Mấy lời thưa của người viết bài này
Tôi biết tác giả NCT khá muộn màng qua trung gian một người bạn thân của ông: bác sĩ Tăng Quốc Kiệt. Nhờ anh Kiệt đưa sách, liên lạc cho địa chỉ điện thư và nhất là cho số điện thoại mà anh đã giúp tôi móc nối với ông bác sĩ NCT trước. Nếu không có số điện thoại để tôi hỏi những thắc mắc- với rất nhiều chi tiết-, tôi không thể viết bài này được. Chưa kể một số chi tiết ‘’giai thoại” mà tôi được nghe kể từ anh Tăng Quốc Kiệt rất là lý thú. Thôi thì cứ coi như một món nợ mà tôi chưa trả.
Tỉ dụ nữa: Bác sĩ NCT đã kể cho tôi qua điện thoại từ Nữu Ước- nơi ông định cư- ông đã từng sang Montréal qua chủ tịch cộng đồng, bs Đào Bá Ngọc, để giúp giới thiệu sách mà nào tôi có hay!! Bởi vì tôi ít có dịp liên hệ với cộng đồng. Vì thế, nhiều cư dân Montréal đã đọc sách của NCT trước tôi vài năm. Thôi cứ coi như tôi biết muộn còn hơn không.
Lời thưa thứ hai, mặc dù đã nắm được nhiều thông tin, nhiều chi tiết về hành xử của ông NCT, nhưng khi có ý định đặt tựa đề cho bài viết về Nguyễn Công Trứ- một thày thuốc thời VNCH, tôi thật lúng túng vì không biết phải chọn tựa đề nào cho thích hợp với trường hợp của ông.
Tôi còn được biết ngay chính người vợ của ông cũng không tán thành và bực bội vì ‘’những giấc mơ ngông cuồng” của ông. Hai vợ chồng quả thực có xung khắc vì khác nhau về quan niệm sống: người vợ chỉ muốn có một giấc mơ bình thường như những người bạn đồng nghề. Chồng mở phòng mạch, vợ bán thuốc tây đủ sống. Vợ ông gốc người Hoa, có bằng dược sĩ năm 1975.. Sau này sang Mỹ, bà có cơ hội học trường Dược ở Alabama. Bà biết làm ăn, biết tính toán, thực tế và không có nhiều cao vọng. Thời giờ còn lại bà dành lo cho ba đứa con ăn học nên người.
Vì thế, có nhiều lúc, bà gọi số ông ấy là số <con rệp>. Những điều như thế do chính ông viết lại!! Không phải tôi dám bịa đặt cho ông.
Xin thưa rằng, ông NCT là loại người thành thật đến ngây thơ nên sẵn sàng ghi lại ngay cả những chuyện riêng tư mà người khác thường không tiện nói ra. Phần ông nói toạch ra hết. Phần tôi chỉ là người viết lại thôi.
Bạn bè ông, thân sơ cũng có, thường không đồng ý về cách sống của ông. Ngay đồng nghiệp trong Quân Y Viện cũng không hiểu về ông nên ông viết :
’’ Họ đã chế nhạo tôi là một người khùng và không thực tế, có hoàn cảnh và có phương tiện, nhưng không biết hưởng thụ.”
(Memoirs Of A P.O.W. Of The Viet Nam War- 1975-1979, trang 241)
Cho nên, theo tôi, tùy theo nhận định của mỗi người ở một góc độ có thể có lối nhìn khác nhau về ông. Chả trách ai được!
Có thể có người nhìn NCT là một thứ người gàn-một ông đồ bất phùng thời, không thực tế, một thứ người ở trên mây. Kể ra thì cũng không mấy sai.
Người khác có thể coi ông như một thầy thuốc đầy lòng từ tâm, vị tha mà không dễ mấy ai làm được-một người duy nhất trong số thầy thuốc khác. Càng không sai.
Phần tôi gọi ông một cách triết lý là: Il est Unique dans son genre. Ông là độc nhất trong chủng loại của ông. Khi tôi gợi ý này qua điện thoại, ông nhún nhường không muốn nhận. Ông là như thế đấy. Ông khác người.
Thật vậy, ngoài công việc bề bộn tại Quân Y Viện làm không hết-mà một thầy thuốc có lòng thì lúc nào cũng bận-, bận là một hành vi có tính đạo đức về những việc ngoài trách nhiệm của mình. Một bác sĩ quân y, ngoài giờ làm việc ở Quân Y Viện, ai cấm ông làm thêm thu nhập thêm vào đòng lương ít ỏi? Nhiều người đã làm như thế!!
Vì thế, ông lại tình nguyện lên giúp các Mẹ người Pháp khám bệnh cho các bệnh nhân cùi và chăm sóc sức khỏe cho các trẻ mồ côi cũng ở gần đó-Rạch Gầm- vào các ngày thứ bảy, ông ngủ lại đêm và chiều chủ nhật được các Mẹ trở xe về lại Quy Nhơn. Ông bận như thế đấy!! Thay vì ngồi xoa mạt chược, làm thêm, hoặc đánh Tennis. Ông bận làm từ thiện.
Về cuộc đời ông, tôi đã thử đặt câu hỏi thẳng với một bác sĩ bạn ông.
Liệu ở trong vị thế tại Quân Y Viện Quy Nhơn trong những ngày cuối cùng 29/03/1975, anh có hành xử và quyết định như b.s NCT không? Anh bác sĩ trả lời không do dự: Phần tôi thật không dám.Tôi có bổn phận lo cho tôi và gia đình trước.
Câu trả lời rất thẳng thắn và trung thực. Không chê trách người bỏ ra đi trong những tình thế mất còn. Nhưng cũng cần tôn trọng kẻ ở lại như một thứ Kẻ Sĩ trong thời tao loạn!!
Chẳng biết viết như thế đã đủ về một dung mạo của NCT chưa? Chắc là chưa. Vì người như ông sẽ còn nhiều thử thách mà ông phải đối đầu. Vì thế, tôi trân trọng giới thiệu như sau đây.
- Giới thiệu tập Hồi ký của Nguyễn Công Trứ
Cuốn sách được chia thành hai phần rõ rệt:
Phần một bằng tiếng Anh
Tờ bìa với nhan đề chính: MEMOIRS OF A P.O.W. OF THE VIETNAM WAR. 1975-1979. NGUYEN CONG TRU.( Nam Việt. 2018. Hồi ký của một tù nhân chiến tranh Việt Nam). Qua điện thoại, tôi có hỏi ông Nguyễn Công Trứ lý do nào có phần bằng tiếng Anh này với khá nhiều hình ảnh thu thập được về trại Phong Cùi, Quy Hòa, về những người bạn tù trong trại tù K.18, về những bạn bè và những sinh hoạt khi ở trại Galang.. Nội cái công thu tập hình ảnh này cũng đủ làm cho cuốn sách tăng thêm giá trị tài liệu.
Ông cho biết sở dĩ có phần tiếng Anh chủ yếu là để cho con cái và thế hệ trẻ sau này có thể đọc và hiểu tiếng Anh, chúng hiểu cha ông chúng đã sống như thế nào dưới ách chế độ cộng sản?
Qua điện thoại, ông còn cho biết thêm, ông chuyên đi bộ và một lần bị xe tông đến ngất sỉu vào năm 2011 vào buổi sáng khi đi làm và được chở vào bệnh để cấp cứu. Ông cho biết bị chấn thương nặng ở xương sống, xương chậu, vai đầu gối và chân phải, tôi chỉ bị ngất đi nhưng không bị hôn mê. Khi tỉnh dậy, ông nghĩ rằng nếu không để lại một cái gì thì cũng thật uổng công. Vì thế phải viết.
Chi tiết này cho thấy, ông thu gom ráo mọi bằng cấp chuyên môn về y khoa. Nhưng có thể bằng lái xe thì ông chưa có.
Phần thứ hai, từ trang 226, với tựa đề : Vượt Qua Gian khổ nhằm gửi đến số đông người Việt lớn tuổi, hiểu hành trang của một người đã trải qua những chặng đường gian lao từ thời Trung học tại trường Trần Hưng Đạo, Đà Lạt- tú tài I và II, 1962, thời ông Hiệu Trưởng Kỳ Quan Lập, rồi Học Y Khoa bác sĩ, học nội trú trong 9 năm. Khi ra trường bị động viên, là Trung úy bác sĩ và được điều động ra Quân Y Viện Quy Nhơn.
Về tuổi tác và nhất là nơi sinh gốc gác hình như ông không đề cập tới!!!
Tại đây, ông quyết định ở lại, không di tản, tình nguyện ở lại chăm sóc cho Thương bệnh binh.
Quyết định này nói ra thì dễ, vì ông cũng chỉ là một con người yếu hèn như mọi người. Vì thế, ông cũng đã trải qua biết bao trăn trở, do dự- để rồi chịu số phận đi học tập cải tạo gần 5 năm- 1975-1979. Hết hạn tù, ông đến bịnh viện Bình Dân cũ gặp bác sĩ Bùi Văn Đức bị ông này ‘’ lên lớp” như một thứ cán bộ chính trị thứ thiệt và bị ông Bùi Văn Đức từ chối không cho làm việc ở Bịnh Viện Bình Dân.
Tưởng bơ vơ lạc lõng, tưởng thất vộng của một tương lai vô định thì may ông gặp bác sĩ Ngô Anh Tuấn giới thiệu với bác sĩ Trương Thìn (Ông này ngả theo cộng sản trước 1975 nay đảm nhiệm thêm một Viện Y Học Dân Tộc- một trong những người lãnh đạo trong thành phố- ) và ông được giới thiệu, điều về làm y tế quận. Ông về trông coi một bệnh xá ở huyện Cần Giờ như một chỗ nương thân ở một nơi khỉ ho cò gáy, nhà cửa xơ xác, dân chúng nghèo khố.
Bệnh xá chỉ như một túp lều ghép bằng ván gỗ với mái tôn, vừa làm chỗ ăn ở và vừa là nơi khám bệnh của ông.
Và vốn ông chịu thương, chịu khó lo cho bệnh nhân dần dần ông được cảm tình của dân chúng quý mến.
Do một lần cô con gái ông Bí thư huyện bị đau và được cán bộ đưa tới trạm xá và đã được bs. Nguyễn Công Trứ chữa khỏi. Vì thế, nhiều lần ông được ông Bí thư huyện mời đến nhà ăn uống. Cộng thêm tính cần cù, chịu khó, tinh thật thà nên ông được ông Bí Thư quận quý mến.
Đã có lần ông bí thư huyện dưa ra ý kiến đến không dám tin nổi. Ông bí thư huyện nói:
‘’ Nếu tôi muốn, ông sẽ giúp tôi đến một chân trời mới, nơi đó có đầy đủ phương tiện và nhiều cơ hội để tôi có thể phát triển tài năng, tạo dựng một tương lai tốt đẹp và tươi sáng hơn”
( Sách đã dẫn, trang 331)
Nghe ông bí thư quận đề nghị như thế, ông NCT giật mình và sửng sốt, không biết giả hay thật.. Một đòn bẫy chăng? Ông đã từ tốn cám ơn và giải thích mới đi cải tạo về chưa nghĩ tới chuyện đó. Một lần khác, ông Bí thư quận lại đề nghị như vậy. Ông vốn vẫn nghi ngại và sợ!!
Trong gia đình ông bí thư, có người thân tên Ngọt vốn là công an huyện, thích tìm hiểu về y khoa nên nhờ NCT chỉ dẫn.. Ngược lại, Ngọt đã có lần nói: ông bí thư huyện sắp đổi đi nơi khác. Cơ hội vượt biên sau này sẽ không dễ đâu.
Nghe vậy, ông NCT liều mạng một phen và nhận lời.
Ngọt vào một đêm đã đến gõ cửa trạm xá, đưa ông đi đến một điểm hẹn và quả thật có thuyền lớn đến đón.
Họ lên thuyền, nhưng chẳng may máy tàu không nổ cần sửa chữa. Tài công yêu cầu mọi người tạm rời tàu chờ sửa chữa xong sẽ lên lại. Mọi người lục tục ra khỏi tầu. Riêng NCT bị một người kéo ở lại, đưa cho một cái nón sắt để phụ tát nước ra khỏi tầu. Ít lâu sau, máy tầu sửa chữa xong, tàu vội vã ra khơi và bỏ lại một số người còn bị kẹt ở lại.(khoảng 40 người trong đó có anh Ngọt.)
Nghĩ về chuyện này, tôi chỉ có thể nói: Ông ở hiền gặp lành. Trong cái rủi có cái may. Nếu không đổi về trạm xá Cần Giờ, nếu không gặp ông bí thư quận tốt và chữa trị cho con con gái ông, nếu không gặp anh Ngọt. Và nhất là nhờ một người kéo ở lại tát nước thì số phận chưa biết sẽ ra sao? Cả một chuỗi tình cờ như đã được sắp đặt lớp lang và được tháo gỡ bởi một nút thắt mở đường cho ông trốn khỏi Việt Nam. Không tin vào số mạng cũng phải tin.
Phần ông trong suốt 11 ngày đêm bị mưa to gió lớn, biển động vào tháng 11, lênh đênh trôi dạt đến được Indonesia và tìm đến được bến bờ tự do. Tôi có hỏi ông, anh Ngọt có lên được thuyền không? Tôi có vặn hỏi ông anh ngọt có bị bỏ lại không? Khi ông về chịu tang gia đình sau này, tôi cũng hỏi ông có tìm được tông tích anh Ngọt không? Ông nói không!! Vì không dám ra khỏi khách sạn trong ba ngày chịu tang.
Đây là những trang tài liệu sống với nhiều nghịch cảnh đến khó tin rất xúc động. Nhưng đó lại chính là sự thật do ông kể lại.
*Xin ghi lại từ đầu lời tường thuật trong Hồi Ký của NCT ở Quân Y Viện Quy Nhơn:
Trung tá Chỉ huy trưởng và các bác sĩ tháo chạy trong đêm. Ông viết lại :
< Đúng vào ngày tôi trực. Buổi tối đêm 28/3/1975 và rạng sáng 29/3/1975, chúng tôi đã nhận được một số lớn thương binh bị thương vì đạn pháo kích của Việt Cộng ở đèo Cù Mông.
Như thường lệ, ngay sau trong phiên trực đêm, sáng hôm đó, chúng tôi họp bàn giao phiên trực ở phòng khách của Quân Y viện, để bá cáo với bộ chỉ huy của bệnh viện, tình hình bệnh nhân trước khi mãn phiên trực. Phòng khách của bệnh viện trong buổi bàn giao nào cũng đông người và náo nhiệt, nhưng hôm đó lại vắng vẻ và thưa thớt lạ thường.
Chúng tôi chờ đợi hơn nửa giờ, nhưng không thấy chỉ huy trưởng là Trung tá Nguyễn Xuân Cẩm cùng các bác sĩ của bệnh viện có mặt như thường lệ.>
(trang 264)
*Những quyết định quan trọng sinh tử
Với một tấm lòng rộng lượng và vị tha nghĩ tới người khác. Nhưng là con người, ông cũng có những nỗi lo cho bản thân mình về một tương lai bất định: Đi hay Ở.
Chính ở chỗ đó, thắng được cái yếu hèn làm nên cái cao cả của con người ông.
NCT là trung úy bác sĩ- người duy nhất còn ở lại- đã họp bàn với Thiếu tá Sự(thiếu tá bên quân đội)- người có chức vụ chỉ huy cao nhất-. NCT nghĩ rằng trong hoàn cảnh khó khăn này, ông không thể ép buộc các anh em phải ở lại làm việc vì ai cũng có gia đình và trách nhiệm lo cho người thân của họ. Và chính bản thân ông cũng không biết được ngày mai sẽ ra sao thì làm sao ông có thể bảo vệ cho họ được.
Quyết định ở hay đi là tùy thuộc mỗi người.
Mặc dầu ông cũng biết rằng không thể lường trước được tương lai sẽ dành cho họ như thế nào.
Sau đó, anh em chia tay.
<Các anh em y tá trẻ tình nguyện ở lại bệnh viện nhìn tôi với con mắt ái ngại. Nếu tình trạng này tiếp tục, không biết chúng tôi sẽ tồn tại được bao lâu, vì sức người có giới hạn.. (…) tham sống sợ chết của một ngày mai bất ổn, không có tương lai, nhiều lúc làm cho tâm hồn tôi giao động, mất đi ý chí sáng suốt và làm cho tôi ngã lòng.. >
(trang 265- 266)
*1/4/1975: an táng 47 tử sĩ trong một nấm mồ tập thể
Ngày 30/03/1975, vào buổi chiều, Đại tá Nguyễn Hữu Thông, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, thuộc Sư đoàn 22 BB đến thăm bệnh viện:
<Sau khi nghe tôi bá cáo về tình trạng thương bệnh binh, thuốc men và nhân viên của bệnh viện, tôi đã đưa đại tá đi tham quan phòng cấp cứu đầy người không có chỗ nằm, phòng mổ, phòng hồi sức và phòng hậu phẫu.. Trước khi rời khỏi bệnh viện, tôi đã cố gắng cầm nước mắt, hứa với đại tá, chúng tôi không vị quyền lợi cá nhân mà phản bội lại các chiến hữu thương bệnh binh những người đã hy sinh cho tổ quốc, cho màu cờ để bảo vệ cho sự an toàn cho đồng bào và đất nước…>
(trang 266)
*Ngày 31/03/1975, Đại tá Nguyễn Hữu Thông tự sát.
Trước đó một ngày, trong lúc chúng tôi chuẩn bị: ‘’di chuyển các bệnh nhân ở phòng cấp cứu, phòng hồi sức và hậu phẫu ra phi trường dân sự. Tôi cũng không quên nghĩ đến sự an toàn của các Mẹ người Pháp ở trong trại cùi, các tu sĩ và các em bé ở cô nhi viện Ghềnh Ráng. Tôi cho người đến nói với họ rằng, nếu muốn di tản, họ sẽ được chấp nhận tháp tùng các bệnh binh về một nơi an toàn hơn.
Tất cả mọi người đều nghĩ là tôi sẽ cùng với các bệnh binh có mặt trong cuộc hành trình này… (..)
Nhưng trong giờ phút cuối cùng trước khi máy bay cất cánh, tôi đã quyết định ở lại nơi mảnh đất cằn cỗi này, giữ đúng lời hứa với các chiến sĩ còn đang chiến đấu bảo vệ cho sự tự do và quyền sống làm người..”
(trang 267)
Sáng 01/04/1975: Các anh em an táng 47 tử sĩ trong một nấm mồ tập thể. Trong đó có thi thể đại tá Nguyễn Hữu Thông đã tự sát. Nấm mồ tập thể này được đào ngay trước cột cờ tổ quốc mà cách đây vài tuần các anh em chiến sĩ vẫn đứng đây dàn chào trước lá Quốc kỳ.
- Ngày 04/04/1975: Số phận một tù binh.
Một nhóm người lạ có trang bị vũ khí AK tự xưng là bộ đội miền Bắc đến tiếp thu bệnh viện. Họ ra lệnh cho mọi người ra trình diện trước sân cờ. Lá cờ Quốc Gia Việt Nam và lá cờ Hồng Thập Tự được hạ xuống và thay thế bằng lá cờ xanh đỏ của Mặt Trận GPMN.
‘’Trong buổi lễ chuyển giao bệnh viện, tôi vẫn mặc quần áo lính trận. Như có sắp đặt trước thình lình có một phụ nữ bên phe đối phương, với tóc dài đuôi ngựa nhảy xổ tới và đạp tôi té xuống đất. Phụ nữ này chĩa súng AK vào ngực tôi và lớn tiếng quát mắng:’’ Đúng là dân khốn kiếp, đến giờ này vẫn còn ngang bướng vô nhân đạo, đã gông cùm một đồng chí trên giường bệnh và bỏ đói, bỏ khát.”
(Chi tiết này, tôi có hỏi bs NCT về bệnh binh cộng sản bị bắt, bị trói, rồi không ai nghĩ đến việc cho ăn uống. Ông cho biết: trong lúc dầu sôi lửa bỏng.. rồi bị bỏ quên cũng là lẽ thường tình. Chỉ có thế)
Sau đó, họ giải tán Quân Y Viện, cho các nhân viên và y tá được trở về nguyên quán. Phần thương bệnh binh, những người còn đi đứng được cho xuất viện, những người nào cần được điều trị thì chuyển qua Dân Y Viện.
Phần NCT cũng sang Dân Y Viện phục vụ cho các thương bệnh binh còn ở lại.
*Một vài chi tiết không thể quên.
– Việc đầu tiên họ làm: Họ đốt sách vở tài liệu Y khoa. Nhìn cảnh tượng đó, NCT không đành lòng hỏi họ tại sao đốt. Họ trả lời các sách vở y khoa của các nước XHCN nhiều vô số kể. Anh đừng có tiếc, nay mai anh sẽ còn hàng ngàn cuốn sách giá trị hơn để trau dồi kiến thức.
Phần tôi lại tự hỏi: Có càn thiết phải hỏi như thế không? Một bác sĩ nào khác có dám đặt câu hỏi như thế không. Chắc là không, tội vạ gì.
– Ngày 6/04/1975. Sau khi bàn giao công việc đã hoàn tất. NCT lại khác người, ông xin bọn du kích để được đi thăm trại cùi. Hai cảnh vệ áp tải NCT đi.
Hay tin ông đến thăm, các người Cùi đã túa ra, hớn hở vây kín lấy ông và mừng rỡ. Mẹ bề trên trẻ còn ở lại cho giật chuông giáo đường. Chuông nhà thờ đã đổ vang dội đón một vị thượng khách trong một ngày hội lớn. Bầu không khí rộn ràng tạm thời gác bỏ những lo âu, sợ sệt.
Các cán bộ ngỡ ngàng không hiểu tại sao ông này được quý mến như thế. Tôi trấn an họ trả lời:’’ Tất cả những gì các anh thấy và nghe, đó là câu trả lời cho các anh.”
(trang 273)
-Chia tay người yêu. Trong thời gian ở huyện Cần Giờ, người bạn gái của tôi ở Quy Nhơn về Sài gòn cũng xuống ghé thăm tôi và báo tin mừng là cô đã được chuyển về thành phố.
Xin nhắc lại, khi làm ở Dân Y Viện, ông gặp một bạn gái trước làm cán sự y tế. Sau ngày giải phóng, cô đựợc đôn lên làm y sĩ. Người đẹp tên là Tuyết Đông. Hai người qua lại cảm mến và yêu nhau. Nay cô như một người vợ, lo chăm nom và tiếp tế cho NCT trong suốt 5 năm tù cải tạo thay cho gia đình ông.
Nay là cơ hội thuận lợi, cô xuống huyện Cần Giờ đề nghị là cả hai đã đến lúc nên tính chuyện lập gia đình. Tôi không quyết định và nói để tôi suy nghĩ lại. Ông về ngủ một mình ở trạm xá.
‘’cô đã khóc và nói với tôi là tôi thay đổi quá nhiều trong thời gian gần đây, cho tôi là hạng người được cá quên nơm, được chim quên ná. (…)
Sáng hôm sau, cô chia tay từ giã về thành phố một mình, thay vì dự tính ở với tôi thêm một thời gian.”
(trang 333).
Cảm nghĩ của người viết bài này thấy ngậm ngùi về một cuộc chia tay đầy cay đắng trong một đất nước tan rã.. phân ra từng mảnh.
– Tự tử, nhưng không thành. Nghĩ rằng công việc đã bàn giao cho kẻ thắng trận và bổn phận của mình đã hoàn tất. Ông viết:
‘’ Tối hôm đó, tôi đã tự tay truyền thuốc mê cho tôi để ngưng thở, và uống một lần 50 viên Chloroquine. Tôi đã ngủ mê sau bao nhiều ngày lo lắng. Và trong ngày, tôi đã ói ra các viên thuốc độc liệu.
‘’Thượng Đế muốn tôi phải sống với bao nhiêu chông gai và thử thách trước mắt.” (trang 273).
Nghĩ cũng hay, một bác sĩ rành thuốc men mà tự tử không chết!! Đổ tội cho Thượng Đế!!
*Trại Tập Trung Cải Tạo
– Vào khoảng một tuần sau ngày tạm giam, họ tập trung khoảng 200 người thuộc đủ thành phần ngụy quân, ngụy quyền. Sau đó, họ bịt mắt, đẩy lên xe đến một nơi để xây dựng trại Kim Sơn, thuộc tỉnh Nghĩa Bình, ở vùng đất An Lão.
Có lẽ khỏi phải kể những chi tiết về những nỗi cơ cực, nhục nhã, bị hành hạ, bị đói ăn ra đây mà ai cũng biết. Hàng trăm tác giả người tù cải tạo đã ghi lại rồi.
Chỉ xin kể lại một vài điều khá kỳ dị.
Ông cho biết, có một nữ cán bộ trẻ, có tóc dài đuôi ngựa đối xử tàn nhẫn và có những lần đánh đập NCT bằng báng súng AK trong lúc lao động vì tội làm biếng. Có nhiều khi trừng phạt NCT bằng cách cắt khẩu phần ăn trưa của ông.
Nhưng vào một buổi tối gần nửa đêm, có du kích đến mở khóa trại giam, gọi tên tôi đi làm việc. Gọi làm việc ban đêm như thế, nhiều phần tù nhân thường không có cơ hội quay trở về mà bị đưa đi thủ tiêu.
Ông bàng hoàng chao đảo bị áp tải đi theo hai cảnh vệ tưởng cuộc đời của mình đến hồi kết thúc. Khi đến khu nhà tạm trú của các cán bộ quản giáo. Một bà y tá ra đón lên tiếng nhờ ‘’bác sĩ”giúp khám bệnh của một nhân viên. Dưới ánh đèn bão, bà du kích đang nằm lăn lộn kêu cứu vì đau bụng. Có thể là bị trúng độc vì đau bụng. Hãy nghe lời kể của NCT:
‘’Thình lình trong cơn đau, bà đã nắm chặt tay tôi và hét lớn tiếng..Tôi giật mình tự hỏi có lẽ tôi đã làm một điều gì thất lễ đối với bà chăng, nhưng lại nghe có tiếng nhỏ giọt dưới chõng tre chỗ bà nằm. Nhìn kỹ thấy quần bà bị ướt, tôi đặt tay trên bụng của bà và nhận biết bà đã có thai và đang lúc chuyển bụng sắp sanh. Tôi vội vã nhờ bà y tá phụ giúp tôi đỡ đẻ, mấy phút sau, tôi đã giúp bà hạ sinh một cháu bé. Đứa bé sinh ra bị ngộp thở. Tôi phải làm hô hấp nhân tạo, hút sạch các chất dơ trong miệng và khí quản của cháu. Một phút sau khi cấp cứu, đứa bé đã cất được tiếng khóc chào đời..Nếu tôi không hành động kịp thời thì đứa bé sẽ mất mạng và mạng sống của tôi cũng như sợi chỉ mành treo chuông.
Tôi cắt rốn đứa bé và giữ ấm cháu bằng chiếc bao gối mà bà đang kê đầu, đồng thời giúp bà cầm máu bằng cách xoa bóp bụng. Làm xong công việc thì lúc đó trời cũng rạng sáng, bà du kích đã qua cơn nguy hiểm và mẹ tròn con vuông. (…)
Bà ôm đứa bé vào lòng nhìn tôi bằng đôi mắt biết ơn.. Nhìn đứa bé và sản phụ mà tôi vừa chăm sóc, những hận thù của tôi bấy lâu nay hầu như tan biến, tôi đã phục vụ bệnh nhân với tình thương và trách nhiệm của người bác sĩ như lời thề của Hippocrates…”
Về lại láng trại, cả đội ngạc nhiên vì lần đầu tiên một người bị kêu đi thẩm vấn vào lúc nửa đêm được an toàn trở về. Tôi đã im lặng và không tiết lộ những gì tôi đã làm đêm qua.
(trang 302)
*Những niềm vui nhỏ được ông kể lại trong trại cải tạo
Ông được chỉ định trông coi một vườn thuốc Nam giúp chữa trị cho tù nhân cải tạo nên ông thường đi kiếm tìm các cây thuốc. Trại tù Kim Sơn nằm dưới thung lũng và bao chung quanh trại là các dân tộc mà ta thường gọi là ‘’Mọi” ở trên cao. Bình thường khi có người chết thì họ gióng chiêng trống vang dội một vài ngày rồi chấm dứt, rồi sau đó xác được hỏa thiêu. Nhưng theo ông NCT lần này tiếng chiêng trống vang dội không chấm dứt. Ông tò mò đi đến gần làng thì thấy vắng tanh, mùi hôi thối giống như mùi tử thi. Ông viết:
‘’ Bước chân vào đến làng, người bệnh nằm ngổn ngang, những người này bị tiêu chảy và mất nước, ruồi nhặng như đàn ong bu cùng kiến. Nhìn thoáng qua là tôi biết ngay là dân làng đang bị bệnh dịch tả hoành hành, một chứng bệnh truyền nhiễm có thể tiêu diệt cả làng trong một thời gian ngắn. Một điều may mắn cho trại chúng tôi là đang hạn, không có mưa. Nếu không thì cả trại chúng tôi đã bị bệnh truyền nhiễm vì bị nhiễm độc ở đầu nguồn nước.”
(trang 287)
Sau đó, ông vội vã về bá cáo lên cơ quan về bệnh dịch đang hoành hành ở làng dân tộc. Chính quyền địa phương và ban Quản đốc đã cấp tốc lên tiếp cứu và chặn được bệnh dịch. Làng sau đó bị đốt cháy và di dời đi chỗ khác.
Phần ông không bị truy cứu và sau đó dân làng đã đến tặng ông một con chó con.. Nó trở thành bạn thân của ông suốt ngày quấn quít bên ông.
Niềm vui qua mau, sau này con chó do cùng ông đuổi bắt một con vịt trời, phá hoại tài sản ruộng của trại. Một bộ đội đã bắn chết con chó và con chó bị mổ thịt làm thức ăn cho trại.. Ông kinh hãi không dám ăn và nhường phần thịt cho một bệnh nhân khác
Một mối tình ngang trái
Sau này ông được đề cử là y tá trại nên sức khỏe được hồi phục, đi lại cũng dễ dàng. Một ngày nọ đang đi lang thang trong bìa rừng, có một người nữ bộ đội với bộ thường phục đã chặn ông lại, kiểm tra lý lịch. Sau đó tôi được tự do mà không bị làm khó dễ gì. Vài ngày sau, tôi gặp lại người nữ bộ đội này trong lúc tôi đang chăm sóc vườn thuốc Nam.. Bà hỏi tôi về các dược thảo trong vườn.
Dần dần theo ông NCT:
‘’Không nói ra, nhưng chúng tôi đã hiểu và rất thông cảm nhau và một tình bạn đã dần dần nảy nở…(…) Thỉnh thoảng buổi tối lấy cớ đi kiểm tra canh gác đã ghé qua trạm xá y tế, chỗ tôi tạm trú để trò chuyện… Thỉnh thoảng nàng biếu tôi một chút quà nhỏ để bồi dưỡng như một trái chuối, trái bắp hay một chén đậu phụng luộc.
Tình cảm giữa chúng tôi nảy nở ngày một sâu đậm và cô kể về gia đình của cô. Phần lớn đại gia đình cô đã di cư vào miền Nam sau Hiệp định Genève, 1954..
Đang trên đường vào Nam theo đường mòn HỒ Chí Minh để chiến đấu thì may mắn cho cô là cuộc chiến đã chấm dứt. Cô được biệt phái lên trại Kim Sơn để huấn luyện và giữ an ninh cho trại.”
( trang 306)
Ông viết tiếp:
‘’Nhưng dần dần tình cảm của người phụ nữ này đã đổi hướng. Cô bắt đầu hỏi tôi về chuyện tình cảm trong quá khứ, đến mối liên lạc và tình cảm giữa tôi và người nữ y sĩ dân y viện mà trong những ngày lễ lớn, đã đến thăm viếng và tiếp tế cho tôi. Thấy nàng đã đi quá xa về tình bạn, nghĩ đến thân phận của người đi tù cải tạo không tương lai, không có ngày mai, tôi bắt đầu run sợ. Nếu cơ quan biết được chuyện này, sẽ có nhiều ảnh hưởng xấu cho cuộc đời và tương lai của đôi bên. Tôi đã cố tình khuyên can cô, nên tiếp tục giữ tình bạn và không nên tiến xa hơn, vì cả đôi bên đều bất lợi. Nhưng người thiếu nữ này, khi đã vướng vào vòng yêu đương, đâu còn đầu óc sáng suốt để nghe lời khuyên can gián của tôi..”
(trang 307)
Cuối cùng, tôi quyết dịnh phải can đảm trình bày nỗi khổ tâm cho một cán bộ quản giáo có nhiều cảm tình với tôi. Nhờ vậy câu chuyện tình ngang trái chấm dứt. Cô được thuyên chuyển đến một nhiệm sở mới.
Câu chuyện của NCT là những tình cảnh chéo cẳng ngỗng của một thời tao loạn mà bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Thật đáng thương cho con người cả hai bên trong chế độ ấy.
*Ra nhà tù nhỏ, vô nhà tù lớn
Sau khi có giấy chính thức ra trại, ông được cán bộ lãnh đạo và ban quản giáo trại giam đãi một bữa cơm thanh đạm. Đây cũng là một trường hợp ngoại lệ chưa hề thấy. Sau đó, ông quay về Quy Nhơn thăm lại quang cảnh Quy Nhơn, thăm lại bạn bè. Người biết tin đã tấp nập đến hỏi thăm và chúc mừng. và nhất là thăm người bạn gái, người mà đã tận tình giúp đỡ NCT trong thời gian trong tù và tính ở lại Quy Nhơn vài ngày.
Nhưng số người đến chia vui đông quá làm ông sợ và đổi ý. Ngay tôi hôm đó, ông đã lén lút đi cổng sau và kịp đáp chuyến xe tốc hành vào Sài Gòn ngay chiều hôm đó.
Ông tạm trú ở nhà cô em gái, vốn chồng cô cũng bị đi học tập. Ông đến Bịnh viện Bình Dân, nhưng bị một bác sĩ từ chối khéo. Ông đặc biệt hài tên bác sĩ Bùi Văn Đức, một tên trở cờ xỉ vả ông, ‘’lên lớp” như một thứ cán bộ thứ thiệt. Ông viết:
‘’ Tôi không ngờ trong một thời gian mấy năm sống trong chế độ mới mà Bùi Văn Đức ‘’tiến bộ” đến thế hơn cả mấy năm tôi ‘’học tập” trong trại cải tạo. Anh đã hoàn toàn thay đổi hẳn, từ cử chỉ đến cách ăn nói của anh giống hệt như một cán bộ đã đi theo Bác và Đảng đã ‘’ kinh qua” trong nhiều năm sống và gian khổ trong rừng núi”.
(trich dẫn trang 317).
- Người thuyền nhân Việt Nam 1980-1995
Chúng tôi được chuyển về trại Tanjung Pinang thuộc quần đảo Riau Island. Thành phố gần nhất của đảo Galang là Tanjung Pinang, chỗ mà chúng tôi được Hải quân Indonesia cứu vớt sau 11 ngày lênh đênh trên Biển Nam Hải trên đường đi tìm Tự Do. Mãi đến năm 1979, trại tỵ nạn Galang mới được Cao Ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc chính thức thành lập và yểm trợ.
Trại có bệnh viện do Hồng Thập Tự Indonesia trông coi, trường dạy sinh ngữ, huấn nghệ, tiệm ăn và các Barracks cho người tỵ nạn. Trại có máy phát điện và nước uống được chở từ đất liền ra.
Về mặt tâm linh cũng có chùa và nhà thờ do người tỵ nạn đóng góp, xây dựng.
Ông bị sốt rét và sưng phổi nặng nên có thể ông là người được khám bệnh và cách ly với người tỵ nạn và được đưa thẳng đến bệnh viện ở Tanjung Pinang để chữa trị.
Nhất là được Hải quân đại tá Ivan tận tình chăm sóc và được bồi dưỡng đầy đủ nên ông đã dần hồi phục lại sức khỏe.
Có thể nói đây là cái may thứ nhất cho bác sĩ Nguyễn Công trứ. Chỉ trừ trường hợp ông bị Hội chứng Post traumatic stress syndrome.. Tôi có hỏi ông về trường hợp chữa trị đi đến đâu? Ông cho biết đó là trường hợp thường xảy ra cho các cựu binh Hòa Kỳ sau khi tham chiến ở Irak hay ở Aghanistan khi họ trở về Mỹ.
Phần ông, ông chịu khó tập thiền mỗi ngày. Tuy nhiên, ông thú nhận nó không chấm dứt hẳn.
Cái may thứ hai là ông có cơ hội gặp lại nhiều đồng nghiệp bác sĩ, nha sĩ và dược sĩ. Cộng chung cũng khoảng 40 người. Mỗi người một cảnh ngộ. Có trường hợp như nha sĩ Nguyễn Sanh Lang có con gái 16 tuổi bị hải tặc bắt đi mất tích.
Vì có cơ hội làm việc chung với nhau cũng như sinh hoạt chung khiến những ngày ở trại tỵ nạn thêm nồng ấm và đầy hy vọng chờ ngày đi sang Mỹ, Đức, Pháp, Canada vv..
Cái vui thứ ba là do bác sĩ Kiệt gợi ý là nay đến lúc tuổi đã cao nên để ý xem ai có hợp thì nên kết bạn. Ông viết:
<Mỗi lần gặp là anh đều đề cập đến vấn đề tôi nên tìm một người bạn gái trước là làm bạn để an ủi và chia xẻ vui buồn với nhau và nếu tâm đầu ý hợp thì sau này sẽ đi đến hôn nhân. Anh thường nói trại tỵ nạn cũng là một trong những môi trường quan trọng và thuận lợi để tìm kiếm người mà mình muốn kết bạn, vì các cô gái trẻ và xinh đẹp trên đảo có rất nhiều và thuộc đầy đủ các thành phần, thuộc đủ mọi ngành nghề, giai cấp và tuổi tác.
Theo anh, chỉ cần bỏ chút thời gian tìm hiểu thì trước sau gì cũng kiếm được người tâm đầu ý hiệp. Nếu chờ định cư ở một nước thứ ba thì cơ hội hiếm có như ở trại tỵ nạn sẽ là khó khăn vì không có thời gian. Hơn nữa công việc mưu sinh hàng ngày không phải dễ dàng gì như suy tưởng và nhất là các cô gái xinh đẹp thì lúc nào cũng có người đeo đuổi, mình là người mới qua chân ướt chân ráo thì làm sao phân bì được với những người đến trước đã có một cuộc sống ổn định.>
(trang 353).
Thế rồi cá đã cắn câu nhờ cái mát tay của một người bạn trẻ.
Gia đình người vợ tương lai của tôi gồm một cô em gái, và hai người em trai cũng đến được đảo Kucu. Bác sĩ Kiệt cũng ở trại này nên có dịp quen biết gia đình này.
Gia đình vợ tôi là người Việt gốc Hoa, cô là dược sĩ tốt nghiệp năm 1975, em cô là Ngọc Anh, sinh viên năm thứ 5 của trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn. Hai em trai là Tâm và Hải.
Một hôm em gái là cô Ngọc Anh bị bệnh, bác sĩ Kiệt khuyên tôi đây là một cơ hội tốt trước là đến thăm viếng, sau là tạo điều kiện làm quen. Sau đó, đôi lần được gia đình mời đến dùng cơm và được tiếp đón ân cần. Tình cảm nảy sinh và đầy hứa hẹn.
Vậy mà phải đợi đến năm 1985, họ mới làm hôn lễ ở Los Angèles trong một bữa tiệc cưới đơn giản trong vòng thân thuộc. Kể cũng là khá muộn màng.
Cuộc hôn nhân này đã sinh hoa trái với cháu đầu lòng tên: Lisa mà ông bà ngoại đã chăm sóc cháu. Sau này gia đình ông có thêm hai cháu nữa là Brenda và Bryan. Các cháu thừa hưởng dòng máu của cha mẹ nên đều thành đạt một cách xuất sắc trong nghề nghiệp. Tôi cũng thấy chẳng tiện nói ra chi tiết về sự thành công của cả ba cháu. Xin cứ biết như vậy thôi.
Cái vinh dự thứ tư khi anh được phái đoàn Mỹ phỏng vấn.
Người phỏng vấn được biết là một cựu sĩ quan Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam. Ông này có hỏi ông NCT về câu chuyện: ông là người bác sĩ duy nhất còn ở lại Quân Y Viện Quy Nhơn. Nghe xong, người Mỹ phỏng vấn đã đứng lên nghiêm chỉnh chào ông NCT. Cử chỉ đáng kính ngạc này đã có nhiều người được chứng kiến và có người kể lại cho tôi. Tôi cũng đã hỏi ông NCT, ông cho biết: có thể viên sĩ quan này có quen biết và quý mến ông. Có vậy thôi.
- Bước đường đi học lại lắm chông gai và gập ghềnh
Phần cuối này người viết xin gọn ngắn và sơ lược ít dòng, vì thấy nó có quá nhiều thử thách về tiền bạc, về bất đồng ngôn ngữ, về thời gian theo học. Thêm vào đó, Hội chứng PTSD nên mỗi khi gặp khó khăn là ông mất tự tin, không làm chủ lấy mình, đầu óc trở nên lẫn lộn, tinh thần bị giao động, miệng mồm thì nói lắp bắp, ấp a ấp úng.
Có thời gian đi học, làm không công trong 4 năm 1984-1989 tại Wadsworht VA, Hospital, LA, California. Đi học, phải mất hơn 2 tiếng đi và hai tiếng về.
Rồi sung vào US AIR Force Medical 1993-1995, với cấp bậc thiếu tá.
Rồi cuối cùng học Fellowship. 1993-1994.
Trong thời gian đi học thì bị đồng nghiệp, vì kém nên bị cười chê, chế nhạo và khinh bị. Phải cắn răng chịu đựng.
Qua điện thoại, tôi hỏi ông mất bao nhiêu thời gian học y khoa trước 1975 và trở thành giáo sư về quang tuyến. Ông cho biết cộng chung tất cả 18 năm.
Kể từ khi ra trường cho đến lúc về hưu năm 2016, ông làm việc được hơn 20 năm. Nếu tính cả thời gian học từ tiểu học lên trung học thì 2/3 cuộc đời cho sự học. 1/3 còn lại cho việc làm quả là không cân xứng.
Phần tôi cảm thấy bất nhẫn và uổng phí và chia xẻ được nỗi khổ tâm đối với người vợ của ông.
Nhưng nói gì thì nói, tôi vẫn chỉ là người ngoài, không thể hiểu hết đủ tâm tư và nguyện vọng của ông!!!
*Đôi dòng kết luận
Khi về hưu, ông tình nguyện xin làm trong vai trò Hospice volunteer. Ông viết:
<Tôi muốn góp phần trong sự xoa dịu niềm đau và nỗi khổ của những người bệnh nan y trong hoàn cảnh neo đơn cô độc bên giường bệnh. Đó là những động lực chính yếu đã thúc đẩy tôi tham gia vào công tác thiện nguyện giúp đỡ những người kém may mắn cô đơn ở giai đoạn cuối của bệnh trạng khi các phương tiện y học hiện đại đã hoàn toàn bó tay và những người già cô độc trước giờ phút lâm chung với vai trò của một người HOSPICE VOLUNTEER>
( Trang 476)
Ông là bác sĩ duy nhất người Việt Nam đã làm 8 năm thiện nguyện này.
Và cuối cùng xin trân trọng và ghi nhận những lời nhắn nhủ cuối cùng của ông để lại cho các con như kết thúc bài viết này:
<Tôi hy vọng những giờ phút cùng cực đó các cháu sẽ nhớ lại những trang Hồi ký này và ngẫm nghĩ lại xem như cha mẹ các cháu vẫn còn bên cạnh để an ủi và nâng đỡ ủng hộ tinh thần cho các cháu để vượt qua những sóng gió.
Với thời gian và cuộc sống, tôi không hy vọng là một ngày nào đó các cháu còn nghĩ hay nhớ đến đất nước tổ quốc Việt Nam thân yêu của tôi. Cuốn Hồi Ký này sẽ giúp các cháu có thể trả lời với bạn bè về nơi chốn cha mẹ các cháu đã sinh ra và lớn lên ở một đất nước quá xa xôi và xa lạ với các cháu.
Thêm vào đó, tôi cũng mong những dòng Hồi ký này sẽ giúp giải tỏa cho các cháu những thành kiến về cha các cháu đối với gia đình trong thời gian cha chúng nó phải bôn ba xa nhà tạo dựng tương lai và sự nghiệp.>
(trang 402)
Danh mà chi, lợi để mà chi
Bèo mây bọt nước có ra gì
Sau đường danh lợi hai tay trắng
Cuối lớp ân tình nấm mộ xanh
BS Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Văn Lục
Đàn Chim Việt