BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73246)
(Xem: 62217)
(Xem: 39402)
(Xem: 31152)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Những đứa trẻ Thái Bình – Chu Kỳ Rực Rỡ (71 – 74)

08 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 1312)
Những đứa trẻ Thái Bình – Chu Kỳ Rực Rỡ (71 – 74)
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00

PHẦN BỐN


CHU KỲ RỰC RỠ


71

Đêm kịch đã tàn. Dân làng lũ lượt ra về. Đêm kịch nào cũng đông, chẳng-kể trời mưa hay tạnh, trời nóng hay lạnh. Nếu bộ đội qua làng, ở lại-một đêm diễn kịch, đêm kịch ấy, đình làng muốn nứt ra. Khán giả phải-đến thật sớm chiếm chỗ ngồi. Tiếng trống chèo trở thành xa lạ. Xa như-dĩ vãng. Ngay cả những ngày hội hè cũng được quên đi. Dân làng giống-hệt bụi sắt, bị thỏi nam châm kháng chiến thu hút. Đời sống cần cù, âm-thầm, quen thói đã biến mất. Luống cầy tưởng chừng có linh hồn.-Kháng chiến thay đổi hầu hết sinh hoạt thôn dã. Người thôn quê, bây-giờ, là người hậu phương. Tiền tuyến giết giặc. Hậu phương tăng gia sản-xuất. Tăng gia sản xuất là yêu nước. Thành phố về với thôn quê, gần-gũi người quê. Cái mặc cảm quê mùa ngàn đời bị xóa dần. Người quê hãnh-diện, niềm hãnh diện xây tương lai trên bông lúa vàng đầy đồng. Người-quê không còn an phận, thụ động. Họ cựa mình. Sự cựa mình vươn lên quá-nhanh, nên quá tội nghiệp. Họ chân thành. Người quê tham gia kháng chiến-sôi nổi. Họ là khán giả trung thành của những đêm kịch hậu phương.

- Thằng con ông cả Hùng đóng hay thật!

- Nó nói tiếng Tây… như Tây.

- Nó hát giọng cao vút.

- Hôm nay, nó đóng thằng Việt gian bù nhìn rất tài.

- Nó hơn hẳn thằng Huệ thôn mình.

Dân làng trẻ già, trai gái nức nở khen con ông cả Hùng. Thằng Khoa đó. Nó-được khen nhiều rồi, không thích nghe ai khen nữa, trừ một đứa con-gái tản cư, tên là Liên.

Con Liên ở Hà Nội, tản cư về làng Tường An, ở-nhà thằng Đường. Chú thằng Đường làm thư ký cho nhà in Lê Thăng, quen-biết gia đình con Liên. Chắc chú thằng Đường đã rủ gia đình con Liên,-tản cư về Thái Bình, chứ dễ gì gia đình nó tản cư xa thế. Những người-Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng có tản cư về Thái Bình, thì cũng sang Đống-Năm (1) buôn bán. ít ai chịu sống đời áo nâu sồng, nơi thôn ổ. Con nhà-Đường bảo Liên khen Khoa hát bài Nhớ thủ đô. Đêm nay, Khoa không hát-Nhớ thủ đô, mà hát Hà Nội cháy. Nó đã nhờ thằng Đường hỏi con Liên xem,-nó hát bài Hà Nội cháy còn hay không. Thằng Đường chưa trở lại. Khoa-đứng nhìn. Để nghe khán giả khen tài diễn kịch của mình.

Vở kịch Bán nước cầu vinh, anh Lý giao vai Việt gian cho Hhoa. Thằng-Huệ đóng vai Bolaert. Mở màn, Khoa vung tay, vỗ ngực, kiêu hãnh:

- Ta tự thấy rất đáng vì thiên tử

Nhờ Bô la được cử làm vua

So với Tường Tam thì mưu không thua

Sánh với Nguyễn Hải lại lắm mưu cao cùng chước lạ

Lũ hội tề tôn ta là bệ hạ

Ta vuốt râu Bảo Đại chết vì ghen…

Tội của Việt gian đã là tội thích thuốc phiện, là cuỗm hai triệu bạc-trốn sang Tầu. Nay, đến lượt tên Việt gian mới. Khoa không thích bọn Việt-gian. Hễ anh Lý bảo ai là Việt gian, nhi đồng đả đảo nó, căm giận nó.-Nó dám bán nước cầu vinh. Khoa đóng vai Việt gian, đụng độ Bolaert, cao-ủy Pháp ở Đông Dương. Bolaeret dậm chân, la hét:

- A la ba xi a la ba xô Viet gian!

Việt gian cúi mọp:

- C’est moi le coq

Cocorico

Ma crête sur mon bec se dresse

Rouge comme un coquelicot

Bolaert:

A la ba xi a la ba xô tao khong cho Viet Nam doc lap.

Việt gian:

- Voici ma main

Elle a cinq doigts

En voici deux

En voici trois

Khoa cứ đem những bài rê xi ta si ông lớp năm ra đọc. Khán giả vỗ tay,-khen Khoa nói tiếng Tây như Tây, dù khán giả, cả đời, chưa nghe Tây-nói ra sao. Màn hài kịch chấm dứt, Bolaert Huệ lại biểu diễn bài mai-hoa quyền, và Việt gian Khoa đua tài bằng bài hát, mới học thuộc. Tay-vê đàn banjo, miệng hát Hà Nội cháy (2):

… Hà Nội đẹp sao ôi nước hồ Gươm xanh thắm lòng

Bóng tháp Rùa thân mật êm ấm lòng

Hồng Hà tràn đầy

Hồng Hà cuốn tràn đầy sóng ngàn đời dâng

Hà Nội vui sao những cửa đầu Ô tíu tít gánh gồng

Đây ô Chợ Dừa

Kia ô Cầu Rền

Làn áo xanh mơ

Hà Nội tươi thắm sống vui phố hè

Bồi hồi chàng trai những đôi mắt nào

Xen quanh rộn ràng Đồng Xuân

Xanh tươi bát ngát Tây hồ

Hàng Đào ríu rít hàng Đường, hàng Bạc, hàng Gai

Ôi thiết tha lòng

Ta nhớ bao nhiêu mỗi tấc đất Hà Nội nhuộm thắm máu hồn ta



Hà Nội cháy

Khói lửa ngập trời

Hà Nội hồng ầm ầm rung

Vang trong ta

Tiếng hô xung phong

Căm hờn sôi gầm nòng súng bụi đường reo cuốn khô xác thù

Từng thịt máu tung từng bờ tường mái hiên từng mô đất từng căn gác từng-khu phố từng khe cống

Hà Nội vùng đứng lên

Sông Hồng reo

Hà Nội vùng đứng lên

Khoa hát bài mới, được vỗ tay rất lâu. Nó chỉ mong, trong tiếng sóng rào-rạt đó, có tiếng vỗ của đôi tay con bé Liên. Hay, một mình con bé Liên vỗ-tay hoan hô nó. Là đủ. Khoảnh khắc, Khoa muốn quên bác Hồ, anh Kim-Dồng, anh Lý, Nguyễn Hải Thần, Lê Văn Hoạch, bộ trống đồng, những giải-thi đua… Tất cả đều xa với, vô nghĩa.

Con nhà Đường đã dẫn xác tới. Khoa rối rít hỏi:

- Nó nói sao hở, mày? Nó có chê tao hát dở không?

Đường cười toe:

- Nó bảo mày hát ma nó cũng chê!

Khoa tiu nghỉu:

- Thế là nó chê tao hát dở quá, chứ gì? Tại bài Hà Nội cháy khó,-tao đánh đàn sai be bét.

Đường lắc đầu:

- Mày hát ăn giải thi đua mà. Con Liên nó thích lắm.

- Mày nói nó bảo tao hát ma cũng chê.

- Ở. Tao hỏi nó mày hát hay không. Nó bảo…

- Nó bảo sao?

- Thì nó bảo mày hát ma chê.

- Mày nhớ rõ, hở?

- Rõ. Nó bảo ma chê hay ba chê, bốn chê… À, đúng rồi, nó bảo mày hát ba-chê.

Khoa đưa tay vuốt tóc. Nó ngẩng mặt nhìn trăng, và huýt sáo. Đường chẳng-hiểu gì, đập khẽ Khoa:

- Nó chê mày à?

- Ừ.

- Hôn mọ, nó khen mày hát hay.

- Hôm nay, tao hát ba chê.

Đường an ủi bạn:

- Lần sau, mày cố hát thật hay nhé, Khoa nhé! Thôi, tao về đây. Tao đưa-con Liên về.

Khoa hỏi:

- Tao về với mày được không?

Đường nói:

- Ban kịch đi ăn bánh cuốn mà? Tao thèm ăn bánh cuốn, không ai cho đi-ăn. Mày lại không muốn ăn. Lạ ghê!

Khoa nhún vai rất… nhô con thị xã:

- Tao không đói. Hay tao nhường mày đi ăn bánh cuốn, mày nhường tao-đưa con Liên về?

Đường gạt phăng:

- Không diễn kịch, anh Lý không cho ăn. Dến nhìn mồm, ngượng chết.

Khoa vỗ vai Đường:

- Đi ăn thiếu mày, buồn bỏ bu. Chúng mình cùng về vậy.

Nó dìu Đường ra khỏi sân đình. Cái đám khán giả kịch đã thưa thớt. Chỉ-còn tiếng cười nói vọng lại, từ đằng xa. Con Liên đứng chờ Đường, ở cầu-đình. Cầu bằng những phiến đá dầy, lớn, bắc qua con ngòi hẹp. Bóng con bé-một nửa in trên cầu, một nửa in dưới nước. Gió lạnh, và trăng cũng-lạnh. Đôi tai thằng Đường lạnh ngắt. Nó không có áo sơ mi như Khoa, để-kéo cổ trùm gáy cho bớt lạnh. Đường mặc chiếc áo cánh nâu, khoác ngoài-chiếc áo bông, may theo kiểu trấn thủ. Thế mà nó vẫn rét. Khoa mặc-trần xì cái áo sơ mi nhuộm mầu nâu, nó không hề thấy lạnh. Đôi tai nó-âm ấm. Gần tới chỗ con Liên đứng chờ, đôi tai vị anh hùng chiến thắng-Henri Rivière nóng ran. Hai tay nó đã thọc vào túi quần tây, nó ngỡ-mình còn hai tay nữa. Trung đội trưởng Khoa, chiến sĩ tầu ngầm, ông-nhóc mơ thành Kim Đồng, ông nhóc tay đàn miệng ca trước hàng trăm người-không biết xấu hổ, đang xấu hổ ghê gớm. Cậu nhi đồng tháng tám (3)-tương lai, cháu yêu của bác Hồ, bối rối quá thể. Cậu nghĩ làm Kim Đồng dễ-hơn gặp con Liên. Nói chuyện với bác Hồ ngon ăn hơn nói chuyện với con-bé đã khen cậu hát ba chê, hát không chê vào cái khổ nào được.

- Ê Đường…

- Gì?

- Tao đi ăn bánh cuốn đây.

- Mày mới vừa bảo ăn một mình buồn bỏ bu thôi?

- Tao đói.

- Về nhà tao ăn khoai nướng. Ông vùi bốn củ khoai gộc, cạnh nồi cá kho-(4). Trời lạnh, ăn khoai nướng ngon nhất trần đời.

Đường nắm chặt tay Khoa. Ông nhóc này nhà quê đấy, ngây ngô đấy, nó-khỏe gấp hai lần Khoa. Nó chỉ thua Khoa sự khôn vặt. Tự nhiên, Khoa biến-thành thằng bé quê mùa đần độn. Nó sợ hãi, ngượng ngùng. Khoa không-can đảm bằng Đường. Thằng Đường dám nói chuyện hồn nhiên với con Liên,-dám dẫn con Liên đi xem kịch, đưa con Liên về. Đường coi Liên chả là-cái thớ gì hết. Đường giống hệt thằng Luyến. Chưa biết buồn, chưa biết-vui vì con gái, như thằng Vũ, thằng Côn. Nên, nó chẳng rụt rè,-lúng túng trước mặt con gái. Nó lôi Khoa đi.

- Này Khoa…

- Gì?

- Ông ức đau cả mạng mỡ.

- Ức ai?

- Con Liên. Rõ ràng nó khen mày bài hát Nhớ thủ đô hay, mà, tối nay, nó-ba chê mày! Ông sẽ hỏi nó xem, ba chê có phải là nó chê mày ba lượt cả-thẩy không?

Hai đứa đã đến cầu đình. Đường y hệt bà mẹ. Khoa là đứa con lần đầu-tiên cắp sách đi học. Con Liên đợi lâu, trách móc:

- Bắt ngưòi ta chờ lâu quá.

Đường không thèm an ủi Liên, bi bô:

- Đây là thằng Khoa. Đằng ấy vẫn khen nó hát hay, cớ làm sao còn chê nó-hát ba chê?

Nó buông tay Khoa ra:

- Chê những ba lần! Đằng ấy làm như đằng ấy hát hay hơn nó.

Con Liên cười thích thú. Khoa bỗng vui lây. Sự ngượng ngùng của nó trốn-đâu mất. Đường ngẩn tò te:

- Chế người ta hát ba chê, còn cười!

Liên cười ròn rã hơn. Con bé nhìn Khoa, hỏi xách mé:

- Biết ba chê chứ?

Khoa gật đầu. Liên nháy mắt. Dưới ánh trăng sáng tỏ, Khoa nhìn rõ đôi-mắt Liên. Đôi mắt long lanh, tinh nghịch. Liên nói:

- Cu Đường giỏi ghê! Ba chê là chê ba lần. Hát không hay, người ta chê-cũng cáu. Cu Đường hát đấy à?

Cư Đường – ở nhà, cha mẹ nó gọi nó là thằng cu – ngó Khoa, tỏ vẻ-thương hại. Khoa đang nhìn ánh trăng bạc giải đầy trên mặt nước ao-đình. Tâm hồn nó xốn xang. Chợt Liên gọi:

- Cu Khoa!

Khoa quay lại:

- Khoa, không có cu.

Liên cọ sát hai bàn tay cho ấm, xuýt xoa:

- ờ, ờ… Xin lỗi nhé! Lạnh khiếp, mình về thôi. Cu Đường đi trước,-Liên đi giữa, Khoa đi sau. Liên sợ ma.

Ba đứa trẻ vui bước. Bóng chúng nó đổ trên đường trăng. Đứa nọ dẵm chân-lên bóng đứa kia. Mọi tối, trong túi quần tây của Khoa đầy lạc rang,-hay ngô rang. Những đêm trời lạnh, đi tập kịch về, móc lạc rang, ngô-rang mà nhấm nhá, thì tuyệt cú mèo. Khoa giận nó đã quên món quà mùa-đông của tuồi thơ. Giá túi quần Khoa có ngô rang, chỉ cần Khoa nhai-ròn, là con Liên láu lỉnh sẽ gạ xin ngay.

- Rét ghê nhỉ, cu Đường nhỉ?

Đường ậm ừ:

- Ờ, rét.

Nó không hề giận Liên cứ gọi tên ở nhà của nó.

- Cu Khoa có rét không, hở?

Khoa hơi hơi ức. Nó đang muốn làm quen với Liên, nên chỉ nhấm nhẳn:

- Đã bảo Khoa thôi, không có cu,

Nó nói thêm:

- Dân ở tỉnh, không cần đặt tên ở nhà.

Ra cái điều ta là dân thị xã. Con Liên tỉnh bơ:

-Thế à? Xin lỗi nhé! Liên thích gọi Đường bằng cu Đường, nghe vui-lắm.

Liên đi chậm dần. Rồi, con bé đi cạnh Khoa. Hai đứa sóng đôi bước. Cu-Đường bỏ hai đứa một quãng xa. Trăng tỏ hơn. Cơn gió lạ, vô tình, luồn-qua bờ tre, khóm lá. Tiếng gì đó xao động, cơ hồ tiếng thầm tình tự-của cỏ cây. Con đường đã hẹp, tự nhiên, hẹp hơn. Cũng tự nhiên, nó-chẳng còn dài như những đêm Khoa tập kịch, về một mình. Khoa ngoái-nhìn khúc đường sau lưng. Nó, mơ hồ, thấy dấu chân nó in lên dấu chân-Liên, và cả bóng hình nó in đầy dấu chân Liên. Khoa bỗng yêu con đưòng-đất nhỏ nhễ nhãi ánh trăng. Yêu con ngòi bé. Yêu chiếc cầu đá. Yêu bụi-tre, khóm lá, bờ cỏ. Có lẽ, tại con đường Liên đã in dấu chân, con ngòi-Liên đã soi bóng, chiếc cầu Liên đã đứng chờ, bụi tre, khóm lá, bờ cỏ-Liên đã nhìn, và đã nghe nổi dậy, từ đó, tiếng thầm tình tự của cỏ cây.

Khoa sẽ nhớ mãi đường trăng đêm nay, đường trăng dẫn nó vào miền-mến yêu không cần ai chỉ dẫn. Tình yêu chỉ tự ta tìm thấy, chẳng ai có thể-tìm cho ta được. Bác Hồ, anh Kim Đồng, em bé Nam Bộ… , Khoa đã yêu,-như mọi đứa bé vừa lớn trong kháng chiến đã yêu. Tình yêu đó không làm-Khoa bồi hồi, cảm xúc. Bởi vì, nó ồn ào, nhộn nhịp. Tình yêu, mà Khoa-chợt thấy, khi bước cạnh Liên, trên con đường làng ngập ánh trăng, nó-nhẹ nhàng, man mác, lơ lửng. Và, có một niềm bí ẩn, không ai biết. Và,-Khoa sẽ chẳng hiểu phải nói thế nào, về niềm bí ẩn đó.

- Về nhà tao chén khoai nướng nhé, Khoa nhé!

Đã qua cầu Chờ rồi. Qua lúc nào ấy nhỉ? Tiếng thằng Đường Vọng lại:

- Hai đứa đi chậm hơn rùa bò.

Liên nghiêng mặt nhìn Khoa. Khoa nghiêng mặt nhìn Liên. Bốn con-mắt chớp nhanh. Hai đôi chân bước chậm. Mà, vẫn gặp thằng Đường đứng-đợi. Đến con ngõ tách hai lối, Đường hỏi câu nó đã hỏi:

- Về nhà tao chén khoai nướng nhé, Khoa nhé!

Khoa ngẩng mặt trông trăng:

- Khuya rồi, tao phải về.

Đường dụ:

- Khoai nướng ngon nhất trên đời. Răng đang đánh cầm cập, ăn miếng-khoai lùi vừa bới ra, hết run liền.

Khoa nói:

- Tao không rét. Tao ấm lắm.

Ba đứa đứng lại giây lát. Rồi, Liên bảo:

- Về ngủ đi, Liên để phần cho một miếng nhé, cu Khoa.

Khoa chẳng còn ức Liên gọi mình là cu Khoa, dù là ức một ly ông cụ.-Liên và Đường chia tay Khoa. Hai đứa khuất dần trong lối xóm. Khoa đứng-ngẩn ngơ. Tiếng con cá đớp bèo, nghe buồn lạ. Khoa không buồn. Đêm nay,-nằm ngủ, Khoa sẽ mơ thấy miếng khoai nướng, của Liên để phần. Miếng-khoai nướng ấy mới ngon nhất trần đời.

-(1) Trước kháng chiến, Đống Năm là cái chợ. Sau biến thành một thị-trấn nhỏ của những người thành phố tản cư nổi tiếng thời kháng chiến như-Cống Thần, Chợ Đại. Đống Năm nằm trên đường số 10 khoảng Thái Bình-Hải Phòng

(2) Lời và nhạc Nguyễn Đình Thi. Bài hát khá dài. Tác giả trích hai-đạn và, chắc chắn, không đúng như nguyên bản. Vì trí nhớ của tác giả-quá kém, không thể nhớ nổi một bài hát cách đây 47 năm

(3) Được coi là nhi đồng tháng tám khó lắm, phải là nhi đồng gương mẫu-được xã đề nghị lên huyện và huyện đề nghị lên tỉnh

(4) Ở nhà quê miền Bắc, kho cá bằng nồi đất,đun sôi thì bắc xuống để-giữa bếp gio, đốt lửa chung quanh, rồi lấy trấu trùm kín. Trấu cháy âm ỉ.-Kho buổi tối, sáng sau trấu tàn và nồi cá cạn nước

72

Mùa đông đã dẫn đến những ngày mưa dầm gió bấc. Mưa kéo dài cả mười-ngày, nửa tháng. Đúng là mưa dầm. Mưa muốn ủng đất. Đưởng ngõ trơn như-đổ mỡ. Đi phải bấm chặt mười đầu ngón chân xuống đất, cho khỏi ngã. Gió-thổi hắt nước vào mặt. Lạnh cắt da thịt. Nước là lưỡi dao. Gió là bàn tay-cầm dao chém. Ra khỏi nhà, dội nón, khoác áo tơi, giống con cò lặn lội ở-bãi vắng.

Khoa chán tập kịch rồi. Nó sợ ghẻ. Tập kịch mùa mưa thường-không về được. Ngủ chung trên ổ rơm, lây ghẻ dễ như bỡn. Mùa đông mà bị ghẻ,-khổ vô củng. Gãi rách da, rướm máu. Sau cơn ngứa, nước vàng đùn ra, sót-khổ, sót sở. Nước vàng dính quần. Ngủ dậy, gỡ từng mụn, tê tái. Khoa-ghét mưa dầm gió bấc. Hồi học lớp dự bị, tập đọc bài Mưa dần gió-bấc trong cuốn Quốc văn giáo khoa thư, mở đầu bằng câu: Ở nhà quê, gặp-ngày mưa dầm gió bấc, cảnh tượng thật tiêu điều, buồn bã, Khoa chỉ,-tưởng tượng thấy cái cảnh tượng tiêu điều, buồn bã thôi. Bây giờ, nó-mới thấm thía cảnh tiêu điều, của những ngày mưa dầm gió bấc.

Khoa muốn qua nhà cu Đường chơi. Ngài ngại làm sao ấy. Khoa vẫn nhớ-miếng khoai nướng, mà con liên bảo để phần cho nó. Con Liên không nói-dối. Khoa nghĩ vậy. Lúc này, Khoa ngồi suốt buổi dưới bếp. Mùa đông, ngồi-bên bếp lửa, nghe mưa gió đú đởn bên ngoài, chả còn gì thú vị bằng. Ăn-ngô rang, lạc rang, khoai nướng không biết no. Khoa mong Vũ có dịp-về làng. Nó chẳng thèm hãnh diện là em Vũ, em một liên lạc viên trung-đoàn 44 đâu. Khoa mong Vũ về, để hỏi xem, dạo trước, Vũ làm quen với-Thúy ra sao. Mấy tháng rồi, không có tin tức thằng Vũ. Hôm nọ, đại hội-thanh niên Đại Đồng, Tường An, Ô Mễ, Côn theo ban nhạc sang giúp vui.-Ban nhạc chơi mấy bài: Chào cờ, Mặc niệm, Suy tôn Hồ chủ tịch, Chiến sĩ-Việt Nam., Bắc Sơn, Ngọn trào quay súng… Ban nhạc được ăn xôi với-thịt kho tầu. Khoa đứng ngoài ngó Côn vê alto, đổi ác co như máy. Nó-hỏi Côn về Vũ, Côn mù tịt. Tiêu thổ kháng chiến làm mỗi người lênh-đênh một nơi. Đội bóng tròn của Vũ tan rã.

Vũ, hiện thời, đang sống với một đại đội thuộc trung đoàn 44, và-di chuyển về Tiền Hải dưỡng sức, sau những trận thử lửa với quân Pháp,-ở Hưng Yên. Đại đội của Vũ đóng tại làng Thư Điền. Vũ được đeo súng-lục, chứ không thèm giắt lựu đạn thối. Khoa mà trông thấy, chắc nó-phục anh sát đất. Đại đội của Vũ vừa có bẩy anh bộ đội hy sinh cho-tổ quốc, ở mặt trận Hưng Yên. Buổi lễ tưởng niệm tổ chức thật cảm-động. Anh chính trị viên đại đội kể tiểu sử của từng người. Toàn là-người Hà Nội. Phút mặc niệm, cả đại đội khóc. Dân làng Thư Điền cũng-khóc nức nở. Các chị phụ nữ thấm nước mắt ướt khăn. Hào khí bùng dậy,-khi mọi người nhìn lá cờ bay, say sưa hát:

Trung đoàn bốn mươi tư

Bóng cờ say trong gió bao lần nêu chiến công oai hùng

Lên đường hỡi chiến sĩ

Nước nhà bao yêu quí đang chờ ta tuốt gươm trả thù

Trời mịt mù binh đao lửa khói

Nỗi lầm than toàn dân uất ức căm hờn

Đi lên thôi kìa lời sông núi

Thề cùng nhau bao nhiêu bất bình phá tan

Trung đoàn bốn mươi tư

Hưng Yên, Hải Dương đứng ngang tài chốn

Một miền chiến khu ba

Xung phong hò reo bóng cờ trung kiên máu pha… (1)

Vũ tưỏng chừng nó đang xung phong trả thù cho Vọng. Nếu Vọng không bị-chết đói, năm Ất Dận, nó đã đủ tuổi làm bộ đội. Đại đội của Vũ đi nhiều-nơi. Nơi nào, nó cũng được hưởng trọn vẹn niềm yêu mến. Vũ chỉ còn mơ,-sẽ có một ngày, đại đội của nó đóng tại Trực Nội, để nó đi tìm con-Thúy, cầm tay con Thúy, hôn lên má con Thúy, hôn lên môi con Thúy, nói-rằng, nó đi chiến đấu với nỗi ước mơ trở về thị xã Thái Bình, xây dựng-căn nhà cũ, và tạo lại đời sống êm đềm thôi. Nó không thích chia lìa,-ngăn cách. Ngăn cách, chia lìa làm con người buốn thảm. Đời sống-phải đừng có chia lìa, ngăn cách. Đời sống phải gần gũi và thương-yêu. Người ta đi chiến đấu là hy vọng trở về, cùng trái ước mơ chín-vàng, ngọt lịm. Trái ước mơ của Vũ chỉ là vùng trời nhỏ bé, êm đềm,-bên cạnh dòng sông Trà Lý, và Thúy của Vũ. Thúy yêu Vũ, yêu Vũ nhiều-hơn, tha thiết hơn, sau những ngày chia lìa, ngăn cách.

- Khoai cháy thành than rồi, Khoa!

Mẹ Khoa vừa nói, vừa lấy que đun sắt khều củ khoai ra khỏi bếp.

- Con suy nghĩ gì thế?

Khoa hơ tay lên ngọn lửa củi:

- Me ơi!

- Gì?

- Tại sao mẹ lấy bố?

- Tại vì…

Mẹ Khoa vỗ nhẹ lên vai Khoa:

- Mày hỏi làm gì?

Khoa cười:

- Con muốn biết. Tại sao, hở mẹ?

Mẹ Khoa nhìn con âu yếm:

- Tại vì bố mày đẹp giai!

Khoa ngẩng mặt:

- Con có đẹp giai không?

Mẹ Khoa lườm yêu con:

- Thua bố mày một tí.

- Đẹp giai là lấy được vợ à?

- Còn phải biết tán gái nữa.

- Bố có tán mẹ không?

- Bố mày theo chân tao suốt ngày.

- Bố tán gái thế nào?

- Thì bố mày nói năng vẩn vơ.

- Mẹ còn nhớ câu nào của bố không?

- Mày hỏi làn gì, thằng nhãi ranh?

Bỗng, mẹ Khoa tặc lưỡi, giục Khoa:

- Đứng dậy, mẹ coi.

Khoa đứng dậy. Mẹ Khoa gật gù:

- Cu cậu trổ mã rồi. Muốn lấy vợ, mẹ lấy cho, không cần tán, mất công-lắm, con ạ!

Khoa lắc đầu:

- Con chỉ muốn chơi thân với con Liên, như anh Vũ chơi thân với chị-Thúy. Mẹ biết con Liên chưa? Nó tản cư về nhà thằng Đường ấy mà. Nó-bảo để phần cho con miếng khoai nướng. Nó khen con hát hay.

Mẹ Khoa cười ròn rã:

- Mày oắt con mà đã mê gái, đến nỗi để khoai cháy thành than. Muốn-quen nó, cứ tới để cho nó sai vặt.

Khoa chợt nhớ kỷ niệm cũ, hớn hở:

- Như anh Vũ ăn cắp cái lồng chim khuyên của con nhà Hội, đem cho chị-Thúy chứ gì? Con hiểu rồi.

Mẹ Khoa nói đùa:

- Tao phải cất kỹ hũ lạc mới được, kẻo mày lấy rang, đem sang biếu nó-hết.

Hai mẹ con vui vẻ. Tiếng than nổ tí tách. Khoa sà vào lòng mẹ, nũng-nịu:

- Con ghét trời mưa.

Mẹ Khoa vuốt tóc con:

- Me biết. Bây giờ, con chỉ thích trời nắng.

Rồi, mẹ Khoa thở dài:

- Lạnh thế này, liệu thằng Vũ chịu nổi không? Chả hiểu nó ở đâu mà-gửi áo len cho nó.

Khoa nói:

- Mẹ đừng lo. Anh Vũ là chiến sĩ.

Nó khe khẽ hát:

Người chiến sĩ dầm gió rít mưa bay

đắm mình trong khói súng

chiến trường áo mong manh

căm thù nuôi ấm thân… (2)

Mẹ Khoa dứt một sợi tóc của Khoa:

- Thằng Vũ mà chiến sĩ cái gì. Chiến sĩ đái dầm. Bố giận nó lắm. Lần-này, bắt được nó, bố lôi về, xích chân nó. Nó a dua…

Khoa muốn cãi cho anh. Nó không dám cãi. Bây giờ, Khoa không mong Vũ về-Tường An nữa.

- Con chắc anh Vũ không khổ đâu, mẹ ạ. Anh ấy lớn rồi.

- Lớn à? Lớn kệ xác nó. Nó phải về đi học. Ông tú Lễ đã mở trường thành-chung ở Ô Mễ. Phiên chợ trước, mẹ gặp thằng Côn, nó cho mẹ hay thế. Nó-vắng nhà, bố mày cứ cằn nhằn mẹ. Con biết đó, anh con mồ côi mẹ sớm,-nên bố con thương anh con lắm.

- Anh Vũ thích đi liên lạc, chứ anh ấy có giận mẹ hay giận bố, bỏ nhà ra-đi đâu.

- Mày lại bênh cái thằng anh mày.

Khoa rời khỏi lòng mẹ. Nó bóc củ khoai nướng. Mùi khoai thơm nồng. Khoa-vừa ăn, vừa xuýt xoa. Nó tưởng tượng đang ăn miếng khoai của con Liên-để phần cho nó.

Khoa giầu mơ mộng hơn Vũ. Nó lớn lên, cùng với giấc mơ-to lớn của dân tộc. Giấc mơ của Khoa trải rộng, như heo may lướt trên-đồng lúa sữa, và không bị thành phố đánh đai. Giấc mơ ấy, được ướp thơm-bằng mùi hoa lý, hoa bưởi, hoa cau, và, luôn luôn, lên tiếng gọi bằng-lời thầm tình tự của cỏ cây đồng nội. Ngay cả tiếng buồn của hòa âm-kèn đám ma, trống cơm đêmnvắng cũng gây xúc động. Khoa-yêu tiếng sáo diều. Lên cao, lan tỏa, ru ngủ êm đềm, chẳng làm ai thổn thúc.-Tiếng quê hương của Khoa đó, tiếng nói yêu thương, tiếng nói khơi ở-mỗi trái tim một dòng suối mộng mơ. Và, dòng suối mộng mơ róc rách-chẩy mãi, ở tâm hồn ta. Không bao giờ đầy. Chẳng bao giờ vơi.-Dòng suối làm mát nỗi vui, làm ấm nỗi buồn. Vui hay buồn, hạnh phúc-hay khổ đau cũng chỉ man mác như hoa lý, hoa cau, lơ lửng như sáo diểu-đêm hạ. Khoa không muốn rời xa cái không gian hiền hòa này. Rời xa, để-đi đâu? Đi đâu tìm được mùi thơm của hoa cau, hoa lý. Đi đâu nghe được-tiếng thầm tình tự luồn qua bụi tre, khóm lá. Quê hương ta đã thừa tất cả.-Cố tình thoát ly kiếm cái đẹp, cái hay, rổi sẽ có lần trở về, mang tâm-sự của kẻ du sơn du thủy, trong cuốn Quốc văn giáo khoa thư: Chỗ quê-hương là đẹp hơn cả. Khoa bằng lòng khung cảnh quen thuộc, tầm thường đến hèn-mọn của quê hương. Lớn khôn, chắc chắn, Khoa sẽ không đi đâu xa. Nó muốn-suốt đời được ướp hồn, bằng mùi thơm muôn thuở của quê hương mộc mạc. Nơi-ấy, có con đường tắm ánh trăng, một đêm nào, nó và con bé Liên đã-sóng đôi bước. Con đường đất nhỏ, câm nín đã dạy Khoa yêu thương, và-dẫn nó tới miền yêu thương, dìu nó vào niềm bí ẩn không thể giải nghĩa.

- Con không đi đâu cả, mẹ ạ!

- Mày đi, bố mày bắt về, nọc xác mày ra.

- Bố đuổi di, con cũng không đi.

- Thằng Vũ đã nói thế.

- Con khác anh Vũ.

Khoa đứng dậy, bước đến cửa bếp. Nó lách tấm phên liếp, chạy qua sân-gạch, lên nhà. KHoa mặc nước mưa bám trên quần áo, bông nhông xuống ổ-rơm. Nó đắp chiếu kín mặt, để thòi chân, nhắm mắt mơ mộng. Khoa ước gì nó-và con Liên cùng bé bỏng. Hai đứa sẽ chơi tùm hum. Tiếng cười nắc nẻ-sẽ ròn tan trong chiếc chếu, cuộn như cái ổ con tò vò.

(1) Bài Trung đoàn 44 của bộ đội tiểu tư sản

(2) Trích bài Tiếng hát quay tơ, của Tử Phác

73

Hai tháng liền, Khoa đánh nhau với giặc dốt. Nhi đồng thôn dưới không-còn thằng nào mù chữ nữa. Trước khi đáng giặc Pháp, phải tiêu diệt giặc-dốt. Những vở kịch của thanh niên, phụ nữ, nhi đồng, diễn ở sân khấu-đình, toàn nói về sự tệ hại của nạn mù chũ. Bài hát Cô Tú (1) vang-vọng ngày đêm:

Ai về chợ huyện Thanh Vân

Hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa

Đánh vần năm ngoái năm xưa

Năm nay quên hết cô chưa biết gì

Lưng trời tiếng sáo vu vi

Vẳng nghe ai học chữ i chữ tờ

Sách i tờ phát không cho học

Liệu cô mình đã đọc được chưa

Đôi bên bác mẹ cùng già

Lấy cô hay chữ để mà cậy trông.

Mùa hè cho chí mùa đông

Ruộng vườn thóc lúa tinh thông chẳng nhầm

Nụ tầm xuân còn đang phong nhụy

Xin cô mình đừng phí ngày xanh

Bình Dân Học Vụ lập thành

Cô mau tới đó học hành cho thông

Sách i tờ phát không cho học được hát là Sách i tờ Pháp không cho học. Có-lý ghê. Giặc Pháp muốn dân ta mù chữ, ngu dốt, nên sách i tờ nó không cho-dân ta học! Trên tường đình, tường miếu, tường quán, những khẩu hiệu cũ-bị xoá đi, viết những khẩu hiệu khuyến học:

Lấy chồng biết chữ là tiên

Lấy chồng mù chữ là duyên con bò

Hay:

Cô kia má đỏ hồng hồng

Vì không biết chữ nên chồng cô chê

Hay Đi học là yêu nước, Giặc dốt nguy hiểm như giặc Pháp, Tiền tuyến diệt-giặc Pháp, hậu phuong diệt giặc dốt… Mỗi buổi trưa, trên các chòi-phát thanh, cán bộ Bình dân học vụ gọi loa chống giặc dốt.

Hôm nay,-là ngày kiểm điểm kết quả. Con đường duy nhất thông ra đường Lầy, để qua-Thọ Bi, và đi đến chợ Ô Mễ, bị chắn ngang bằng cây tre bương. Có hai cổng:-Cổng sáng và cổng dốt. Cổng dốt là cái hố sâu, đầy bùn quyện lấy rơm-và phân trâu bò. Cổng sáng rộng thênh thang, sạch sẽ. Một tấm bảng đen-dựng bên cổng sáng. Rất đông người đứng ở ải địa đầu của dân đi chợ.-Bất cứ ai, muốn qua lối này, phải đọc nổi hàng chữ viết sẵn trên bảng.-Đọc nổi thì qua cổng sáng, được vỗ tay hoan hô. Không đọc được thì…-lội bùn, bị chế nhạo xấu hổ. Phần đông, các cô đọc thông, vì đã đi học-Bình dân học vụ. Còn các bà đứng tuổi, các cụ già vẫn mù chữ. Nhiều bà-đội gạo nặng, không thể đội gạo lội bùn, phải nhờ người đỡ thúng-gạo xuống, chuyển sang bên kia đường, rồi mới vén váy tới háng, mà lội-bùn. Quang cảnh buồn cười vỡ bụng. Nhiều bà sợ lội bùn, phải trở lại, tìm-đường tắt qua cánh đồng, đi chợ. Lội bùn xong, đi kiếm vũng nước rửa bùn.-Còn bị gọi là giặc dốt, người mù chữ… Cụ già sáu mươi van nài qua-cổng sáng không xong, chửi ầm ỹ, rồi cũng đành lội bùn. Đạo quân diệt giặc-dốt trẻ không tha, già không thương. Muốn thoát cảnh lội bùn, đi học i-tờ. Học i tờ dễ lắm. I tờ giống móc cả hai, I ngắn có chấm tờ dài có-ngang.

Ngày đầu kiểm điểm kết quả, thấy dân làng vẫn đông đàn bà mù chũ. Người ta-hoạt động hăng hơn. Nếu không còn ai mù chữ, giặc Pháp sẽ thua bét tĩ,-chẳng cần đánh, giặc Pháp cứ thua như thường. Khoa nẩy ra cái ý mở ở-thôn nhà một lớp Bình dân học vụ. Nó chọn từ đường nhà họ Vũ làm trường-học. Ban ngày, đi học mãi tận trường Ô Mễ, buổi tối, Khoa về dạy học i-tờ.

Đi học thật khổ. Năm giờ sáng thức dậy, ăn một bữa cơm no căng bụng,-chờ mẹ nắm cho nắm cơm ép vào mo cau, gói thêm vài con tôm kho mặn, hay-dúm muối vừng bỏ trong cặp, chân đất, cuốc bộ năm, sáu cây số tới trường.-Buổi trưa, ở lại, ăn cơm nắm, học đến chiều. Những hôm trời nhiều sương-muối, đạp chân lên ngọn cỏ, sương muối cơ hồ mũi kim đâm vào da thịt.-Thiếu thốn đủ mọi dụng cụ học trò. Chép bài trên giấy dầy cộm, mà ngòi-bút ấn mạnh, là lôi cả mảng giấy lên. Học vất vả quá, chẳng đi tới đâu.-Vừa học, vừa lo máy bay Pháp bỏ bom. Mỗi cậu học trò phải đào một cá hố-cá nhân, phòng máy bay giặc oanh tạc. Trời mưa hay trời nắng, mùa-đông hay mùa hè, học hành chả đâu vào đâu, Khoa vẫn lóp ngóp đến trường.

Khoa ngỏ ý mở lớp Bình dân học vụ với mẹ. Me Khoa bằng lòng ngay:

- Còn hơn mày di tập kịch; ngũ lang, ngủ chạ bệ rạc, ghẻ lở.

Cha Khoa không ở nhà thường xuyên. Ông sang Đống Năm, xuống Tiền Hải,-qua Thần Đầu, Thần Huống buôn bán, mỗi tháng, về nhà vài hôm, nghỉ-ngơi. Ông đi khắp nơi, cố ý tìm Vũ, bắt Vũ trở về.

- Mày làm thầy giáo, chắc buồn cười lắm nhỉ?

- Con là chiến sĩ chống giặc dốt.

- Chiến sĩ i tờ!

- Mẹ giúp đỡ con nhé!

- Bảo Liên của mày nó giúp đỡ mày.

Khoa mở cờ trong bụng. Nó có nhiều dịp gần gũi Liên rồi. Khoa nín thinh.-Nó lần mò sang nhà cu Đường. Gặp Đường ở cổng nhà nó, Khoa hỏi:

- Con Liên đâu?

Đường trổ tài… Bình dân học vụ:

- Nờ o no sắc nó ngờ u ngu hỏi ngủ.

- Mày đánh thức nó dậy đi.

- Nờ o no sắc nó bờ ao bao hỏi bảo nờ o no sắc nó bờ uôn buôn-huyền buồn nờ o no sắc nó thờ ích thích sắc thích ngờ u ngu hỏi ngủ.

- Ai dạy mày đánh vần thêm nhiều chữ khó thế?

- Con Liên. Ông biết viết cả chữ hoa rồi.

- Nó có xưng cô với mày không?

- Không.

- Nó là cô giáo của mày. Mày phải xưng con với nó.

Đường chìa khuỷu tay:

- Cái này này…

Kho vỗ nhẹ vai Đường:

- Đêm hôm lâu rồi, mày rủ tao về nhà mày ăn khoai nướng ấy mà, con Liên-bảo để phần cho tao một miếng, nó có để phần không?

Đường toét miệng cười:

- Mày không chịu sang, nó đem miếng khoai để phần cho mày nuôi kiến.-Bọn kiến chưa ăn hết đâu.

- Nó buồn chuyện gì?

- Bố nó sắp đi làm nhà in báo của chính phủ. Chú tao cũng đi theo.

- Mẹ nó có đi không?

- Không.

- Thế thì buồn ở cái khổ nào?

- Nó nhớ Hà Nội.

- Bao giờ nó mới dậy?

- Còn lâu.

- Tao ngồi đây chờ.

- Làm gì?

- Làm nó hết buồn.

Tự nhiên Đường nói:

- Nó khen mày hát hay đấy. Ba chê là khen đấy, Khoa ạ!

Hai đứa ngồi trên bậc cổng. Buổi trưa, im vắng. Ở nhà quê, không ai biết chủ-nhật. Một mình Khoa biết thôi, vì nó nghỉ học hôm nay. Sắp tết rồi.-Trời đã hết mưa, và bớt lạnh. Nắng hanh vàng ấm áp. Khó chịu cho lớp da mặt,-không tệ hại như mưa dầm gió bấc. Con chích chòe, có thể, thảnh thơi-đậu trên cành soan cao, hót một điệu tuyệt vời nhất. Con cu gáy, có-thể, núp kín trong đám lá rậm của cây bòng, làm thời gian dài ra, bằng-tiếng gáy của nó. Ở sân nhà Đường, lũ chim chích đang cãi nhau chí-chóe, dưới chân đống rơm mới.

Mùa xuân gần kề. Bài giảng văn Khoa vừa-chép: Mưa xuân đã rắc bụi. Lộc tơ đã nẩy ra những chồi xanh ngắt,-để báo hiệu cho chúng ta biết, ngày tết Nguyên Đán sắp tới. Nhưng năm nay,-toàn dân ta vẫn còn phải nỗ lực kháng chiến chống bọn thực dân xâm lăng-Pháp… Tết kháng chiến năm nay sẽ buồn tẻ như tết kháng chiến năm-ngoái. Tết không đốt pháo, không phải là tết. Bài thơ, Khoa mới học:

… Xuân trời đất làm bằng hoa bằng lá

Người Việt Nam làm bằng súng bằng gươm

Xuân muôn năm lấy sắt lửa mà làm

Hoa hạnh phúc nẩy tự nòng đại bác

Lòng lựu đạn chứa hương thơm ngào ngạt

Bắn đi, ném đi, gươm dáo chém đi

Chặt ngang thây phường cướp nước gian phi

Lũ cỏ dại bắn vào hàng ngũ chúng

Xuân sẽ mở khi đứt đầu phản động

Máu Việt Nam không chen máu tanh hôi

Binh sĩ ta đem cả sức vô hồi

Bắt tạo hóa nở nụ cười độ lượng…

Như thế, tết, hay không tết, đối với Khoa, cũng chả ăn thua gì. Chỉ-làm Khoa tương tư mùi khói pháo, không thoát lên được, bởi lớp sương-dầy, trong không khí lạnh. Khoa đã hết nhỏ bé, để thích tranh gà, tranh-lợn, để thích tiền mừng tuổi và mặc quần áo mới. Mà, chẳng ai mừng-tuổi ai. Người ta mừng tuổi cụ Hồ, gửi tiền mừng tuổi bộ đội. Tết-kháng chiến đó. Tết kháng chiến. Đám cưới kháng chiến. Đám giỗ kháng-chiến. Đám ma, cũng kháng chiến nốt! Nhiều tập tục đã bị kháng chiến giết-chết oan uổng. Cái trống cơm, cái kèn đám ma chết trước. Đàn bầu thôi-nẩy những điệu lãng mạn thuần túy của quê hương. Mà, chơi… chào cờ,-mặc niệm! Ngay cả tranh gà, tranh lợn mộc bản cũng bị khắc thêm câu-thơ thi đua tăng gia sản xuất:

Cụ ông thi với cụ bà

Nuôi lợn cho béo nuôi gà cho to

Chẳng còn gì cả. Mầu sắc tết cổ truyền chìm lấp dưới lớp hắc ín kháng-chiến. Khoa thì chỉ thấy tết tẻ nhạt, vì thiếu pháo nổ, thiếu vôi bột-rắc đầy ngõ, thiếu cây nêu cao. Cây nêu cao phải treo cờ!

- Sắp tết rồi. Khoa nhỉ?

- ừ.

- Đã tập vở kịch diễn tết chưa?

- Chưa. Tao chán diễn kịch rồi. Tao sắp làm việc khác.

- Tát ngòi, bắt cá lấy tiền mua trống đồng chứ gì! Ông biết tỏng.

-Thẳng Vĩ nói khúc ngòi chúng mình nhận tát, có hai cái hang cá trê.

- Thế à?

- Ừa.

Hai thằng bạn quay mặt ra ngõ, không biết con Liên tinh quái đã thức,-và rón rén tới cổng. Nó nhẹ nhàng leo lên ngồi trên cây tre, bắc ngang-cái cổng, làm như căn nhà nhỏ bé. Nó lặng thinh hóng chuyện.

- Này Khoa!

- Gì?

- Mày học giỏi thế, mày đã đọc truyện Trên bến Búng (2) chưa?

- Chưa.

- Tao đọc rồi.

- Nói phét. Mày mới đánh vần thông thạo thôi.

- Con Liên kể cho tao nghe. Nó bảo bà lão chở thuyền ở bến Búng đục-thuyền, làm hai mươi thằng thực dân Pháp chết đuối.

Liên phá ra cười. Cả hai thằng cùng quay lại. Khoa ngỡ ngàng. Đường xấu-hổ. Liên nheo mắt:

- Cu Đường là cu Cuội… Liên kể chuyện Trên bến Búng cho cu Đường nghe-bao giờ? Người ta mới hứa kể, đã khoe.

Đường cười trừ. Liên trách Khoa:

- Cu Khoa cũng là cu Cuội. Bảo sang ăn khoai nướng không sang, bắt tội-kiến ăn no nê.

Kha móc trong túi ra gói lạc rang:

- Khoa đền tội, nhé!

Liên hỏi:

- Cái gì đó?

Khoa đáp:

- Lạc rang.

Liên cầm ngay gói lạc, liến thoắng:

- Lạc rang à? Liên thích lắm.

Con bé bóc gói lạc, nhón một hạt, còn bao nhiêu đổ vào túi áo mình. Nó-vê vỏ, tách hạt lạc làm đôi. Một nửa, Liên thảy vô miệng, nhai ròn. Một-nửa, nó đặt ngửa giữa lòng bàn tay, chỉ cái chấm nhỏ trên đầu hạt lạc:

- Cu Khoa biết không?

- Biết.

- Nói xem nào.

- Trúng được gì?

- Muốn gì được nấy.

- Muốn hai điều thôi.

- Ừ.

- Điều thứ nhất, cấm gọi Khoa là cu Khoa,

- Còn điều thứ hai?

- Sẽ nói sau.

- Vậy, chấm nhỏ trên đầu nửa hạt là gì?

- Ông cụ! Ông cụ bé tí ti. Tí ti ông cụ!

- Còn là gì nữa?

- Ông lão. Một ly ông lão, một ly ông cụ…

Liên cười:

- Ăn lạc rang khoái nhất là nhấm ông cụ, bằng răng cửa.

Khoa nói:

- Liên thua cuộc rồi.

Liên nhìn Khoa, nhấm nhẳn:

- Thế à, cu Khoa?

Khoa nhắc:

- Cấm gọi cu Khoa.

Liên nheo mắt:

- Ờ nhỉ, Liên quên. Điều thứ hai ra sao hở, Khoa?

Khoa hơi bối rối. Nó sợ nhỡ tầu lắm. Ở đây, bị Liên cho nhỡ tầu, làm gì-có ô tô ray mà đi? Khoa không đáp câu hỏi của Liên. Nó ngó Đường:

- Cu Đường đánh vần cừ ghê.

- Mày cũng học đòi cái Liên à?

Liên dọa Đường:

- Hễ gọi cái Liên, không thèm dạy học nữa, cho mù chữ luôn.

Đường vênh mặt đáng yêu:

- Đây hết mù rồi.

Khoa lắc đầu:

- Mày hết mù, nhưng còn chột. Mày chột chữ.

Liên thích chí:

- Cu Đường chột chữ vẫn bị lội bùn!

Đường cáu quá, chạy vào nhà. Khoa đang mong thế. Để có nhỡ tầu, chỉ mình-Khoa biết. Nó nói:

- Thôn mình đông người mù chữ quá, Liên ạ!

Liên ỡm ờ:

- Thôn mình là thôn nào?

- Thôn này.

- Liên tản cư mà. Dân tản cư mà…

- Tản cư về đây, thì đây là thôn mình.

- Rồi sao?

- Khoa định mở lớp Bình dân học vụ tối, thi đua với thằng Huệ, Liên đến-dạy với Khoa nhé!

- Dạy i tờ?

- Ừ.

- Làm cô giáo?

- Ừ.

- Được gì?

- Mỗi tối, một gói lạc rang.

- Giúp Khoa thôi, hở?

- Giúp nhiều người.

- Liên không gia nhập thiếu nữ đâu. Liên ở đây chờ về Hà Nội.

- Càng tốt. Khoa không thích Liên gia nhập thiếu nữ.

- Tại sao?

Khoa muốn trả lời, tại vì Khoa không thích Liên quen với thằng nào,-ngoài cu Đường nhà quê và Khoa. Khổ nỗi, Khoa ngập ngừng, chẳng thể-nói một câu ngon ơ như sáo chó. Nó đưa ngón tay cái lên miệng,-cắn móng:

- Liên bằng lòng chứ, Liên?

Liên hỏi:

- Dạy tối, về khuya, Liên sợ ma. Khoa dẫn Liên về cơ.

Khoa lặng thinh giây lát, cho niềm sung sướng thấm vào tâm hồn nó. Đôi-mắt Khoa long lanh. Đôi mắt ấy, nhìn Liên. Bỗng dưng, sự láu lỉnh, vẻ hóm-hỉnh của Liên trốn đâu mất. Con bé cúi đầu, vân vê mép áo. Khoa nói-nhỏ, thật nhỏ:

- Khoa sẽ dẫn Liên về.

Tiếng nói của Khoa chìm biến. Chỉ còn nghe rõ tiếng hót tuyệt diệu của-con chích chòe trên cành soan, gần đó. Và, tiếng gió luồn qua bụi tre.-Và, tiếng nắng nhảy múa, làm rung rinh những chiếc lá không muốn úa vàng.

(1) Tác giả bản nhạc Cô Tú là Châu Long (hay Long Châu) thuộc phong-trào Truyền Bá Quốc Ngữ ra đời trước 1945. Nhưng giặc dốt bị thanh toán-ồ ạt vào khoảng 1947. Và, Bình Dân Học Vụ thay thế Truyền Bá Quốc Ngữ

(2) Trên bến Búng, một truyện vừa của Hoàng Công Khanh, đề cao lòng yêu-nước của một bà lão

74

Nhi đồng thôn dưới nhất định ăn tết bằng bộ trống đồng. Làng nào-trong huyện Thư Trì cũng có trống đồng. Chỉ làng Tường An nghèo mạt,-hai năm cách mạng thành công, nhi đồng vẫn thèm ước một bộ trống đồng.-Tiền nguyệt liễm, tiền mót lúa, hôi cá, chưa đủ mua. Anh Lý đã sang-Đống Năm hỏi giá trống đồng. Anh bảo còn thiếu năm trăm nữa. Nhi-đồng thôn trên về bét các cuộc thi đua, không hy vọng được giữ-trống đồng, thành thử chúng nó lười kiếm tiền gây quỹ. Khoa đã hứa với-Đường sẽ cho Đường đánh trống con. Đường rất thích trống đồng. Khoa-thích nào kém. Đêm đêm thức giấc, nghe tiếng trống đồng từ Đồng Đức, Thọ-Bi, Thụy Bình, Đại Đồng vọng sang, vọng tới, Khoa nôn nao vô cùng.-Thời đại của Khoa là thời đại của trống đồng thôi thúc, giục giã. Thiếu-nó, kể như mất quá nửa niềm vui.

Khoa đã dẫn nhi đồng Tường An đi dự đại hội thiếu nhi xã. Nó thấy tủi-thân, khi bọn thằng Đường nhìn trống đồng, của nhi đồng làng khác, thèm rỏ-rãi. Khoa quyết thực hiện mộng đánh trống đồng cho nó, cho thằng Đường, cho-nhi đồng Tường An. Bởi thế, bọn nhi đồng thôn dưới mới say mê-tát ngòi bắt cá, theo lệnh của Khoa, đổi cá lấy trống đồng. Trời lạnh,-nhi đồng nhẩy xuống ngòi móc bùn, be bờ chắn ngang từng khúc ngòi.-Chúng thay phiên nhau tát nước. Gàu không đủ, lấy gáo múc nước. Những-bàn tay nhô con, muốn làm nghiêng khúc ngòi, cho nước hắt đi chỗ khác.-Chẳng mấy đỗi, khúc ngòi cạn nước, chỉ còn bùn, và tôm cá lổn nhổn. Ở-một cái hang, dưới bụi cây rậm, con nhà Vĩ trườn mình chui vào. Cái-hang sâu nuốt quá nửa thân hình Vĩ. Nó là rái cá. Vĩ là Yết Kiêu. Nó-nín thở tài tình. Nó cầm đoạn dây mây đầy gai, thọc sâu trong hang. Một-lúc lâu, nó trườn lùi ra, mặt mũi, đầu tóc bê bết bùn. Nó cười. Hàm-răng trắng ởn. Trông nó giống hệt Tây đen bán vải. Vĩ khoe nhặng xì ngầu:

- Nhiều lắm.

Vĩ đưa tay, vuốt mặt đầy bùn:

- Mới động khẽ, bọn cá trê đã ọ ẹ… đầu hàng!

Nó giục:

- Thằng Đường đem cái rổ xề lại đây. Tao bắt sống thực dân cá trê mừng-tuổi bác Hồ.

Đường gân cổ:

- Mua trống đồng đã. Còn thừa tiền mới mừng tuổi bác Hồ!

Vĩ lại chui vào hang cá trê. Mỗi lần nó trườn ra, là mỗi lần một con cá-trê trong tay nó. Vĩ bắt cá trê rất giỏi. Ngạnh cá trê không tài nào đâm-thủng tay nó, dù cá trê đóng quân mãi tận chiến khu hang hốc. Những-thằng khác đã bắt tới con cá rô cuối cùng. Chúng nó qua tát khúc ngòi-gần đó. Vĩ và Đường phụ trách hang cá trê. Khoa đứng trên bờ hô hoán,-vui mừng. Khoa biết nó không thể giỏi bằng những đứa trẻ ở nhà quê. Cả-Vũ, Côn, Luyến, Lộc nữa. Những đứa trẻ ở thành phố được mỗi nước khôn-vặt. Thả chúng về quê, chúng sẽ chẳng làm được gì, ngoài việc dùng-cái tài khôn vặt của mình mà chỉ huy, ra lệnh. Khoa phục Vĩ sát đất. Nó-tính sẽ để Vĩ ôm trống cái.

Khoa đánh trống đồng từ ngày còn ở thị xã. Nó quen vài ông lính khố xanh,-trong đội trống đồng, kèn bú rích. Mấy ông này dạy Khoa đánh đủ các-nhịp. Khoa đã truyền nghề cho nhi đồng thôn dưới. Nó bắt hai thằng đeo-thúng, úp mặt thúng xuống, dùng quân khăng làm dùi, đánh vào đít thúng.-Một thằng lấy hai cái vung nồi đồng làm chũm chọe. Khoa bảo tập quen-tay, khi có trống đồng thật, là đánh liền, không bỡ ngỡ. Nhi đồng thôn dưới-thay phiên nhau tập đánh trống đồng giả, kêu lẹt bẹt. Trống giả sẽ thành-trống thật, như súng gỗ sẽ thành súng thép bắn tan giặc Pháp. Chỉ-cần tin tưởng. Mà, tin tưởng đã thừa, đã khiến những thằng nhãi con làm-nghiêng cả ngòi dài, với nhiệt tình và lòng tự phụ.

- Khoa đâu?

Vĩ gọi nhắng. Khoa đáp:

- Tao đây.

Vĩ giơ con cá trê to tướng, đen thui, bụng vàng chóe:

- Con trê chúa. Mày nhìn xem, đầu nó bạc phơ.

Khoa khích lệ Vĩ:

- Mày xứng đáng ôm cái trống cái.

Vĩ hớn hở:

- Tao được ôm trống cái? Hoan hô mày. Tiêu diệt gần hết đồn giặc cá-trê rồi, Khoa ạ! Đánh mạnh để trở về thủ đô.

Thủ đô của Vĩ, thủ đô không bao giờ Vĩ tới, chưa bao giờ Vĩ biết. Bây-giờ, Vĩ luôn luôn nhắc nhở. Có cái gì thật khác lạ của thời đại thằng-Khoa. Cái gì ấy, nó ngô nghê, ngớ ngẩn, buồn cười, song rất chân-thành. Khoa nhớ những ngày đi thả rọ cá rô, be bờ đơm đó bắt tép, thả-ống lươn, đánh cá sông gây quỹ nhi đồng, có thằng cởi truồng tồng-ngồng, vác cái dậm vòi, nhẩy xuống nước hô to: Đánh dậm là yêu nước!-Những thằng khác hô theo: Đánh mạnh để trở về thủ đô!

Yêu nước, động từ-này bọc dầy lớp vỏ thiêng liêng. Không ai có thể phì cười. Tản cư là yêu-nước. Đi học là yêu nước. Tăng gia sản xuất là yêu nước. Đóng thuế-là yêu nước. Giết chuột là yêu nước! Không một công việc gì, dù hèn mọn-đến đâu, là không thể hiện lòng yêu nước. Mấy năm chưa có những khẩu hiệu-yêu nước, giết chuột là cái lệ làng đặt ra, và mỗi người chỉ góp đủ số-đuôi chuột làng bắt nộp. Nhà giầu bỏ tiền mua đuôi chuột. Nay đã khác.-Giết chuột là yêu nước. Nên cả làng thi đua bắt chuột. Chuột phá hại mùa-màng, chuột nguy hiểm hơn giặc Pháp. Khói hun ổ chuột, bốc mù mịt khắp-cánh đồng. Ai nộp nhiều đuôi chuột, người ấy yêu nước nhiều. Mà, ai-cũng thích yêu nước nhiều, khiến chuột bị tiêu diệt hết.

- Này Khoa!

- Cái gì?

- Nội hang cá trê này đủ mua bộ trống đồng rồi đó.

- Mày cừ nhất làng.

- Cho tao làm trung đội phó, nhé!

- Tối nay họp, tao đề nghị mày. Thôi, bắt hết đi.

Vĩ lại chui vào hang. Cu Đường đứng đếm cá trê trong cái rổ xề. Đến-chiều, công tác tát ngòi bắt cá xong xuôi, người thôn trên xuống mua tất cả.

Khoa cầm tiền đem nộp cho anh Lý. Anh bảo, thế nào, trước tết, nhi đồng-Tường An cũng có bộ trống đồng. Khoa hí hửng báo tin cho bạn bè. Ngay tối-hôm đó, nhi đồng thôn dưới họp. Sinh hoạt dân chủ đã quá quen. Đại khái,-phần đầu là chào cờ, mặc niệm, suy tôn Hồ chủ tịch, rồi đến tuyên bố lý-do cuộc họp, bầu chủ toạ, thư ký… Không một ông nhô nào được từ chối,-nếu được đề nghị làm chủ toạ, và được anh em giơ tay đồng ý. Phiên họp-tối nay, trung đội trưởng tuyên bố lý do… tát ngòi, và bầu trung đội-phó. Khoa muốn họp thật nhanh, để còn về dạy học. Cu Đường làm chủ tọa.-Nó điều khiển buổi họp rất vui nhộn. Đường báo cáo tiền cá, phác định-công tác thi đua, mừng tết kháng chiến. Phần thảo luận sôi nổi lắm. Các-ông nhô hăng say phát biểu, đôi lúc chửi thề, văng tục bừa bãi. Chủ-tọa cu Đường cảnh cáo luôn miệng. Thư ký Hiệp toét ghi chép đầy đủ.

Sang phần bầu trung đội phó nhi đồng thôn dưới, Khoa giơ tay trước. Chủ-toạ cu Đường bắt đầu:

- Đồng chí Khoa phát biểu ý kiến… lửa đi!

Tiếng cười ầm ỹ. Thằng Hội giơ tay:

- Xin phép chủ tọa. Tôi yêu cầu đồng chí Khoa phát biểu ý kiến… gió.

Thằng khác nói:

- Ý kiến… càng cho nó mạnh!

Chủ tọa cu Đường tít mắt cười. Khoa nói:

- Trung đội phó Mẫn sẹo đã theo bố lên Giai, từ chức rồi. Tôi đề nghị-bầu đồng chí Vĩ thay thế. Đồng chí Vĩ bắt cá trê xuất sắc.

Chủ tọa cu Đường về phe Vĩ, không hỏi xem còn ai đề nghị người khác, vội-lấy biểu quyết:

- Ai đồng ý đồng chí Vĩ làm trung đội phó, giơ tay lên.

Cả làng giơ tay. Tân trung đội phó đứng dậy, bước lên chỗ chủ tọa cu-Đường:

- Tao cám ơn chúng mày lắm. Thằng Quý không giơ tay đồng ý. Mày thiểu số-thua đa số. Ông sẽ giao công tác nặng nề cho mày.

Đồng chí Quý trả đũa:

- Ông tố cáo mày giấu hai con cá trê gộc, chờ anh em giải tán, đem về cho-mẹ mày nấu canh dưa.

Trung đội phó Vĩ rít qua kẽ răng:

- Sư mày, mày… phản động!

Tên phản động Quý cười toe:

- Mẹ mày bưng bát canh dưa sang cho nhà ông mà. Rõ ràng canh dưa cá-trê.

Khoa cố nín cười. Mỗi cuộc họp của nhi đồng là một màn hài kịch. Vui-ghê lắm. Tân trung đội phó sửa soạn nhào tới đấm đá đồng chí Quý. Chủ-tọa cu Đường khoái coi đánh nhau hơn điều khiển buổi họp. Nó… phát-biểu ý kiến:

- Hễ ức quá, ra ngoài sân choảng nhau.

Khoa nói:

- Yêu cầu chủ tọa giữ trật tự giùm.

Chũ tọa cu Đường la lớn:

- Trật tự! Trật tự! Lát sang phần phê bình, tha hồ cãi nhau.

Khoa dục Đường:

- Yêu cầu chủ tọa thông qua vấn đề.

Chủ tọa cu Đường nháy mắt lia lịa:

- Thông qua đây, thông bằng cây sào dài, là vấn đề nó trôi liền. Nào,-sang phần phê bình. Tôi xin có một tí tẹo ý kiến. Tôi phê bình phiên họp-tối nay sôi nổi, vui vẻ, độc lập, tự do, hạnh phúc. Các đồng chí đồng ý-chứ?

Thằng Hội giơ tay:

- Có tí ý kiến.

Nó đứng dậy luôn:

- Chủ tọa Đường phản động, dám bảo ý kiến là kiến lửa, làm các đồng chí-khác noi gương. Tôi cũng noi gương… kiến gió! Tôi phê bình tôi trước.

Nó liếm mép:

- Hề hề, ông tự phê bình ông, đừng thằng nào hòng phê bình ông nữa.

Thằng khác:

- Tao phê bình thằng đồng chí Hội. Nhi đồng cứu quốc không được xưng ông.

Thằng khác:

- Tôi phê bình mày, mày xưng tao!

Thằng khác:

- Tớ phê bình đằng ấy, đằng ấy gọi đồng chí là mày.

Thằng khác:

- Yêu cầu cống chọc thủng vấn đề bằng cây sào thật dài đi. Tôi phê bình-chủ tọa không biết làm chủ tọa; phê bình đồng chí Vĩ dọa giao công tác-nặng nề cho đồng chí Quý. Đồng chí chủ tọa ngáp ba cái, rất đáng phê-bình. Đồng chí thư ký ngủ gật.

Chủ toạ cu Đường đập bàn:

- Tao không biết làm chủ tọa, tại sao mày còn bầu tao? Lần trước, mày-làm chủ tọa, mày đánh rắm thối om phiên họp, ông không phê bình mày, mà-mày nỡ phê bình ông, hả? Mày đánh rắm là mày phản động, thực dân Pháp!-Ông mà phê bình, mày sẽ bị ghi vào biên bản.

Khoa vỗ tay, át giọng:

- Yêu cầu chủ tọa chấm dứt phiên họp.

Chủ tọa cu Đường hậm hực:

- Phiên họp tối nay chấm dứt. Từ giờ trở đi, ông ị vào làm chủ tọa.

Bọn nhãi lục tục kéo ra khỏi từ đường họ Nguyễn, nơi dùng làm trụ sở-nhi đồng thôn dưới. Các ông nhãi cười nói, văng tục huyên thuyên. Sinh-hoạt dân chủ thật rực rỡ. Lời dạy phê bình và tự phê bình để tiến bộ của-bác Hồ được các cháu nhi đồng áp dụng triệt để.

Khoa đứng ở sân chờ-bọn nhi đồng giải tán hết, mới bước nhanh về từ đường họ Vũ. Còn sớm. Lớp-học chưa đông. Cô giáo Liên cũng chưa tới. Thầy giáo Khoa đứng nhìn lớp-học. Những tấm cửa gỗ của từ đường đã được gỡ ra, kê trên những chồng-gạch, dùng thay bàn. Không có ghế. học trò ngồi bệt dưới nền nhà hay-mang theo mảnh mo lót quần. Đèn là những chiếc đĩa đầy dầu lạc, dầu-vừng, tẩm bấc vải. Ánh sáng đủ cho mỗi người. Ở bảng đen, đĩa dầu thêm-vài sợi bấc, đặt lên cái giá cao. Chỉ quê hương của Khoa mới có lớp học-như thế này. Ánh sáng, có lẽ, rực rỡ nhờ những tâm hồn hiếu học.-Học trò toàn các bà, các cô bằng tuổi mẹ Khoa, dì Khoa, mợ Khoa… Họ yêu-mến Khoa và Liên. Cô giáo và thầy giao xưng cháu với học trò.

Khoa nhìn những ngọn đèn đĩa leo lét cháy. Gió cuối đông không thể thổi-tắt những ngọn đèn, không thể làm lạnh lớp học của Khoa. Bỗng dưng,-Khoa thấy mình chẳng còn là mình bé nhỏ, dù Khoa vẫn bé nhỏ. Khoa muốn-so sánh mình với Vũ. Thời đại của Vũ làm gì có lớp học và những ngọn-đèn đĩa gây xúc động tuyệt vời. Chỉ thời đại của Khoa mới là thời của-niên thiếu hưởng mộng mơ no tròn. Không có Vọng nghèo hèn. Không có-Dương hống hách. Tất cả đều là những bông hoa trong vườn hoa, đều-là những cánh bướm lượn bay trên đồng nội, đều là những giọng hát ngợi ca-tuổi thơ và quê hương. Của trời đất đấy. Trời đất dâng mật ngọt cho niên-thiếu. Trời cùng đất hóa phép, làm biến mọi biên giới. Còn lại tình yêu-và hồn nhiên. Điều khiến Khoa xa lạ với Vũ năm xưa, là Khoa muốn nhận cho-riêng mình một trách nhiệm, một bổn phận, ngoài những lúc rộn rã theo-tiếng trống đồng, mải mê nhanh bước nhanh nhi đồng, và say sưa đánh-trận giả, mơ thành người lính trong lịch sử tranh đấu của giống nòi.

- Dạy học đi Khoa, bác còn về giã gạo.

- Ừ, tao cũng còn một cối bèo.

Học trò của Khoa giục thầy. Khoa xoa tay, lễ phép nói:

- Cháu đợi một lát.

Một bà học trò âu yếm hỏi:

- Mày đợi con bé Hà Nội, chứ gì! Mợ biết, thiếu nó, mày không dạy nổi-đâu. Khoa ngoảnh mặt, che giấu nụ cười sung sướng. Vừa lúc, cô-giáo Liên tới. Những cuốn sách i tờ mở soạt soạt một cách vụng về. Lát-sau, tiếng đọc bài vang lên. Từ lũy tre xanh, bắt đầu bằng hai chữ i tờ,-một thế hệ bà nội, bà ngoại sẽ không còn bắt cháu đọc truyện Phạm Công-Cúc Hoa, truyện Thạch Sanh Lý Thông, nhiều bận, để học thuộc lòng nữa.-Khoa nghĩ tới ngày mai ấy. Nó, tưởng chừng, đã bắt sự câm nín của-quê hương lên tiếng nói. Tiếng nói đó đang vỗ về Khoa.

(Còn tiếp)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn