đổ bể! Cầm được bưu điệp trong tay rồi còn quay ra đơn vị làm gì để đến nỗi bỏ mạng? Moa đã viết thư, gọi điện ra Phan Thiết nhắc rồi: Có là đi ngay, về ngay. Tình hình phức tạp lắm… Vậy mà…”.

Người thứ ba cũng làm ông lo lắng không ít, đó là trường hợp Người em xứ xương rồng. Anh bỏ đơn vị lang thang vào Tuy Hòa, Nha Trang, Phan Rang… vì không kham nổi mỗi đêm phải dẫn Trung đội “thám kích” với cặp kính trên 7 độ! Ông lại tìm đủ mọi cách để cứu “Người em” và cuối cùng chính ông cũng toại nguyện: “Người em” được chuyển về viết quân sử ở Quân Đoàn 4, đêm không còn phải đi bằng chân lẫn tay để dẫn Trung đội đi kích như trước ở cầu Bà Gi!

Một trường hợp khác là Lê Văn Thiện. Năm 1969, từ Cần Thơ về quê ăn Tết, ghé lại Văn nhận báo biếu, ông Giao bóp trán à lên một tiếng: “Hình như Lê Văn Thiện đóng quân ở quê cậu. Có gặp cho tôi gửi lời thăm, cái truyện đó tôi gác lại!”. Tôi không hiểu truyện đó là truyện gì, của ai, nhưng ngay sau đó ông kéo hộc bàn viết, ghi KBC của Thiện đưa cho tôi và dặn thêm: “Nói với Thiện viết thêm vài truyện nữa để Văn in cho một tập dày dày…”. Theo cái KBC, tôi gặp Thiện nơi đóng quân ở ngoại ô thị xã, sau này thân nhau. Và sau đó hai tập truyện ngắn của Lê Văn Thiện đều được Văn xuất bản: Một cách buồn phiền và Sao không như ngày xưa (tập sau, ghi nhà xuất bản là Côi Sơn, nhưng thực chất là của Văn). Ông Trần Phong Giao làm công việc này, ngoài cái sự “chịu” chất giản dị nhưng sâu sắc kiểu văn phong Thạch Lam của Thiện, ông còn có một ý khác là giúp Thiện có đủ 2 tác phẩm để có thể xin thuyên chuyển về một nơi nào đó an toàn, có nhiều thời gian hơn cho sáng tác. Vì lúc này đơn vị của Thiện là SĐ 9BB đang hành quân và đụng trận liên miên trên đất Cambodge.

Nhắc đến những trường hợp này để thấy ông sống với anh em bằng cả tấm lòng, không hề phân biệt lớn nhỏ, đã thành danh hay chưa.

Đúng như nhiều người nhận xét, mới nhìn thấy lần đầu, trông tướng mạo ông cứ lừ lừ như ông Tiêu cầm đại đao trong cửa Phật, nhưng tiếp xúc qua một vài lần, cái khoảng cách trước sau không hề tồn tại trong lối ứng xử của ông. Nếu như chỉ nhìn thấy ông ngồi vừa gõ máy chữ hay sửa bài vừa tiếp khách mà không “cần” ngó mặt khách thì có vẻ ông Trần là con người cao ngạo để người khác chỉ trích. Nhưng đó là cá tính. Con người ông không phải vậy. Vì những khi gửi báo biếu ông luôn viết kèm lá thư dài ngắn với những lời lẽ rất chân tình như thể giữa ông và người nhận thư là anh em thân thiết. Ngay cả khi rời Văn ra riêng với Giao Điểm, sau đó là Chính Văn của Nguyễn Mạnh Côn hay lúc qua làm thủ thư ở Đại Học Cửu Long thì cái sự “chức tước” đối với ông chỉ có ở tấm lòng với nhau: Nhà văn lớn, nhà văn bé ông đều cư xử như nhau. Mọi người quý ông là ở chỗ đó, và trách ông cũng chính ở chỗ đó!

Sau ngày tan nát, mọi trật tự xã hội đều bị đảo lộn, khoảng giữa tháng 6/75 tôi nhận được một phong thư không dán tem của ông (do người lái xe lam đưa cho cậu học trò chuyển đến tận tay), trong đó ông viết “hiện tôi đang ở coi trạm bơm nước Tham Thu, lúc nào rỗi cậu ra chơi”. Từ trường ra chỗ ông không xa, nhưng mãi đến hơn tuần lễ sau tôi mới đến được (do bị quản chế, bị bắt học chính trị ngày đêm). Đó là buổi sáng sớm có mưa tí tách. Ông ngồi một mình trên căn chòi có gác cao, đang pha trà “độc ẩm”. Tôi hỏi sao anh lại xuống đây. Ông nói người bạn trúng thầu xây trạm bơm nước này từ cuối năm 74, thi công gần xong thì xảy ra sự cố. Anh bạn nhờ tôi trông coi hộ để có thể giao sớm cho họ. Chúng tôi không nhắc chuyện cũ, chỉ nói những chuyện vu vơ về tình hình mới, những mất mát, lo âu…

Năm 77, 78 tôi ghé lại nhà thăm ông ở hẻm Hai Bà Trưng gần sát Cầu Kiệu (Tân Định), sức khoẻ như suy giảm, đôi chân có vẻ yếu khi tôi thấy ông từ ghế đứng lên bắt tay, rót nước mời khách. Ông hỏi tôi dạy dỗ thế nào, tôi nói đang tính bỏ, dạy văn mà như hô khẩu hiệu, ngán quá! Ông nhìn tôi nói tùy thôi và cho biết thêm là anh chị cũng đang chạy chợ để nuôi các con. Lần cuối cùng gặp ông là năm 1994 tại nhà cũ; lúc này sức khỏe suy sụp khá nhiều (bệnh tai biến), nhưng cũng kịp lấy ra bài thơ đánh máy tặng tôi, bảo “để cậu đọc chơi”:

SÁU MƯƠI TUỔI CẢM TÁC

Khai bút đầu xuân gõ máy chơi
Tưởng mình “cả tiếng lại dài hơi”
Nào ngờ mắt kém tay run rẩy
Đã lão tuy vừa chớm sáu mươi

Tuổi tri thiên mệnh tưởng được nghỉ
Nào ngờ vợ ốm thêm vận bĩ
Lại thức thâu đêm mài chữ bán
Bẩy hào một từ sung sướng nhỉ?

Chữ nghĩa Tây Tầu trót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng
Mười ba năm đã quên cầm bút
Nghĩ đến Kiều thêm nỗi bẽ bàng?

Xin hiểu lòng tôi hỡi nguyệt vàng
Mưu sinh hệ lụy của trần gian
Tôi còn sống nhé tôi chưa chết
Chỉ có tên xưa cát bụi tan

Trà rượu xuân tình vẫn cứ chơi
“Cơm toàn rau muống chẳng chiên ngôi”
Đã lỡ phong lưu nên phải gượng
Sáng dầu kim tận cũng đành vui

Tưởng lúc về già được con nuôi
Chơi chim chơi cảnh hưởng nhàn chơi
Hào khí chưa mòn râu tóc bạc
Mới biết cao xanh chẳng đãi người

Trời cao mây trắng ngẩn ngơ trôi
Ngoài hiên hoa mướp nhởn nhơ cười
Thơ xuân đánh chữ chê ông quá
Chữ nghĩa Thư Trung chán mớ đời

Đầu năm khai bút à khai máy
Rượu uống mềm môi vẫn chẳng say
Ngậm ngùi pha loãng men cay đắng
Hàng xóm hoa mai lơi lả bay

Một bầu tâm sự gửi về đâu?
Mênh mang giấy trắng ngẩn ngơ sầu
Trước đèn nào biết xuân hay tết
Chỉ biết lòng riêng nỗi quặn đau

Khai bút đầu xuân gõ máy chơi
Tâm sự vô cùng cố hữu ơi
Đã không thương nhớ đừng thương xót
Hãy mặc tôi và tuổi sáu mươi
(1990)

Trần Phong Giao

Trong những năm tháng đánh tư sản mại bản, đổi tiền, ngăn sông cấm chợ,kinh tế mới, cải tạo… mọi người từ tầng lớp tinh hoa đến dân thường đều phải vật lộn với cuộc sống thút mút ngày càng phình to, tìm đủ mọi cách để mưu sinh, đến cụ Trần Văn Hương, người nổi tiếng liêm khiết khi còn là Thủ tướng VNCH cũng phải mang những bộ veston, cà vạt, đôi giày đem bán để đong gạo! Nhưng ngậm ngùi, đau đớn nhất là trường hợp ông Trần Phong Giao phải mang bán bộ Văn để nuôi sống vợ con trong những ngày cùng khổ. Nghe bạn kể anh chị TPG ngồi chợ Tân Định bán rau muống thì không có gì phải ngạc nhiên, bởi đó là mẫu số chung của thời kỳ đen tối nhất cả nước chứ không riêng gì người dân Sài Gòn!

Nhưng đến lúc nửa đêm bị dựng dậy bởi cú phone từ anh Viên Linh bên trời tây, hỏi tôi có hay chuyện anh Giao bán bộ Văn thì tôi mới thật sự bàng hoàng như bị điện giật!

Nỗi đau này xin được để anh Viên Linh, thay mặt anh chị em văn nghệ, một thời sáng rỡ và một thời tan nát, chia sẻ trong bài viết đề ngày 6.8.2014 trên Người Việt: Những tờ báo cũ miền Nam: “Nhưng một hôm vào cái ngõ ở khu Tân Định, thấy một ông mập mạp cởi trần đang ngồi bán mấy thứ lặt vặt trước nhà, anh hỏi mua sách, thì ông nói có bộ báo Văn, có mua thì ông bán. Ông mang ra cho xem mới thấy ở gáy tập báo nào cũng có tên chủ nhân mạ chữ vàng in nổi trên cái bìa simili màu xanh xám: Trần Phong Giao. Tôi im lặng nhưng lòng trĩu nặng, đó là thư ký tòa soạn tạp chí Văn, đó là bạn tôi, đó là người mang hết tinh hoa kiến thức của mình gầy dựng nên tờ báo văn chương có nhiều năm bán chạy nhất ở miền Nam. Năm 1975 từ Virginia tôi gửi thư về địa chỉ ở Tân Định cho bạn, nhưng thư bị trả về, bên ngoài phong bì có nét bút gạch chéo sỗ sàng, và mấy chữ “không có ở đây.” Người bán sách cũ nói thêm anh không định mua bộ báo, chỉ khi biết người đó là Trần Phong Giao, người làm ra bộ báo, anh mới mua, để giúp ông, vì đoán chừng ông đang cùng quẫn ở thành phố”.

Ông đã từ giã cõi văn chương, từ giã bạn hữu đúng 20 năm (1932 – 13.4.2005) nhưng trong dòng chảy 20 Văn học Miền Nam không ai có thể quên một Trần Phong Giao, người đã bỏ ra nhiều công sức và tâm huyết góp phần mở ra một nền văn học rực rỡ  không thể phủ định!

Mấy chục năm trôi qua, báo chí văn học trong nước xuất bản khá nhiều, nhưng mỗi khi đọc, lại cảm thấy có cái gì đó chừng mực, vừa phải, luôn có sự e dè, né tránh, chưa hết mình với ngòi bút, khác hẳn với phong cách của Văn đã dày công tạo dựng, mà người tiên phong là Trần Phong Giao.

Giờ này, ngồi viết lại những dòng ngắn này như một nén nhang nơi chốn xa xôi, thắp lên để tưởng nhớ ông, người luôn mang tấm lòng chân thật, rộng mở đến với những người viết mới, với kỳ vọng là họ sẽ thành công.

(trích từ Trang sách & Những giấc mơ bay, tập II, Thư Ấn Quan HK, XB. Nhuận sắc tại Tuy Hòa tháng 5. 2025)

___________________

(*) xem thêm bài viết Nhớ Y Uyên trên Văn số 129 ngày 1.5.1969, số đặc biệt thương nhớ Y Uyên, nơi trang 76, Trần Phong Giao viết: “ Trong thư này (tức thư gửi Y Uyên – NgLu chú thích) tôi thuật lại trường hợp đặc biệt của đoản tác Thư Từ Tuy Hòa của Cảnh Cửu đăng trên Văn số 45; đọc bài này tôi thích quá, không chuyển cho Ban Tuyển đọc Tác phẩm cũng như những bài lai cảo khác, tự ý cho đăng ngay vào trong một số không phải là tuyển tập thơ văn… Bài đăng rồi, anh em “chịu” tôi là tinh, và đồng ý khuyến khích tác giả. (Đáng tiếc thay, tác gỉa này đã làm chúng tôi thất vọng. Mặc dù sau đó chúng tôi đã cố vớt, cố đăng thêm một hai đoản thiên nữa của anh, nhưng anh đã không thể đi được xa hơn…)

Nguyễn Lệ Uyên

—————–

Trần Phong GiaoTrần Phong Giao tên thật: Trần Đình Tĩnh, bút hiệu khác: Trần Phong, Thư Trung, Mõ Làng Văn.

Sinh năm 1932 tại Nam Định, 1954, ông di cư vào Nam. Năm 1960 đến năm 1963, thư ký tòa soạn Tin Sách do Trung Tâm Văn Bút Việt Nam chủ trương. Thời gian này, ông cũng bắt đầu dịch một số tác phẩm văn chương, triết học của các nhà văn nổi tiếng thế giới.

Đầu năm 1964 thư ký tòa soạn tạp chí Văn tại Sài Gòn, Nguyễn Đình Vượng làm chủ nhiệm.

Năm 1971, ông thôi làm ở tạp chí Văn, xuất bản tạp chí Giao Điểm, nhưng chỉ được ít số thì đình bản. Sau đó, ông thực hiện một vài giai phẩm khác nữa (trong đó có tờ Chính Văn với nhà văn Nguyễn Mạnh Côn), nhưng không thành công. Cuối cùng ông trở lại công việc dịch sách và làm quản thủ thư viện Đại Học Cửu Long cho tới ngày 30.4.1975. Bên cạnh các công việc trên, đầu năm 1975, ông còn giữ mục Giải đáp thắc mắc Văn học trên tờ Thời Tập của nhà văn Viên Linh.

Ông mất ngày 13 tháng 4 năm 2005, tại nhà riêng ở quận 6, Sài Gòn, thọ 73 tuổi.

Tác phẩm:

Ngồi lại bên cầu (tập truyện)

Nửa đêm thức giấc (tiểu thuyết)

Lưu đày và quê nhà (L’exil et le royaume) tuyển truyện của Albert Camus.

Guồng máy (L’engrenage) dịch tác phẩm kịch của Jean-Paul Sartre.

Sứ mệnh văn nghệ (Discours de Suède), diễn văn đọc tại lễ nhận giải Nobel Văn chương của Albert Camus.

Sự đã rồi (Les jeux sont faits) của Jean-Paul Sartre. Trần Phong Giao dịch chung với Nguyễn Xuân Hoàng.

Không một nấm mồ (Morts sans sépulture) của Jean-Paul Sartre.

Con chim trốn tuyết (Snow goose), truyện của Paul Gallico. Trần Phong Giao dịch chung với Hoàng Ưng.

Kinh nghiệm đời văn của Erskine Caldwell. Trần Phong Giao dịch chung với Nhã Điển (Nxb Văn Hóa, 2009).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
DANH SÁCH TÁC GIẢ