BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73231)
(Xem: 62212)
(Xem: 39390)
(Xem: 31148)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Chùm Nho Nhân Ái

23 Tháng Ba 201212:00 SA(Xem: 2147)
Chùm Nho Nhân Ái
52Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
52
Lời người viết: Nhân vật "Tôi" trong bài là bạn tôi, một Viêt kiều, cư ngụ tại Paris từ năm 1961. Bạn tôi viết thư cho bạn bè trong đó có tôi, tường thuật lại cuộc viếng thăm tình nghĩa tại Huế. Tôi thấy một tấm lòng nhân ái như thế này cũng nên đem ra "khoe" với một số lượng độc giả lớn hơn cái "forum" khiêm nhường của chúng tôi, gồm các bạn đồng môn của 2 ngôi trường xứ Huế T.H và J. d'A thân ái gắn liền nhau. Nên tôi đã xin phép bạn tôi ghi lại nơi đây, cùng với đôi chút màu mè hoa lá cành, sửa lại lời văn của bạn tôi có phần nào hơi phóng túng trong khuôn khổ lá thư viết cho bạn bè. Không phải bạn tôi không "biết" viết văn, nhưng bạn tôi không biết tự "khoe" mình, nên tôi phải viết thay. Dĩ nhiên, tôi sẽ giữ lại nhiều đoạn theo nguyên văn lá thư mà không để trong ngoặc kép, vì sợ rườm rà, và chắc chắn bạn tôi sẽ không kết tội tôi "đạo văn" của anh ta.

Hoàng Đức

 ***


 Tôi về Việt Nam thăm quê hương lần này là lần thứ bao nhiêu nhỉ, tôi hoàn toàn không nhớ, chỉ biết là đã nhiều lần lắm rồi, vì tôi còn Mẹ già đang tại thế, đang sống những ngày "hồng ân" mà Thượng Đế, Trời, Phật ban cho những người có phước đang đi trên con đường số 9, gần hết cõi trăm năm của đời người.

 Từ Ba Lê về Việt Nam lần này, tôi đi Huế và Đà Nẵng 3 đêm, 4 ngày. Về Huế lần này, ngoài chuyện muốn thăm lại nơi chôn nhau cắt rốn của tôi và tìm gặp lại những ông bạn già đã từng một thời cùng nhau mài đũng quần trên ghế nhà trường, tôi còn muốn tìm đến những "mảnh đời tan vỡ" hiện đang sống lây lất trên quê hương, sau khi đã hy sinh biết bao xương máu trên chiến trường khốc liệt, suốt một đoạn đường dài lịch sử nội chiến Bắc Nam, một cuộc chiến tranh ý thức hệ mà kẻ "chiến thắng" đang dần dần bị văn hóa của miền Nam "chiến bại" đồng hóa.

 Về đến Saigòn, tôi tự "cấm cung" trong nhà mấy ngày liền để vấn an sức khỏe Mẹ già cho tròn chữ hiếu, để cho Mẹ tôi hỏi han đủ một ngàn lẻ một thứ liên quan đến cuộc sống của thằng con trai bà Cụ trên xứ lạ quê người, thằng con mà năm 1961 bà đã đứt ruột "đành đoạn" để cho nó ra đi không phải "tìm đường cứu nước", mà để theo đòi học vấn, hầu có được một tương lai sáng lạn làm nở mặt, nở mày cha mẹ. Sau đó, khi thấy Bà Cụ dường như đã có phần tạm nguôi nỗi nhớ nhung, không còn muốn làm tình, làm tội thằng con trai hiếu thảo nữa, tôi bèn lẻn đi lo việc riêng của tôi. Bắt ngay một chiếc Honda thồ, tôi đến Bưu điện Saigon hỏi lấy mấy bưu phiếu gửi tiền. Nắn nót mấy giòng chữ cho thật rõ ràng, ngay ngắn, một công việc khá khó khăn đối với tôi sau bao năm bị nô lệ kỹ thuật, chỉ gõ tay trên máy vi tính. Tôi rụt rè chuồi 4 phiếu cho cô bé nhân viên Bưu Điện, rụt rè vì tự nhiên mang mặc cảm già nua và xa lạ với những thủ tục hành chánh có phần khác biệt với thuở xa xưa. Cô bé nhân viên Bưu Điện chỉ chừng 25-27 tuổi, non nớt, ngon lành như một trái cấm, khiến tôi liên tưởng đến những ông già dịch về Việt Nam đem dollars nuôi cháu ngoại, tức là đào nhí bằng tuổi cháu ngoại của các ông. Cô bé hỏi tôi:

 - Bác quen nhiều người què cụt quá hả bác? 

 Ui chao ơi, mới năm trước tôi được gọi bằng Chú mà nay đã lên chức Bác. Chú thì còn có thể thỏ thẻ: "Đừng gọi anh bằng Chú" chứ đã Bác rồi thì không thể bảo: "Đừng gọi anh bằng Bác!" được nữa, vì nghe ra trơ trẽn và vô duyên lắm. Tôi đành ngậm ngùi trả lời cô bé:

 - Ừ họ tàn tật, hậu quả của chiến tranh cháu ạ!

 - Bộ đội hả bác?

 - Không, thương phế binh "ngụy". Bác nói "ngụy" quen miệng chứ bây giờ báo chí gọi là "Chính quyền Saigon cũ".

 - Dzậy hả bác?

 - Ừ, chiến tranh bao giờ cũng có 2 phe, phe được và phe thua.

 - Có lần, một ông khách đến gửi cả trăm phiếu. Cháu và mấy nhỏ bạn phải ghi phiếu giùm.

 - Cả trăm?

 - Hổng nhiều tiền như phiếu của bác. Chỉ một trăm mấy chục nghìn một phiếu.

 - Gửi về đâu?

 - Tỉnh nào ngoài Bắc cháu không nhớ.

 - Ừ, ngoài Bắc chắc là bộ đội.

 - Bác làm dziệc từ thiện gì mà góp nhiều tiền dzậy?

 - Hổng hội hè gì hết! Bạn bè tư nhân thôi! Hổng nhiều tiền lắm đâu!

 Cô bé giải thích cho tui nghe về giá biểu khác nhau, nào là gửi cấp tốc, gửi có hồi âm vv... Tôi suy nghĩ rồi hỏi:

 - Gửi về quê, không cần cấp tốc hả cháu? Chắc chắn đến tay người nhận hả cháu?

 - Tới mà bác! Gửi dzề quê, hổng cần cấp tốc, uổng tiền bác.

 Ra về, nắng nóng, "cái nóng nung người, nóng nóng ghê!" chứ không phải "Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát", đường phố bụi bặm mù trời, ô nhiễm, xe cộ như nước. Tôi lội xuống giòng nước như người bộ hành dứt khoát lội xuống bùn sau khi đã rón rén sợ quần lấm bùn, câu chuyện trong cuốn "Luân lý giáo khoa thư" thời tiểu học. Lòng tôi lâng lâng nhẹ nhõm, túi tiền cũng nhẹ tênh. Chợt bâng khuâng nghĩ đến cô bé khả ái, nhân viên Bưu Điện Saigon, khơi chuyện thương binh què cụt với tôi. Cô bé sinh ra sau 1975, hồn nhiên, trong trắng, chưa thấm nhuần văn hóa lịch sử Việt Nam con rồng cháu tiên. Thương cô bé, ngại rằng- mà cũng muốn rằng- rất muốn- một ngày nào đó, cô bé già tuổi đời có thể sẽ biết nhiều hơn và thấm hơn nỗi đau của lịch sử Việt Nam vừa bi thương vừa oai hùng.

 Ngày hôm sau, tôi xin phép Mẹ già lên đường ra Huế. Tìm đến hai "Mệ" bạn già gốc Hoàng Tộc nhà Nguyễn. Hai bạn tôi trước đây đều là công chức "Chính quyền Saigon cũ", nay đã về hưu, một ông giáo có tiền hưu "chết đói", một ông, sau mấy năm "học tập cải tạo" về mở phòng mạch tại gia, khám bệnh cho dân trong phường khóm, mỗi ngày kiếm vài chục nghìn tiền ông già râu, vừa đủ tiền chợ hàng ngày.

 Ông bạn Đại úy bác sĩ quân y ngày xưa, bỏ bê phòng mạch vắng như chùa Bà Đanh, lái xe Honda hai bánh đưa tui đi khắp phố phường xứ Huế, tìm đến nhà hai thương phế binh VNCH, mà tôi đã chọn trong danh sách được gửi sang tận bên trời Tây. Buổi sáng chúng tôi tìm đến địa chỉ ở thôn Vỹ Dạ. Có dịp "Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên", tôi thấy lòng dào dạt tình quê hương và bỗng dưng như thấy thấp thoáng đâu đây hình bóng Hàn Mặc Tử, với những lời thơ chất ngất thương đau và những mối tình đơn phương vô vọng. Thương tiếc thi sĩ tài hoa mệnh bạc! Thương phế binh thôn Vỹ không có mặt ở nhà, anh bậân xuôi ngược trên các nẻo đường, bán hy vọng cho dân xứ Huế, anh bán vé số! Tôi hẹn người nhà, chiều tôi sẽ trở lại.

 "On the road again!" Tôi cùng ông bạn bác sĩ lại rong ruổi trên con ngựa sắt tìm đến thăm một mảnh đời bất hạnh khác. Trời mưa lất phất! Mưa Ngâu chăng? Làm gì có mưa Ngâu giữa mùa Xuân xứ Huế! Nhớ năm nào, thuở mới biết yêu, xem phim Ngưu Lang Chức Nữ, nghe Ngưu Lang La Thoại Tân thổi sáo và nhìn Chức Nữ Thẩm Thúy Hằng lệ tuôn dầm dề, mà tâm hồn đa cảm, đa sầu đã nức nở trong rạp chiếu bóng Châu Tinh, lòng tôi bỗng thoáng nao nao. Mưa phùn từ mấy ngày trước khi tôi ra Huế. Không gian se lạnh, đã thấy lác đác đây đó những chiếc áo ngự hàn, "những vuông khăn lụa em quàng bờ vai."

  Mưa từng giọt nhớ đầy vơi Mưa gieo mật ngọt những lời yêu đương Huế xưa mưa mãi vấn vương Tóc em mưa gội nhớ thương nghìn trùng Mai này mưa lạnh ngoài song Ta về cùng lắng tiếng lòng nghe mưa. Chúng tôi đèo nhau từ Vỹ Dạ qua Thành Nội, lần mò tìm đến nhà một thương phế binh khác ở cạnh đồn Mang Cá, nơi ngày xưa là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Một Bộ Binh VNCH. Căn nhà nhỏ bé tí teo! Đằng trước nhà, dưới mái hiên, người đàn bà nghèo xứ Huế đang cặm cụi với những đường kim mũi chỉ trên tấm vải đỏ màu máu căng trên khung thêu. Để hoàn thành một tác phẩm thủ công nghệ như thế này, người thợ thêu phải mất ngày này qua ngày khác, công việc kéo dài lê thê, chẳng khác gì bức lụa thêu của nhân vật thần thoại Pénélope. Tiền công cho một bức tranh thêu? Tôi không dám hỏi vì sợ phải nghe một cái giá thấp đến não lòng.

 - Bà cho tôi hỏi thăm ôn Ba Cụt.

 - Dạ, ôn ở đàng sau nhà.

 Bạn tôi đứng ngoài cửa, áo mưa trùm kín chỉ nhìn thấy đôi kính trắng. Tôi lột áo mưa, hùng dũng bước vào nhà. Đứng đợi bên chiếc bàn thờ mà nước sơn trên gỗ đã hoen ố theo thời gian. Bỗng tôi nghe:

 - Dạ Ba Cụt đây! Ôn đây!

 Tôi nhìn xuống sàn nhà. Sau bàn thờ tổ tiên, lết lết ra một "con ếch" khổng lồ. Chỉ thoáng trong vài giây ngỡ ngàng, tôi đã biết tôi đang đối diện một anh hùng vô danh đã từng xông pha trong bom đạn ngày nào, khi quê hương đang còn trong khói lửa chiến tranh. Người hùng năm xưa nay đã trở thành Ba Cụt vì anh bị cụt đôi chân đến tận bẹn. Đôi mắt tinh nhanh từng nhìn xuyên đêm đen khi thiếu vắng ánh hỏa châu trên vùng trời bom đạn vần vũ, nay chỉ còn lại một con, đang lơ láo nhìn đời. Phòng khách gồm chiếc bàn ọp ẹp kê bên cửa sổ, không có lấy một chiếc ghế. Không ai mời, tôi ngồi bệt xuống sàn nhà. Tôi hỏi ôn mấy câu để biết ôn vốn là một trung sĩ thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh VNCH, bị thương trong một trận đánh khốc liệt khi đối phương dùng chiến thuật biển người tràn ngập đơn vị của anh. Ôn đang kể chuyện "ngày xưa" thì mệ bỗng ở đâu chạy về ngồi nép bên ôn. Mệ còn rõ nét đẹp gái, dù năm tháng đã phôi pha theo giòng đời biến suy. Bạn tôi, cựu đại úy Bác sĩ Quân y như không đừng được, đứng ngoài hiên, buột mồm khen:

 - Mệ còn khéo (tiếng Huế nghĩa là đẹp) ghê hí!

 - Dạ...

 - Chư từ hồi ôn bị như ri mà mệ vẫn ở với ôn à?

 - Dạ...

 - Tui biết nhiều người, họ bỏ chồng.

 - Dạ, sau «giải phóng», có người rủ đi Mỹ mà dạ... tui khôn đi.

 - Rứa à!

 Ôn Ba Cụt năm nay đã 70 mà thân thể "người ếch" vẫn còn nét cường tráng của người chiến binh. Mệ, vợ của ôn, tuổi chừng 60, nụ cười chất phác, hiền hòa vẫn còn nét sắc sảo của một thời vàng son mà ôn đã bắt gặp trong một cuộc hành quân dừng lại nơi quán vắng bên đường, trên ngọn đèo heo hút, miền cao nguyên đất Việt. Ôn mệ Ba Cụt hỏi tên tuổi của tôi, ấp úng nói lời cảm ơn tôi đã đến thăm cùng tặng quà. Tôi thưa cùng ôn mệ rằng, không có chi phải cảm ơn. Cứ xem như đây là một món quà bất ngờ của một ngưòi thân quen, của một chiến hữu từ miền xa gửi về giúp bạn bè trong hoạn nạn. Bạn tôi, thật nhanh nhẩu và hồn nhiên, bảo:

 - Anh chị khỏi cần biết món quà từ đâu đến. Lúc nào tôi nhận được quà, tôi sẽ đem đến cho anh chị .

 Trên đường về, bạn tôi cho biết anh ta đã từng gặp nhiều người tàn tật tự nhận mình là thương phế binh "ngụy", để mong được chút cảm tình thể hiện bằng một món tiền nho nhỏ của khách qua đường. Tôi không tỉnh táo, không có "kinh nghiệm sống" của bạn tôi, một bác sĩ Quân y không may mắn "học tập cải tạo" đủ năm, tháng, để được ra đi theo diện HO. Đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với một gia đình thương phế binh thứ thiệt, đang kéo lê một cuộc sống nghèo khổ sau khi đã hy sinh một phần thân xác cho quê hương, cho lý tưởng. Tả sao cho xiết nỗi xúc động trong tôi!

 Chiều hôm đó, tôi một mình trở lại thôn Vỹ tìm thăm người phế binh tôi đã không gặp được sáng nay, vì anh đang trên đường kiếm sống. Bài học "Mưu sinh thoát hiểm" trong quân trường chắc chẳng giúp gì được anh, khi quê hương thanh bình! Người thương binh bất hạnh này là một địa phương quân, nay đang đi trên con đường số 5. Anh bị cưa một cánh tay lúc anh chưa tròn tuổi đôi mươi, chỉ hơn một tháng trước ngày uất hận 30 tháng Tư năm 1975.

 Lúc tôi ghé thăm, anh cùng cô em gái đang mong ngóng tôi, người khách phương xa. Hai anh em vừa mất mẹ trong mùa Tết vừa qua. Trên bàn thờ, tôi thấy vài tấm trướng, liễn, còn mới tinh. Hai anh em còn độc thân, sống đùm bọc lấy nhau trong căn nhà còn rách nát hơn căn nhà của ôn Ba Cụt bên đồn Mang Cá. Tôi hỏi cô gái Vỹ Dạ:

 - Anh ni đi bán vé số, còn chị mần chi?

 - Dạ bán xôi.

 - Ở chợ Vỹ Dạ?

 - Dạ khôn, bán xôi buổi sáng đầu hẻm ni.

 Buồi chiều, cô ta nách rổ bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc, tay xách cái giỏ đựng chén dĩa và một keo nước mắm, đi từ đầu đường này đến cuối ngõ kia, để mong kiếm thêm được chút tiền độ nhật. Sáng nay, tôi đến đầu con hẻm nhỏ hỏi nhà người thương phế binh, rất nhiều người biết và sốt sắng chỉ đường cho tôi, chứng tỏ tình lân bang thắm thiết của người dân quê nghèo khổ đối với chiến binh tàn tật, đã từng ôm súng giữ gìn quê hương cho họ an ổn sống xa vùng lửa đạn. Và tôi bỗng tìm ra được câu đối đáp khi anh thương phế binh ngỏ lời cảm ơn tôi khi nhận món quà tình nghĩa từ tay tôi. Tôi bảo:

 - Anh và tui, không biết ai phải cảm ơn ai.

 Rời Huế, tôi về lại Saigon để nghe mẹ tôi cật vấn tôi đã làm gì khi sống những ngày xa gối Mẹ. Bà cụ, ngày nào cũng thúc mấy cô em của tôi phone ra Huế tìm tông tích của tôi như tìm trẻ lạc. Mẹ tôi ngại tôi nhẹ dạ "đem tiền cho gái ăn". Tôi tuy cũng là nòi hảo ngọt, nhưng mà bây giờ tôi đã khôn "chảy vỏ" (lại là tiếng Huế có nghĩa là khôn hung lắm, khôn nhiều lắm). khó ai có thể lừa bịp được tôi, trừ ra tôi cố ý để bị lừa như quân sư Khổng Minh để thành trống, lừa quân địch xông vào và dang tay "ôm trọn gói" vào lòng. Ngoài hai cuộc viếng thăm kể trên, tôi còn một danh sách những Nhịn Cụt, Tân Què, Lại Mù vv... mà thời gian eo hẹp tôi không thể đích thân viếng thăm, đành ủy thác cho bạn bè đem những món quà tình nghĩa đến an ủi những ân nhân của chúng ta, những người lính bất hạnh đã hy sinh một phần thân thể trên chiến trường để ta có được ngày nay an bình nghĩ đến những ân tình khó lòng đền đáp. Những món quà tình nghĩa này ngọt ngào tình thương mến, như những chùm nho và tôi đặt tựa cho bài viết là "Chùm Nho Nhân Ái" phỏng theo tác phẩm "The Grapes of Wrath" của John Steinbeck.

 Hoàng Đức
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn