BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 65549)
(Xem: 59634)
(Xem: 36957)
(Xem: 29219)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Đảng Cộng Sản và Dân Chủ ở Việt Nam

20 Tháng Mười Một 200112:00 SA(Xem: 1013)
Đảng Cộng Sản và Dân Chủ ở Việt Nam
52Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
52
Đôi Lời giới thiệu
(Hay)
Trần Độ - Tiếng nói của ông và cuộc đấu tranh vẫn còn tiếp diễn

Từ bao năm qua tên tuổi của trung tướng Trần Độ – vị anh hùng của cuộc Cách mạng và cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp giành độc lập cho nước nhà, và nhiều năm gần đây, ông là vị anh hùng của cuộc tranh đấu đòi dân chủ, tự do và tôn trọng phẩm giá con người, đòi canh tân Quê hương xứ sở được rộng rãi công luận trong và ngoài nước biết đến. Ông là một tấm gương sáng, là ngọn hải đăng soi đường cho rất nhiều các vị lão thành Cách mạng, cựu chiến binh, trí thức tiến bộ và thanh niên noi theo. Với ông Tổ quốc và dân tộc luôn luôn là nỗi niềm trăn trở, suy tư và cũng là nỗi đau khắc khoải khôn nguôi trong lòng. Ông đặt Tổ quốc và nhân dân cao hơn hết thảy, hơn cả tính mạng và cuộc sống của chính bản thân mình. Vì những phát biểu công khai đòi dân chủ tự do, dân quyền và nhân quyền, ông liên tiếp bị những hoạn nạn, tai ương do chính cái Nhà nước, cái chế độ mà ông góp một phần xây dựng nên và đã cống hiến cả tuổi thanh xuân, cả cuộc đời của mình giáng xuống. Từ tuyên truyền bôi nhọ ông đến canh chừng, rình rập ngày đêm cuộc sống riêng tư như một tên tội phạm cực kỳ nguy hiểm. Từ huy động cả một hệ thống tuyên truyền đồ sộ để đả phá và công kích quyết liệt những quan điểm tiến bộ vì đất nước của ông đến thủ đoạn đê tiện tổ chức cướp cuốn nhật ký ghi chép những riêng tư. Đe dọa và khủng bố, mua chuộc và lung lạc, bôi nhọ và xuyên tạc đều không khuất phục hoặc làm sờn lòng được tiếng nói và tấm lòng của ông với đất nước. Mọi thủ đoạn đê hèn và dơ bẩn đều trở nên vô nghĩa, ông vẫn ngẩng cao đầu với khí phách của một nhân cách lớn và một lương tri lớn.

Suy tư và nỗi trăn trở thường trực của ông là Đất nước và nhân dân, đổi mới và dân chủ. ông sắn sàng trả bằng mạng sống của mình để được phát biểu vì đất nước, vì ngày mai tự do của dân tộc. Từ sau sự kiện bị cướp nhật ký tháng 06 năm 2001, tướng Trần Độ bị ngã bệnh rất nghiêm trọng, sức khỏe rất suy yếu. Dù khi còn nằm trên giường bệnh bị hôn mê và những cơn đau dày xé, hay khi phải trở về nhà vì tuổi quá cao, bệnh tình trầm trọng, nhưng không một phút giây nào ông không nghĩ đến sự lột xác thật sự của Đảng và sự đổi mới thật sự của đất nước. Tuy hoàn cảnh hiểm nghèo, tính mạng chỉ còn được tính từng ngày, từng giờ nhưng đầu óc ông vẫn thông tuệ, anh minh. Ông vẫn tranh thủ thời gian để suy tư và nghĩ về đất nước, về Đảng cộng sản mà 60 năm qua ông đứng trong hàng ngũ đó. Ông cùng nhân dân đã thấy rõ chính sự bám giữ quyền lực lì lợm, và ngoan cố cùng với não trạng bảo thủ nặng nề của Đảng chính là nguyên nhân chủ yếu, chủ đạo, cơ bản kìm hãm toàn bộ sự phát triển chung của đất nước và xã hội. Sự kiện bị cướp tập nhật ký giữa Sài Gòn sẽ là một vết nhơ mãi mãi với lịch sử và thủ phạm là những kẻ đã gây ra nó sớm muộn cũng bị vạch mặt, lên án. Trí nhớ và sức khỏe giảm sút nhiều không cho phép ông có thể viết lại một cách đầy đủ toàn bộ cuốn nhật ký ghi chép đã mất đó. Nhưng vượt lên bệnh tật, tuổi tác ông vẫn cố gắng viết thiên Bút ký và tiểu luận dưới đây tựa đề là: “Đảng cộng sản và vấn đề dân chủ ở Việt Nam”, mà trong đó có một số ý chính của tập nhật ký ông còn giữ lại được theo trí nhớ một cách không đầy đủ và trọn vẹn.

Thiên Bút ký và tiểu luận này chắc chắn sẽ không đầy đủ những tư liệu, cảm xúc, nghĩ suy bằng tập nhật ký quý giá 83 trang đã bị cướp. Nhưng đọc nó chúng ta thấy được vẫn hiển hiện một Trần Độ hiên ngang, dũng mãnh, xông xáo đi vận động làm Cách mạng cùng nhiều bậc tiền bối khác từ khi Đảng, chế độ Nhà nước này còn phôi thai trong trứng nước, chưa đủ hình hài thời kỳ hoạt động bí mật đến một Trần Độ xông pha trước trận mạc của cuộc tranh đấu đòi tự do, dân chủ, và tôn trọng Quyền Được Làm Người hiện nay. Có lẽ đây là lần đầu tiên ông giãi bày những suy nghĩ triệt để nhất, thành thật nhất của mình với thời cuộc, với Đảng cộng sản, với công luận. Ông đã công khai đòi Đảng cộng sản phải dân chủ hoá toàn diện đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá nước nhà, phải thực sự đổi mới. Phải thực hành chế độ đa nguyên đa Đảng, phải thực hiện tự do dân chủ hóa, phải đổi mới triệt để thể chế chính trị. Phải từ bỏ chế độ Đảng trị độc tài thành một chế độ dân chủ đa nguyên và xây dựng một xã hội công dân. Phải thực sự thực hành chính sách hoà hợp và hoà giải dân tộc đoàn kết mọi người Việt Nam trong và ngoài nước, xoá bỏ hận thù, chia rẽ sau bao nhiêu năm chiến tranh loạn lạc “huynh đệ tương tàn”. Chắc chắn rằng phát biểu này của ông sẽ là một thách thức, thách đố rất lớn, rất hệ trọng đối với Đảng và chế độ hiện tại, nhưng đồng thời nó cũng chính là thông điệp của những lực lượng đang tranh đấu đòi dân chủ trong và ngoài nước hiện nay gửi tới giới cầm quyền Hà Nội. Trong tương lai không xa nữa, nhất định lịch sử sẽ phán xét công minh sự đúng, sai; công và tội của Trần Độ, của Đảng cộng sản Việt Nam và của tất cả những con người đang dấn thân tranh đấu cho một nước Việt Nam mới sáng lạn, dân chủ và tự do.

Bằng cách duy trì một thể chế chính trị độc tài toàn trị hết sức độc đoán, phản Cách mạng, phản động, chống lại nhân dân và trào lưu tiến bộ của thời đại và được một lực lượng khổng lồ cảnh sát và quân đội cùng bộ máy tuyên truyền dối trá vĩ đại hỗ trợ. Đảng và Nhà nước có thể còn tồn tại thêm một thời gian nữa trước khi sụp đổ hoàn toàn. Phong trào tranh đấu đòi dân chủ ở trong nước có thể bị đàn áp và khủng bố khốc liệt, nhưng cuối cùng ngọn cờ dân chủ và tự do sẽ phấp phới tung bay trên toàn cõi Tổ quốc đau thương của chúng ta. Tấm lòng thuỷ chung son sắt với Tổ quốc của Trần Độ sẽ còn bền mãi với thời gian và non sông đất nước.

Hy vọng rằng lão tướng Trần Độ còn sống ngày nào còn đi đầu và tiếp tục hiến dâng sức mình cho Tổ quốc ngày ấy. Là người Việt Nam yêu nước chúng ta có quyền tự hào lịch sử đã sản sinh ra những anh hùng đương đại gánh vách trách nhiệm nặng nề mà lịch sử và giang sơn đã giao phó. Cùng với Trần Độ những Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, La Văn Lâm, Bùi Công Trừng, Lê Giản, Dương Bạch Mai, Hoàng Hữu Nhân, Phạm Thị Tề, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Hồ Tấn Anh, Nguyễn Thị Thu, Thích Tuệ Sĩ, Thích Chí Siêu, Nguyễn Đình Huy, Phạm Thái, Võ Thanh Liêm, Nguyễn Đan Quế, Linh Mục Chân Tín, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Cố tổng giám mục Nguyễn Kim Điền, Lê Quang Liêm, Nguyễn Ngọc Lan, Trần Quang Châu, Hà Sĩ Phu, Dương Thu Hương, Nguyễn Thanh Giang, Bùi Minh Quốc, Vũ Cao Quận, Phạm Quế Dương, Hoàng Tiến, Phạm Hồng Sơn, Bùi Ngọc Tấn, Phan Đình Diệu, Nguyễn Văn Minh, Trần Bá, Trần Đại Sơn, Lê Hồng Hà, Nguyễn Trung Thành, Lý Tống, Trần Mạnh Quỳnh, Trần Dũng Tiến, Đông Nam Hải, Vũ Minh Ngọc… và các trí thức trẻ như Lê Chí Quang, Nguyễn Vũ Bình v.v… cùng hàng ngàn, hàng vạn những con dân của đất Việt đang âm thầm lặng lẽ góp sức mình cho một nước Việt Nam mới nhất định sẽ trở thành một phần lịch sử oai hùng của Đất nước.

Trên tinh thần đó tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc thiên Bút ký và tiểu luận đáng trân trọng này. Và mong bạn đọc xa gần khắp nơi trên đất nước còn khốn khổ này cùng tất cả những ai mang dòng máu Việt ở khắp năm Châu hãy mở ra một cuộc tranh luận công khai, toàn diện, sôi nổi đúng như tác giả hằng mong đợi.

Hà Nội ngày 24/11/2001.

Cựu chiến binh Trần Minh Tâm
(Người đã tham gia cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn Bắc-Nam 1954-1975)
25 Phan Đình Phùng Phường Quan Thánh – Quận Ba Đình – Hà Nội.


Bút ký - Tiểu luận

 Ai đã sống từ những năm 20-30 của thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 đều có thể nhìn thấy và chứng kiến 2 tình trạng, 2 bức tranh hầu như trái ngược của ĐCSVN. Đầu thế kỷ 20 cho đến năm 1945, Đảng Cộng sản có mấy nghìn Đảng viên mà thực dân Pháp và Phong kiến triều Nguyễn rất hoảng hốt lồng lộn. Cả một hệ thống nhà tù. Từ Hoả Lò, Sơn La. Lao Bảo, Kon Tum, Ban Mê Thuột đến Khám lớn, Côn Đảo…, đều đầy ắp tù Cộng sản. Thế mà cuộc Cách mạng tháng 8/1945 đã thành công. Sau đó thì ở 3 Kỳ chỗ nào cũng là người mới ở nhà tù ra làm nòng cốt: Bắc Kỳ thì tù từ Hoả Lò, Sơn La; Trung Kỳ thì tù từ nhà tù Lao Bảo, Kom Tum, Ban Mê Thuột; ở Nam Kỳ thì tù từ nhà tù Khám lớn, Côn Đảo. Suốt trong kháng chiến chống Pháp, ở khắp nơi những người Cộng sản làm cán bộ Quân đội và Chính quyền và sống ở trong dân, đều ăn, ở như dân và đều nổi bật lên về tính gương mẫu, về chịu đựng gian khổ và hy sinh tính mệnh. Chỗ nào dân cũng mong đợi, ngưỡng mộ và yêu mến các "cán bộ" cộng sản, chia cơm, xẻ áo, và lấy cả tính mệnh mình để che chở, bảo vệ cho những cán bộ Cộng sản.

 
Và bây giờ, đầu thế kỷ 21 thì tình trạng và bức tranh là: Đảng Cộng sản là một đảng cầm quyền lãnh đạo bao trùm cả Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan Nhà nước. Những vị trí quan trọng của Bộ máy Nhà nước: Chủ tịch, phó Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Giám đốc và phó Giám đốc Sở, Ty, Hội trưởng, Uỷ viên chấp hành các Hội quần chúng đều phải là Đảng viên: Đảng viên có sẵn để Đảng chọn xếp vào các vị trí hoặc chưa là Đảng viên thì phải phấn đấu vào Đảng, rồi mới hòng được bổ nhiệm chức nọ, chức kia, từ ở phường, xã lên đến huyện, tỉnh và đến cấp Trung ương, toàn quốc. Trước đây, cán bộ đi sâu đi sát là có bộ áo nâu rách, quần ống thấp, ống cao, đeo cái bị cói hoặc một tay nải nhỏ đi len lỏi các nơi hẻo lánh khốn khó, thậm chí rất nguy hiểm. Còn ngày nay, đi sâu đi sát là xe hơi bóng láng, mới cáu cạnh toàn của các hãng Tư bản nước ngoài danh tiếng chế tạo, hoặc từng đoàn xe hơi có công an hộ tống dẹp đường, đến nơi nào đều có đón tiếp ở khách sạn sang trọng nhất, họp mặt ở những hội trường sang trọng nhất, gặp các người đứng đầu cơ sở hoặc địa phương nghe báo cáo, đi thăm các cơ sở gặp vài người đã được chọn lọc (để bảo đảm an toàn cho cấp trên) hỏi vài ba câu thường là vớ vẩn, đôi khi lại còn ngớ ngẩn, rồi lại vào phòng khách sang trọng có mấy lời huấn thị thường là được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, rất nhạt nhẽo và nhàm chán thế mà đều được khen là "sâu sắc", "sáng rõ" và được hứa xin chấp hành nghiêm túc. Còn đám cán bộ cấp dưới chỉ đua nhau mở sổ lấy bút ghi chép lia lịa "những lời vàng ngọc quý báu" mà cấp trên huấn thị.

Tôi là người đã trải qua 2 cảnh trái ngược ấy. Có lần tôi thăm một huyện, khi đi về được tiễn đưa rất trọng thể và đến cuối đường thì đồng chí Chủ tịch huyện nắm tay tôi rất chặt và hứa trịnh trọng rằng sẽ chấp hành nghiêm chỉnh các chỉ thị "sáng suốt" của tôi. Tôi ngẫm nghĩ mãi, không biết tôi đã chỉ thị những gì, tính tôi hay đùa, tôi liền hỏi đồng chí Chủ tịch đó rằng: "Một năm huyện cậu có mấy lần các đồng chí Tỉnh và các ngành Trung ương về thăm"?. Đồng chí đó bảo độ 5-7 đoàn. Tôi lại hỏi thế cậu làm sao chấp hành hết 5-7 lần chỉ thị ấy ?. Đồng chí Chủ tịch cười và không trả lời! Thế là tôi được đích thân chứng kiến Đảng Cộng sản giữa thế kỷ 20 là Đảng gồm những Đảng viên mà từ Tổng Bí thư đến đảng viên thường sống trong dân cùng cơm khoai, ổ rơm, rau dưa với dân, trực tiếp bàn với từng người dân công việc làm ăn và công tác Cách mạng. Và bây giờ cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 là một Đảng mà tuyệt đại đa số là các quan, quan nhỏ ở cấp cơ sở, quan nhỡ ở cấp trung gian, quan lớn ở cấp Trung ương. Các quan đứng đầu cấp toàn quốc thì dân các nơi phải cơm nắm cơm gói họp nhau chầu chực ở cổng (có lính gác, cảnh vệ hoặc công an) để mong được gặp mà không được. Đã không được gặp mặt các quan để đưa đơn từ khiếu kiện và giãi bày, cầu cứu những oan khuất của mình trong đời sống (bởi vì quan không có thì giờ) mà còn bị coi là có người đứng đằng sau xúi giục và có âm mưu vi phạm an ninh quốc gia. Tôi có may mắn là đã từng được là cán bộ cơm khoai, rau má, ổ rơm và cũng một thời cũng làm quan cấp Trung ương đi xe hơi, ở khách sạn. Tôi thấm thía nỗi niềm và tôi muốn mô tả và lý giải cái sự biến chuyển thần kỳ của Đảng Cộng sản, từ cơm nắm, đến làm quan và nhận xét xem sự biến chuyển đó là hay hay dở, là thắng lợi hay thất bại ?

I. Ở Việt Nam có dân chủ hay không ?

Tôi xin trả lời khẳng định ở Việt Nam đã từng có dân chủ, và có dân chủ một cách tốt đẹp, đáng tự hào. Đó là những năm tháng sau cách mạng tháng 8/1945. Đảng Cộng sản có Hồ Chí Minh đứng đầu đã kêu gọi và lãnh đạo nhân dân tổng khởi nghĩa, đập tan một nhà nước phong kiến tay sai, nô lệ, lập nên một Nhà nước Dân chủ Cộng hoà, đập tan lũ vua quan và quan lại thực dân, lập nên Chính phủ Cộng hoà lâm thời và sau đó lập tức tổ chức cho dân bầu cử (với một chế độ tự do thực sự) có những người ứng cử mà đa số không phải là đảng viên Đảng cộng sản.

Tôi đã trực tiếp tham gia một cuộc vận động bầu cử mà một ứng cử viên nhận là giai cấp công nhân, lên diễn thuyết với một cái mỏ-lết to tướng đút ở túi ngực. Tôi lại được tham gia với một nhóm trí thức (gồm bác sĩ, giáo viên, công chức cũ) mở tiệc ăn mừng một số bạn trúng cử, sau đó rủ nhau đi hát cô đầu để mừng thắng lợi. Không khí thật hồn nhiên và hồ hởi.

Quốc hội lần ấy, có rất ít đảng viên Cộng sản là đại biểu và đều là những người hoạt động dưới sự dìu dắt lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quốc hội ấy về sau lại thêm 70 đại biểu không bầu, thuộc các Đảng phái khác (đối lập). Vậy thì Quốc hội khoá I ấy là Quốc hội đa nguyên, đa Đảng. Nhưng cũng Quốc hội ấy lập nên Chính phủ Cộng hoà Dân chủ, mà đa số cũng không là Đảng viên Cộng sản, cũng Quốc hội ấy thông qua Hiến pháp 1946 là một Hiến pháp dân chủ nhất mà tất cả những Hiến pháp sau này đều không theo kịp.

Thế là từ năm 1945-1946, nước ta đã có một chế độ Dân chủ cộng hoà, với Quốc hội được bầu cử tự do, và đa Đảng và một Chính phủ mà đa số thành viên không phải đảng viên cộng sản. Đặc sắc của chế độ Cộng hoà dân chủ lúc ấy mãi về sau là: Được bầu cử tự do thực sự. Đa đảng, nhiều thành viên là người ở nhiều Đảng khác nhau, có cả những người không ở Đảng nào. Rất ít Đảng viên cộng sản mà rất nhiều người có danh vọng, có trí thức.

Thế là ta đã có một Nhà nước thật sự dân chủ và một xã hội cũng thật sự dân chủ. Mọi người dân đều công nhận chính phủ là của mình, Nhà nước là của mình, dễ dàng đến với Nhà nước và người Nhà nước cũng dễ dàng đến với nhân dân.

- Cán bộ Nhà nước là những cán bộ gần dân, sống trong nhân dân.
- Có tự do ngôn luận, có báo chí tư nhân, có tự do phát biểu chính kiến.
- Có tự do xuất bản, in ấn.
- Có tự do hội họp và lập hội.
- Quân đội là Quân đội của dân,
- Công an cũng là Công an của dân.
Cán bộ, Quân đội, Công an đều là các anh, các chú, các em, các cháu của dân, dân có thể khen ngợi hoặc mắng mỏ như mắng mỏ con em mình. Mọi người tự do đi lại, tự do làm ăn, tự do buôn bán, cuộc sống thật thoải mái, dễ chịu. Tất nhiên có một số hạn chế do chiến tranh như hạn chế qua lại giữa vùng địch và vùng giải phóng. Quan trọng nhất là mỗi người dân đều thấy thoải mái tự do, không sợ mà lại rất gần gũi với cán bộ Nhà nước. Không khí ấy kéo dài trong suốt cả cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kéo dài cả sau năm 1954 ở miền Bắc một thời gian. Thế thì Việt Nam đã thực sự có một Nhà nước dân chủ và một xã hội dân chủ. Điều đó đã thực sự diễn ra ở cả nước đến 1954 và ở miền Bắc đến 1975 (trong những năm 60 và 70 do tình thế chiến tranh ở miền Nam và miền Bắc là hậu phương lớn lại có chiến tranh phá hoại, nên không khí dân chủ nhạt dần).

II. Nước Việt Nam bây giờ (Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21)

Thật khó mà nói rằng nước Việt Nam bây giờ là nước dân chủ. Tuy rằng giới lãnh đạo và giới tuyên truyền vẫn lớn tiếng coi Việt Nam là nước dân chủ, chỉ có khuyết điểm là "hơi" kém dân chủ. Nhưng tôi thì khẳng định rằng: Nước Việt Nam hiện nay ít nhất là nước không dân chủ tuy vẫn mang nhãn hiệu cộng hoà. Sau năm 1975, nhân dân miền Nam bị nô dịch bởi "thực dân mới" nhưng có đôi chút của "Dân chủ tư sản" là tự do làm ăn, tự do báo chí, xuất bản thì cũng bị Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xoá bỏ triệt để, mà chỉ được hồi lại chút ít sau đổi mới. Nhà nước và xã hội Việt Nam hiện nay có những đặc điểm gì?

1. Chỉ có một Đảng là Đảng Cộng sản và Đảng Cộng sản dẹp bỏ hết các Đảng (Đảng xã hội, Đảng dân chủ) đã có dưới thời Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản thực hiện chế độ độc Đảng. Tuy Hiến pháp năm 1992 có ghi: Tự do lập hội nhưng có người gửi giấy lập Đảng khác thì bị đuổi việc và đe doạ quản chế, Công an thường xuyên thăm hỏi nhiều lần, cuộc sống bị hăm dọa nhũng nhiễu, bị theo dõi gắt gao, bị khủng bố tinh thần và tâm lý hết sức căng thẳng. Lại có người cũng mới làm đơn xin lập Hội chống tham nhũng thì tất cả những người có liên quan (độ 20 người) đều bị bắt lên Công an thẩm vấn, hành tội và bị gán cho là lập Hội trái phép! Có nhiều người bị khám nhà và tịch thu phương tiện… Thế mà có ai nói Chế độ ở Việt Nam là chế độ độc Đảng thì lại bị người ta oán giận (*) và bị Công an chú ý. Đã chế độ Độc Đảng thì hiển nhiên là một chế độ độc tài, độc đoán, độc quyền ngược lại với chế độ dân chủ. Không thể nói nước Việt Nam ta có dân chủ được!

2. Đã độc Đảng mà Đảng lại thực hiện một chế độ lãnh đạo tuyệt đối toàn diện và triệt để. Thế là hai lần không dân chủ. Đó là một sự thật hiển nhiên, cho dù bộ máy tư tưởng, tuyên truyền của chế độ có hùng mạnh gấp trăm lần cũng không che lấp được sự thật này và lừa bịp được một ai. Nhiều người gọi chế độ này là chế độ Toàn trị, Đảng trị, độc tài toàn trị, thậm chí có người còn gọi đó là chế độ Công an trị, mật vụ trị, quân phiệt trị. Riêng tôi, tôi cũng cho là thế và nói thế.

Biểu hiện của chế độ này thì có nhiều tôi chỉ lược qua như sau:
  • Đảng bao trùm và xâm nhập vào tất cả các tổ chức Nhà nước và các tổ chức xã hội lớn nhỏ, tạo nên một chế độ Nhà nước quan liêu hoàn toàn tách rời đời sống nhân dân, đời sống xã hội. Muốn làm quan thì phải là đảng viên, có là đảng viên thì mới được làm quan. Từ xã , phường, cho đến Chính phủ, Bộ, Thứ trưởng, Cục, Vụ trưởng. Thậm chí cho đến trưởng, phó phòng, ban Đảng cũng còn phấn đấu để tất cả là đảng viên.Các tổ xã hội thì, tổ chức nào có Chủ tịch và ban chấp hành là Đảng viên mới được công nhận và hoạt động. Hội chống tham nhũng không do Đảng đề xướng và bố trí Đảng viên, thì bị coi là âm mưu, bị cấm đoán và Công an làm khó dễ, bắt bớ. Hội cựu chiến binh là Hội gồm những người gần Đảng nhất, gồm những nòng cốt của Đảng mà khi ra đời cũng khó khăn chật vật. Đó là vì Đảng chưa bố trí được người tin cậy để trủ trì. Những người đề xướng đều là đảng viên nhưng có đôi chút ý kiến độc lập, vì vậy Đảng làm khó dễ kể cả khi các hội viên biểu thị rõ rệt không tín nhiệm người phụ trách. Đảng bố trí bằng được người ngoan ngoãn, dễ bảo, phục tùng tuyệt đối mình thì lúc đó Hội mới được công nhận và hoạt động. Đối với cán bộ được bầu, thì trong mỗi cuộc bầu, các cơ quan tổ chức và đồng chí cấp uỷ phụ trách tổ chức quyết định danh sách người trúng cử và bên cạnh đó cho thêm một vài người không trúng để cho ra vẻ là một cuộc bầu cử có dân chủ. Tôi nhiều lần ứng cử Trung ương và Quốc hội, tôi đều biết trước rất rõ tôi sẽ trúng cử hay không? Danh sách đại biểu Quốc hội đã được quyết định trước khi bầu hàng tháng vì đồng chí cấp Uỷ viên và Ban tổ chức đã thông qua rồi. Dân đã có câu rất chính xác là: "Đảng cử dân bầu" dân chỉ đi bầu theo danh sách đã định. Các phương tiện thông tin, báo chí tha hồ ca ngợi tít mây xanh không khí "ngày hội" mà không hề có thật. Và Đảng vẫn bắt mọi người phải công nhận thế là có tự do bầu cử, ứng cử !

  • Đảng hoàn toàn và trắng trợn chuyên chính về tư tưởng văn hoá, bất chấp cả Hiến pháp, Đảng chỉ đạo Quốc hội ra luật báo chí, xuất bản khác hẳn tinh thần Hiến pháp, thu xếp bằng được uỷ viên Bộ chính trị, phụ trách công tác tư tưởng văn hoá, bố trí, nắm chặt và khống chế các giám đốc Nhà xuất bản, các tổng biên tập báo chí, buộc những người này phải ngoan ngoãn tuân theo hệ thống tư tưởng văn hoá và Công an văn hoá. Về điều này tôi là nạn nhân trực tiếp. Tôi có các hồi ký, bút ký trong đó tôi có nêu lên được đôi phần (chỉ đôi phần thôi) sự thật. Bản thảo đã được đưa cho một nhà xuất bản. Nhà xuất bản ấy đã biên tập nhưng không dám in vì Nhà xuất bản phải thăm dò ý kiến của Công an và tư tưởng. Có Nhà xuất bản khác có những biên tập viên rất thích, nhưng giám đốc mới bị khiển trách và nhắc nhở, nên cũng đành ngậm đấy "còn chờ thời cơ". Không khí ngôn luận ngạt thở. Giới trí thức và văn nghệ sĩ (trừ một số tư duy quá cũ) đều ngán ngẩm và giấu biến ý kiến độc lập của mình. Bất cứ ai có chút ý kiến độc lập đều phải dấm dúi lén lút. Nhưng sự dấm dúi lén lút này đang ngày càng lan rộng và de doạ sự bùng nổ mãnh liệt.

  • Cách lãnh đạo theo nguyên lý Đảng là bao trùm và cao hơn hết. Quốc hội phải họp sau Trung ương, Chính phủ chỉ làm việc hợp pháp hóa các chủ trương của Đảng. Đảng lãnh đạo và cai trị bằng Nghị quyết. Cho nên dư luận nước ngoài họ nói rằng Quốc hội và Chính phủ Việt Nam chỉ là "con dấu" dùng để đóng vào các Nghị quyết và văn kiện của Đảng đã soạn thảo sẵn, kể cũng không ngoa. Mỗi Nghị quyết của Đảng thì cả Quốc hội và Chính phủ phải học tập, rồi toàn dân cũng phải học tập, các trường học, thầy giáo đều phải học tập. Thời gian học Nghị quyết của Đảng có lẽ chiếm mật độ 1/4 thời gian lao động của người dân và 1/4 thời gian làm việc của các cơ quan.Nhân dân đóng góp vào ngân sách Nhà nước nhưng Đảng lại sử dụng và chỉ đạo ngân sách. Ngân sách Nhà nước phải đài thọ hoạt động của Đảng. Hiện Đảng cảm thấy ngượng về việc này và tìm cách giảm nhẹ Đảng dùng ngân sách Nhà nước để trợ cấp các tổ chức xã hội "của Đảng" như: Thanh niên, Phụ nữ , Mặt trận…v…v… Riêng các Hội Văn học nghệ thuật cũng được trợ cấp hàng vài tỷ mỗi năm.Các chủ trương chính sách về kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội đều do các chuyên gia ở các ngành thuộc cơ quan tư vấn nghiên cứu và chuẩn bị. Nhưng những nội dung chuẩn bị đó chưa có dấu ấn của chỉ thị và Nghị quyết của Đảng đều chưa có giá trị. Như vậy cơ quan cao nhất của Đảng đều phải có ý kiến chỉ đạo về chuyên môn cho các học giả và đều phải phê và duyệt các sản phẩm nghiên cứu của các chuyên gia.Ai cũng biết là Ban chấp hành Trung ương không thể là nơi hội tụ các chuyên gia. Bộ chính trị lại càng không thể. Vậy là người không chuyên và không giỏi lại chỉ đạo và phê duyệt ý kiến của những người chuyên và giỏi. Như vậy có hai khả năng hoặc là chỉ phê bừa chẳng biết hay dở, hai là phê cả những cái sai và có hại. Nghị quyết Đại hội bao gồm nhiều chính sách chi tiết về kinh tế và sản xuất, kể cả việc trồng cây gì, nuôi con gì. Và đã là Nghị quyết thì cứ bắt dân phải theo trong khi đó nếu họ được tự do thì họ có muôn nghìn cách để làm ăn phù hợp với môi trường sống và điều kiện sống của người ta, nhưng Đảng cứ nắm quyền "cho phép".

    Chế độ độc đoán Toàn trị có rất nhiều cái dở. Việc này cả thế giới đều biết đã nói và lên án. Bản thân Đảng cũng không dám nhận là mình thực hành sự toàn trị, nhưng sửa thì không chịu sửa. Do thực hiện toàn trị mà sức mình thì đuối cho nên Đảng cứ phải tập trung nỗ lực vào sự củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Không cho một cá nhân hay một nhóm nào len vào được. Và sự nỗ lực này thì nhằm đối tượng vào đâu?

    Ngày xưa Đảng lãnh đạo cùng nhân dân tập trung vào kẻ địch ngoại xâm và tay sai. Ngày nay Đảng lại phải tập trung vào đối tượng là nhân dân và nhất là những người trung thực muốn nói lên sự thật, những người có đầu óc tiến bộ muốn đóng góp ý kiến của mình với người lãnh đạo quốc gia để đất nước có sự chuyển biến tích cực thực sự. Đảng càng ngày càng phải trốn tránh sự thực và bóp méo sự thật. Muốn hay không muốn, để củng cố, tăng cường mình Đảng phải lừa bịp nhân dân, dối trá nhân dân, hăm doạ nhân dân. Vì nhân dân là người nắm sự thật và biết rất rõ sự thật.

    III. Vì sao, vì đâu ?

    Như vậy, ở phần trên đây bằng cả cuộc sống đã diễn ra, tư duy và sự hiểu biết của tôi đã được trình bày 2 bức tranh: Đảng Cộng sản và xã hội Việt Nam trước đây từ 1930 đến 1975. Đảng Cộng sản và xã hội Việt Nam hiện nay (cuối thế kỷ 20 - đầu thế kỷ 21). Rõ ràng nó đã có sự biến đổi từ A trở thành Z. Nó đã biến đổi thành 2 bức tranh trái ngược hẳn nhau như trắng với đen, như ngày và đêm. Nói một cách thật tóm tắt thì Đảng Cộng sản Việt Nam đã từ một Đảng chiến đấu, sống trong dân và vì dân đã trở thành một Đảng cầm quyền cai trị dân, xa dân, đối lập với dân, thậm chí đè nén, áp bức dân và bóc lột, hà hiếp dân.

    Vì Đảng Cộng sản ra sức củng cố và tăng cường vai trò của mình trong chế độ độc Đảng toàn trị, cho nên đối tượng đấu tranh của Đảng là nhân dân và những người trung thực. Những di sản dân chủ của những năm 40, 50, 60, 70 có còn chút nào không ?. Nó vẫn còn nhiều giá trị. Nhưng đã có nhiều sự biến đổi, biến dạng và cả biến chất nữa.

    Cái biến đổi lớn nhất là từ tên nước Cộng hoà dân chủ (Việt Nam dân chủ Cộng hoà) với một Nhà nước đoàn kết toàn dân (nhiều Đảng, nhiều nhân sĩ trí thức ngoài Đảng) và một thể chế thực chất dân chủ có: Quốc hội do bầu cử, ứng cử tự do, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do xuất bản và in ấn … các quyền công dân này được đảm bảo. Quan hệ giữa Nhà nước với dân, giữa công dân với nhau là quan hệ anh em đồng chí. Nay đổi sang là Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa với một chế độ Độc Đảng toàn trị. Các Đảng ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam đều bị tiêu diệt, các quyền tự do dân chủ cơ bản của công dân (trong đó cả quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng) bị triệt tiêu, thủ tiêu trên thực tế, chỉ còn lại những mỹ từ, chữ nghĩa hoa mỹ ghi trong Hiến pháp. Quan hệ Đảng với Nhà nước là quan hệ Cha-con, quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và nhân dân là quan hệ giữa quan lớn và dân đen. Một xã hội nghẹt thở mỗi người đều có nhiều nỗi sợ: sợ nhau, sợ Công an, sợ quan, sợ âm mưu, sợ lừa bịp, sợ dối trá. Thậm chí trong từng gia đình, từng dòng họ… có sự chia rẽ phân biệt người theo Cộng sản và người không theo Cộng sản rất gay gắt.

    Vậy từ đâu, từ ai mà có hai sự trái ngược ghê ghớm ấy.

    Các giá trị còn lại có được là chế độ cộng hoà nhưng chất lượng đã thay đổi. Những quan hệ tốt đẹp trước đây còn được giữ ít nhiều trong nhân dân như những truyền thống. Còn thì không ai từ khoảng 40, 50, hoặc 60, 70 tuổi trở lên không trăn trở và đau đớn, tiếc thương những ngày tươi đẹp ngày xưa. Câu than thở và mong ước "Bao giờ cho đến ngày xưa" nó hàm chứa một sự thật cay đắng, uất nghẹn.

    Vậy vì đâu và vì sao ???

    Sự biến đổi nó diễn ra từ từ qua năm tháng nó biến đổi chút một chút một, khó nhận thấy. Cho đến năm 1975 thì nó có một bước ngoặt nước ta thu được một thắng lợi vĩ đại có tầm cỡ thế giới, Đảng Cộng sản được tôn vinh rực rỡ và cũng xứng đáng. Thế rồi, những người lãnh đạo Cộng sản với tính kiêu ngạo sẵn có bốc đồng lên vội vàng đổi tên nước, tên Đảng, đặt ra những mục tiêu xây dựng Xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Rồi những khẩu hiệu oang oang mà rỗng tuếch được hô hoán rầm rộ: "Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội" ! Với những tham vọng đầy hoang tưởng, đẩy đất nước vào vòng khốn khổ, khốn nạn. Cho đến tận năm 1986 hơi tỉnh được một chút nên đã cứu nguy cho đất nước khỏi sa vào vực thẳm. Nhưng sau đó, với tư duy bảo thủ giáo điều, tìm mọi cách kìm hãm đổi mới, không chịu đổi mới chính trị, không chịu dân chủ hoá đất nước, đẩy đất nước tiến sâu vào con đường "độc Đảng, toàn trị" không dân chủ và phản dân chủ, phản Cách mạng, phản tiến hoá, phản bội nhân dân.

    ***

    Cho nên nguyên nhân cơ bản và sâu xa của sự biến dạng (hay biến chất) này là sự tư duy thấp kém, bảo thủ giáo điều trì trệ, cần phải thấy rõ sự xuống cấp về trình độ của các thế hệ lãnh đạo, thế hệ đầu với Hồ Chí Minh và các học trò gần gũi của Người đều là những trí thức, nhiều danh vọng trong xã hội, có lịch sử đấu tranh Cách mạng gian khổ và quyết liệt. Thế hệ tiếp sau thì kém đi một bậc nhưng còn ở mức trung bình. Thế hệ sau nữa thì ở dưới mức trung bình, thực ra sự thật này dân đều biết hết và đánh giá như vậy. Các bậc lão thành đã qua các triều đại cũng thấy rõ như vậy. Một số yếu tố quan trọng tác động vào sự biến dạng, biến chất mang tính mất dân chủ là các tính tình bình thường của những người lãnh đạo là thích khen, thích nịnh, thích thành tích, sợ sự thật, sợ "trung ngôn, nghịch nhĩ"… và không đổi mới tư duy, đầu óc đầy tư duy bảo thủ giáo điều, cổ hủ. Nếu so với các chế độ vua quan phong kiến mạt vận ngày trước thì những bậc quan lại "đỏ" ngày nay của cái "triều đình phong kiến" Việt Nam mang nhãn hiệu Cộng hoà xã hội chủ nghĩa cũng chẳng khác là bao! Cái thứ tư duy vừa thấp kém, lại bảo thủ giáo điều không có khả năng nhận thức được các điểm về tình hình như sau:

    a. Sau 1975 nước ta đã bước hẳn sang một kỷ nguyên mớI. Từ chiến tranh sang hoà bình, từ chiến đấu sang xây dựng, từ chia cắt sang thống nhất. Giới lãnh đạo không làm một cuộc tổng kiểm điểm và nhận thức sâu sắc, rõ ràng những cái mới, nhận rõ những cái cũ không hợp thời để mà rũ bỏ đi, để học tập cái mới. Đại hội VI đã chỉ ra bệnh nặng là chủ quan duy ý chí và bệnh quan liêu bảo thủ, giáo điều, nhưng sự chữa bệnh không triệt để nên các bệnh đó còn kéo dài cho đến tận bây giờ.

    b. Không chịu có một nghiên cứu kỹ và sâu thực trạng xã hội Việt Nam để thấy rõ tất cả sự lạc hậu kém cỏi, để nhận biết điểm xuất phát của mình, cũng như không nhận biết được những thuận lợi và những khả năng để phác họa được đường lối phát triển đất nước cho thích hợp. Đại hội VI làm việc ấy, nhưng còn "bộ phận" và nửa chừng, để ứng phó kịp thời, như thế đã là tốt lắm. Cái nguy hiểm là các giới lãnh đạo kế tiếp nhau từ thời điểm sau 1975 đã "bị bỏ tù" trong cái khuôn khổ tù ngục: "Thắng lợi rồi thì tiến lên xã hội chủ nghĩa" một cách thô sơ và giáo điều cứng nhắc.

    c. Không chịu nhận thức sâu sắc sự biến chuyển thế giới mớI. Đặc biệt là sau sự biến thế giới XHCN sụp đổ tan hoang. Thế giới không còn 2 phe, các dân tộc phải sống chung, nhất là không nhận thức được sâu sắc yêu cầu xoá bỏ hận thù hướng tới tương lai mà vẫn còn thấy nhiều kẻ thù như cũ, chỗ nào cũng thấy âm mưu đế quốc và âm mưu Mỹ Nguỵ, không thực tâm đại đoàn kết, nhấn mạnh cái gọi là "âm mưu diễn biến hoà bình" của một kẻ địch nào đó mà khống thấy rằng đang có một sự diễn biến ngay trong Đảng và trong nhân dân. Vì vậy không có đủ căn cứ khoa học để phác họa và hoạch định các chiến lược phát triển đất nước, vẫn cứ vùi đầu vào các kế hoạch 5 năm và 10 năm đầy tham vọng và hão huyền.

    Trong khi đó vẫn còn có những người lãnh đạo có những bản tính thông thường của con người. Điều đó biểu hiện ở chỗ: - Mang nặng tư duy giáo điều, bảo thủ không tự giác thấy bản tính nặng nề này. Đại hội VI đã chỉ ra rất trúng rằng. Đổi mới thì trước hết đổi mới tư duy. Nhưng từ đó đến nay, tư duy vẫn như cũ, không hề có thay đổi đáng kể nào? Có chăng sự thay đổi chỉ là những khẩu hiệu suông hô toáng lên, ngày một to hơn, gào thét hơn mà thôi. - Mang nặng tư duy say sưa thắng lợi, nặng thói kiêu ngạo Cộng sản, thích ca tụng, thích tung hô, không muốn nghe nói thẳng, còn mang nặng thói "được thỏ, bẻ nỏ" "săn xong, giết chó" loại bỏ và trừ khử các công thần. Bất cứ cái chết nào của những công thần, danh tướng đều dấy lên những nghi ngờ trong nhân dân, trong xã hội. Nhân dân mất dần lòng tin vào giới lãnh đạo. Tuy Đảng và Nhà nước có làm được một số chính sách tốt về đền ơn đáp nghĩa đối với các bà mẹ, các lão thành và các thương binh cựu binh. Nhưng những việc ấy không đủ để xoá bỏ những nghi ngại và không bằng lòng trong nhân dân và nhất là trong lão thành và tri thức.

    d. Một điều nữa là tình hình thế giới biến chuyển lớn quá, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc và rộng lớn. Sự việc thế giới XHCN biến mất, bức tường Béc-Lin bị san bằng, nước Đức hoà bình thống nhất, mang lại cho thế giới bộ mặt hoàn toàn mới mẻ. Gần đây cuộc khủng bố kinh thiên động địa ngày 11/9 ở Mỹ đang đưa thế giới vào một cục diện mới, có sự phân chia và tập hợp mới và đang diễn biến không lường trước được. Bộ phận lãnh đạo với tư duy xưa cũ và thấp kém lại không biết, không chịu thu thập nghe theo các ý kiến của các bác học, học giả trong ngoài nước, tổ chức thảo luận rộng rãi để tìm ý kiến hay. Nói tóm lại là yếu tố quyết định của sự biến đổi biến dạng (hay biết chất) này là chủ yếu là do tư duy của lãnh đạo, cộng vào đó là tình trạng không dân chủ nặng nề và kéo dài. Vì vậy giới lãnh đạo phải chịu trách nhiệm nặng nề và chủ yếu trước dân tộc, đất nước và lịch sử. Sự lý giải này của tôi có thể chưa thoả đáng, nhưng sự biến đổi trắng- đen và đêm - ngày thì là một sự thực và cần lý giải, tôi không ngại ngần đưa ra trước sự lý giải này.

    IV. Đi tìm đường ra

    Như thế là nói bao quát thì ta có 2 bức tranh trái ngược.

    A. Từ những năm 1940, 1950…1975 ta có một Đảng Cộng sản chiến đấu ở trong dân, thực sự của dân và chịu gian khổ hy sinh vì dân. Do đó, có một xã hội với chế độ cộng hoà dân chủ, một nhà nước đoàn kết rộng rãi.

    B. Còn hiện nay, ta đang có nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa, với một nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo, nắm chặt trong tay, sai khiến nhà nước với một chế độ Độc Đảng và toàn trị. Một xã hội không có dân chủ, phát triển chậm, đang tụt hậu so với các nước trong vùng và so với thế giới. Đảng cộng sản không che dấu điều này mà công khai phê phán tình trạng mất dân chủ và tham nhũng, công khai kêu gọi củng cố lãnh đạo độc quyền của mình và gạt bỏ mọi ý kiến khác, cho những ý kiến đó là chống đối cần phải trừng phạt. Nên Đảng và Nhà nước đã huy động một bộ máy tuyên truyền vĩ đại làm việc này, huy động và sử dụng toàn bộ bộ máy nhân danh bảo vệ luật pháp (Toà án, Viện kiểm sát, Công an) vào việc đàn áp này. Ta có một xã hội đang phát triển chậm và không có dân chủ. Đa số người dân sống trong lo sợ, lo sợ bộ máy nhà nước, lo sợ lẫn nhau, lo sợ thông tin đại chúng. Phát triển chậm và mất dân chủ là 2 đặc điểm của xã hội hiện nay, mà các nhà lãnh đạo nhiều khi đã chính thức và công khai phát biểu. Vậy mà ý kiến chính thức của nhà nước (bao gồm cả Đảng) cho rằng cần khắc phục tình trạng xã hội bằng cách tăng cường và củng cố thể chế hiện tại. Đó là điều vô lý và nhất định là không được. Như thế chỉ có đi vào ngõ cụt và làm cho tình hình ngày càng phức tạp mà hậu quả không lường được. Vậy phải tìm đường khác.

    Con đường đó phải có 2 yếu tố:

    1. Phải phát triển nhanh.
    2. Phải dân chủ hoá xã hội.

    Có dân chủ, thì về kinh tế, dân được tự do làm ăn, tự do đua tranh và cạnh tranh kinh tế , mới có điều kiện phát triển nhanh. Về chính trị, xã hội phải thực hiện dân chủ mới chống được tham nhũng vì toàn dân tích cực tham gia. Có tự do ngôn luận (tự do báo chí, xuất bản, tự do phát biểu ý kiến, tự do tư tưởng ...) mới thu hút mọi người dân nhất là trí thức, lão thành, cựu chiến binh cao cấp nô nức phát biểu ý kiến. Những ý kiến đó cần được tôn trọng, thu thập và sử dụng những ý kiến đó mới vạch trần và phê phán mọi thiếu sót, bất hợp lý trong chủ trương chính sách, vạch trần mọi khiếm khuyết trong việc quản lý xã hội của nhà nước. Có thực sự bầu cử ứng cử tự do, dân mới tích cực tìm được người xứng đáng đại biểu của mình vào các cương vị trong bộ máy nhà nước. Như thế nhà nước mới vững mạnh xã hội mới lành mạnh. Đừng cho rằng nhà nước càng nhiều Đảng viên thì nhà nước càng mạnh, rồi cứ xếp bừa các đảng viên vào cơ quan nhà nước và ra sức phát triển Đảng trong cơ quan nhà nước. Mọi người đều thấy rõ nhiều Đảng viên rất kém về tri thức và kiến thức, rất dốt về quản lý và tồi tệ về tư cách cho nên càng nhiều đảng viên thì càng nhiều thành phần kém và dốt. Ngày xưa tranh quyền lãnh đạo cho Đảng là Đảng giành lấy sự hy sinh gian khổ. Ngày nay tranh sự lãnh đạo mà lại độc Đảng, thì chỉ có là tham quyền cố vị và phản dân chủ.

    ***

    Qua trình bày trên, rõ ràng con đường đi ra phải là con đường có tính cơ bản toàn cục và toàn diện, chứ không phải là sự khắc phục các mặt cụ thể vụn vặt ở chỗ này chỗ khác. Con đường đi ra là con đường đau đớn nó đụng đến những nơi hiểm yếu nhất của cơ thể. Nó phải chữa từ gốc của vấn đề. Đó là vấn đề thể chế chính trị. Nó đau đớn lắm. Nhưng như cổ nhân nói "Thuốc đắng mới dã tật". Việc này chỉ có tự Đảng cộng sản làm, nghĩa là Đảng phải tự đổi mới mà Đảng đứng ra làm, thì Đảng vẻ vang hơn, công lao Đảng to lớn hơn; Đảng hiện nay sẽ xứng đáng với Đảng tiền bối, xứng đáng với Bác Hồ (Bác Hồ đã từng tuyên bố giải tán Đảng và đổi tên Đảng).

    Đó là Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc Đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện (đúng Hiến Pháp) tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập Đảng, luật tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử, ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng, từ bỏ "hiệp thương" do Mặt trận Tổ quốc các cấp dàn xếp mà thực chất là sự gò ép, chỉ đạo hoàn toàn của Đảng đứng đằng sau ...

    Làm bằng ấy việc là Đảng tự cải cách và đổi mới và là sự đổi mới thực sự chứ không phải Đảng kêu gọi mọi người đổi mới, còn mình Đảng thì cứ y nguyên. Còn các việc làm tiếp sau sẽ là hệ quả tốt đẹp. Các nhà "lưỡi gỗ" đừng vội kêu lên như thế là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, đấy là định thay thế vai trò của Đảng cộng sản, thực tế là nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đấy. Vì nâng cao vai trò là ở chỗ có những chủ trương đúng và hay, chứ không phải là nhiều cờ quạt, khẩu hiệu loè loẹt, nhiều tung hô, nhiều muôn năm vạn tuế. Đảng mà chủ trương đổi mới như trên thì Đảng tỏ ra thực sự tài tình và không còn sợ ai làm giảm sút uy tín nữa cả (**). Trên thực tế lịch sử thì trước đây và bây giờ, chưa ai có thể thay thế được Đảng Cộng sản. Chỉ trừ khi Đảng tự mình hạ thấp bằng mình những cái dốt và cái kém làm xã hội ngày càng nhiễu nhương, dân mất tin tưởng ngày càng lớn thì chính Đảng là người tự hạ bệ và dân cũng sẽ giúp hạ bệ Đảng nhanh hơn, gọn hơn.

    ***

    Nói khác đi là để có con đường thoát khỏi tình hình rối ren phức tạp của đất nước hiện nay thì chỉ có con đường thực sự dân chủ hoá, tức là thực sự thực hiện dân chủ đúng như Hồ Chí Minh đã chọn lựa, thì mới làm cho toàn dân phấn khởi yên vui, phấn khởi huy động được trí tuệ toàn dân để khắc phục mọi trở ngại mà đưa đất nước phát triển nhanh, ứng phó sáng suốt mọi quan hệ đối ngoại phức tạp và tế nhị hiện nay. Không nên chỉ bằng lòng với việc thêm chữ dân chủ vào khẩu hiệu chiến lược mà mọi việc vẫn y nguyên. Cần phải đả phá, đấu tranh thật mạnh với một ý kiến sai lầm là cứ "dân chủ mở rộng thì dân sẽ làm loạn". Đó mới chính là luận điệu phản động, cực kỳ phản động. Trên thực tế, sự kiện Thái Bình và sự kiện Tây Nguyên có phải là do dân chủ quá rộng không hay là do chính sự thiếu dân chủ và những sai lầm trong chính sách, sự không thu thập ý kiến của các trí thức văn nghệ sĩ…??? ý kiến muốn Đảng thực sự đổi mới tức là phải cải cách Đảng như ý kiến trình bày. Đây mới thực sự là ý kiến để tăng cường (nâng cao) và củng cố sự lãnh đạo của Đảng. Đảng không nên mang mãi bộ mặt phản dân chủ mà Đảng cần nêu gương sáng về thực hiện dân chủ.

    ***

    Con đường ra đã rõ ràng. Cần dân chủ hoá đất nước mà trong công cuộc này vai trò Đảng cộng sản là quyết định. Hãy nên:
    1. Từ bỏ thể chế độc Đảng, toàn trị chấp nhận thể chế đa nguyên: Quá trình dân chủ của thời đại dân chủ, trước sau cũng phải đi tới đa nguyên. Chế độ độc Đảng hiện nay đã quá lạc hậu.

    2. Thực hiện thật sự mấy quyền dân chủ cơ bản: Tự do bầu cử, ứng cử. Tự do báo chí, xuất bản và ấn loát. Tự do lập hội, lập Đảng và tự do hội họp.

    3. Thực hiện thật sự quên quá khứ: Xoá bỏ hận thù, đoàn kết rộng rãi nhân dân Việt Nam trong nước ngoài nước, xoá bỏ triệt để thành kiến phân biệt địch ta: Nguỵ và Chính, người trong nước và tay sai đế quốc nước ngoài. Thực hiện hoà hợp và hoà giải dân tộc, đoàn kết mọi người Việt Nam yêu tổ quốc và thiết tha với sự nghiệp tái thiết đất nước tới hùng cường và dân chủ tiến bộ. Trong khi chỉ cần giữ sự cảnh giác đúng mức.

    4. Thực hiện chính xác và thực thà: Những phương châm đối ngoại đã có "Việt Nam muốn làm bạn với mọi người", "Độc lập đa phương, đa dạng ...". Tôi nhấn mạnh chính xácthực thà là muốn trừ bỏ cái tư duy địch - ta trong đầu óc nhiều người. Tôi muốn nhấn mạnh rằng phải đổi mới tư duy, ta chỉ nên cảnh giác với những kẻ địch thật, còn đừng có tưởng tượng lắm thứ kẻ địch, thậm chí muốn tìm cả địch còn trong trứng để bóp chết, như thế đất nước khó yên bình. Kẻ địch có thật của ta bây giờ có không? Có! Đó là tình trạng mất dân chủ và sự tham nhũng; hãy dùng các thủ đoạn cảnh giác đối với 2 kẻ thù tham nhũngphản dân chủ.

    ***

    Bàn đến đây, tôi thấy là thật sự đã đụng đến các vấn đề đường lối, và những điều tôi đề cập đến nó là vấn đề đường lối. Ta không đi thẳng vào nó mà giải quyết thì cứ loanh quanh ở bên ngoài mà không khi nào có hiệu lực. Đụng đến vấn đề đường lối thì đau nhưng cũng như chữa bệnh phải chịu đau (thuốc đắng, mổ và cắt) mới khỏi được bệnh. Tôi cứ mạnh dạn đưa ra, mong được nghe nhiều ý kiến chung quanh vấn đề này. Chủ đề "Ngày xưa ... ngày nay" là một chủ đề tôi và các bạn kháng chiến của tôi trăn trở, tự hỏi cả chục năm nay. Đến nay tôi mới diễn giải được nó ra đây. Tôi không cần thanh minh, động cơ tôi viết bài này. Tôi định viết một tiểu luận nhưng nhiều xúc cảm nó cứ đưa đẩy ngòi bút thành bài viết không thể có hình thức chính luận, tôi bèn bịa ra cho nó một cái tên hỗn hợp là "Bút ký-tiểu luận" mong bạn đọc thông cảm. Té ra thực sự Đảng ta có vấn đề đường lối thật. Các Đại hội của Đảng lần VIII và IX chỉ mới đụng đến sơ sơ. Tôi mong những ý kiến của tôi có góp phần gợi ý cho sự chuẩn bị Đại hội X. Đại hội X, có người còn nghi ngờ có được hay không? Tôi thì tôi tin nó sẽ có. Xin chờ đợi các ý kiến trao đổi.

    Viết xong ngày 20 tháng 11 năm 2001 tại Hà Nội
    Trần Độ
    Số 97 Trần Hưng Đạo – TP Hà Nội.


    (*) Hai câu viết của Hồ Chí Minh (theo trí nhơ): có ai nói là Đảng ta kém dân chủ, thì chúng ta giận. Nhưng thực tế có thế thật.
    (**) Lỗi người đánh máy: bản trước là: "Đảng mà chủ trương đổi mới làm giảm sút uy tín nữa cả." !. Thành thật cáo lỗi cùng tác giả và bạn đọc.

  •  



    Gửi ý kiến của bạn
    Tắt
    Telex
    VNI
    Tên của bạn
    Email của bạn
    )