“Nếu cuộc đời là những chuyến tàu thì cuối cùng, chúng ta ai cũng có một nhà ga để xuống, có điều sớm hay trễ mà thôi. Và đến một tuổi, một lúc nào đó, chúng ta phải nghĩ là đã đến lúc sắp xuống tàu. Vì vậy tác phẩm này, hôm nay đến tay bạn đọc, được xem như là một nhà ga cuối, cuộn chỉ thời gian đã kéo gần hết, quỹ thời gian chẳng còn được bao nhiêu!”
Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu: Tình trạng Covid dầu sôi lửa bỏng như thế này mà hai ông anh gốc Huế còn dám đi tìm dư hương xứ Huế? Chưa kịp tìm ra câu trả lời thì nghe tiếng anh Huy Phương:
Giọng nói trầm và yếu ớt này, cho tôi biết không phải là đùa. Tôi hỏi lại:
Tôi thoáng lo âu và cảm động, muốn chạy ra gặp anh ngay, nhưng vì phải trông hai đứa cháu ngoại nhỏ đang học online, nên đành phải nói lời xin lỗi, mà trong lòng thấy ưu tư, áy náy.
“Theo luật đời, ở tuổi ngoài 80, chúng tôi đi vào những giai đoạn già yếu, bệnh tật, và mang theo một chứng bệnh nan y, chắc cũng phải đến lúc xuống tàu, giã từ đời sống. Chúng tôi không có của cải, tài sản gì để lại, ngoài “Huy Phương Tuyển Tập,” xin gởi đến bằng hữu và bạn đọc như là một món quà chia tay.”
11 giờ 30 trưa hôm sau, chúng tôi đến. Ngôi nhà của anh chị nằm trong một khu thật yên tĩnh ở thành phố Anaheim. Tôi bấm chuông với một chút lo âu, chuẩn bị tâm trạng trước những tình huống không vui, nhưng chị Huy Phương mở cửa đón chúng tôi với một nụ cười, vồn vã, làm chúng tôi thấy tự nhiên hơn. Anh Huy Phương từ trong phòng bước ra, tay phải chống một cây gậy. Vẫn mái tóc bạc trắng như tuyết bồng bềnh, với một nụ cười thân thiện cố hữu, nhưng vóc dáng anh trông tiều tụy, nếu không nói là da bọc lấy xương. Bắt tay anh, nở nụ cười, mà lòng dạ xốn xang, thấy thương và tội nghiệp anh.
Tôi cảm động hơn khi anh kéo tay bảo hai anh em tôi đến ngồi bên cạnh anh, chung cái ghế sofa để nói chuyện cho vui, vì chẳng còn có nhiều dịp được ngồi bên nhau nữa. Anh cho biết chẳng ăn gì, chỉ uống đúng 3 ly sữa mỗi ngày, cùng với mớ thuốc men do bệnh viện cấp. Tôi và anh Bích nhắc lại vài kỷ niệm xưa, đặc biệt mấy lần gặp anh chị tại Oslo- NaUy, khi anh chị sang đây thăm vợ chồng người bạn thân, là giáo chức đồng nghiệp cùng anh dạy ở trường Trung học Nguyễn Hoàng, Quảng Trị, trước khi anh nhập ngũ. Tôi đùa, bảo lúc ấy ông thầy Lê Nghiêm Kính (*) đẹp trai, chắc cũng từng làm khổ bao nhiêu cô học trò Quảng Trị. Mấy hôm nay có cô nào xin phép bà chị đến thăm anh Huy Phương? Cả anh chị cùng cười.
Anh bình thản kể chuyện đã chuẩn bị tất cả cho việc hậu sự. Đã viết cả Cáo Phó và dặn dò vợ con để anh ra đi trong bình thản. Thấy anh vui, tôi bảo “Năm nay anh đã 84, thuộc hàng đại thọ rồi. Em cũng chỉ mong sống đến như vậy là phúc đức trời cho rồi. Từng là lính chiến, bị tù đày rồi vượt biển mà không chết, bây giờ sắp tuổi 80 em thấy được hưởng bonus của ông trời, nên đã mãn nguyện lắm rồi.” Anh Trần Huy Bích tiếp lời: “Anh em mình bây giờ đang xếp hàng, kẻ trước người sau. Mai mốt rồi cũng sớm gặp lại nhau thôi.”
Tôi người lính già ở xa tổ quốc
Xa chiến trường lưu lạc tới đây
Nơi quê người sương pha tuyết đổ
Mang nỗi đau con ngựa lạc bầy.
…..
Không phải chỉ chịu ơn người đã chết
Tôi như còn mang món nợ nước non.
Chết không nghĩa là đã tắt hơi thở
Sống đôi khi cũng có nghĩa chết mòn.
Khi tôi chết ván hòm xin đậy nắp
Có vui chi nhìn người lính chết già
Hổ thẹn đã không tròn ơn nước
Tiễn tôi chi, thêm phí một vòng hoa.
Hãy quên tôi, người lính già lưu lạc
Đừng phủ lá cờ tổ quốc cho tôi
….
Anh em tôi trong những giờ tuyệt lộ
Nằm lại bờ lúc chiến hạm ra khơi.
Chiến hữu tôi chết đầu sông cuối biển
Ngày tan hàng đành nằm lại quê hương
Không ai trổi cho khúc kèn truy điệu
Không có ai phủ giúp ngọn cờ vàng.
Hãy phủ cờ lên nấm mồ tử sĩ
Xác bị xới đào trong nghĩa trang xưa
Hãy rải hoa trên con đường thấm máu
Phút lui binh phải gãy súng buông cờ.
Anh là huynh trưởng của tôi, sau khi tốt nghiệp Khóa 16 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, anh đã phục vụ trong ngành Tâm Lý Chiến cho đến ngày phải tan hàng, vào tù theo vận nước. Trong binh nghiệp, anh cầm bút nhiều hơn cầm súng. Tôi đã buông súng, nhưng anh thì chưa hề buông bút. Anh là một trong những người lính chiến đấu bằng ngòi bút cho đến giây phút cuối cùng, đã để lại cho đời, cho chiến hữu, bạn bè cùng thế hệ con cháu những “chiến tích” rất đáng được trân trọng, tự hào, như anh đã viết trong lời tưa cho Tuyển Tập cuối cùng:
“Con chim sắp chết hót tiếng bi thương,
Cụ Phan Bội Châu viết lời này trong Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư năm 1903. Mãi ba mươi bảy năm sau (1940), Cụ mới qua đời tại Bến Ngự trong cảnh bị giam lỏng.
Ông anh xứ Huế của tôi vừa bị định mệnh lên án treo. Anh có được ân xá và diên trì sự sống một thời gian dài như Cụ Phan? Trong viễn ảnh Phật giáo mà anh là một tín đồ, tiếng gọi về ngay hay lệnh hoãn không nhất thiết là tốt hay xấu, chỉ là duyên nghiệp trong luật tử sinh chung. Và việc ở hay đi nào có gì quan trọng, nếu người ta sống xứng đáng và yêu thương tới giờ phút cuối cùng.
Tôi tin anh Huy Phương đã quan niệm và hằng sống theo chí hướng ấy.