BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 77585)
(Xem: 63347)
(Xem: 40795)
(Xem: 32432)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Đường Phía Bắc

20 Tháng Tám 201512:00 SA(Xem: 2492)
Đường Phía Bắc
51Vote
40Vote
30Vote
20Vote
11Vote
32
1

Người con gái trạc chừng 25 tuổi, bận quần đen, áo len màu đỏ đậm, tay áo dài quá khủy, khuôn mặt bầu bĩnh hiền lành. Nhìn phớt qua, cô không có gì đặc biệt, trừ nước da trắng hồng mướt rượi của người con gái xứ lạnh. Nhưng càng trông, càng khám phá vẻ thùy mị ở cặp môi dầy vừa phải, hai gò má đỏ au như thoa một lớp phần hồng. Khi Hải vừa nhìn xuống phía đầu phà thì cô ta tiến lại, hỏi:

- Em trông anh quen lắm.

Hải bình tĩnh hất cái nón cối bộ đội để ngước nhìn cô gái. Chàng xoạc hai chân ra, dáng lè phè. Đôi mắt chàng nhìn cô gái có vẻ ơ hờ nhưng trong đầu tính toán thật nhanh. Chàng nói:

- Chắc chị nhầm ai đó.

Trong đầu Hải nảy ra hai ý nghĩ: đây là tình cờ hay cố ý? Chàng hoàn toàn không quen biết cô gái, hơn nữa trong bộ đồ bộ đội màu bạc, thậm chí cả vợ chàng cũng khó nhận ra thì một người quen, giả dụ có gặp Hải đâu đó, cũng không thể nào nhận ra Hải liền trên chiếc phà đang lộn xộn người lên kẻ xuống.

Đã có chủ trương, Hải khẳng định là cô gái ấy cố ý để dò lý lịch Hải. Cô ta lại hỏi tiếp, ra vẻ vô tư:

- Anh đóng lính ở vùng nào? Em quen nhiều bộ đội lắm mà trông anh rất quen.

Hải hơi lúng túng dù đã chuẩn bị câu trả lời cả tháng nay. Chàng đáp:

- Đơn vị tôi di chuyển liên tục, hiện đóng tại Đầm Hà, hòm thư 5630. Chị có quen ai ở đơn vị đó không?

Nói xong câu nói một cách trôi chảy, Hải cảm thấy bình tĩnh. Ngay từ chiều hôm trước ra Hòn Gai đón bé Ngọc con đầu lòng của Hải do người dẫn đường từ Hải Phòng đem xuống, Hải đã nhẩm đi nhẩm lại tên của viên chính ủy và một vài bộ đội mà chàng biết đang đóng tại Đầm Hà. Chàng còn cẩn thận tự tả nhân dáng của những người này để nhỡ bị xét hỏi căng quá chàng sẽ ứng đáp đâu vào đấy. Chàng học cả khi ôm con ngủ trên chiếc chiếu giải dưới đất nhà người quen. Chàng chập chờn nghĩ đến tuyến đường ngày mai lên Đầm Hà, một tuyến đường dày đặc lực lượng an ninh, cảnh sát quân sự, quan thuế. Chỉ một chút sơ hở bị nghi ngờ là Hải bị bắt giữ ngay. Bé Ngọc vẫn còn hồn nhiên ngủ, gần sáng rét quá Hải cởi luôn cái áo bộ đội đắp cho con. Chàng run cầm cập trong chiếc áo may-ô mỏng manh giữa cái rét của những ngày cuối năm. Hải thấy thương đời sống của những người ở đây, họ nghèo đến mức không thay nổi tấm màn che cửa rã mục đến độ chỉ cần chọc ngón tay cũng làm rách toạc một đường dài. Ngay cả chủ nhà cho Hải tá túc đã thuộc vào hàng khá giả ở xóm này, vậy mà vợ chồng con cái cũng chỉ đắp chung một chiếc chiếu thiếu đầu hụt chân suốt mùa đông giá rét. Hồi sáng, trước khi theo người dẫn đường ra bến xe đón ô-tô đi Đầm Hà, Hải đưa cho chủ nhà 5000 đồng, thời giá chỉ ăn được ba bát phở ngoài chợ, chủ nhà run rẩy đưa cả hai bàn tay ra cung kính đón lấy như nhận một hồng ân từ đấng tối cao nào.
Lên ô-tô, Hải ngồi tách riêng đằng sau, kéo mũ che lụp xụp xuống làm bộ ngủ gà ngủ gật để dễ bề quan sát, trong khi bé Ngọc ngồi đằng trước với người dẫn đường. Mưa đổ triền miên suốt ngày, bầu trời u ám buồn bã như chia sẻ những giọt nước mắt rơi âm thầm trong lòng Hải. Suốt tuyến đường đến bến phà Ba Chẽ, Hải chẳng gặp một trở ngại nào. Nhưng vừa lên phà, chàng đã đụng ngay với cô gái nhiều chuyện kiếm cách hỏi han. Trả lời cô gái xong, Hải giả vờ nhờ cô ta cầm hộ mũ rồi khom lưng nhúng chiếc khăn mặt xuống nước để rửa mặt. Hải biết ở biên giới các đơn vị bộ đội luôn luôn thay đổi vị trí để bảo mật nên câu trả lời của chàng rất ăn khớp. Cô gái ngắm nghía chiếc mũ, tò mò đọc những dòng chữ chi chít Hải ghi sẵn trên thành đai: Bảo vệ tổ quốc - Người lính biên cương nhập ngũ ngày 7 tháng 7 năm 1985 - Ngày con xa mẹ - Em hãy chờ đợi anh. Chiếc mũ hơi ngả màu mưa nắng, tỏ ra đã che đầu người lính nhiều mùa nắng mưa. Cô gái có vẻ thông cảm với những dòng chữ của Hải, đưa trả mũ rồi gật đầu chào bỏ đi. Hải hút xong điếu thuốc thì phà cập bến, chàng xộc xệch đứng chung với hành khách lên trước chờ ban liên ngành gồm công an, cảnh sát quân sự, nhân viên thuế vụ kiểm tra. Hải kín đáo đưa tay vuốt tóc bé Ngọc, bàn tay chàng làm như vô tình để lên đầu một đứa bé nào chứ không phải con mình. Bé Ngọc đã được bố dặn nên cũng đứng yên lặng trong đám đông, đôi mắt tròn đen mở lớn ngước nhìn bố.Chính Hải cũng lo sợ vì chàng thoáng thấy cô gái hồi nãy đứng ở toán kiểm tra, chàng lục lại những câu trả lời vừa rồi tìm sơ hở, hình dung cử chỉ của cô gái. Lúc tiến tới toán kiểm tra, Hải giật bắn người khi một cảnh sát quân sự đưa tay ra dấu chặn lại. Hải la thầm: -Thế là... xong! Chàng đinh ninh cô gái đã yêu cầu gã cảnh sát bắt mình. Đúng lúc Hải thấy cô gái kêu gã cảnh sát, nói gì đó, rồi gã cảnh sát đưa tay cho phép Hải lên ô-tô. Chàng thở phào nhẹ nhõm, vẫn giữ tác phong xộc xệch của một tên lính bất cần đời, Hải vừa leo lên xe vừa gật đầu lạnh lùng đáp trả nụ cười của cô gái. Thế là thoát một trạm kiểm soát khét tiếng. Đến Hà Cối, một thị trấn khá lớn, rải rác có nông dân dân tộc Nùng ở, một toán cảnh sát lên xe kiểm soát. Mười cặp mắt cú vọ của năm người áo xanh màu cứt ngựa rọi từng khuôn mặt khách. Hải móc thuốc nói với một gã đang lum khum tiến lại:

- Anh cho xin tí lửa.

Hải đón cái bật lửa từ tay gã, châm thuốc và rít thật mạnh, vừa lấy bình tĩnh vừa chống cái rét của những giọt mưa lất phất bắn vào. Gã cảnh sát lườm lườm:

-Anh không mang hành lý gì à?

Hải cười khinh bạc:

- Tranh thủ về thăm nhà rồi lên. Lính làm gì có cái gì để mang theo hành lý ngoài...súng và lựu đạn.

Gã có vẻ khựng vì câu trả lời bạt mạng của Hải. Thật ra Hải đã đánh trúng tâm lý của cảnh sát đồn trú ở vùng này. Nhiều lần bộ đội biên phòng kéo về với quân số cả tiểu đoàn, vây đồn cảnh sát để đánh nhau. Chỉ cần một hai chiến sĩ biên phòng va chạm với cảnh sát khi về phép là cả đồn công an nhân dân sau đó có khả năng ăn đại liên của quân đội nhân dân. Gã cảnh sát hỏi Hải có lẽ đã từng có nhiều kinh nghiệm đau khổ với bộ đội biên phòng nên bỏ đi liền một nước. Hải rút điếu thuốc khác, châm vào đốm lửa sắp tàn của điếu thuốc trước để thưởng cho mình sự may mắn vừa rồi. Chàng duỗi chân cố tình không thèm tránh năm người cảnh sát đang lục tục nhảy xuống xe, đem theo bốn thanh niên không có giấy tờ. Ở trạm trước, Hải đếm có 15 người bị giữ lại. Chàng cho số mình còn hưởng phúc của Bác nên đã lọt ra ngoài số 19 người bị bắt. Xe khập khững đi trên đường đất nhỏ quanh co gồ ghề, động cơ gào thét dữ dội khi qua những vũng nước mưa đọng trên đường, tiếng máy khập khựng như có tiếng thở của một người bị bóp cổ. Hải tính thầm là giờ này Thu, vợ chàng, có lẽ đã tới bãi tập kết và đang chờ ở một nhà người quen. Trời đã về chiều, mưa rơi lất phất và sương mù giăng thật thấp. Nhạt trong hơi sương, núi mù mờ ảo não một hình thù cô độc. Đến bến Đầm Hà, Hải nhảy xuống đi bộ tắt qua làng, đằng sau bé Ngọc ngủ ngon lành trên vai người dẫn đường. Chàng đến nhà Dũng, một người trong toán tổ chức, kiểm soát lại la bàn, hải đồ đã giấu sẵn ở đó, gặp thêm vài người lạ mặt trong nhà. Dũng nấu một nồi cơm lớn cho cả bọn trên 10 người ngồi ăn lần cuối. Xong xuôi, họ phân tán mỏng qua các nhà kế cận ngủ, riêng hai cha con Hải ngủ sau kho thóc.


Trời về khuya, tiếng gió ù ù thổi rét giá, rồi tiếng chó thi nhau sủa tạo cho bóng đêm một vẻ yên lặng não nề và đe dọa. Hải không tài nào chợp mắt trong không khí rình rập đầy bất trắc, chàng đốt thuốc liên tục, đầu lửa chập chờn hắt lên hình hài tội nghiệp của bé Ngọc nằm úp mặt trên ổ rơm. Riêng về phần bến bãi và con tàu thì Hải không còn gì lo ngại. Chỉ vài tiếng nữa, con tàu với trọng tải 35 tấn sẽ đưa 60 người rời bến với đầy đủ lương thực và nước ngọt cho khoảng hai tuần lễ. Nếu thiếu lương thực dọc đường, tàu sẽ ghé Trung Quốc để mua thêm, sau đó, nếu cứ thuận buồm xuôi gió thì Hải và vợ con sẽ đến Hồng Kông trong vòng không đầy mười ngày. Hải tin tưởng ở sự giúp đỡ nhiệt tình của nhân dân và chính quyền Trung Quốc đối với người Việt Nam vượt biển đi Hồng Kông. Một người bạn chàng đến Hồng Kông hồi mấy tháng trước đã viết thư kể tường tận sự giúp đỡ nhiệt tình này. Cũng nhờ lá thư kể tường tận như vậy, Hải đã tranh thủ học nói tiếng Quảng Đông trong thời gian giả làm bộ đội. Chàng biết chắc là hầu hết thuyền vượt biên đều phải ghé Trung Quốc trước khi đến Hồng Kông. Dũng, tài công, là một người đã có ít nhất 20 năm trong nghề, do thế Dũng biết rõ vùng biển này như lòng bàn tay. Nói chung, khâu tổ chức cho đến bây giờ vẫn không có vấn đề gì, ngoại trừ một chuyện cá nhân mà Hải vẫn canh cánh bên lòng từ chiều đến giờ: Thu và thằng Quỳnh sẽ đến ngày hôm trước, ở trọ nhà Cường, em ruột của Dũng, để đến tối hôm sau sẽ ra bãi tập kết. Cường chỉ độ 20 tuổi, người vạm vỡ rắn chắc, đang theo học nghề tài công của anh. Phương án của Dũng là sẽ để Cường đi chuyến sau, sau khi Dũng đã đến Hồng Kông an toàn. Dũng vốn cẩn thận, mặc dù đã chuẩn bị chu đáo cuộc vượt biên nhưng anh vẫn phòng hờ để Cường ở lại, nhỡ anh có mệnh hệ gì thì Cường là người có thể đứng ra lo chuyến khác. Buổi chiều khi Cường đến báo vợ con Hải vẫn chưa đến, Dũng trấn an: Có khả năng chị ấy nhỡ phà.

Thật ra, trong lòng Dũng cũng hết sức áy náy. Anh nghĩ đến một trường hợp lạnh xương sống: vợ Hải bị bắt, bị đánh đập và khai ra âm mưu vượt biển của bọn anh. Dũng chỉ hy vọng nếu có thể bị xui đến như thế, Thu cũng không khai báo gì vì thương chồng! Nhưng ở đời làm sao biết được, Dũng thở dài, nhất là vợ Hải còn trẻ, cực khổ thì hẳn là có kinh qua nhưng đau khổ chắc chưa nếm đủ mùi. Ý nghĩ ám ảnh Dũng khiến anh không tài nào chợp mắt. Đằng sau nhà kho, Hải cũng trằn trọc suy đoán.

Một chập không chịu nổi sự bứt rứt, Hải đứng dậy trở vô nhà, nghe sòng sọc tiếng kéo thuốc lào bên trong, Hải hắng giọng, ngồi ngay xuống dưới giường Dũng, gợi chuyện:

- Ông tính thế nào? Chưa ngủ à?

Dũng cười khô trong bóng tối:

- Ngủ thế chó nào được. Cháu nó ngủ ngon chứ.

Cả Hải lẫn Dũng đều tránh nhắc đến Thu, điều mà họ đang nghĩ tới. Chỉ còn vài tiếng nữa, thuyền sẽ nhổ neo, Hải biết Dũng không thể đợi vợ con chàng vì đã tính toán đâu vào đấy, một phút một giây ở lại mảnh đất này là còn nguy hiểm, còn bất trắc. Dũng cũng khổ tâm không muốn nói thẳng ra điều đó sợ làm bạn buồn. Cả hai người đều hiểu thấu lòng nhau nhưng không ai chịu mở lời. Bóng tối u uẩn một nỗi sầu câm nín, bứt rứt và nặng nhọc. Hải kéo một cữ, cổ họng khô đắng vì khói thuốc. Chàng nghĩ âu cũng là định mệnh khiến vợ chồng phải chịu cảnh chia ly trước khi được sum họp. Chàng nói:

- Mình cứ đi, ông ạ!

Hải đi xuống nhà kho, chàng chợt nghe tiếng khóc thút thít của bé Ngọc. Hẳn thức giấc không thấy bố đâu nên nó mới khóc như thế. Bình thường bé Ngọc lầm lì ít nói, có khi bị bố đánh, nó cũng chỉ mở to đôi mắt đen nhìn bố như không hiểu chuyện gì. Hải ôm con vào lòng, vỗ về:

-Nín đi, mai mình về ngoại ăn giỗ.

Thấy con không chịu nín, Hải xoa xoa lưng nó, dỗ:

- Ngoan con gái của bố. Bố gãi lưng con ngủ nhé.

Bé Ngọc dụi đầu vào ngực bố, kêu nhỏ:

- Con nhớ mẹ.

Hải thở dài, chàng không thể nói dối con ngày mai về ngoại gặp mẹ. Chàng ngã lưng xuống ổ rơm, để con gối đầu lên cánh tay, ngủ. Nhưng càng có ý muốn ngủ, Hải càng tỉnh. Bao kỷ niệm sống lần lượt hiện về trong ký ức. Cả tháng rồi Hải chỉ gặp Thu hai lần. Một lần về Hải Phòng mua hải bàn, tiện thể nhờ người quen về nhà nhắn Thu đến gặp chàng ngoài chợ Sắt. Hai vợ chồng đi ăn tiệm, rồi Thu đưa Hải một ít tiền. Gặp nhau không đầy nửa tiếng, Thu luôn miệng thúc:
- Anh cẩn thận, chúng nó lùng anh lắm đấy.

Hải đi liền sau đó. Lần gặp vừa rồi, Hải về để kiểm tra giờ giấc ra bãi tập kết. Chàng muốn chính mình phối kiểm tin tức với Thu để hai người không nhỡ nhau. Thu bàn cho bé Ngọc đi trước với bố, còn nàng dắt thằng Quỳnh vì nó bé hay đòi mẹ, Hải đồng ý ngay. Chàng ôm Thu vào lòng siết chặt, ngước mắt lên bầu trời xanh thẫm. Chàng nghĩ đến giờ phút cùng vợ con lênh đênh trên biển, đi đến một nơi định sẵn, chạy trốn một nơi đành phải xa, để bắt đầu lại, vâng bắt đầu lại từ con số không và bằng nỗi nghiệt ngã quá khứ quê hương.


Tiếng gà eo óc gáy. Hải nhìn đồng hồ, mới ba giờ sáng và mưa vẫn rơi. Có tiếng mở cửa và bóng đen cao lớn của Dũng tiến vào nhà kho. Anh nói:

- Đi ngay.

Hải cuộn bé Ngọc trong chiếc áo may bằng vải kaki, theo Dũng lên nhà uống tách trà đậm đặc pha sẵn. Chàng cột cái túi nhỏ đựng gạo trên vai, theo Dũng lao ra ngoài. Gió se sắt thổi nhưng Hải cảm thấy người nóng ran. Bé Ngọc ngả đầu lên vai bố, đôi mắt mở lớn tỉnh táo. Hải bỗng có ý nghĩ nếu con hỏi đi ngoại sao sớm thế này thì chàng không biết trả lời sao cho phải. Chàng sợ hãi nhớ hồi nhỏ, một chiều đang đứng trong nhà thì bỗng nhiên có tiếng nổ khủng khiếp, luồng hơi từ tiếng nổ thổi bay mái nhà và lúc ấy, cậu bé Hải bỗng ở trong cảm giác bàng hoàng lẫn kinh dị khi nhìn lên nóc nhà chỉ có trời cao nắng chói. Hải nhớ là chàng không biết phải làm gì lúc ấy, cứ đứng ngây người ra như đã hoàn toàn mất trí cho đến khi có một bàn tay kéo chàng chạy. Mãi đến sau này khi năm tháng trôi qua, khi chàng đã quen với chết chóc và bom đạn, khi dư âm của tiếng nổ mờ theo miếng cơm manh áo, Hải mới đủ nhận định là hồi đó chàng đã “sống” trong một khoảnh khắc của người mất trí. Cái kinh nghiệm đó khiến Hải thầm lo sợ cho bé Ngọc, có thể bé sẽ có lúc ở trong cái khoảnh khắc mất trí như bố khi nửa đêm bị kéo dậy, bị lôi đi giữa bầu trời tầm tã sương khuya và gió lạnh. Và rồi còn biết bao nhiêu bất ngờ sắp xảy đến trên tuyến đường vượt biển nữa. Tiếng chó sủa dữ dội khi Hải băng qua xóm. Bước chân chàng bì bạch trên đường trơn, vội vàng nhưng vững chãi. Đi một lúc chợt bóng Dũng đằng trước dừng lại, ra dấu cẩn thận. Đã đến bờ biển. Dũng chạy vụt băng qua bãi cát, Hải phóng theo. Một chiếc thuyền buồm đang nghiêng ngả, cánh buồm căng phồng hiện lên mờ nhạt trên nền trời không trăng sao. Hải lội lúp xúp cho đến khi nước ngang tới ngực mới tới thuyền.
Chàng đưa bé Ngọc lên cao cho một người nào đó đang cúi xuống đón. Trên thuyền đã đông người. Hải đoán chàng và Dũng là một trong những người đến sau cùng vì vừa leo lên Dũng đã ra lệnh cho thuyền chạy. Không khí im lặng ngột ngạt, chỉ có tiếng gió quật phật phật trên buồm. Dũng thở phào vì gió nam vẫn thổi đều và thuyền đi càng lúc càng nhanh. Được một lúc nhìn vào bờ chỉ còn nom rõ chỏm núi nhọn đâm cao lên trời của hòn vú lớn. Quê hương đang khuất dạng, Hải buồn rầu nhủ thầm. Thình lình thuyền đang chạy ngon trớn bỗng giảm tốc độ, rồi ngừng lại và dường như không còn đi được nữa. Gió lặng, gió lặng ngang chỗ này mới bỏ mẹ chứ. Dũng lầu bầu chửi, ra mũi thuyền nhìn chung quanh. Bỗng anh reo lên:

- Nó tới, nó tới rồi.

Hải trông theo hướng Dũng, thấy một chiếc thuyền máy đang tiến lại. Thoáng chốc hai thuyền xáp lại gần nhau. Dũng hô tài công phụ quăng dây lên thuyền lớn, dõng dạc:

- Bà con cứ từ từ mà sang thuyền máy.

Thì ra Dũng đã kết hợp thuyền buồm của anh và thuyền máy này để đi cùng. Cả nhóm chừng 30 người trên thuyền buồm ào hết lên thuyền máy, tiếng con nít ré lên lanh lảnh giữa biển khơi. Hải bảo bé Ngọc siết chặt cổ, bám vào mạn thuyền máy đu người lên. Trên thuyền lớn, đàn bà trẻ con nằm ngồi la liệt, cánh đàn ông hì hục giúp kéo người từ thuyền nhỏ sang. Tiếng dỗ con rối rít, nạt nộ inh lên đến thắt ruột. Dũng ra lệnh chặt dây bỏ chiếc thuyền buồm lại, thở dài bảo:

- Tôi thân với nó lắm.

Không muốn nhìn chiếc thuyền thân sắp đắm, Dũng cúi xuống phụ với cánh đàn ông vứt đá xuống biển. Nguyên chiếc thuyền này giả làm thuyền chở đá để che mắt công an, thành ra đến phút cuối khi đã đón đủ người lên nhóm tổ chức mới cho vứt đá xuống. Tài công của thuyền, lão Mục, là người cùng quê với Dũng. Lão trạc non sáu mươi, theo nghề biển từ hồi còn bé, dáng người nhỏ nhưng chắc nịch, trông ra dáng là người tự tin, từng trải. Lão Mục có phong thái của một người chỉ huy điềm đạm, râu cằm trắng tua tủa như hầm chông thật không hợp lắm trên khuôn mặt có đôi mắt ngẩn ngơ. Nghe nói lão đào hoa, vợ khắp bến, con rơi đủ bờ bãi. Nhưng Hải lại nghe vợ lão chết sớm, để lại con bé Sương mới tám tuổi. Trong những ngày lê la ở xóm nhà Dũng, Hải nghe đủ chuyện về lão Mục, nhưng chàng chỉ tin Dũng. Lão Mục ở vậy nuôi con chứ không lung tung như bờ bãi. Hồi đó nhà nước dồn nỗ lực để giải quyết chiến trường Nam Bộ, để mặc hậu phương cơ bản đã đói rách lại càng thêm rách nát. Vợ lão một hôm đói quá, lẻn qua nhà hàng xóm trộm ăn. Bà thấy một nồi cháo của chủ nhà bắc trên bếp liền húp lấy húp để rồi tính bưng nguyên cả phần còn lại về cho chồng và con. Chẳng dè vừa bưng đi chưa được nửa bước bà bỗng lên cơn đau bụng dữ dội rồi ngã lăn ra đất, miệng sùi bọt mép chết liền tại chỗ. Qua điều tra, công an phát hiện là chủ nhà đã bỏ thuốc độc vào nồi cháo, định vợ chồng con cái chiều hôm ấy tụ họp đông đủ sẽ ăn một bữa cho no rồi chết. Vậy ra số giời bắt Sương mồ côi mẹ sớm. Sương lớn lên như thế, vắng cả mẹ mà thậm chí có cha cũng như không. Lão Mục đi biển có khi cả tháng mới về, lầm lì, đi ra đi vào, rồi lại đi. Sương lớn lên, lây cái lạnh của bố, lặng lẽ, tưởng như nàng âm thầm đứng yên giữa những sông đời trôi chảy. Vậy mà đến một lúc, nàng lại bị cuốn hút, đẩy bật theo những lớp người ra đi. Khi Hải khiêng đá ra bong thuyền ném xuống biển, chàng thấy Sương đứng ở đầu mũi, gió thổi hất mái tóc nàng ra đằng sau để lộ một khuôn mặt rám hồng khỏe mạnh. Chàng tò mò ngắm cô gái kỳ lạ một chốc, không muốn đi vào ngay. Linh cảm báo cho chàng biết có điều gì khác thường nơi Sương, đặc biệt ở đôi mắt, đôi mắt tròn xoe nhìn về vùng biển mênh mông trước mặt, tựa như đang đăm đăm nhìn một vật gì đấy khiến Hải chợt ngó theo hướng nhìn của nàng.

Đêm dài ác mộng.

Hải đoán chưa thoát ra khỏi hải phận. Ánh đèn từ hầm máy xuyên qua một lỗ nhỏ nơi hông thuyền soi lăn tăn những gợn sóng lan tỏa. Hải nghĩ đến một chuyến chơi thuyền trên Vịnh Hạ Long, vây quanh là biển, là núi, là hang, là những khoảng nắng nhạt. Biển muôn màu hoang dại trên đá, núi muôn vẻ hình thù tựa một đám đông im lặng sững sờ giữa biển vắng. Nhưng cái ý thức tự đánh lừa mình của Hải chỉ chốc lát đã tan biến, nỗi lo sợ dâng lên, dâng lên chậm rãi trong cảm giác mơ hồ lạnh lẽo. Không gian hoang tĩnh thổi vào lòng Hải nỗi thê lương vô hạn, chàng mong mặt trời hãy khoan lên, mặt trời hãy nhường chỗ cho bóng đêm, để cõi lòng có nơi trú ngụ an toàn. Bỗng nhiên, Hải có cảm tưởng thuyền giảm tốc độ thật đột ngột, tiếng động cơ khập khựng mệt nhọc rồi tắt hẳn. Tiếng lão Mục vang lên liền:

- Chí, coi máy sao thế?

Không có tiếng trả lời, nghe đâu vài tiếng lục đục trong hầm máy. Một lúc sau mới nghe tiếng Chí, người thợ máy, càu nhàu:

- Chả hiểu nổi. Đâu phải đồ quốc doanh.

Cả thuyền xôn xao. Có người bắt đầu khóc vì không khí ngột ngạt. Hải chui xuống khoang, nghe tiếng rì rào tiếng đọc kinh cầu nguyện. Rồi một người đàn bà lên giọng:

- Để tôi lên mũi cúng.

Bà ta nói, tìm chỗ đặt chân để tiến lên mũi thuyền. Cánh đàn bà đồng loạt lum khum đi theo. Mũi thuyền chật cứng khiến Hải phải trèo hẳn lên mui, lòng như tơ vò vì quả thực chàng hoàn toàn bất lực với chuyện máy móc. Thuyền đảo nghiêng một cái. Lão Mục và Dũng đồng loạt quát:

- Bình tĩnh đã nào.

Mấy bà trước mũi lui cui bật lửa, giây lát một khoảng sáng lòe lên trên khoang. Không hiểu có hẹn nhau trước không mà gần như bà nào cũng đem theo hương, cả giấy tiền cúng người chết. Họ thắp hương, đốt giấy, sì sụp lạy đây đó.

2

Thu xuống ô tô thì trời đã chạng vạng tối. Thằng Quỳnh mê mệt trên tay nàng suốt tuyến đường cũng tỉnh ngủ, khóc y ỷ mệt nhọc, trán và lưng nó rịn mồ hôi nhơn nhớt dù đang mùa rét cuối năm. Thu quấn con trong tấm áo choàng bằng ni-lông, nàng ngập ngừng không biết có nên theo đoàn người xô đẩy nhau đi chuyến phà cuối trong ngày, hay trở lại tuyến đường vừa đi qua. Thằng Quỳnh đang lên cơn sốt. Thu cảm được hơi nóng hừng hực thoát ra từ bộ ngực lép kẹp của nó truyền qua người mình. Nàng biết qua tới bên kia chỉ có làng xóm nghèo nàn khó tìm được một chỗ tử tế cho ngủ nhờ, rồi còn phải theo xe đi cho kịp tới chỗ hẹn với Hải. Lòng nóng như lửa, Thu ôm con đi tới đi lui chưa biết phải quyết định thế nào thì có tiếng gọi:

- Này, xuống đi kẻo nhỡ phà chứ!

Một người đàn bà rảo bước, gọi. Bà ta gánh hai thúng đồ, chân bước thoăn thoắt. Thu gật đầu tỏ ý đã nghe, rồi sợ bị để ý, nàng làm bộ đi theo người đàn bà. Đến đầu cầu tầu, nàng quay ngược trở lại, leo lên chiếc ô tô từ bên kia bờ vừa được phà chở sang. Tài xế đang hối khách chất hàng lên xe vì trời đã tối, nhìn mặt biết ngay Thu không phải là khách đi từ bên kia sông sang, liền cự:

- Chị nầy, xe chật rồi. Ở đâu tới?

Hành khách tò mò ngó mẹ con Thu. Nàng đỏ mặt, lí nhí:

- Bác thương tình, cháu nó bệnh phải đưa về nhà gấp. Bác cho mẹ con cháu...

- Ngồi trên sàn, đưa tiền đủ.

Thu vui mừng rút ví trả tiền. Nàng khéo léo tìm chỗ ngồi, vừa vỗ lưng con vừa nghĩ tới Hải. Nàng chắc giờ này Hải đang trên đường từ Hải Phòng xuống, hoặc chàng đang chắc mẩm là Thu đã có mặt tại nhà Cường chờ chàng để tối mai cùng tập kết ra bãi. Thu nóng ruột muốn bay về nhà ngay để thằng Quỳnh nghỉ, sáng sớm mai sẽ dắt con đi cho kịp. Giao bé Ngọc cho Hải, Thu thấy không yên lòng, không phải vì Thu sợ chàng không lo cho con đầy đủ mà bởi vì nàng, với sự tự tin tuyệt đối của người mẹ, cho là không có ai trên đời này có thể chăm sóc con chu đáo hơn mình. Thu lại nghĩ nếu bé Ngọc ốm như thằng Quỳnh, thì chắc chắn Hải cũng bất chấp mà đi cho tới chốn. Nàng biết tính Hải tuy hiền lành nhưng liều lĩnh, huống gì chàng đang bị săn đuổi đến tận chân tường. Nàng hình dung vầng trán của Hải cau lại, đôi mắt hiền từ của chàng đọng tia buồn khi nghe nàng chưa tới điểm hẹn, rồi bé Ngọc trăn trở rấm rức. Lòng nàng thổn thức.

Xuống xe, Thu đi một mạch về nhà. Mẹ Hải đang trằn trọc lo lắng, thấy con dâu bồng cháu nội trở về thình lình, cụ chưng hửng, vừa mừng vừa sợ:

- Sao thế? Thằng Hải đâu? Cháu bà sao thế nầy?

Cụ dằn thằng Quỳnh từ tay Thu, giẫy nẩy:

- Nó lại ốm? Cơ khổ cháu tôi!

Cụ bồng cháu, hối hả đi bắt cháo, vừa nghe Thu kể chuyện, cụ ngắt lời:

- Con tính thế là phải. Đi mà bỏ xác dọc đường à.

Thu cảm động nghe mẹ chồng nói. Từ ngày về với Hải, nàng không phải làm dâu một ngày. Mọi việc bà cụ đều lo toan quán xuyến. Cụ chỉ có mình Hải, ông cụ chết nhục nhã từ thời cải cách ruộng đất, lúc đó Hải còn nằm ngửa, thời xuân sắc của bà cụ trôi qua thê thiết. Cụ phải ẵm con trốn qua làng khác, không kịp thắp một nén nhang trên ngôi mộ của người chồng chết oan khiên. Cụ ở vậy nuôi Hải lớn lên bằng tất cả sự nhục nhằn của người mẹ, quyết không bước thêm một bước nữa. Hải cũng được ăn học, đỗ vào trường Âm nhạc, ra trường theo đoàn ca múa lưu diễn khắp nơi để kiếm sống. Cụ tưởng vậy đã mãn nguyện lắm rồi, chỉ chờ ngày xuôi tay nhắm mắt đi gặp cụ ông. Phận làm mẹ của cụ đã mãn, phận làm vợ đã tròn thủy chung. Khi biết một lý do nào đó Hải bị cho nghỉ việc, rồi bị cảnh sát lùng bắt, cụ lo lắng nhưng hài lòng vì hình ảnh chồng bỗng sống lại mãnh liệt nơi đứa con độc. Ừ, há bố nó chả từng ba lô trên vai lên đồi xuống lũng là gì! Hải đã làm tròn phận sự làm con, sinh cho cụ hai đứa cháu kháu khỉnh (cái thằng Quỳnh còn nhỏ mà đã giống tạc ông nội), cụ hài lòng lắm. Bây giờ, chúng nó tính bỏ cả nước mà đi, cái chuyện này thiệt ngoài sức nghĩ của cụ. Cụ làm mặt tỉnh bảo Hải, hôm chàng về chào mẹ:

- Ừ, thì giờ mẹ chịu, trông cả vào các anh thôi.

Cụ đau đớn nhìn vợ chồng Hải trước sau có một ngày bế lẽ sống duy nhất của cụ ra đi. Trong lòng cụ dấy lên sự mâu thuẫn: vừa muốn con cháu đi lọt cho yên thân chúng nó, vừa muốn vì một lẽ gì đó chúng nó an toàn quay trở về. Trong tâm trạng ấy, thử hỏi cụ không sung sướng khi thấy Thu bế thằng Quỳnh về sao được.

Cho con ăn uống, tắm rửa xong, Thu đi ngủ. Nàng trằn trọc trông thằng Quỳnh chóng hạ sốt để sớm mai lên đường. Phía bên kia bức màn, mẹ Hải ư ử ru cháu, tiếng ru buồn như tiếng mõ khuya hôm. Nằm một chập, Thu nhổm dậy, thắp đèn để lên bàn, tẩn mẩn lục lại mớ giấy nháp Hải viết nhạc. Nàng có cảm tưởng là Hải còn luẩn quẩn đâu đây. Những nốt nhạc thẳng cứng bỗng như hiện hồn bốc thành giai điệu day dứt toát từ cây vĩ cầm của Hải. Một chập, Thu gục xuống bàn, chập chùng hình dáng chồng trong bao la đại dương.

Sáng hôm sau, Thu tỉnh giấc vì một tiếng động nhỏ trên bàn. Mẹ Hải đang rót chè ra tách, khuôn mặt cụ hốc hác:

- Nó cứ sốt con ạ, biết tính làm sao.

Thu dụi mắt, nàng ái ngại vì suốt đêm đã ngủ thẳng giấc phó mặc thằng bé cho bà cụ. Thu nói:

- Chắc nó lên sởi đấy, ít hôm là khỏi thôi mẹ.

Bà cụ bảo:

- Mẹ cũng nghĩ thế. Nhưng thế thì con đi làm sao được?

Thu lưỡng lự không biết tính sao. Nàng ra sân, tần ngần bên lu nước. Tiếng thằng Quỳnh khóc, nhai nhẳng. Tiếng khóc của con bỗng giúp Thu quyết định, nàng nói vọng vào:

- Hay cứ để bố con anh ấy đi trước thôi, mẹ ạ.

Bà cụ cũng đang nghĩ thế, nghe con dâu nói giống ý mình, cụ gật đầu:

- Chỉ sợ...thôi, phó mặc số trời.

Ừ, thì Đảng định nhưng trời tính. Nàng ngồi ghé lên mép giường, mân mê cọng chiếu lò thò trên đường chỉ sút. Cả nhà, chỉ cái giường ba-xà nầy là vật có giá. Hải đã chạy vạy tranh thủ lắm mới mua được cái giường quốc doanh hồi mới đẻ con bé Ngọc. Nàng đỏ mặt nhớ hôm Hải đem cái giường về, lui cui tìm chỗ đặt giường, rồi đùa bảo vợ:

- Cái giường nầy mới là...giường tân hôn thứ thiệt.

Từ ngày cưới, vợ chồng Hải chỉ ngủ trên chiếc giường tre kẽo kẹt. Một cái giường ba-xà vẫn là ước mơ thầm kín của hai vợ chồng, bởi nó vừa chắc, lại không bao giờ có tiếng ọp ẹp nghe mà đỏ mặt. Thằng Quỳnh là sản phẩm đầu tiên của cái giường này, đúng như “lời hứa” của Hải. Chàng bảo vợ, khi ấy Thu đang mang thai thằng Quỳnh:

- Nhà nước ta cái gì cũng tệ, duy có làm cái giường là tốt. Đó, em thấy không, thảo nào dân số nước mình không tăng.

Thu nhéo vào đùi Hải, gắt yêu: “Làm bố rồi mà không đứng đắn cho con nó cười cho đấy”. Thời gian cứ vùn vụt trôi qua, hạnh phúc trôi theo mau vóc dáng ngày mỗi cứng cáp của thằng Quỳnh. Thu biết Hải sẽ đi, sẽ không chờ mẹ con nàng vì chàng hết cả lối về rồi. Nàng sẽ cô đơn trên chiếc giường kỷ niệm, trên cái gia sản quý báu mà cả một đời chàng mới để lại được. Nước mắt Thu chảy dài, đổ xuống cái đầu đen nhánh tóc của thằng Quỳnh.

Sáng ấy, nhà có khách. Khách đứng lâu lắm trước ngõ, ngắm Thu đang ngồi day lưng đun nước nấu chè. Tấm lưng dài thon thả của mẫu người thắt đáy lưng ong khiến lòng khách bỗng xao xuyến, tần ngần. Chừng như thấy cứ đứng mãi như thế bất tiện quá, khách đằng hắng, giọng nói không giấu được vẻ rụt rè:

- Chị Thu...vậy mà tôi cứ tưởng.

Thu nhận ra Cường ngay. Đôi má hồng lửa đỏ của nàng càng làm long lanh ánh mắt khi biết có tin chồng. Thu hối Cường lên nhà trên, đun thêm củi cho nước mau sôi rồi chế vô bình. Nàng hối bà cụ dậy, ríu rít:

- Có anh Cường đem tin chồng con đấy, mẹ.

Cường vui lây cái xoắn xuýt của bà cụ. Anh chậm rãi nói:

- Trước khi anh Hải lên thuyền, có dặn tôi tìm cách đưa chị đi. Thiệt là may quá.

Thu hỏi:

- Anh bảo “tôi cứ tưởng” là sao?

- Không thấy chị và cháu xuống, anh Dũng tôi đoán có lẽ chị bị bắt trên đường, may không phải thế!

Bà cụ chen vô:

- Anh nó tính đưa mẹ con thằng Quỳnh đi luôn à?

- Dạ, đó là ý anh Hải. Cháu đã chuẩn bị hết cả rồi, chỉ đưa chị và cháu xuống bãi tập kết là nhổ neo ngay.

- Thế đã có tin gì của nhà tôi chưa?

- Dạ chưa, nhưng thế nào mà chả lọt, bị bắt là ta biết ngay.

Cường ung dung uống trà, thái độ có vẻ tự tin trước trạng huống nhiều bất trắc đang chờ trước mặt. Anh lặng lẽ ngắm Thu, thầm khen sắc đẹp kín đáo mà mặn mà của nàng. Tóc thu cắt ngắn, sóng mũi thẳng khiến khuôn mặt nàng có vẻ gì mơi mới sang trọng dù chiếc áo đang mặc đã cũ sờn. Mỗi lần xoay qua phía bà cụ nói chuyện, nàng để lộ cái cổ trần phơn phớt lông măng. Cường bỗng có ý nghĩ là Hải phải gặp điều gì khó khăn lắm trong cuộc sống, chứ không dễ gì một người đa cảm như Hải lại dễ dàng để người vợ trẻ đẹp ở lại mà ra đi một mình.

Tám giờ tối, Thu bồng thằng Quỳnh đổ bộ xuống con thuyền chiều dài bốn mét, chiều ngang một mét rưỡi. Trời mưa phùn buồn bã, gió lồng lộng thổi tưởng chừng trong giây lát cánh buồm có thể rách nát như tờ giấy mục ngâm trong nước. Thu hoảng sợ khi đặt chân lên thuyền, áo quần nàng thấm ướt nước biển vì phải lội một quãng ngắn, nàng cảm thấy cổ khô đắng như đi giữa ngày tháng hạ dù trời đang mưa. Cả thuyền đều im lặng, đến trẻ con cũng câm miệng hến, nín thin thít. Bầu trời vần vũ khiến có người muốn đổi ý, trèo xuống thuyền không đi nữa. Nhưng Cường không để những tư tưởng thụ động kịp thời hành động, anh căng buồm chạy. Ngoài Cường là tài công chính, trên thuyền còn có Đặng cũng rất có kinh nghiệm về đường biển. Hai người thay nhau lái, lòng tràn ngập lo sợ. Họ không sợ sóng dữ vì đã tiên liệu được thời tiết, họ chỉ lo ngại bị chận bắt bất ngờ. Gần hai tiếng đi trong mưa, cả Cường và Đặng đều bắt đầu thấy hai hòn Đầu Tán và Đảo Tần, nơi có bộ đội tuần biển rất gắt. Họ đưa thuyền đi vào giữa hai hòn núi, êm ái như bóng ma xuyên lách trên đại dương. Có lẽ thời tiết xấu nên không gặp một tàu tuần duyên nào cả. Đặng lên tiếng:

- Trời sắp nổi cơn cố ông ạ.

- Sao ông biết?

- Theo kinh nghiệm đi biển, lát nữa trời sẽ tối đen như mực, gió cỡ cấp 9 chứ chẳng chơi.

- Tìm chỗ núp à?

- Núp ngay. Thuyền ta bé quá.

Cường tán thành. Anh cho thuyền bỏ xa một quãng nữa, rồi quay đầu nhắm hướng đảo Yên Tử. Quả nhiên, dự đoán của Đặng hoàn toàn đúng. Những luồng gió mạnh hùng hục xé trời đen, đánh rách cánh buồm tơi tả. Cường và Đặng hò hét khan cả cổ, vừa hội ý, vừa trấn tĩnh bà con trên thuyền. Họ chống chọi tới sáng thì trời dịu. Bằng kinh nghiệm, Đặng nói gió chỉ độ cấp 4, lại là gió nam rất thuận tiện cho việc tiến về hướng bắc. Đặng cho thay buồm, trong khi Cường ngồi nghỉ mệt, giở cơm ăn. Mấy thanh niên bây giờ mới lại hồn, tán kháo. Riêng Thu say sóng đến mửa mật, nàng lấy làm lạ là thằng Quỳnh vẫn tỉnh bơ như không hề hay biết chuyện gì. Nàng bỗng ao ước sống lại những ngày thơ ấu, bằng tâm hồn trẻ thơ không biên giới để nhìn đời bằng đôi mắt thong thả. Nàng ôm con vào lòng, có cảm tưởng cả hồn và xác nàng đã mất trọng lực và phiêu diêu giữa hư không. Buổi sáng nhẹ như tơ trời lang thang dưới nắng, sương mờ lung linh một màu trắng nhợt vừa lạnh, vừa hư ảo bồng lai. Những chỏm núi thình lình hiện ra, rồi khuất nhạt đây đó nhúm vào lòng Thu một sự bình tâm lạ kỳ. Nàng ước có Hải bên cạnh để cùng chia sẻ cái tâm cảm bình yên đang có. Nàng tưởng tượng khi nhìn thấy cảnh này Hải sẽ lặng lẽ ngồi hút thuốc, trước mặt chàng mở ra tập vở ghi nhạc, và Hải sẽ rót xuống những giai điệu thoang thoảng như hương biển, hoặc trồi lên một siêu âm hết vượt cung đàn. Nàng sẽ sung sướng tựa đầu vào vai Hải, lắng nghe từ môi chàng thoát ra những âm thanh chàng đang trau chuốt, rồi khi đạt được một câu đắc ý, chàng sẽ nghiêng đầu hôn nhẹ lên tóc nàng... Cứ như là tiểu thuyết vậy, mà cuộc đời chỉ là chương sách dở, không làm gì có tấm phông đẹp bôi lên một kết cấu vẹn toàn và chặt chẽ như ý nàng muốn. Thành ra, phải trở về với hiện thực gần đây, với sóng, với gió, rất đỗi não nề.

Từ phía đầu thuyền giọng một thanh niên bình phẩm, phá tan cái không khí trơn tru buổi sáng:

- Cứ như thế này đi đến Hồng Kông thì thích nhỉ!

Dường như lời ước của người thanh niên được nghe thấy nên thuyền cứ êm ru thuận gió lướt phăng phăng trên biển. Cường đã nấu xong nồi cháo, vất vả tìm chỗ đặt chân lên con thuyền chật cứng để phân phát. Nhìn bà con xì xụp húp, anh liên tưởng đến cũng độ thời gian này năm ngoái, anh lên chợ Sắt ở Hải Phòng tìm mua những món cần thiết cho chuyến vượt biển. Cường gặp từng toán ăn xin từ tỉnh lẻ do công an chở lên đi ăn xin. Hình ảnh những người ăn xin không phải là già yếu hay tật nguyền mà phần lớn là thanh niên trai tráng có sức vóc mạnh khỏe gợi cho Cường một ý nghĩa khôi hài chua chát. Những thanh niên đi ăn xin không chút ngập ngượng vì được nhà nước cấp giấy y như “môn bài” kinh doanh, họ đi đi đến từng sạp hàng, kéo vào quán ăn, tranh thủ húp đồ ăn thừa hùng hổ như lính ra trận vì giấy phép ăn xin chỉ có một tuần và không được gia hạn.

Cường đưa thìa cháo cho Thu, cảm thấy áy náy khi đứng trước một người đàn bà xinh đẹp. Anh hướng tia nhìn đi chỗ khác, không muốn Thu lúng túng khi mút mút chỗ cháo còn sót lại trong thìa. Tuy không nhìn nhưng Cường cũng “thấy” một nửa mái tóc Thu buông xuống che một bên mặt, hàng lông mi dài của nàng cong vút như hứng được cả không gian xao động những sương mù ảo ảo trên biển. Nắng xuyên qua thuyền, rớt trên tóc Thu một ánh hào quang, hồng hào óng ả. Cường đỡ cái thìa từ tay Thu, một ý nghĩ kéo đến khiến anh cảm thấy ngượng ngập. Tâm trạng anh lúc ấy là tâm trạng của một thanh niên mới lớn, dễ xúc động trước phái đẹp và lòng tràn ngập những mông mơ có từ sách vở.

Bỗng tiếng Đặng từ đầu thuyền vọng xuống:

- Cường lên đây tớ hội ý tí coi.

Khuôn mặt Đặng nhuốm màu lo âu, Cường đọc được điều đó. Từ phía chân trời, một cụm mây đen đang di chuyển nhanh như cái chảo lớn lướt trên trời. Đặng bảo:

- Trời sắp nổi cơn cố ông ạ!

- Ông chắc không?

Đặng đáp lại:

- Theo kinh nghiệm. Bây giờ mình nên tiến ra hay tiến vào đây?

Cường chau mày, quyết định của hai người có thể đưa ngần ấy nhân mạng hoặc trở về bến cũ để vô tù hoặc ra khơi rơi vào vực thẳm. Cường bàn:

- Hay cứ neo thuyền ở đây, nếu trời nổi cơn cố thực sự thì mình vào, không thì cứ tiếp tục đi.

- Nhưng neo bao lâu mới được chứ?

- Đây mới là vấn đề. Ông cứ thả neo, tôi cho bà con ăn xong rồi tính.

Thuyền neo đến chiều thì gió bắt đầu nổi lên. Cả Đặng lẫn Cường đều hiểu họ đang neo giữa hai bờ định mệnh. Bỗng thuyền lắc mạnh một cái, cả thuyền ré lên sợ hãi. Cường nói:

- Mình về thôi.

Đặng hét, gió thổi mạnh khiến anh không rõ ý kiến vừa rồi của Cường:

- Cái gì?

Cường hét trả:

- Nhổ neo về!

Khuôn mặt vốn tái của Đặng đỏ rần. Cường nghe rõ từng lời của Đặng, át cả tiếng gió:

- Không! Chết cũng đi.

Đặng ra dấu nhổ neo, nương thuyền ra biển. Hơn ai hết, Cường hiểu quyết định liều lĩnh của Đặng. Vốn là bộ đội nhưng bị xuất ngũ vì kỷ luật khi trốn không qua Cam Bốt, Đặng đã sống những ngày khốn khó nhất suốt chiều dài đất nước. Đặng biết nếu trở về, anh sẽ tiếp tục sống cuộc đời của con chó hoang. Chỉ có tiến về phía chân trời đang đen kịt mây đen kia, và cỡi trên phong ba cuồng nộ của biển khơi, Đặng mới còn hy vọng sống cho ra một con người. Dưới màu nước xanh biếc, xanh thẳm, giữa chân trời đen tối không chút ánh sáng đằng trước mặt, Đặng nhìn thấy một tia sáng lẻ loi kêu gọi anh đến.

Cường chợt nói:

- Người ta kéo về kìa.

Chừng non chục thuyền chài đang vội vã chạy ngược hướng thuyền của Đặng. Khi hai bên đã ngang tầm nhau, thuyền bên kia có tiếng hét hỏi:

- Về thôi. Trời đang nổi cơn cố đấy!

Cường nhanh nhẩu trả lời:

- Chúng tôi đang tìm chỗ trú đây.

Trả lời xong, Cường bàn với Đặng:

- Mình phải vờ quay mũi, không họ nghi về báo công an rượt đấy.

Nếu cứ hướng ra biển giữa phong ba thế này thì chỉ có đi vượt biên, thế nào trong đám thuyền vừa rồi cũng có người báo. Mũi thuyền lệch đi một góc, Đặng làm như thế như chứng tỏ mình đang cố gắng cho thuyền đi vào bờ. Mưa rơi những giọt lất phất ướt lạnh. Đặng cảm được những giọt nước mưa bắn vào mồm mỗi khi anh há miệng nói với Cường. Trời tối sầm lại, có nhiều lúc thuyền như nằm lọt dưới đáy vực và hai bên là mỏm sóng dựng cao như tường thành. Trong một lúc Đặng có cảm tưởng là mình không chủ động được con thuyền. Tiếng đàn bà con nít than khóc vang rân hòa với tiếng sóng làm nên bản ai điếu chết chóc. Cường nói:

- Về thôi ông...

Đặng chưa kịp trả lời thì anh bỗng có cảm tưởng là người anh bay bổng lên trời, hai bàn tay rắn chắc đang giữ cần lái sút ra. Anh cố ghìm một tiếng thét thất thanh khi nhận ra trong tích tắc cả chiếc thuyền bị hất ngược lên không như chiếc lá bay trên những đợt sóng đang nham hiểm cười bên dưới.

3

Những cây hương cháy đỏ hực hực. Đêm đang gần về sáng, đêm trong một khối huyền, đêm sạch cả dòng nước. Vũ trụ lồng lộng úp xuống lòng biển xanh, úp xuống những con người thoi thóp thở trên những đầu hương hy vọng cháy.

Hải nằm ngửa trên nóc thuyền. Từ cao, những vì tinh tú hững hờ lấp lánh. Tiếng cầu kinh, mùi hương thoang thoảng vào mũi, xông lên tận não...rồi bỗng như Hải trôi bồng bềnh vào một cõi vô trọng lực, cảm thông sâu sắc sự sinh động của vũ trụ, sự bé nhỏ của con người trước bao la và bóng tối. Con người, dân tôi, và Hải, chạy trốn từ một đất nước hữu hình này đến một đất nước hữu hình khác. Cuộc hành trình tưởng dài bất tận đối với sức trần của bàn chân bé nhỏ, tưởng chừng cả đời người chỉ mong đạt được cái thành tích ghê gớm đó. Nhưng thực ra khi nhìn lên cái vũ trụ không bến bờ trên cao kia, khi vầng trán chạm vào hư vô cùng bất tuyệt thì sự lao nhọc, những tranh giành, những kèn cực vất vả suốt kiếp người cũng không bằng con số không của hư không bình thản vẫn luôn ở đó nhưng không ngừng biến chuyển. Hải thương cho mình, thương cho bàn tay người nhỏ bé muốn cất giữ nhiều thứ nhưng không bao giờ cất giữ được hư vô. Hải thương cho người vợ trẻ không vượt được một trạm kiểm soát, Hải thương cho sự bất lực của con người, tâm thức Hải như đang ở nơi cao nhìn xuống thấy mình vượt qua mọi chướng ngại vật nhưng thịt cứ cù nhầy ở mãi một nơi.

Hải bỗng muốn rũ bỏ tất cả, những ước mơ thực tại và cả luôn quá khứ. Chàng muốn con thuyền cứ lặng lờ tắt máy và có trôi đến đâu cũng đành để tâm hồn phiêu diêu cùng ảo ảnh. Thì đúng lúc ấy, tiếng máy thuyền nổ hục lên giòn giã. Hải nhổm dậy, bàng hoàng nhận ra mình vừa trải qua một phút giây rất thực với con người chàng. Bọt sóng trắng tung tóe đằng sau, vút lên giục giã cùng tiếng reo hò của mọi người. Hải nghe tiếng Dũng hò hét gì đó bên dưới, một lát thấy Dũng ló lên cười rạng rỡ:

- Chắc lọt rồi ông ạ. Kìa, ông xem!

Hải nhìn theo tay Dũng chỉ. Hướng đông, một vùng sáng đỏ nhạt hiện lên cuối chân trời. Ánh sáng như mọc từ mặt nước loang loáng tĩnh lặng. Con thuyền từ bóng tối tiến về phía mặt trời đang mọc. Ánh sáng càng lúc càng tỏa rộng. Những cụm mây trắng pha sắc hồng nằm chết trên cao xúi vào lòng người đi sự thúc giục và hứa hẹn đẹp đẽ. Hải nhìn đăm đăm mặt trời nhỏ như quả hồng đang trồi đầu lên từ mặt biển, hỏi:

- Mình đi tới đâu rồi ông nhỉ?

Dũng ngắm bốn bề chỉ thấy chân trời, rồi thò đầu vô mui hỏi vọng:

- Chắc tới hải phận rồi ông nhỉ?

Lão Mục chậm rãi từ trong mui chui lên đứng trước mũi thuyền, hai chân xoạc ra với dáng vóc của một thuyền trưởng nhà nghề nói:

- Tới rồi.

Cả thuyền dồn ra ngoài, tất cả đều quơ tay reo hò mừng rỡ. Hải thấy Sương đang len lỏi chen lên đầu thuyền, tay nàng nắm chặt vào mạn như sợ ngã dù lúc ấy biển rất êm. Lão Mục đến bên con, thầm thì giảng giải điều gì đó. Sương nhìn đăm đăm lên bầu trời sáng xanh thăm thẳm, rồi cúi xuống đo lường sự thẩm nhập của màu trời trong đáy đại dương. Có lẽ nàng đang thực tập kiến thức khoa học căn bản mà nàng đã lượm được ở đâu đó, chẳng hạn như màu xanh của biển đồng bộ với màu xanh của trời. Lão Mục thình lình quay lại nhìn Hải khiến chàng ngột ngạt có cảm tưởng bị lão bắt gặp ý nghĩ của mình về Sương. Nhưng may quá, lão Mục cười hiền hậu. Hải trèo xuống mui theo cái ngoắc tay của lão:
- Cháu nghe Dũng nói về ông nhiều.

Lão Mục cười hà hà:

- Cái gì thế?

- Dũng bảo ông sành biển lắm. Cả thuyền chỉ trông vào mình ông đấy thôi.

Nghe tiếng đàn ông, Sương quay lại, đôi mắt nàng mở to nhìn Hải không chớp:

- Cô đây là con gái ông? Hải hỏi, hơi ngạc nhiên không thấy Sương chào lại cái gật đầu của chàng.

- Vâng, tôi có mình nó thôi.

Lão Mục âu yếm nhìn con, chợt cằn nhằn:

- Ấy, áo con rách hồi nào thế?

Lão lật tay áo Sương nhìn vết rách dài nơi cổ tay, ngẫm nghĩ:

- Lại bị cái gì móc vào rồi, may không sướt vào tay đấy

Sương “dạ” nhỏ, dường như không quan tâm lắm đến lời phê bình của cha. Lão Mục lại nói:

- Chắc cũng sắp đến bờ đấy thôi. Để bố khâu lại cho nhé.

Hải suýt phì cười. Ai đời con gái lớn thế mà con để bố khâu áo cho. Nhưng Sương thản nhiên nghe bố nói, nàng hơi mỉm cười với Hải rồi lại tì người vào mạn thuyền nhìn ra biển. Mặt trời đã lên cao, thuyền êm ả lướt. Hải có cảm tưởng mình đang tham dự một chuyến du lịch. Lão Mục vào cầm lái thay Dũng, dặn:

- Con đứng đây chơi nhé.

Chờ lão Mục đi, Hải cười nhỏ:

- Bố cưng Sương quá nhỉ!

Sương đáp:

- Bố chỉ có mình em thôi mà.

Nàng nhìn chân trời không chớp. Ánh nắng soi lên khuôn mặt rám hồng của nàng rực rỡ. Một lúc, mồ hôi bắt đầu đọng trên trán Hải, lăn xuống mắt cay sè. Trong phút chốc, Hải hình dung hình ảnh Thu đang bế thằng Quỳnh đứng trước cửa nhà, đôi mắt nàng dõi trông ngóng đợi tin chồng. Rồi Hải lại tưởng ra dáng mẹ chàng đang quỳ gối lẩm nhẩm đọc kinh. Hình ảnh của vợ con, mẹ già, chập chờn theo sóng nước lăn từ thân thuyền, có lúc như chạy theo chàng, có lúc như đứng lại nhìn theo chới với. Cái khoảng cách vô cùng từ nơi Hải đang đứng, hải phận quốc tế - Ô! Mình đang ở một nơi gọi là quốc tế rồi đến mái nhà thật rất đỗi xa lắc xa lơ trong lòng Hải. biết đến thuở nào chàng lại được dầm mình trong cơn mưa bấc lạnh, trở về trong buổi chiều buông nào đó, và tâm thức thật an bình với bản trường ca đang dậy trong hồn.

Cơn thao thức theo Hải đi vào giấc ngủ. Buổi chiều, hoàng hôn thấm đỏ màu máu tươi. Rồi màu đó tắt đi chầm chậm trả cho bóng tối quyền ngự trị. Thuyền trôi, tiếng máy nghe chừng như mỏi mệt. Đột nhiên, tiếng báo động của Dũng vang lên:

- Có ánh đèn.

Lão Mục hét:

- Giảm tốc độ. Neo thuyền!

Động cơ rú lên một tiếng nổ bình bịch cầm chừng, có người góp ý:

- Thấy đèn rồi thì chạy tới luôn đi. Neo làm gì.

- Ừ, phải rồi. Đến Trung Quốc rồi đấy.

- Thích nhỉ.

- Hoan hô đồng chí Trung Quốc vĩ đại.

Dũng lên tiếng trấn an:

- Bà con bình tĩnh. Ta neo đêm nay sáng mai đi tiếp ngộ nhỡ đụng phải đá ngầm là tan xác đấy.

Tiếng ồn ào giảm dần. Hẳn tất cả đang chuẩn bị tinh thần cho cuộc đổ bộ ngày mai khi bàn chân giẫm lên xứ lạ. Quê hương xa lắc.

Tờ mờ sáng, thuyền nhích lại gần bờ hơn. Hải đã có thể nom rõ những thuyền tôm của người Trung Quốc đậu ven bờ san sát. Dũng bàn với lão Mục:

- Ông đợi ở đây, để cháu bơi vào bờ xem hư thực ra sao.

Lão Mục cản:

- Khoan đã, vùng Trà Cổ rất giống đất Trung Quốc. Ngộ nhỡ gặp lính biên phòng của ta thì khốn.

Lão Mục cho thuyền chạy dọc theo bờ quan sát. Hải ngạc nhiên khi thấy ngư phủ Trung Quốc thản nhiên kéo lưới dù đã nhìn thấy thuyền vượt biển. Chàng cứ nghĩ là họ sẽ nhào ra đón tiếp nồng nhiệt con thuyền đang tìm bến đỗ. Nhưng không, sự thờ ơ và những cái nhìn cúi mặt né tránh của dân chài khiến tất cả bàng hoàng sợ hãi, không biết điều gì đang chờ đón. Chừng hai tiếng sau, lão Mục quyết định:

- Neo thuyền, chuẩn bị vào bờ.

Hải áng chừng từ chỗ thuyền neo đến đất liền khoảng 100 mét nước. Chàng nói với Dũng:

- Đàn bà trẻ con thế kia!

Dũng ra lệnh:

- Tất cả trẻ con cho lên vai để kiệu, cõng đàn bà để đưa vào bờ.

Những khuôn mặt bỗng xạm đi hồi hộp. Không ai nói với ai một lời nào trước giây khắc đặt chân lên đất lạ. Thì ra là xuất ngoại. Thì ra là xa quê xa nước. Chính là giây phút nầy đây. Hải nhảy xuống nước, hai tay bám vào mạn thuyền lấy thế cho vững. Cũng may mực nước đã nông, chỉ ngang tầm cổ của người đàn ông trung bình. Chàng hối bé Ngọc đang trù trừ chưa chịu bám vào cổ:

- Con bỏ cái cẳng xuống trước. Thế...thế...

Chợt Hải nghe một tiếng “bõm” khiến chàng giật thót người tưởng bé Ngọc hụt chân. Thì ra là một người đàn ông đang hấp tấp phóng xuống, hì hục lội vào bờ. Ở phía sau, tiếng Dũng ơi ới:

- Ế, anh kia, cõng giùm cháu bé này.

Người đàn ông lẩm bẩm:

- Cọng gì, có phại con tui mô.

Có lẽ Dũng không nghe giọng trọ trẹ của gã đàn ông. Anh vỗ về đứa bé:

- Để chú cõng cháu vào nhé. Nín đi nào.

Hai tay bé Ngọc đã nắm chặt tóc Hải, chàng vòng tay ngược ra sau ôm con, ngước mặt nói:

- Giữ chặt nhé...đấy...đâu có sao nào.

Đến bờ, Hải lảo đảo té uỵch xuống. Dũng nói:

- Ấy, say đất đấy. Nghỉ một chốc lại khỏe ngay.

Đất Trung Quốc! Những dãy núi mờ xa xa kia ẩn một điều gì bí mật nhưng trong có vẻ gần gụi quá. Trời đang trở tiết sang xuân, tưởng như mùa xuân hiện vào lòng, nở trên một chặng đường gian khó. Phía xa, sau những rặng cây già rũ lá, những mái nhà nho nhỏ hiền lành hướng ra biển đợi trông người đến. Một tốp người đầu đội nón lá đang cào muối trên bờ. Đàn ông đàn bà đều đội nón đan bằng tranh, nhưng viền nón dài cụp xuống che ngang tầm mắt, khi nhìn họ, Hải có cảm tưởng đây là những nhân vật bí mật trong truyện kiếm hiệp vì khuôn mặt của họ chỉ chừa từ sóng mũi trở xuống. Dù thế, Hải chắc là bọn người cào muối đang theo dõi đoàn người mới đến, những cái cào muối đã ngưng đưa tới đưa lui, chờ đợi. Im lặng. Chỉ có tiếng xào xạc rón rén của những bàn chân dè dặt trên cát. Hải đại diện nói, bằng thứ tiếng Quảng Đông “ăn đong” của mình:

- Lạy chú, cho các cháu nhỏ ít cháo ăn đỡ lòng.

Người đàn ông giơ ngón tay đẩy chiếc nón lên, tựa cằm vào cán cào. Khuôn mặt ông ta rám nắng, khắc khổ. Cả bộ quần áo lấm tấm màu trắng muối. Ông ta đang ngần ngừ thì đột nhiên cả đám người đằng sau đưa cào lên chỉ ra phía biển, ra dấu đã hiểu xuất xứ của đoàn người vượt biển. Họ nhao lên:

- Cai chỉ, cai chỉ? (có nhẫn vàng không?)

Đoàn người mới đến nhìn nhau phân vân. Chợt có tiếng Sương vang lên nhỏ nhẹ:

- Gì thế bố?

Lão Mục nói:

- Họ đòi vàng.

- Ai cơ bố?

Vừa lúc đó đám người Trung Quốc bỗng tản ra, rồi người nào người nấy cắm cúi làm việc như không hề biết có đoàn người mới tới. Hải ngạc nhiên chưa biết chuyện gì xảy ra thì từ đằng xa, một tốp công an Trung Quốc xuất hiện. Trong chốc lát họ bao vây toán Hải. Một người áng chừng là chỉ huy hỏi:

- Ai nói được tiếng Quảng Đông?

Một bà mập nhanh nhẩu:

- Ngộ nè, ngộ nói được.

Viên chỉ huy ra lệnh sắp hàng hai, đếm tới đếm lui số người rồi bảo:

- Xong rồi, mấy nị xuống thuyền đi tiếp đi.

Hải chưng hửng tưởng mình nghe lộn. Có đâu là một sự lạnh nhạt phũ phàng như vậy. Người ta phải reo hò đón tiếp mới phải chứ. Hải nói:

- Chúng tôi là tỵ nạn Việt Nam. Chúng tôi xin các anh giúp đỡ cho mua tí đồ cần thiết rồi sẽ khởi hành đi tiếp đến Hồng Kông. Các anh trông...

Viên chỉ huy ngắt lời:

- Các anh ở đây chúng tôi không chịu trách nhiệm, với lại chúng tôi không có thẩm quyền giúp đỡ. Đến thị trấn kế các anh sẽ được giúp đỡ đi tiếp.

Mọi người đều căng thẳng. Có một người mệt quá ngồi phịch xuống cát, ý muốn nằm vạ. Viên chỉ huy ra hiệu, mấy gã công an khác lập tức nhào tới, xốc nách những người ngồi ỳ áp tải xuống...nước. Không một ai chống cự. Họ chán nản buông xuôi. Dũng hét lớn, gió đưa tiếng nói anh vang vang cuối trời:

- Đi thôi bà con. Thuyền ta còn tốt.

Hải đến cạnh viên chỉ huy hỏi:

- Trước khi đi, tôi muốn biết đây là đâu?

Viên chỉ huy nghiêm nghị nhìn Hải:

- Thị trấn Xương Giang, Hải Nam.

Hải “à” lên tiếng nhỏ ngạc nhiên. Ra là thuyền đã đi chệch ra đảo Hải Nam, vậy mà cả bọn đều nghĩ đang ở đại lục. Chàng bế xốc bé Ngọc cho ngồi lên cổ, chậm rãi lội ra thuyền. Một chiếc thuyền công an vũ trang bỗng xuất hiện cặp sát thuyền vượt biên, những bóng người nhảy qua thuyền lục soát. Khi Hải vừa đẩy được bé Ngọc lên thì họ đã làm xong nhiệm vụ. Có gã còn cúi xuống lôi hộ những người yếu sức. Công an lại đếm số người, báo cáo với viên chỉ huy trong bờ trước khi cho thuyền chạy. Dũng cầm lái, lẩm bẩm chửi:

- Biết thế vào làm gì. Mà sao họ lại đếm kỹ thế hả ông?

Lão Mục đứng bên cạnh, mắt vẫn dõi trông vào bờ. Nắng trưa đổ một màu trắng xuống một bờ đảo Trung Quốc y như một giải đất nào đó mà lão đã trở về trong một lần nào đó ở quê Bắc. Cũng là màu trắng lung linh thơm mùi biển. Cũng những chấm người lù khù trên cát. Rồi những mái nhà cũ sì kiên nhẫn chờ sau những tàn cây. Lão nhảy lên bãi, đi ngược lên dốc dựng ngược, đếm một lối đất nhỏ dẫn về làng, trìu mến ngó con chó đang trằn lưng trên bãi cát rửng mỡ. Xóm làng của lão vẫn nhẫn nhịn mỗi lần lão đi biển về. Lão yêu nó lắm. Lão yêu cái lối nhỏ về làng không kể sao cho xiết. Những mối tình thơ dại vẫn đọng trên dấu chân hằn trên cát bỏng, in trên đất khô, và như có cả mùi gì ấy phưng phức trong gió nữa. Ấy vậy mà lão lại bỏ đi, đôi bàn tay cứng tạo dựng một đời giờ chỉ còn là những cục u nhức nhối. Những cục u quá vãng.

- Hở ông?

Dũng hỏi lại, tưởng lão Mục không nghe.

- Họ sợ có người trốn theo mình đấy.

Nắng đổ đầy thuyền, vương trên tóc, nắng loáng cả chân trời, sóng sánh như làn nước mắt nức nở của người vợ hiền xa xăm khuất nẻo. Hai tròng mắt trắng dã, uất ức ngước nhìn bầu trời đen thẳm những hình thù ma quái, và những rách rưới từ tím thẫm tâm can ứa tràn hai bên miệng, nghẹn ngào. Lão đổ ập trên xác vợ, người khô khốc, không có tiếng nấc nào vang lên trong lão. Thế là hết...một đời. Vợ lão là con người cô độc. Một bận, dè chừng sắp đến ngày sinh nở, lão về đến nhà thì đứa con gái đã ra đời. Vợ lão nằm trên chõng tre, một lò than ngun ngún đỏ bên dưới. Lão ngồi xuống, vuốt đầu đứa bé, rồi cứ thế lặng yên. Người đàn bà vừa làm mẹ giương đôi mắt thao láo nhìn lão, nước mắt lã chã tuôn. Sự cân nín bẩm sinh của người đàn bà đã dẫn lão lại gần, và cũng chính nỗi câm nín ấy lần nữa đẩy lão đi, như một trò chơi ú tim ma quái, vừa thiết tha vừa lạnh nhạt, vừa dung dị vừa lãng mạn. Bây giờ thì người đàn bà đã toại nguyện, đã hoàn toàn câm nín dưới ba lớp đất đen nín lặng, muôn đời...

- Tao đái cho bõ ghé..ét!

Một giọng nói ở cuối thuyền. Rồi nghe tiếng nước chảy tồ tồ. Gã con trai tinh nghịch day mặt về hướng đất liền, vén quần. Có tiếng cười khúc khích đồng lõa của mấy bà trong khoang. Rồi như một thứ bệnh dịch, tiếng cười lan nhanh khắp cả thuyền. Cả Sương cũng chúm chím, cổ vũ một trò chơi thời thơ dại. Dũng vừa lái, vừa nhìn lui lắc đầu:

- Cái thằng, cứ làm mình nhớ hồi đi học, ghét ông thầy nào là thế nào cũng tìm cách tưới vào nhà ông ta.

Hải góp chuyện, mắt nheo lại vì ánh nắng. Cái bóng lão Mục đứng đầu mũi in sắc trên bầu trời xanh lơ.

- Ấy, ai bảo ông là kẻ đàng hoàng tử tế đâu nào.

Hải có cảm giác an bình. Chàng hình dung chẳng mấy chốc sẽ vượt qua eo biển Lôi Châu, rồi cứ thế dọc theo bờ mà đến Hồng Kông. Cuộc đời sẽ mở ngõ ở đấy, bao ước vọng sẽ tuôn ra, lao vun vút theo tiếng gọi mơ hồ từ những phương trời xa thẳm.

Bầu trời đã sang màu tím thẫm. Những cụm mây lặng đứng sẫm đặc như một rừng hoa sim tím nghẹn ngào. Hoa sim in trên nước, rung rinh từng cánh nhỏ xô vào bờ. Những kiếp người trùng trùng theo nhau, tựa như cảnh sống ngày hôm nay đã có từ muôn kiếp trước. Tất cả với tâm hồn ngưng đọng, đi tìm những huyễn tượng không bao giờ hiện hữu, bị thúc giục bởi chính những dục vọng ẩn kín trong ngách ngõ linh hồn mà tưởng là điều gì cao vời vợi, xô đẩy nhau lăn về phía trước. Phía con người. Chỉ có hoàng hôn bàng hoàng. Một hoàng hôn tím sẫm. Tím vô cùng. Không có tự do. Không có con người. chỉ có một màu tím thuở hoang sơ, đổ dần xuống, đổ dần xuống, nhọn như một mũi dao cắt, đâm vỡ những vết thương đau nhức mang theo từ dặm cũ.

Hải ngồi yên lặng như thế sau đuôi thuyền cho đến khi cả không gian tím ngắt màu tối. Bé Ngọc say sưa ngủ trong lòng, hai hàng mi nhắm nghiền, một bình an trông thấy. Chàng nhìn hộ con những vì sao sóng sánh nước loi ngoi giữa muôn trùng cô độc. Những giọt nước đang rỏ xuống đời chàng đang bập bềnh trên sóng, đã rỏ xuống những đêm ở quê hương ngửa mình trên bãi cỏ cùng người tình thi đếm những vì sao.

Hải có một đêm nồng hương đất.

Người con gái ngả đầu lên cánh tay Hải, nghiêng mặt lắng nghe chàng đang hồi tưởng một quãng đời xanh ngắt thơ ấu. Nàng cười rung rúc, vuốt ve bộ ngực căng phồng sức sống của người yêu. Hải kể đến bài học về tên các vì sao định hướng, dẫn dắt người thủy thủ đi đúng nẻo đường, dẫn tới một tương lai ước định. Chàng miên man tưởng tượng thay nàng những cõi trời xa thẳm. Nàng dụi mặt vào cổ chàng. Mùi lúa chín ngào ngạt khiến Hải ngây ngất. Chàng chưa bao giờ sung sướng như thế. Nàng là cô giáo trẻ mới ra trường với những ước mơ dung dị như đồng cỏ, như hương lúa, như màu tím bông cà mượt vườn sau. Chàng chợt dấy lên sự thèm muốn, tuổi trẻ nung nấu trong lòng như bếp lửa ngày xuân, hừng hực, hừng hực... Chàng siết chặt thân hình mảnh mai của nàng, tê dại. Hạnh phúc thật gần, trong tầm tay. Chàng chưa nếm thử vị ngọt của tình yêu, đầu đời, bao giờ, mãi mãi.

Một tia sáng mơ hồ đâu đó hắt vào mặt khiến Hải nhắm mắt lại, lắc lắc đầu. Dĩ vãng tan đi.

- Đến đâu nữa?

Có tiếng càu nhàu. Trong đêm tối, mọi cặp mắt đều giương lên ngó vào bờ rưng rưng những ngọn đèn vàng. Hải nghe giọng Dũng nói với lão Mục:

- Ông coi thuyền để con vào bờ tham quan thử. Một chập, cái bóng đen thui thủi của Dũng phóng ùm xuống nước. Cả thuyền im lặng hồi hộp chờ Dũng mang tin về. Thuyền neo. Sóng êm ả vỗ bành bạch vào thuyền, mơn man những dịu dàng ru ngủ. Những vì sao nức nở gọi sầu.

Nàng cuồng nhiệt hưởng ứng. Nhưng khi bàn tay Hải vừa cởi tung hàng nút áo thì nàng đẩy ra, năn nỉ:

- Anh Hải, mình chưa cưới. Em...

Hải nói, hơi thở nóng bỏng:

- Thì mình sẽ cưới. Thu... Anh yêu em...

Thu để yên cho Hải hôn lên ngực, rồi dứt khoát đẩy bật Hải ra, van vỉ:

- Anh...đừng...Không còn bao lâu nữa...

Người Hải muốn nổ tung trong cơn thèm muốn. Chàng tự nhủ, ừ, chẳng còn bao lâu nữa. Chàng nhìn Thu cài lại khuy áo, gò ngực trắng nõn của nàng phập phồng phơi ra từ chút ánh sáng mơ hồ nào đấy chẳng còn bao lâu nữa chàng sẽ theo đoàn đi biểu diễn cho các chiến sĩ đang đồn trú ở biên giới, chàng sẽ phải bóp óc cho lòi ra dăm bài ca chống bành trướng, ca ngợi hình ảnh hào hùng của bộ đội ở tuyến đầu. Chàng sẽ về lại thành, sẽ chung sống đời đời với Thu. Nào có bao lâu nữa mà nôn nả.

Hải đi qua những bản làng xơ xác. Cuộc tấn công chớp nhoáng của bộ đội Trung Quốc đã cày nát những thôn xóm yên lành suốt những năm dài của cuộc chiến tranh giải phóng. Vài con chó đói sủa ăng ẳng khi ngửi hơi người, cuống quýt chui đầu vào bụi chuối lòi ra xương đít còm cõi. Những buổi chiều ánh dương tàn trên rừng tím sẫm, xào xạc khúc ai điếu những giọng sầu hoang dã. Trong lòng Hải chẳng dậy lên một nỗi căm thù nào như những lời ca mà chính Hải, và đồng nghiệp của chàng, vẫn bắt bỏ vào sáng tác của mình. Có lẽ khi người ta lặp đi lặp lại hoài một lời ngữ thì ý nghĩa ban đầu của nó không còn nguyên vẹn nữa. Có lẽ cuộc chiến này không nhắm vào những người như Hải như những con chó đang đút đầu vào bụi chuối ngây ngô chổng mông ra ngoài.

Rồi Hải về. Mùa thu lại tắm đẫm sương đêm. Nhưng mùa thu không còn là mùa thu, lá không rụng để nuôi mầm nhú. Thu nói, mặt cúi gầm:

- Anh tha lỗi cho em!

Lòng Hải sung sướng. Hẳn Thu phải nhớ nhung nhiều lắm nên mới vò võ xanh xao đến thế. Chàng sẽ xin cưới nàng, chàng sẽ sáng tác một tình khúc thực sự ca ngợi tình yêu, chàng sẽ...

- Em không đáng...

- Anh không hiểu?

Thu bật khóc. Một chiều sau giờ tan học, Thu lúi húi sắp xếp đồ đạc chuẩn bị ra về thì bỗng dưng nàng có cảm giác đang bị nhìn trộm. Một bóng đen vụt qua cửa sổ đứng choáng ngay cửa lớp. Lão hiệu trưởng.

- Cô giáo về trễ thế.

Thu thủ thế:

- Đồng chí cũng chưa về cơ à.

Lão hiệu trưởng cười híp mắt. Thu trong phút bối rối khi đối đầu với lão hiệu trưởng trong cảnh trường vắng vẻ, đỏ bừng mặt. Khóe mắt nàng long lanh ướt rượt khiến lão ngây ngất. Nàng la lên khi thấy lão hiệu trưởng khép cửa:

- Đồng chí làm gì thế?

- Chiều anh tí mà.

Lão hiệu trưởng xông lại, hùng hổ như con hổ đói vồ mồi. Lão cười sằng sặc điên dại, bàn tay chuối mắm xòe ra đè vật Thu xuống, thân hình lão tong teo nhưng mạnh như khối sắt nguội mặc cho Thu la gào, quẫy đạp. Lão hào hễn:

- Anh sẽ...anh sẽ...

Nước mắt Thu ứa ra khi một tay lão đè nghẹt trên cổ, nàng sắp ngất đi. Nếu biết, nếu biết...Hải! Nàng đã làm ô uế nơi thiên đường thánh thiện, ngay trước bảng phấn rao giảng luân thường.

Hải lặng im nghe Thu nói. Đôi mắt chàng hắt ra tia hằn học. Thu sợ hãi níu tay Hải:

- Anh...

Nàng ôm mặt khóc nức nở. Hải đã nằm dài trên cỏ, những thớ thịt giựt giựt. Lòng quặn thắt. Có gì đâu, có gì đâu. Nếu cái đêm hôm đó... nhưng ích gì. Ừ, Thu vẫn yêu chàng. Thế là đủ. Những vì sao ngắc ngoải ứa tràn, sóng sánh màu nước vỡ. Hương lúa vẫn ngạt ngào nồng thắm, hương lúa của ngày xưa...

Hải cúi xuống ngắm bé Ngọc say ngủ. Một chân chàng tê dại vì thân hình đứa bé đè lên. Chàng đau nhức tự hỏi không biết Ngọc có phải con mình. Không, ai cũng bảo nó có mái tóc dầy nghệ sỹ như chàng, còn vầng trán phẳng phiu của bà nội. Nó phải là kết tinh tình yêu trung hậu giữa chàng và Thu. Hẳn là như vậy.

Giọng lão Mục gắt nhẹ ở đầu thuyền:

- Cẩn thận nghe. Nó tóm thì khổ.

Hai thanh niên đang chuồi mình xuống nước, lẻn lên bờ thám thính. Trời đã về khuya. Cơn sốt ruột của những người còn trên thuyền giảm dần. Đã có tiếng ngáy ngủ. Hải cũng ngả người dựa vào be thuyền, mơ màng một vì sao xa thăm thẳm.

4

Tia nắng nong nóng rọi vào mặt khiến Hải mở mắt, đầu nhưng nhức nhưng hơi lạnh buổi sáng còn cóng cả đầu ngón tay. Chàng ngạc nhiên thấy bé Ngọc thản nhiên ngồi bó gối, ngó đăm đăm vào bờ. Vừa lúc những chiếc thuyền đánh cá Trung Quốc bỗng đâu từ tứ phía xô lại vây quanh thuyền. Họ chỉ chỏ nói cười, rồi ra dấu muốn mua vàng. Dũng đứng trên mui, hò hét:

- Mua đồ bà con ơi, ta ăn Tết lớn trên đất Trung Quốc một phen chơi.

Hải sực nhớ hôm nay đã là 28 Tết. Thảo nào người Trung Quốc có vẻ tưng bừng nhộn nhịp. Họ đổi chác, mặc cả, lắc đầu, gật đầu loạn cả lên. Đang hồ hởi đổi chác thì có người hô lên báo động, một chiếc tàu chiến công an xộc tới. Chiếc tàu hú còi đuổi thuyền đánh cá đi rồi quăng dây qua thuyền Hải, ra lệnh cột dây vào mũi để họ kéo. Dũng chỉ vào ngón tay đeo nhẫn, nói với:

- Chúng tôi có vàng, cần đổi dầu.

Viên công an nheo mắt, gật đầu. Chiếc thuyền bị kéo phăng trên biển, dọc theo bờ. Chí, thợ máy, cau có:

- Mả mẹ, nó kéo căng thế khéo vỡ cả thuyền.

Thuyền chạy qua những xóm chài lưới lục đục nhà tranh, ngư dân áo quần rách rưới ngẩn ngơ nhìn, có người đưa tay vẫy bâng quơ. Mãi chừng bốn tiếng sau, Hải nhìn thấy một thành phố khá lớn với cao ốc tân kỳ ngấp nghé trên bầu trời. Ai đó reo lên, phấn khởi:

- Nó cho mình vào đây thì thích nhỉ.

Tàu công an hướng mũi chếch vào bờ. Thoáng chốc, chiếc tàu sắt cập vào cầu tàu. Dăm kẻ trên bến như đã được lệnh sẵn, quăng dây qua thuyền buộc vào trụ sắt. Một viên công an nhảy xuống thuyền giải thích:
- Các anh không được lên bờ. Cần gì bảo chúng tôi.

Viên công an không mang quân hàm nhưng có vẻ là người chỉ huy bến cảng. Đầu ông ta hói khi cái mũ cát két nhổm lên vì một cơn gió bất ngờ thổi tới. Ông ta yêu cầu đếm số người. Dũng đột nhiên giãy nẩy khi mới đếm được một nửa nhân mạng:

- Địch mẹ, nhẩy dù hử!

Mọi người đổ dồn mắt về phía người thanh niên Dũng đang quát. Dũng vừa phát hiện anh ta nhẩy dù, đi chẳng tiền nong gì ráo trọi. Anh quát:

- Ai có tiền nong gì cầm tay sẵn sàng. Đù mẹ, không có tiền mua dầu thì chết đống cả này.

Một người đàn ông đứng cạnh Hải len lén cởi chiếc nhẫn vàng dúi vào lưng quần. Thấy Hải nhìn, anh ta lẩm bẩm chữa:

- Bạc vàng chi mô, cũng phải phòng hờ chứ.

Hải nhớ sực anh ta qua giọng nói Trung kỳ. Chính là gã từ chối “cọng” đứa bé khi lội sục vào bờ hôm đổ bộ đầu tiên. Khuôn mặt gã trắng nhợt. Cái khuôn mặt vô hồn của đồng loại người chuyên trốn trong buồng và biết uốn nắn phải lúc, mắt ít khi nhìn thẳng. Hải lờ đi cho anh ta dễ chịu. Nhẩm tính số vàng Dũng thu được một nhúm vừa lòng bàn tay. Anh thương lượng với viên chỉ huy công an:

- Anh mua hộ một phuy dầu, còn bao nhiêu mua hộ lương thực khô cho chúng tôi.

Viên công an nhận vàng, ra lệnh đem mấy thùng nước ngọt xuống. Trời như đã về chiều, gió biển hây hây thổi. Rồi gió càng lúc càng mạnh khiến cả thuyền đều lo ngại. Chẳng mấy chốc, mây đen sật sật, rồi ngùn ngụt kéo tới. Trời tối mịt. Nước biển sôi òng ọc như nồi canh đang nấu. Trẻ con ré lên sợ hãi. Cơn bão khi không ập đến dữ dội, giận dữ đập be thuyền vào cầu tàu cành cạch, cành cạch. Dũng nói qua màn nước mưa xối xả:

- Cho bà con lên bờ.

Lão Mục ngăn, thuyền lắc lư và có tiếng kêu răng rắc như sắp vỡ:

- Không, ra ngoài ngã xuống nước đấy. Chỉ một chốc thôi. Mọi người dồn cục vào trong mui.

Hải ôm cứng bé Ngọc. Có lúc nước biển chồm lên như một tấm mền trắng, chụp xuống hai cha con. Hải có cảm tưởng mình sắp ngộp thở, chàng nghe tiếng kêu thảng thốt, không phải của bé Ngọc mà của ai đó sát bên mình:

- Bố ơi...Bố ơi...

Hải lắc lắc bé Ngọc. Con bé dường như đã ngất đi vì sợ hay vì ngộp. Hải vuốt nước trên mặt con, bối rối. Khoảnh khắc, bé Ngọc hé mắt, hai hàng mi mọng đỏ.

- Không sao con, không sao con, chỉ tí thôi.

- Bố ơi...bố ơi...

Hải đã nhận ra tiếng kêu của Sương. Hai tay nàng ôm trước ngực, mái tóc phủ kín cả mặt. Hải trấn an:

- Cô Sương ! Cô Sương ! Không sao đâu, rồi sẽ tạnh ngay ấy mà.

Thuyền đập cách một cái. Sương mất thăng bằng ngã chúi vào Hải. Nàng sợ hãi lùi lại, miệng lại kêu lên khe khẽ:

- Bố ơi...bố ơi...

Lão Mục đang trấn trước mũi thuyền, bỗng nói:

- Dứt rồi!

Gió quả nhiên hạ dần, hạ dần, làm như câu nói của lão Mục là lệnh truyền chứ không phải lời tiên báo. Thuyền chỉ hơi đưa lên đưa xuống nhè nhẹ.

Những hạt mưa lâm râm, chừng muốn ngưng nhưng còn luyến tiếc. Một viên công an mặc áo tơi thùng thình xuất hiện:

- Cho chúng tôi lên bờ.Dũng nói.

Viên công an nhìn từ đầu tới cuối thuyền, rồi cương quyết lắc đầu:

- Không, các anh không được phép. Chừng nào muốn đi thì đi.

Dũng chán nản hỏi lão Mục:

- Tính sao ông?

Lão Mục nhìn trời, nhìn nước. Lão ngẫm nghĩ nói:

- Mình đi thôi.

- Liệu còn bão không ông?

- Chắc không. Giông đấy thôi.

- Nhưng ...Mình ăn Tết đây đi ông.

Một khắc im lặng sau đề nghị của Dũng. Ăn Tết, ăn Tết trên thuyền. Hải nói:

- Có gì đâu mà...ăn!

- Ta đón Tết đấy mà.

Một ý tưởng kỳ lạ đến với Hải. Chàng bảo:

- Mình đón Tết giữa biển đi.

Lão Mục cười, lần đầu tiên Hải thấy lão cười:

- Tôi còn lạ gì. Thôi, cứ đi men theo bờ tới đâu hay tới đấy.

Dũng nhảy đại lên bờ, vươn chân vài cái rồi tháo dây, kêu Chí nổ máy cho thuyền “de” lui. Anh đưa tay chào viên công an, giỡn:

- Đồng chí ở lại vui Tết nhé.

Dũng nhảy xuống thuyền, chống nạnh nhìn lên những cao ốc ngất ngưởng xa xa:

- Không bao giờ ta trở lại đây.

Màu trời đang chùi về phía hoàng hôn. Không khí thơm phức mùi nước mưa. Lão Mục kêu Dũng lấy bản đồ để hội ý hướng đi. Từ chỗ thuyền đang trôi, theo ý Dũng, phải mất nhanh lắm là một ngày mới tới thị trấn Hải Khẩu, thủ đô của Hải Nam, nếu đi theo đường tắt. Như vậy, đến Hải Khẩu đã là ba mươi Tết.

- Tính sao ông.

- Mua ít đồ rồi đi tiếp.

Hải vẫn giữ ý định ăn Tết trên biển. Từ Hải Khẩu vượt qua eo biển Lôi Châu là tới đại lục.

- Chẳng mấy chốc là tới Hồng Kông.

Dũng phấn khởi. Theo dự trù thì từ Việt Nam đi chỉ mất bảy ngày là tới Hồng Kông. Vậy mà đã mười ngày qua, Hồng Kông còn xa tít. Lão Mục đo mực nước, rồi ra lệnh cho thuyền chạy hết ga. Hình như lão cũng đang nôn nóng điều gì đó. Bóng đêm đã buông, những đốm sáng lấp lánh trên bờ như hồn ma trêu chọc đoàn người lạc bước đang lênh đênh ngoài đại dương mông quạnh.

Chạy đến gần sáng, Dũng đề nghị cho máy nghỉ. Lập tức, một thanh niên hỏi:

- Ta nghỉ đây bao lâu?

- Chừng non tiếng.

Gã thanh niên cởi phăng áo, làm vài động tác giả cho ấm rồi nói:

- Anh chờ tôi về rồi đi nhá.

Không chờ Dũng đồng ý, gã phóng ngay xuống nước bơi vào bờ. Lão Mục hỏi:

- Thằng nào đấy?

- Thằng này đi nhẩy dù ông ạ. Nhưng thôi, đến nước này có đòi tiền nó cũng không được.

- Nó làng cậu đấy à?

- Nó Quảng Ninh. Hôm trước trốn theo cháu lên bờ trộm mía đấy. Chắc giờ lại giở trò cũ.

Một chị đàn bà hóng chuyện góp tiếng:

- Thằng Thớt đấy. Đầu gấu Quảng Ninh, tôi còn lạ gì quân ấy.

Hơn một tiếng đồng hồ trôi qua mà Thớt chưa trở lại. Dũng sốt ruột, cau mày ngó đăm đăm vào bờ. Mặt trời đã sắp sang thóp cây. Màu đỏ của bình minh như được pha thêm sắc trắng, nhạt dần, nhạt dần trên sườn núi sững. Giữa lúc ấy, một bóng người trên bờ xuất hiện. Bóng người đang hì hục đẩy một mảng bè xuống nước, rồi cứ thế vừa bơi vừa đẩy bè hướng ra chiếc thuyền đang neo. Dũng cảnh giác hô:

- Nổ máy chuẩn bị.

Tiếng máy gầm gừ chờ đợi. Cái đầu nhấp nhô trên mặt nước như một trái dừa khô. Cặp mắt Dũng nheo lại:

- Thằng Thớt.

Thớt vừa bơi vừa đẩy. Những cây mía dài khẳng khiu như thiếu ăn trồi sụp trên sóng bạc. Gã đã đến sát thuyền, ngước cổ lên, giọng gã lục sục:

- Này, mía đây. Kéo hộ tớ tí.

Dũng quăng móc cặp bó mía. Mía sổ ra rơi bõm xuống. Thớt vừa lên thuyền, phóng ngay xuống vớt lên lại:

- Ấy, đừng thế chứ. Bố nhọc công lắm mới mang mầy về đây.

Người đàn bà khi nãy bình phẩm về Thớt, trầm trồ nịnh:

- Chậc, anh tài thế. Bà con có một bữa như thế này là anh công đầu đấy.

Thớt cười lục cục trong họng. Hai bắp tay gã loang loáng hàng chữ xăm bằng mực Tàu: “Xa quê hương nhớ chị dâu”. Cánh tay kia xăm hình một chàng trai và cô gái đang trần truồng ôm nhau. Gã tự động chặt mía. Chia đều trên thuyền, vẻ mặt hể hả.

Tiếng cạp mía rôm rả vang trên thuyền, dường như lấn cả tiếng máy. Trong khốn khó, ai cũng cần có miếng ăn, dù là ăn của “quân ấy”, như lời người đàn bà. Bã mía trôi lềnh bềnh trên sóng, sui sủi bọt biển như bọt nước miếng. Nắng chói, hừng hực hơi người xông lên. Hải rờ trán bé Ngọc, có cảm tưởng đứa bé đang sốt. Chàng nhai từng lóng mía, để nguyên chất nước ngọt trong mồm rồi áp vào miệng con, đẩy ngụm nước qua. Lòng chàng quặn thắt nhớ đến Thu, đến thằng Quỳnh. Nếu có nàng ở đây, hẳn chàng đã không vụng về mớm nước cho con như vậy.

Gần trưa, thuyền càng lúc càng đi gần đến những chiếc tàu sắt đang ngược xuôi trên biển, hoặc đậu san sát gần bờ. Lần đầu tiên Hải, và có lẽ tất cả những người trên thuyền, trông thấy một chiếc tàu chạy hổng mặt nước lao vùn vụt trên biển, một tia sóng nhọn chẻ trên không. Phía xa, những tòa nhà chọc trời vươn mình lộng lẫy và kiêu hãnh. Một thành phố văn minh mà chỉ có trong trí tưởng tượng của mọi người đã thực sự xuất hiện rõ dần, rõ dần.

Tàu công an lại xuất hiện, cứ như là họ đã rình sẵn đâu đó rồi, chỉ chực chờ thuyền vượt biển. Con thuyền Việt Nam được hướng dẫn đi theo, cặp bến, nhỏ bé và khiêm tốn giữa những thuyền sắt ngạo nghễ.

- Trung Quốc mà đã thế này.

- Văn minh nhỉ.

- Chả bù cảng Hải Phòng.

- Kinh thật.

- Bì thế nào được, người ta nước lớn.

Mấy viên công an ngồi chồm hổm trên bến, sát thuyền. Họ mỉm cười. Chao ôi, công an mỉm cười với nhân dân mới lạ chớ. Hải không nghe Dũng đang trao đổi gì với viên công an vì mấy bà nhặng cả lên.

- Trông chúng hiền lành nhỉ.

- Chẳng có ta đây tí nào.

- Thích thật!

- Hay hôm nay Tết nó mới vui vẻ thế. Chả nhẽ nào công an lại cười bao giờ.

- Bậy nào, xứ người có khác!

Dũng báo tin: không ai được lên bờ, muốn ở đây ăn Tết thì vẫn phải...đốt pháo trên thuyền. Một công an xuống thuyền đếm người, ghi chú cẩn thận bao nhiêu đàn ông, đàn bà, trẻ con. Bỗng có người đề nghị:

- Ai có đô la muốn đổi thì nhờ người ta đổi.

Hải lấy tờ hai mươi đô la Mỹ gói kỹ trong bọc nhựa, nhờ viên công an mua ít thuốc cảm. Chàng dặn thêm:

- Còn bao nhiêu, xin ông cho bình rượu uống mừng xuân.

Viên công an cười thông cảm. Chỉ một chốc sau, ông ta mang rượu, lương khô, rồi cả thuốc lá lại. Lão Mục nói:

- Cậu xin thử họ cho mình chỉ đứng trên bờ hết đêm nay thôi. Qua Giao thừa mình sẽ đi.

Dũng quay qua viên công an, cắt nghĩa. Thấy gã cứ lắc đầu, anh chán nản nói:

- Chúng tôi không cần đứng trên đất của các anh, chúng tôi chỉ muốn...

-...Thôi khỏi, tỵ nạn mà!

Biết có nói nữa cũng không được, Dũng hậm hực ra lệnh nổ máy đi. Tiếng máy ròn rã mà nghe buồn như tiếng khóc của kẻ lạc đường. Hình như có một phút im lặng đi, nghèn nghẹn sao đó. Lão Mục nói, đánh dạt cái không khí sắp trở thành bi thảm:

- Thôi cứ khui rượu đi. Mình lai rai đón Tết là vừa. Các cậu chỉ lãng mạn đấy thôi, Tết ở đâu chả vậy.

Chiều tàn. Màu đỏ của trời dội lên nước, tắm đẫm một điều gì ghê rợn, tựa như máu đỏ vừa loang, đang loang, dàn ra cả mặt nước. Hải chưa bao giờ thấy một màu đỏ rùng rợn như vậy, phải chăng vì chàng và những người đồng cảnh đang bị đẩy ra từ bến bờ chu du qua chân trời bơ vơ trước mặt, nên tâm hồn cũng nhuộm gắt một màu đỏ ứa máu. Con thuyền hùng hổ lao về phía trước, một chân trời tua tủa những cụm mây nhọn như hầm chông vừa xuyên qua da người, đâm xuyên ruột, bày ra những vũng máu đỏ gắt, đỏ thẫm. Hải cho con uống thuốc, lấy áo trùm kín thân thể nóng hầm hầm của bé Ngọc. Chàng đón chén rượu từ tay Dũng, chiêu một ngụm lớn. Hải thấy mình bất lực như một con sóng nhỏ, cứ bị ngọn sau đẩy tới trước mà không cách nào dừng lại để tan vào một nơi nào thật bình yên. Chàng nghĩ giá chàng là ngọn sóng nhỏ như câu sáu trong bài thơ lục bát, cứ bị câu tám đẩy tới, xô tới trong một nhịp lẻ day dứt thì đỡ khổ hơn, hoặc nếu ngắt ở một nhịp chẵn đồng điệu chẳng hạn, thì càng sung sướng hơn thế nữa. Phải chăng nước sẽ không còn là nước nếu không bao giờ có sóng? Phải chăng đã là người thì phải xô tới trước, sẽ không bao giờ ngưng đọng, bị xô đẩy chính tư duy của mình, bởi chính cuộc đời xung quanh, bởi những vần điệu đặt lấy, để ru cuộc đời. Hải thấy bừng bừng, huyết quản như có muôn ngàn động cơ nổ, nổ đều một lúc. Bây giờ đây, chiếc thuyền như ngọn lá giữa bốn bề mênh mông. Không còn thấy cao ốc đằng sau, không còn thấy gì cả. Chiếc lá lênh đênh trong mây đỏ, hướng về phía trời đỏ, nhưng càng đi càng thấy xa dần. Như ảo tưởng không bao giờ túm được, một ảo tưởng đỏ gắt, vây quanh những máu và máu.

Rồi từ đằng xa, rợn trong mây đỏ là một cái quạt. Đúng như vậy, một cái quạt đang chìa ra chắn bước. Lão Mục gầm lên, kinh khủng:

- Chết rồi!

Lão đưa tay chỉ, tuyệt vọng. Mặt trời núp sau cụm mây đỏ, rồi màu mây chuyển dần sang màu đen, xòe ra như hình rẽ quạt. Từ dưới lòng biển đen thăm thẳm nghe như có tiếng gầm gừ của dã thú vọng lên. Lão Mục hét:

- Trở vô bờ.

Nhưng đã trễ. Thuyền vừa ra đúng giữa hai dòng nước ngược. Một dòng chảy từ vịnh Bắc Bộ ra biển, bị cắt ngay giữa eo biển Lôi Châu và đảo Hải Nam nên dòng nước như một dòng thác đang ngon trớn bỗng bị ép lại thình lình khiến sức chảy càng hung hãn. Một dòng từ ngoài biển Đông chảy ngược vào vịnh Bắc Bộ cũng bị bán đảo Lôi Châu từ đại lục ép qua. Hai dòng nước xiết chảy ngược nhau, va vào nhau tạo nên những xoáy nước réo điên cuồng. Cái hình rẽ quạt từ trên trời càng lúc càng tỏa rộng, như năm ngón tay quái thú úp chụp xuống những con người bơ vơ bé nhỏ. Trong tích tắc, thuyền bị sóng nhồi lên đến tuyệt đỉnh cao, cao đến mức không thể cao nữa, rồi từ đỉnh cao ấy, vụt xuống một thung lũng bốn bề là nước đen dựng thành tường. Tiếng ré kinh hoàng của tất cả bị hút ngay vào bức tường đen, mất biệt, như sự thẩm âm tuyệt hảo nhất do tạo hóa cấu thành. Từ đỉnh sóng xuống vực sâu, rồi từ vực sóng thuyền tung lên đỉnh sóng, Hải nghe tiếng hét thất thanh của lão Mục:

- Con...ơi ơi...!

Tiếng hét xoáy tít vào tiếng nước reo hăm hở, ác độc. Thần biển đang hể hả xoa tay, chờ từng sinh mạng nạp mình. Trong giây phút ấy, lạ thay bé Ngọc vẫn trừng mở mắt, nhìn chằm chằm bức tường nước sùng sục quanh thuyền. Hải ôm chặt con, chàng nhìn thấy bóng dáng Đức Phật, chàng nhìn thấy thánh giá của Chúa Giê su, chàng nhìn thấy hồn thiêng của cha mình sừng sững trên sóng, dưới vực thẳm, đang nắm tay nhau kết thành vòng tròn lớn, cùng ca hát bài ca luân hồi sinh tử. Hải trừng mắt. Chàng muốn thấy kỹ cái tích tắc vô thường mà đời người không tránh khỏi. Chàng sắp dắt con xuống yết kiến thủy thần. Chàng sẽ cười khà vào mặt lão già có chòm râu bạc lướt thướt và đôi mắt buồn thăm thẳm:

- Ông đã thắng!

- Ta lúc nào cũng thắng.

- Trẻ thơ có tội gì?

- Trót sinh ra làm người.

- Tôi đi tìm đất sống.

- đất nào sống được nói ta nghe.

- Không phải nơi tôi được sinh ra. Nơi tôi có quyền ca khi hoa nở, nơi tôi có quyền khóc khi tôi muốn và nơi không có lão già râu bạc như ông.

- Ha...ha...ngươi tưởng không có người như ta là ngươi sống được ư...ha...ha...ta cho ngươi thấy.

Thủy thần vụt tan ra thành xoáy nước, vỗ tay reo. Lão cong mình thành một ngọn sóng, ngọn sóng dài hơn chiều dài của chiếc thuyền chở Hải. Lão trườn lên lặn xuống không biết bao nhiêu lần. Đột nhiên, lão đổi trò chơi, lão xoay tít trên không gian đen như vũng nước trâu nằm, hất tung cả chiếc thuyền lao vào hư vô nín lặng...

Hải nghe cả mặt đất gợn mình chuyển động. Một hơi nóng phà lên một bên mặt khiến chàng tỉnh dậy. Ô hay, chàng nhớ rõ mình đang chất vấn lão già có chòm râu bạc, chàng nhớ rõ là mình đang cỡi trên lưng lão, rồi bỗng nhiên...sao chàng lại nằm đây, chung quanh là rừng thông xanh lá, một khoảng trời xanh ngắt, một bờ cát óng ả điểm thưa vài hàng lá mục. Tiếng sóng thì thầm nhắc nhở, đâu đó.

Hải gượng dậy. Chung quanh là xác người nằm lổn ngổn trên cát. Chàng bỗng thót người nhớ tới con. Một sức mạnh kỳ bí thúc đẩy chàng dậy, lao tới trước. Chiếc thuyền đã bể tan tành nằm nghiêng trên bãi, một nửa thân sau chìm xuống nước, Hải chợt nghe tiếng gọi:

- Hải ơi...Hải ơi...con ông đây nè.

Dũng đang ôm bé Ngọc trong lòng, một bên má anh bị một đường cắt ngọt, máu khô quặp. Anh ngồi dựa vào gốc cây, đôi mắt lạc thần. Dũng trao bé Ngọc cho Hải:

- Nó không sao cả. Tôi tỉnh trước, thấy người nó đè lên mình. Lạ quá!

Hải siết chặt thân hình tiều tụy của con, nước mắt ứa ra. Cha con chàng đã được tha mạng. Chàng đã sống, chỉ có phép màu mới giải thích nổi. Hải thấy mình tỉnh trí phần nào. Phía bên kia một góc rừng vài người đang lóp ngóp bò dậy, tụ vào nhau. Dũng nói:

- Sóng đẩy thuyền vào đây. Tôi đếm sơ vẫn chưa đủ số người. Chắc rớt xuống biển.

Từ một kẽ đá, Hải thấy dáng lão Mục đang lom khom kéo Sương lên bờ. Thân hình nàng nằm sóng soải, hai chân chìm trong nước. Lão Mục hì hục một hồi mới đưa được cô gái lên. Hải thấy lão ngồi phịch xuống, thở hào hễn. Chàng dợm người thì cả thân hình như không còn tí hơi sức nào, ngã uỵch xuống. Dũng ôm đầu:

- Ông kiệt rồi.

Hải gượng nói, cổ họng khô đắng:

- Tính sao bây giờ? Đây là đâu?

- Đại lục. Chắc chắn là đại lục.

- Không thấy ai cả.

- Hẳn là bãi hoang.
Mặt trời đã lên quá nửa ngọn sào. Những xác người nằm trên cát đã bắt đầu cựa quậy. Có người vừa ngồi dậy thì ọc một cái, nước từ miệng trào ra xối xả. Nhưng rồi họ cũng lê lết tụm lại vào nhau, bàng hoàng trao đổi. Hải lim dim mắt, chàng thiếp đi, tỉnh dậy, rồi lại ngất. Chàng mơ thấy Thu dắt thằng Quỳnh đang chạy băng băng trên triền sóng. Chàng mừng rỡ la hét chạy lại. Nhưng đột nhiên, một đợt sóng lớn trùm lên, cả Thu và thằng Quỳnh biến mất. Hải rú lên sợ hãi. Chàng tỉnh giấc, mồ hôi vã như tắm. Nghe tiếng Dũng:

- Ông sốt rồi.

Anh thở dài nói tiếp:

- Chỉ còn nước đi xin ăn.

Một bầy quạ đen từ đâu bay lại, rít lên the thé.

5

Mắt Hải mờ đi dù mới đi nửa cây số. Chàng run lẩy bẩy phải đặt bé Ngọc xuống, ngửa mặt hít một hơi dài. Chàng đói. Hai đầu gối không còn sức nâng thân hình phất phơ của chàng nổi nữa. Mặt đất gồ ghề đá bỗng nghiêng bên này, lệch bên kia, Hải hoa cả mắt. Hải muốn nằm thẳng cẳng, hai tay duỗi xuôi để mặc cho cơn đói bò rã cả tứ chi. Nhưng Hải biết mình phải đi tới. Đời sống không cho phép chàng làm theo ý muốn của mình nữa, nhất là khi con chàng đang nằm yên, da mặt choắt lại như cọng rơm héo rũ. Chàng phải đi tới, phải cướp lại mọi sự, dành lại sự sống đang lưng lửng tan như khói chiều nhàn nhạt trên không. Hải bứt một nhúm cỏ mọc nghiêng trong kẽ đá, cho vào mồm nhai sống. Chàng lượm một khúc cây làm gậy, xốc bé Ngọc lên vai, lật khật bước.

Tiếng hoắc ghê rợn của con diều hâu trên đầu làm Hải rùng mình. Chàng đăm đăm ngó đôi mắt láo liên của con chim đen kịt đang nghiêng đầu chờ hai cha con chàng ngã xuống. Chàng quơ quơ cây gậy. Gã diều hâu vẫn nghiêng đầu khinh bỉ. Hải ước con diều hâu chợt...sẩy chân rớt xuống, chàng sẽ đập nát cái mặt mất dạy của nó ra, rồi hai cho con sẽ lột da, xé toạc thân hình của nó, chén một bữa.

Bốn bề rờn rợn màu xanh, màu xanh của lá, màu xanh của cây, màu xanh của nẻo đường chập choạng. Tuyệt vọng không một bóng người. Những người sống sót đã mạnh ai nấy đi kiếm ăn, đến lão Mục và Dũng, sau khi khiêng một vài thứ còn dùng được trên thuyền đem lên bờ, che tạm một mái lều rồi cũng chia tay đi mà thôi. Nếu sống sót thì mái lều sẽ là điểm hẹn. Gã thủy thủ đã trở thành vô dụng khi không còn nơi để lèo lái. Người ngư phủ đã lên bờ, như con cá mắc cạn, mắt đứng tròng tuyệt vọng.

Ánh dương tà tà lách qua hàng thông to lớn, hắt hiu một màu vàng bệnh hoạn. Hải vượt qua một con rạch khô quắt queo, chàng bám vào những tảng đá khô, vượt lên bờ dốc, hơi thở đứt từng quãng, khò khè.

Kìa, những nóc nhà xuất hiện. Hải không thể lầm được nữa. Chàng bước nhanh hơn, tiếng gậy khua trên đường lọc cọc. Chàng dự tính sẽ xông thẳng vào bất kỳ nhà ai, ngã vật xuống thì thế nào cũng có cái để ăn. Vậy nhưng khi đứng trước mặt một bà lão đang cào đất trước căn nhà ván tối thăm thẳm, Hải chợt co lại, rụt rè. Chàng run run cất bước, bao nhiêu hy vọng dồn cả vào từng chữ:

- Bà phò, cháu..đói...bà phò, cho...chúng cháu thìa cháo...

Bà lão chừng nhận ra giọng nói không phải người địa phương của người đàn ông hốc hác, râu và tóc um tùm dữ tợn, vội co người thủ thế:

- Nạn nhân à!

Hải để bé Ngọc xuống đất, gật đầu:

- Chúng cháu bị đắm thuyền...chúng cháu...

Bà lão chợt đổi sắc mặt, giơ cái cào lên làm tư thế cầm súng, hô:

- Pằm pằm! pằm pằm!

Hải nghệch người ra, nhưng hiểu ngay. Bà lão hẳn có con tham gia đánh nhau với Việt Nam mấy năm trước. Hải làm điệu ra dáng mình không tham gia đánh nhau với bộ đội Trung Quốc, nhưng bà lão vẫn “pằm, pằm, pằm pằm” liên tục, rồi quơ cào đuổi Hải đi, mắt long lên giận dữ. Hải buồn rầu cúi xuống bồng con. Đột nhiên bà lão quăng cào, dằn bé Ngọc. Hải hoảng hốt giựt lại. Hai người một già một trẻ cứ giựt qua giựt về khiến bé Ngọc bừng mắt, khóc ri rỉ. Hải nổi giận nhưng không còn đủ sức để vụt cho bà già đáng ghét một cái. Chàng đành thua, dành phần thắng cho bà già hung dữ. Bà ta chạy te te vào nhà, xuống bếp giấu cái gì đó trong tay, rồi kéo tay Hải chỉ lên một trang thờ nhỏ. Đằng sau lư hương, ảnh một thanh niên mang quân phục bộ đội Trung Quốc, đôi mắt buồn rầu đang ngắm Hải. Bà lão rơm rớm nói:

- Con tao đó...pằm...hức...pằm!

Bà nhìn Hải, hằn học. Mái tóc bạc lưa thưa chảy xệ trên gò má nhăn nheo đã rũ như cọng liễu khô phất phơ trên mặt hồ đứng lặng. Bà trao bé Ngọc cho Hải, ném mạnh một cái trứng luộc ra sân, hai tay vẫy vẫy đuổi. Chàng không còn tâm trí để thấy cử chỉ đó của bà lão, chàng mừng rỡ cúi xuống lượm cái trứng bể vỏ, hấp tấp thổi cát rồi cho cả vỏ lẫn ruột vào mồm. Hải trúm cái lòng đỏ ra, mớm cho con. Đằng sau, một tràng rủa lộc cộc như xe chở đá chạy trên đường. May thay, chàng chưa kịp học những từ ngữ đó ở quê nhà.

Mùi khẳm từ đống rác bốc nồng nặc. Hải đặt bé Ngọc dựa vào hàng rào đủ cho mùi khai nhẹ đi. Chàng đậy một tờ báo cũ lên cái trán nóng hâm hâm của nó. Hải nhìn trước nhìn sau, rồi như một người lính xung trận, Hải xới tung cả đống rác lên, ruồi nhặng xông ra mù mịt. Một chốc, nhắm chừng đã quen mùi, Hải lại hất, lật, bao nhựa để qua một bên...à, đây rồi. Một manh áo mưa toạc chỉ nhưng còn tốt chán. Chàng rũ rũ manh áo, bỏ tất cả bao nhựa nhặt được vào gói lại, tìm chỗ rửa. Chàng thấy cái lu nước để trước nhà ai, có cả cái gáo dừa như ở quê nhà lật ngửa trên nắp đậy. Chàng múc nước, rửa sạch tấm áo mưa, súc mấy cái bao nhựa chưa thủng. Hải nhét tất cả vào túi quần, dùng tấm áo mưa cột bé Ngọc sau lưng. Như vậy là hai tay chàng rảnh rang.

Hải rảo bước. Chàng đã biết đường ra phố nhờ hỏi thăm một đứa trẻ hôm trước. Đứa bé còn chỉ hướng ra chợ nữa, nơi ấy đồ ăn thừa thế nào chả có. Gió rét, rét hơn với hai cha con đói rách, xuyên qua ngực, qua lớp vải áo tả tơi, ngấm qua từng thớ thịt. Hai hôm rồi, cha con chàng cũng có bữa no. Hai đêm, chàng ôm con nằm co quắp trong hiên nhà của ai đó, thường thì không ai nỡ đuổi cha con người ăn mày. Sáng, thức dậy, chàng lê đi tìm nước trong khi con vẫn mê muội trên vai. Chỉ khi có gì nhét vào bụng, nó mới thì thào một hai tiếng vô nghĩa. Con chàng như hiểu hoàn cảnh nên nhiều khi bắt chước bố, cứ thấy người là chìa bàn tay nhỏ nhắn ra, mắt nhìn thẳng người đối diện.

Đôi dép Hải đã sút quai. Biết không dùng được nữa, Hải đá tung cả hai chiếc xuống hố, bỗng như thấy vừa đánh mất một cái gì đã chắt chiu mang theo. Bàn chân chàng giẫm lên sỏi, vấp té tươm những vết máu rằn ri như con cuốn chiếu. Hải thấy nóng bỏng cả đôi chân, nóng bỏng cả tâm hồn. Chàng đã trở thành gã hành khất lưu lạc trên đất khách. Chàng nằm mơ thấy vợ con lướt trên những đợt sóng thần. Chàng nhìn hút con đường trước mắt, khép lại những thân cây chắn lối.

Hải đứng rình bên ngoài một quán ăn nhỏ. Có cặp vợ chồng đang thì thụp ăn cơm, húp canh chùn chụt. Người vợ cỡ tuổi trung niên, nước da bánh mật khỏe mạnh. Thỉnh thoảng chị ta cười sằng sặc, ông chồng đang và cơm, cũng ngưng đũa cười theo. Họ ngưng ăn khi thấy Hải cứ lấp ló ngoài cửa. Người vợ nói gì đó với chồng, rồi họ lặng lẽ ăn, khó chịu. Hải cũng thấy khó chịu, nhưng cái đói cào ruột đã giữ chân chàng lại. Chàng cứ nhìn chòng chọc vào đĩa rau đã vơi gần hết, nước miếng ứa ra chát cả mồm. May thay, hai vợ chồng đã nhớm dậy. Hải xông thẳng vào trút hết canh cơm vào bao nhựa, rồi hấp tấp ngồi bệt xuống hiên, dùng tay bốc cơm, múc canh cho vào miệng. Bé Ngọc cũng thiện nghệ không kém. Nó ngồi xổm, hai bàn tay nhỏ chụm vào nhau giữ chất nước ngọt không cho vương một giọt ra ngoài.

Ăn xong, hai cha con cảm thấy hả hê. Mặt trời đã nghiêng về phía tây, những tia nắng nhàn nhạt đỏ vương trên nóc quán. Ở tít xa, một đồng cỏ xuôi xuống lũng, một đám sương mờ đục dâng lên như đôi mắt mù nhìn cuộc đời vô vọng. Hải dắt con đi dọc theo thung lũng, được một chốc, ruột lại cồn cào kêu òng ọc. Rồi như có mùi thịt ở đâu xông vào mũi, đánh thức cái thính giác bỗng rất bén nhạy của người đói tìm tới. Chàng đến đúng một ngôi nhà mà chàng định chắc có mùi thịt hấp bay ra. Có tiếng vĩ cầm ken két của người mới tập kéo. Một làn khói nhỏ như sợi chỉ vương vấn từ nóc nhà lắc lư tan vào không gian. Hải đứng yên chờ đợi. Cửa nhà mở toang bày ra một bộ bàn ghế bằng gỗ nâu sậm. Trông nhà này có vẻ giàu có. Hải nghĩ thầm, mắt vừa trông thấy một người đàn ông đứng tuổi đang ngồi cạnh một đứa trẻ. Đứa trẻ đang chăm chú tập đàn.

Chân tay Hải bỗng như ngứa ngáy khó chịu. Chàng đã mất nửa cuộc đời để kéo vĩ cầm ngày còn ở trung học. Rồi mấy năm trường nhạc. Đi lưu diễn. Những đêm cô đơn thắp bạch lạp sáng tác cho đến khi chim chóc tưng bừng hót. Cuộc đời trong lòng Hải những khi đó, những khi chạy theo một độ rung, thẳng tắp như đường kẻ nhạc. Hải sẽ, và chàng đã, lấy vợ sinh con, nghiêng đầu dưới ánh đèn màu, đón nhận những tràng pháo tay tán thưởng.

Người đàn ông ngẩng đầu nhìn ra cửa. Đôi mắt nhỏ nheo lại mơ màng chừng như có lớp sương mờ bay lảng vảng trong tròng mắt. Ông ta lượm một hào để lên bàn, chậm chạp tiến ra cửa, bỏ vào cái lon sữa rỉ sét trên tay Hải. Đôi mắt ông ta càng nheo lại hơn nữa khi gã ăn mày dường như không chú ý lắm đến cắc bạc đánh “keng” một tiếng khô khốc.

Mái tóc khô cứng xõa trên vai cộng thêm hàm râu quai nón tua tủa của gã bất chợt khiến người đàn ông chú ý hơn. Đôi mắt gã bất động. Dường như gã đang chăm chú nhìn cây vĩ cầm không chớp, bàn tay gã chợt buông tay cầm đứa con nhỏ, phát một cử chỉ bâng quơ trong không khí, giống như cử chỉ của người diễn thuyết.
Người đàn ông dịu dàng hỏi:

- Anh cần gì nữa?

Hải bừng tỉnh. Chàng chợt thấy đồng xu nằm trong lon. Hải nói:

- Cám ơn ông. Tôi nghe chú bé tập đờn thích quá.

Chủ nhà cười, nói:

- Chắc anh biết đàn, phải không?

- Có chút ít.

- Ở đâu?

Hải lẩm bẩm, đôi chân càng lúc càng nặng.

-...chúng tôi tìm đường đến Hồng Kông, thuyền bị đắm...

Người đàn ông bảo chú bé ngừng tay, trao đàn cho Hải:

- Anh đánh thử một bản cho thằng con tôi nó mở mang kiến thức.

Cây đàn nằm ngang tầm mắt Hải. Màu gỗ óng ánh kiêu ngạo và hiền từ như mặt mỹ nhân. Hải run run đỡ lấy cây đàn, cái lon tiền rơi lẻng kẻng xuống đất, vang lên một âm thanh trơ trẽn. Màu đen của biển... Màu xanh của cỏ... Những cánh đồng sương... Hải thấy những đường chiều thơ ấu... Tiếng đàn run bần bật, bần bật, như xác người run rẩy trước lần ngã xuống. Như tiếng gào của quỷ, của thủy thần, của đêm đen mờ mịt thẳm.

Hải trả đàn cho chủ nhà. Tiếng đàn bây giờ của chàng là tiếng đàn của kẻ ăn xin, của cõi lòng tơi tả. Đứa con chủ nhà đã nhét vào tay hai cha con hai cái bánh bao còn nong nóng. Có phải là chút tình tri âm?

Hải dắt con đi. Ngôi làng này quá lạc hậu chẳng giúp được gì để Hải có thể tiếp tục cuộc hành trình. Chàng quyết định đi trở lại nơi thuyền đắm dù nắng chiều đã tắt lịm cuối chân trời. Con đường gồ ghề như lúc đi nhưng Hải cảm thấy dễ chịu hơn vì một phần đã quen thuộc. Bé Ngọc ngủ vùi trên vai. Hải cảm nhận cái thân thể chỉ còn da bọc xương của con bé dán sát trên người mình. Một lúc, đứa bé mê ngủ quá khiến Hải lo sợ. Chàng cho tay vào ngực con bé thấy quả tim vẫn còn đập nhè nhẹ. Bàn chân chàng lại tươm máu nhức nhối. Chừng hai cây số, Hải biết không thể đi thêm được nữa, chàng tạt vào một cái miếu cất đằng sau thân cây si cao lớn lực lưỡng, rễ si xòe ra bám chặt xuống nền xi măng vững chãi. Chàng trải manh áo mưa trên nền miếu, gối đầu lên một rễ con, giấc ngủ nằng nặng kéo tới.

Hải mơ thấy Thu trần truồng nằm ngửa trên nước, thân hình nàng dật dờ và hai tay đưa cao lên trời chới với. Chàng bị đánh thức mấy lần vì tiếng quạ kêu trên đầu ghê rợn. Cái miếu dường như chẳng được ai hương khói, chỉ thấy lờ mờ một mặt người đỏ như máu trên bệ thờ, đôi mắt quắc sáng nhìn Hải dữ dội. Chàng thấy gai ốc nổi cùng mình nhắm nghiền mắt lại. Chàng nghĩ tới người chết rồi sao còn dữ. Rồi Hải thiếp đi, hơi lạnh từ nền đất, từ những sương rơi nặng trĩu buốt lên tận màng óc. Cho đến khi có tiếng chim ca tưng bừng đánh thức. Một góc trơi bừng lên màu sáng hồng cô độc, một cành thông vướng mắc xa xa. Ngay trên một nhánh si thấp nhất, bầy kên kên trừng mắt nhìn hai cha con thèm thuồng.

Hải còn một cái bánh bao, hai đồng nhân dân tệ. Chàng đánh thức bé Ngọc dậy, ăn hết cái bánh bao rồi đi. Xế trưa, Hải nhìn thấy cái lều che hôm đến. Con thuyền đã bị sóng đập nhiều ngày, nay chỉ còn vài miếng gỗ nằm chơ vơ trên bãi cát. Hải ngạc nhiên thấy xung quanh hoàn toàn im ắng không một bóng người. Chàng chui vào lều nay đã có mấy miếng gỗ lấy từ thuyền lót làm giường tính nghỉ mệt. Đột nhiên, một tiếng nói cất lên:

- Ê, cha nội, đi chỗ khác chơi mày!

Thớt! Từ sau gốc cây, gã tiến lại. Dáng đi khuỳnh khuỳnh của gã ra vẻ muốn gây sự. Gã lừng lững chui vô lều, không nói thêm một tiếng, đè ngửa Hải ra lục túi. Bàn tay lạnh như nước đá của gã chèn cổ Hải, một tay dốc hết túi quần. Gã à lên mừng rỡ khi chạm mấy đồng nhân dân tệ:

- À, có thế chứ. Có bao nhiêu đưa hết đây.

Gã lườm lườm, bất ngờ co chân đạp Hải một cái:

- Đi lên kia mà tìm bạn mầy.

Gã cười hắc hắc khi bé Ngọc hoảng sợnhào theo ôm bố. Hải lồm cồm bò dậy chưa biết đi về hướng nào thì lại có tiếng kêu:

-Lại đây, lại đây cậu Hải ơi.

Lão Mục đang ngồi sau gốc cây với Sương. Bên cạnh, Dũng nằm ngửa, khuôn mặt chàng sưng vù lên, tím bầm. Lão Mục bảo Hải ngồi xuống, kể. Chòm râu bạc quắt queo mất đi cái phong trần ngày nào. Bây giờ là khuôn mặt của lão già tuyệt vọng, đôi mắt sâu thụt trong hố mắt. Thằng Thớt nổi máu đầu gấu từ khi biết hai tài công lành nghề là lão và Dũng bó tay vì thuyền đã đắm. Gã tập hợp vài đứa đàn em, chờ người nào đi ăn xin về là trấn lột... Hôm giành lều, Dũng bị gã đánh cho một trận vì dám chống cự. Gã tuyên bố:

- Từ nay, tao là sếp. Đứa nào lộn xộn oánh bỏ mẹ nó ra.

Lão Mục định bụng chờ Dũng hồi phục sẽ tìm đường rời khỏi nơi này. Lão lo sợ cho cô con gái khi đôi mắt hau háu của Thớt vẫn nhìn Sương khó hiểu. Lão biết tình thế đã đổi khác. Trên đất liền, người thủy thủ chỉ là con cá lòng tong đang giẫy chết.

Ba người đàn ông, một cô gái và một đứa bé sống cầm hơi nhờ một ít đồ mà những người đi cùng thuyền giấu được, lén lút tiếp tế cho họ. Mặt Dũng đã bớt sưng nhờ ngâm nước biển. Anh bàn:

- Tôi đã hỏi thăm đường đến một thị trấn tên là Trạm Giang. Từ đây đến đó nếu đi chậm cũng chỉ mất một ngày đường. Nghe nói nhiều thuyền tỵ nạn cập vào đó. Ta sẽ xin đi nhờ.

Tờ mờ sáng hôm sau, cả năm người lên đường. Dũng đi trước, Hải cõng bé Ngọc, lão Mục dắt Sương. Họ lén lút y như lúc rời bỏ đất nước xuống thuyền. Sương đêm còn ướt đẫm trên những cành cây gẫy, mặt trời chỉ vừa lóe lên như ánh sáng một bếp lửa nhỏ nhoi trong đêm trường. Đi được một lúc, nhắm chừng đã thoát khỏi sự chú ý của bọn thằng Thớt, Hải trao bé Ngọc cho Dũng, hổn hển:

- Ông cõng hộ tôi một khúc, mệt quá.

Vừa chạm bé Ngọc, Dũng chau mày:

- Nó lạnh thế.

- Nó cứ sốt lâm râm hôm rày.

Bé Ngọc ho khèn khẹt. Một tia nắng nhỏ chiếu hớt qua soi khuôn mặt tái nhợt của nó. Dũng mở khuy áo, trùm đứa bé trong lòng, đôi mắt dò chừng xung quanh. Họ đi men theo bờ biển, lẩn lút trong những hàng thông cao. Lâu lâu mới thấy một căn nhà nhỏ mở cửa. Chốn thôn dã của Trung Quốc này hình như chưa được khai phá, dân cư sống rải rác khiến Hải rất ngạc nhiên vì chàng cứ nghĩ với dân số hơn một tỷ người, hẳn không còn một mảnh đất nào bị bỏ trống nữa. Sự thực cũng như các nước chậm phát triển, dân Tàu vẫn có khuynh hướng tập trung gần thành phố vì chỉ ở đó mới có những tiện nghi tối thiểu. Sự chênh lệch quá lớn giữa nông thôn và thành thị khiến nỗ lực giảm dân của nhà nước chỉ đưa đến những kết quả đau thương và trái ngược.

Thỉnh thoảng Dũng lại ra hiệu núp vào một bụi cây khi thấy bóng người. Anh biết địa phương này không có cảm tình với người Việt Nam, người ta có thể đi báo công an và hậu quả không biết đâu mà lường. Họ nín thở khi thấy một gã đầu đội cát kết đạp xe lọc cọc trên đường. Họ lội qua một lạch nước cạn trơ đá, cong cong trườn ra biển như không mang theo một sự sống nào trong đó. Họ đi xuống một lũng thấp, rồi bò lên bò lên mãi. Đột nhiên, Hải nghe tiếng người lăn trên triền đá:

- Ối! con ơi...

Lão Mục kêu lên khi Sương sẩy tay ngã kềnh trên dốc, may thay một tảng đá lớn giữ thân hình nàng không cho rơi xuống nữa. Hai tay nàng quơ cào hoảng hốt. Hải túm được một tay nàng bảo:

- Ấy, cô bám vào đây này, không phải thế.

Hải đưa tay chỉ chỗ bám cho Sương nhưng dường như nàng cứ chụp chụp vào mặt đất trống trải. Lão Mục xốc Sương dậy, buồn rầu bảo khẽ:

- Nó nào có thấy đường.

Ruột Hải như có ai vừa siết lại, quặn lên. Đến bây giờ chàng mới để ý nhãn quan thiếu lưu động của Sương. Nàng có một cái “nhìn” như hút chặt lấy bất cứ ai nhìn vào đôi mắt ấy. Một thế giới xa xăm huyễn hoặc. Đêm tối đã giăng màn che khuất linh hồn tội nghiệp của nàng, Hải tự nhủ, nhưng tại sao một người con gái đẹp như nàng...

Đi đến quá trưa vẫn chưa thấy có dấu hiệu gì là sắp vào thành phố. Gió thổi mạnh khiến cái đói được bơm hơi, ra sức hoành hành cơ thể. Dũng bảo tìm chỗ nghỉ mệt, rồi nháy mắt anh biến sau những rặng cây. Trong thoáng chốc, những cụm mây đen lững thững nhú ra, đẩy lùi màu xanh lơ của trời xuống bên kia núi. Giữa cảnh hoang dã vắng ngắt, bỗng Hải nghe có tiếng cú rúc lên, rùng rợn. Hải rùng mình luôn mấy cái:

- Ông ạ...

Lão Mục ứng tiếng:

- Tôi nghe rồi.

Lão trầm ngâm. Tiếng cú rúc chẳng bao giờ là điềm lành. Mà chuyện gì xảy ra mới được chứ! Dũng? Kìa, hắn đã về. Người Dũng phồng to lên, mái tóc dài bay ngược trong gió. Anh trút hết mấy túi quần, túi áo. Khoai đủ cỡ, củ to củ nhỏ lăn trên cát, lổn ngổn. Dũng cười tươi bảo:

- Nào, bác cháu ta chén một bữa. Đấy, cứ để nguyên vỏ mới tốt cơ.

Hải chà chà củ khoai cho hết đất, bảo Dũng:

- Ông thành đạo chích hồi nào thế. Tài thật!

- Tôi học lỏm của bác đấy.

Lão Mục cười húc húc trong miệng. Đột nhiên, bé Ngọc đẩy củ khoai cho bố bảo:

- Bố ăn đi, con không đói mà.

Hải đớ người ra. Cái con bé lạ, ăn hồi nào mà không đói. Trông nó tỉnh táo thế.

- Bố ăn vỏ cho con nhé.

Hải cạp quanh củ khoai. Chàng chìa cái ruột hồng hào cho con:

- Nào, trông ngon thế nầy nầy. Nào...

Bé Ngọc vẫn đẩy củ khoai ra, khuôn mặt hồng hào lạ lùng:

- Con không ăn. Bố ăn giùm con đi.

Hải sờ trán con bé. Cũng chỉ nóng hâm hấp không đáng ngại. Chàng cất củ khoai trong túi:

- Thế bố để dành cho con nhé. Khi nào đói bảo bố.

Dũng quan sát hai cha con, bàn:

- Hay là con bé khát?

Bé Ngọc nói, ráo hoảnh:

- Con không khát, chú Dũng.

Dũng bảo:

- Thôi mình đi, khéo lại mưa đấy.

Quay qua lão Mục:

- Ông đi tiếp được chứ?

- Được.

Một vài giọt mưa ướt mặt khi họ vừa ra khỏi chỗ núp. Dường như có cục đá đang rơi trên vai Hải:

- Gì thế?

Dũng bảo:

- Khéo lại mưa đá đấy. Nhanh lên thôi.

- Lấy gì che đầu đi, chắc không lớn lắm.

Hải bảo, ôm bé Ngọc trước ngực. Chàng lầm. Những cục đá từ trời rơi xuống, có vẻ như càng lúc càng lớn hơn. Rồi chỉ một lúc cả người chàng rát bỏng.

- Bốp...bốp...

- Ối giời...

Dũng la lên đau đớn. Một cục đá rớt ngay sau ót. Anh vừa hít hà, vừa hỏi:

- Có ai sao không? Đằng kia có chỗ trú đấy. Nhanh lên...ấy, cô Sương, để tôi đỡ hộ một tay, thế...thế...cứ bước giữa tôi và bố là được...đấy...

Hải chưa từng gặp một trận mưa đá lớn như vậy. Ở miền Bắc cũng có mưa đá, nhưng chàng nhớ là chỉ những hột li ti không đáng kể, vừa đụng người là nó chảy ra thành nước. Giống như một mối tình ấp ủ bỗng chan hòa thắm thiết nỗi cô đơn. Ở đây, những cục đá to cứ giữ hoài cái lạnh lẽo của nó, dội lên người làm cắt ra những đường màu rơm rớm lệ. Hải cứ lủi tới trước, không biết “đằng ấy” là chỗ nào. Chàng vừa bỏng vừa lạnh. Đột nhiên, hai tay bé Ngọc choàng qua cổ siết chặt hơn, chừng như con bé muốn lấy hơi ấm của cha. Nhưng không, bàn tay nó nới lỏng ra liền khi ấy, để hờ hững. Hải nhảy xốc một cái, hai tay bé Ngọc rời khỏi cổ chàng, đầu giật ra đằng trước. Hải hoảng hốt thò tay vào ngực con. Không một động đậy nào. Chàng kinh hoàng sờ soạng rối rít. Chắc người nó lạnh đấy thôi. Không, không phải mà.

- Nhanh... Ủa, mà sao thế? Dũng vừa nhận ra nét mặt kinh hoàng của Hải.

- Con bé...Hải nấc.

Dũng lôi Hải sệt vô dưới tàn cây:

- Để tôi xem.

Dũng nhéo vào đùi bé Ngọc. Con bé vẫn nằm yên. Khuôn mặt còn ánh lên màu hồng phớt. Hải xoa tay, bóp chân, lật mí mắt, chà ngực...Chàng thấy mình vụng về lúng túng vô cùng...Không, không thể thế được. Nước mắt chàng ứa ra, thấm đẫm. Chàng giương mắt đỏ hoe, cả khuôn mặt ướt nhòa nước, nước mắt của trời và nước mắt của chàng.

- Tôi xin ông...Dũng nói, ruột quặn lại.

Cả thuyền 60 người đi, nay tản lạc khắp nơi, chỉ còn chừng này thôi. Vậy mà. Oan nghiệt lại lần lượt tỉa từng linh hồn.

Bỗng có tiếng cú đâu trên đầu rúc lên từng hồi ghê rợn.

- Con...

Hải úp mặt vào ngực con, người rung lên từng chập. Những hạt mưa rơi đều, giá lạnh. Rồi tất cả chìm trong câm nín, chỉ còn tiếng khóc nghẹn của Sương. Nàng biết tiếng nói trong trẻo của đứa bé vang vọng hôm nào đang xa hút, nhỏ dần, nhỏ dần, như hồi còi rời sân ga để lại một dư âm thê thiết. Nàng định hướng bằng linh hồn nhạy bén của mình, sờ soạng đến ngồi bên Hải. Bàn tay nàng vuốt tóc Hải, sờ lên mặt đứa bé buốt giá, sự chết, buốt giá những hạt mưa hiu hắt nức nở. Nàng nghe tiếng sấm rền chân trời, tiếng sấm xoáy vào lòng nàng những âm vang tơi tả. Nàng hứng dòng nước mắt lặng lẽ của người cha đau khổ đọng trong lòng bàn tay. Nàng không thấy đói, không thấy rét, chỉ có dòng nước ấm thấm gặm vào gân xanh, vào trái tim thổn thức của nàng. Lâu lắm...lâu lắm...bóng tối đã về chưa, ở ngoài kia thế giới ảm đạm của nàng?

- Hải ơi...

Lão Mục ngồi xuống, kêu lên nho nhỏ. Lão đã một lần ngồi bên xác vợ, kêu tên bà như thế. Lão không nhìn người mình kêu tên, lão không nhìn xác đứa bé, lão nhìn ra biển. Đêm tối đã về nhưng ánh sáng vẫn mông lung quái dị. Ánh sáng trăng. Trăng treo nghiêng một nửa, nghiêng xuống rọi linh hồn. Những đợt sóng trắng chồm lên, nô giỡn âm u trên bãi. Không gian trắng trơ, lạnh.

- Hải ơi...

Dũng gọi. Anh đặt môi lên trán đứa bé, lên tay Sương, lên tóc Hải rồi đứng dậy. Anh phải tìm một mộ huyệt cho đứa bé. Anh phải tìm một nơi thật yên bình để khắc cột số trên đường vạn dặm tê tái. Trăng sáng vô cùng. Rồi người chết chỉ còn xương trắng, trắng như trăng, trắng nhưng nhức.

Hải bồng con theo Dũng. Trên nền đất loang lổ, bóng người cha nghiêng xuống, trên tay vắt ngang một thân hình bé bỏng. Cái thân hình bé bỏng vắt ngang một vệt dài làm thành hình thập giá. Thập giá di chuyển trên đất gồ ghề, xoải ngang trên cát trắng. Cái thập giá di chuyển, rung theo hơi thở, rung theo tiếng cầu kinh của sóng, tiếng u vọng của gió đêm ù ù thổi...
U hoài.

6

Rừng phi lao xanh mướt oằn oại lượn trong gió dọc theo bờ biển xa mút tầm mắt. Từ điểm xa mút ấy lố nhố hiện những ngôi nhà trắng nhỏ cứ như những hộp vuông bé nhỏ ấy được cắm trên đọt xanh của lá, của màu xám núi. Ở một góc mắt khác, những tảng đá chồng lên nhau, xếp thành hàng lắt lẻo từ đất liền đổ ra biển trông như những đàn rùa nối đuôi nhau từ bỏ đất liền. Sóng tóe lên trắng xóa, hung dữ đập vào những....mu rùa nín lặng chịu đựng. Mây trời sà thấp, thấp đến mức chui vào những cánh cửa bé xíu của những ngôi nhà bé xíu.

Họ phấn khởi khi càng tới gần màu đỏ chói của nhiều nóc nhà càng tỏ hiện một sự phú túc dư dả nào đấy. Mặt đất nghiêng dốc ra phía biển, nhưng cả ngôi làng được xây trên một mặt bằng khá phẳng. Kể từ khi thấy hình dáng của những ngôi nhà cho đến khi thấy được màu ngói, họ vẫn còn cách một quãng xa. Mặc dù khoảng cách càng lúc càng ngắn lại nhưng hoài không đến đích. Hải tựa vào gốc cây, hào hễn bảo:

- Bao giờ...tới...Dũng...chắc chết quá ông ơi!

Dũng tỉnh táo hơn, động viên cả bọn:

- Thế nào mà chả có cái để ăn. Ráng lên, thiên đường cụ Mác kia rồi.

Sương ngã chúi vào lòng lão Mục, đôi chân nàng tê dại không còn cảm giác. Lão Mục lựa thế ngồi xuống đất, ngửa mặt lên trời uống không khí. Một con chó từ đâu trong bụi chạy xẹt ra, lông nó vàng óng đến phát thèm. Dũng chặc lưỡi, tưởng tượng ra đĩa thịt chó thơm đến ngạt. Nhớ. Anh còn hình dung ra có cả chén rượu nốc vào nóng ran người. Bỗng như trí tưởng tượng khiến tinh thần Dũng phấn khởi, anh giục mọi người đi tiếp bảo:

- Mình có cơ sống. Có chó là có đồ ăn mà.

Bóng người xuất hiện lấp ló trong rừng phi lao khi bọn Hải tới gần. Chẳng còn gì để sợ, họ đang muốn gặp công an, hoặc bất kỳ một người nào may mắn hơn họ. Dũng hối thúc:
- Ông ráng tí nữa ông ơi. Trông kìa, có cả lều giăng trên bãi tắm. Hẳn phải là xứ giàu.

Dưới những cây phi lao mởn lá, quả nhiên Hải nom thấy những túp lều nhỏ che nghiêng ra hướng biển. Nhưng kỳ, những túp lều chỉ có một mảnh, làm bằng đủ thứ vải đã cũ, có cái còn rách bươm ra nữa. Bỗng nhiên có tiếng hô hoán:

- Ê, Việt Nam hở, các đằng ấy Việt Nam phải không?

Người vừa hỏi là một thanh niên gầy gò, da mặt anh ta bong ra từng mảng. Anh ta cầm một khúc cây vót nhọn, chắc đang nới thêm lều.

- Đằng ấy là Việt Nam hả? Trời ơi...

Dũng la lên mừng rỡ. Người thanh niên cười, hàm răng cửa cái còn cái mất:

- Hải Phòng đấy à. Đồ Sơn đây.

Anh ta nghe Dũng kể cuộc hành trình, mặt không đổi sắc:

- Tụi tôi đắm thuyền ở đây. Chỗ kia kìa. Năm hôm rồi.

Người thanh niên chỉ ra bờ biển. Có thấy gì đâu. Chỉ có mặt biển phẳng lì không vết tích. Anh ta bảo chỉ một đêm, con thuyền bị sóng nâng lên đập xuống vài lần là vỡ tan từng mảnh. Thuyền anh ta đi 47 người. Giờ tản mác đi ăn xin hết. Chỗ này tên là Ô Thạch. Anh ta kêu bọn Hải vào lều ngồi trên miếng vải lót nhăn nhúm.

- Làm sao đi tiếp? Hải băn khoăn hỏi.

- Mọi người đang tìm cách hùn tiền mua thuyền đấy. Các đằng ấy có tiền bạc gì không đấy, cứ chung cả vào với tụi tôi.

Dũng thầm đánh giá người thanh niên. Hàm răng sún khiến anh ta có vẻ bần hàn nhưng đôi mắt lại thẳng thắn. Gần tháng trời nay Dũng vẫn nhất quyết không chịu bán hai cái nhẫn chỉ đợi đến lúc này. Hải cũng có ý nghĩ tương tự. Một cái nhẫn cưới và hai mươi đô còn sót lại. Hải đã tiêu mất hai mươi đô la cho ngày ba mươi Tết hôm đến đảo Hải Nam.

- Tôi còn một ít. Những phương án của các anh ra sao?

Người thanh niên mắt sáng rỡ:

- Tôi tên Tịnh. Cả thuyền chỉ có tôi biết lái thuyền buồm. Tụi tôi đã tìm được chỗ mua một chiếc thuyền cũ nhưng họ đòi đến hai ngàn nhân dân tệ cơ. Thành ra phương án tụi tôi thế này: Hiện đã có chừng một nghìn, 47 người sẽ đồng loạt tản đi ăn xin, mỗi người kể cả con nít thì hai đứa chia thành một suất, cơ bản chia thành 40 suất. Mỗi suất phải xin đủ 40 đồng. Khi mọi người xin đủ số rồi thì sẽ tiến hành việc mua thuyền. Tôi chịu trách nhiệm về phần kỹ thuật.

Tịnh nhìn lão Mục:

- Thế ông đây chắc là dân trong nghề?

Lão Mục gật đầu mệt nhọc:

- Vâng, tôi phụ được.

Tịnh có vẻ phấn khởi:

- Các anh...à chị nầy nữa muốn nghỉ cứ nằm đây. Nếu muốn có gì ăn thì lên trên làng xin.

Tịnh mở can nước rót ra ca nhựa:

- Uống thì được. Tôi chẳng có gì đãi. Chờ vợ con xin ăn về mới “phụ” chúng nó cầm hơi.

Lão Mục gượng đứng lên. Hàm râu của lão như rụng đi gần nửa, xoắn tít vào nhau bẩn thỉu. Hải bảo:

- Thôi ông và cô Sương nằm nghỉ để tụi cháu đi xin ăn được rồi.

Dũng dồn thêm:

- Ông trông mệt lắm đấy, lại phải trông chừng cô Sương chứ.

Lão Mục gật đầu. Lão cởi áo làm gối biểu Sương kê lên. Những bắp thịt cuồn cuộn của lão đã tan theo bọt sóng, chỉ còn những lóng xương sườn nhô cao và hai cánh tay cong queo đường gân máu.

Hải và Dũng đi ngược lên hướng núi. Những ngôi nhà ngói đỏ có lối kiến trúc na ná như ở Việt Nam khiến cả hai đều có cảm giác gần gụi. Chỉ có khác là dường như đây là ngôi làng của người già. Những bà lão hom hem đội nón lá không chóp, tóc cắt ngắn ngang cằm nên trông có vẻ dịu dàng dễ mến của người đàn bà Việt Nam. Có người đang ngồi tựa cửa ngủ, miệng há hốc thở. Cả khu làng xây trên một khu đất cằn, đá lổm chổm che kín cả đất thịt, chằng chịt những rãnh nước hôi thối và bẩn thỉu. Hải đi ngang một ngôi trường tiểu học, ruột thắt lại khi thấy trẻ con nô đùa. Chàng rảo bước tránh xa ngôi trường nhưng như có điều gì giữ lại khiến Hải cứ ngoái lui. Dũng bảo:

- Vào đây thử.

Một người đàn bà trạc năm mươi tuổi đang phơi cá trước nhà. Hải trù trừ, nhớ sực bà lão xua đuổi bố con chàng hôm nào.

- Sao vậy?

- Trông bà ta hiền.

Người đàn bà trông hiền lành thật. Có lẽ nhờ mái tóc bới lên sau gáy, một vầng trán thẳng trên khuôn mặt đầy, và cái quần đen dài chấm gót khác hẳn đàn bà Trung Quốc lúc nào cũng mặc quần ngắn cũn cỡn. Người đàn bà quay phắt lên, nói. Ôi chao, bà ta nói tiếng Việt, mà nghe như giọng Hải Phòng mới chết chứ:

- Này các cậu, vào cả đây.

Hai người quýnh quáng mừng rỡ. Người đàn bà cười, hai hàm răng đều như hạt lựu:

- Các cậu ở dưới kia đấy phải không? Bà ta chỉ ra hướng biển. Mấy hôm liền người mình đi qua đây nhiều lắm...Cơ khổ!.

Bà ta mời hai ông khách bất đắc dĩ vào nhà. Dũng rụt rè bảo:

- Bà giúp cho chúng em nhỡ đường...

Người đàn bà xua tay:

- Bày vẽ nào. Tôi hiểu.

Chủ nhà rót chè ra tách, đon đả. Hải duỗi chân, lòng như nhẹ đi một gánh ưu phiền. Người đàn bà ngồi trên sập gụ, một chân thùng xuống đất, chân kia co lên. Ôi chao, sao mà Việt Nam thế.

- Các cậu đi Hồng Kông đấy chứ gì. Rõ thời thế, tôi mà ở lại thì cũng đến nước này thôi.

Thì ra người đàn bà trước kia ở Hải Phòng. Chính sách “bài Hoa” đã đẩy bà về nguyên quán năm 78. Bà ta về đây lập nghiệp với chồng cũng là người gốc Hoa. Chủ nhà rành rẽ giảng:

- Cái làng này được tổ chức theo lối công xã, nó như hợp tác xã bên mình vậy. Có chế độ bao cấp...

- Nhà nước ta hết bao cấp...

- À thế...

-...rồi cơ bác!

-...nào tôi có biết. Tất cả nhà cửa đều được xây cất ở những nơi thật khô cằn sỏi đá, vì những vùng đất tốt thì phải để dành cho canh tác. Đấy hai cậu coi, đến cỏ cũng không mọc ở đây được nữa là. Ruộng nương thì ở xã kia, đàn ông con trai đều ra đấy cả.

- Thế...

- Nhà tôi cũng ngoài ấy. Hai cậu người Hải Phòng?

- Vâng, em ở chợ Sắt. Bác còn nhớ không?

Người đàn bà bỏ một chân xuống, khuôn mặt bỗng mơ màng. Một chốc, mắt bà ta rớm lệ.

- Nào...

Bà hỉ mũi, ngập ngừng nói lảng:

- Để tôi thết hai cậu, nói mãi sao cho hết chuyện đời.

Chủ nhà xuống bếp lục lạo. Cả Hải lẫn Dũng đói xanh mặt, ngồi tựa vào bàn chờ. Thời gian trôi qua chầm chậm. Ngoài sân nắng đã nghiêng hiên. Rồi chủ nhà bưng lên hai bát mì bốc khói, đặt xuống bàn:

- Các cậu cứ tự nhiên.

Dũng nói vài câu chiếu lệ. Chưa bao giờ anh cảm thấy sung sướng đến như vậy. Cuộc đời đẹp vì con người còn đối nhau tử tế thế kia. Tình đồng hương, ôi dào, sao mà đáng bát cơm tô mì đến vậy.

Người đàn bà lại rót chè. Hai ông khách đã nuốt trọn tô mì trong nháy mắt, họ cáo từ. Chủ nhà đưa một gói nhỏ:

- Hai cậu cầm ít bánh sắn ăn đường.

Hải cảm ơn chủ nhà. Chàng thấy khỏe khoắn, sức lực hồi phục. Hải bảo Dũng:

- Mình về kẻo lão Mục trông, tội nghiệp.

Dũng gạt:

- Hượm đã nào. Hay tớ với cậu đi tham quan chút chơi. Vội gì. Biết đâu chừng lại được thêm gói bánh, cất ăn dần.

Hải nghiệm thấy chí lí. Chàng lò dò theo Dũng đi ngược lên dốc. Chàng thấy từ xa một người đàn ông đang bồng con đi cạnh một người đàn bà. Áo quần họ rách bươm, mặt mày vơ váo. Họ đang bàn cãi gì nghe rất căng. Rõ ràng là họ đang nói tiếng Việt. Khi đi đến gần Hải, người đàn bà vụt im tiếng, đôi mắt e ngại nhìn hai người đàn ông lạ mặt. Người đàn ông dáng chừng đã mỏi, trao con cho vợ, khuôn mặt lườm lườm ra chiều bất ý. Đứa bé đâu chừng hai tuổi, hai mắt sáng long lanh nhìn Hải nhoẻn miệng cười. Hải nghe cả mùi hôi từ cặp vợ chồng khi họ đi ngang qua. Chàng nghe tiếng người chồng gắt:

- Em nghĩ kỹ đi, đến nước này...

Người vợ cương quyết:

- Em thà chết...

- Bộ em tưởng chết dễ à...

Anh ta nhỏ giọng, Hải nghe tiếng còn tiếng mất:

- Mất đứa nầy mình...đứa khác.

Dường như chị vợ khóc thút thít. Hải không nghe tiếng chị ta trả lời. Anh chồng vẫn kiên quyết thuyết phục. Có lẽ chưa bao giờ trong đời anh ta thấy quyền làm chồng bị tổn thương đến thế. Một chốc anh ta bỏ bà vợ, hậm hực vượt lên phía trước. Người vợ chỉ chờ có thế, ngồi phịch xuống bên đường ôm con khóc rấm rức. Anh chồng chợt dừng chân, quát:

- Có đi không nào, hôm nay người ta đi đấy!

Rồi anh ta dỗ đứa bé:

- Lạc ngoan của bố nào, nào đi theo bố!

Người vợ hoảng hốt ôm rịt thằng bé. Anh chồng xấn lại, lôi vợ đi xềnh xệch. Dũng cau mày khi thấy cảnh đó:

- Cái thằng cha...

Hải bảo:

- Nó muốn bán con đó.

Chàng nghe lòng buồn dằng dặc, nhớ con da diết. Gói bánh cầm trên tay chừng nặng trĩu. Chàng chưa lần nào cho bé Ngọc ăn cái bánh như vậy suốt cuộc hành trình. Cả khi con chết, chàng chỉ có một củ khoai méo mó đã cạp vỏ để trên một cục đá dưới gốc thông già. Chàng lột sạch vỏ thông, khắc ngoằn ngoèo mấy chữ: nơi an nghỉ Lê Thị Mai Ngọc, 5 tuổi, chết ngày...tháng...năm... Rồi nếu có hôm nào trở lại, chàng có còn tìm gặp cây thông nguyên vẹn hay không? Chàng hy vọng, sợ hãi con đường sắp tới, mà ngoái lui chẳng một lối về.

Dũng bỗng hít hà:

- Nghe gì không?

- Mùi rượu.

Dũng hít hít như con chó đánh hơi. Rồi anh quả quyết lôi Hải đến trước một căn nhà ngói. Rõ ràng mùi rượu ai đang cất xuất phát từ đây. Một thanh niên đứng choán ngay cửa, quan sát hai người rồi lạnh lùng bảo:

- Vào đây.

- Thế ra nhà bác...

- Cứ vào đây hẳn...

Căn nhà lót ván kêu ọp ẹp dưới sức nặng của ba người. Gã thanh niên bảo hai ông khách ngồi, tự tay rót...rượu ra chén. Dũng sướng tưởng ngất lên được.

- Thế ra nhà bác...

- Ừ, tôi là Cảng Quảng Ninh đây. Nhìn dạng hai ông biết ngay dân vượt biên. Uống đi.

Nguyên Cảng từng là công an ở Quảng Ninh. Bị cho về hưu non vì bố là người gốc Hoa. Cảng trốn sang Trung Quốc thời nhà nước đánh “nạn kiều”, làm nghề nấu rượu lậu, vẫn ôm giấc mơ vượt biển đến Hồng Kông. Y đã vượt đến Hồng Kông một lần nhưng liền bị trả ngay về Hoa lục vì chính quyền Hồng Kông không nhận bất cứ một người nào đã định cư ở Lục địa. Sau lần thất bại đó, Cảng rút kinh nghiệm, nghĩ ngay một phương án mới. Y bàn tính với một số người trong làng hùn mua thuyền, chờ có “nạn dân” tức người tỵ nạn ở Việt Nam đến sẽ nhập bọn để cùng đi với họ đến Hồng Kông. Khi đó y sẽ khai là từ Việt Nam, và đương nhiên sẽ được chính quyền thuộc địa chấp nhận. Y chắc mẩm như vậy.

Gặp Hải và Dũng, Cảng biết ngay là người Việt Nam. Y đã gặp nhiều người ăn xin do thuyền bị đắm ở rừng phi lao để gạ gẫm cho y đi theo những chưa ai chịu. Rốt cuộc Cảng dùng phương án cuối cùng: đi bằng chiếc thuyền y mua nhưng sẽ dùng người Việt làm chủ thuyền. Thế là thượng sách. Cảng nói:

- Các đằng ấy cứ nhậu cho say một bữa. Vội gì.

Thực sự thì Hải và Dũng chẳng vội gì. Hai người cứ uống liền tù tì, nghe Cảng nói tiếng còn tiếng mất. Đầu óc chếnh choáng, hơi men khiến họ hứng chí, Dũng khề khà:

- Được, tôi là tài công. Có thêm ông thông thạo đường đi nước bước nữa lại càng hay.

Cảng hớn hở nốc cạn chén rượu, mặt y đỏ khè:

- Bọn tôi cả thảy trên 20 người. Thêm hai ông...

- Bốn người.

Hải nói, kể thêm cha con lão Mục:

- ...thì cũng chưa tới ba chục nhân mạng. Ta cùng nhất trí là đi từ Đồ Sơn.

- Thuyền to bé thế nào?

- Ối dào, đi cho hết thì phải năm mươi người có dư. Nào vô nào.

Ừ, thì “vô”. Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu. Uống cho tiêu mối sầu kim cổ. Chàng còn gì nữa đâu mà sợ, cứ gặp chăng hay chớ, cứ đánh bè kết bạn ung dung, cùng nhau đi, cùng nhau tới, và chết! Hải say tít, say lử, say cúp bình thiếc, say cho đến gần nửa đêm. Chàng đã ngủ không biết bao lâu trên nền đất, ấy thế mà nóng ran mình mẩy. Đầu óc chếnh choáng nhưng Hải nhớ ngay là cả chàng lẫn Dũng đều quên đem thức ăn về cho lão Mục và Sương. Hải lay Dũng dậy:

- Về thôi ông, khuya lắm rồi.

Không thấy Cảng đâu, nhưng vừa ra tới cửa thì đụng ngay Cảng đang ngồi trên bậc thềm, hút thuốc phì phào:

- Đi hả. Ừ, ta nhất trí nhé. Sáng mai ghé lại tôi.

Hai người im lặng ra biển, lòng áy náy. Trăng đã mọc trên đầu, chiếu vằng vặc cả quả đồi hoang vắng và tĩnh mịch. Hải chỉ còn nghe tiếng chân mình trên đường dốc vắng, thỉnh thoảng tiếng chó sủa trăng vu vơ cô độc. Vừa đến rừng phi lao, đột nhiên có tiếng tù và nổi lên rợn gai ốc và cả tiếng chim kêu quang quác khua động cả màn đêm yên ngủ.

Dưới ánh trăng, gần cả trăm bóng đen đang tụ tập trên bãi biển. Họ quây quần chung quanh hai chiếc thuyền độc mộc, rồi hè nhau đẩy thuyền xuống biển. Một chiếc lưới căng ra từ hai chiếc thuyền sóng sánh ánh trăng từ từ chìm xuống nước. Cả đoàn người, bây giờ Hải đã nhận ra toàn là những ông già trong làng, chèo thuyền ra khơi. Hải đoán họ lưới cá theo kiểu tập đoàn, nhúm gia sản là cái lưới và hai chiếc thuyền độc mộc nhỏ nhoi trên biển cả.

Thốt nhiên Hải giật thót người. Cả bãi biển sao quạnh hiu không một bóng người. Dũng cũng phát hiện cái vắng lặng bất thường ấy. Anh lẩm bẩm:

- Không lẽ mình về lầm chỗ.

Cả hai người xồng xộc khắp rừng phi lao. Không một dấu tích nào của người tỵ nạn để lại. Hải cấu tay Dũng thật mạnh:

- Á...

- Ông đau hả, đúng là không phải mơ rồi.

Chiếc lều của Tịnh đã biến mất. Không còn gì hết, cả lão Mục, cả Sương. Họ đi rồi. Hải điếng người:

- Họ đi rồi?

- Vô lý!

- Vô lý! Lẽ nào...

Quả thực thì họ đã đi rồi. Không còn nghi ngờ gì nữa. Hai người đều không muốn tin như thế. Trăng lưỡi liềm đang nghiêng cười trêu cợt. Tiếng xào xạc của đôi chân trên cát chỉ trả lại một âm thanh buồn hiu hắt. Hải nghe một tiếng xào xạc khác. Bước chân của Dũng. Không phải, vì Dũng đang đi bên trái. Phải là một bước chân khác. Đúng vậy, rồi có tiếng va chạm của hai vật chạm nhau, tiếng ngã. Hải bắt loa gọi lớn:

- Ông ơi...

Tiếng kêu của Hải rền rền trong cây, mất hút. Rồi một tiếng vọng, rõ ràng không phải tiếng vọng của Hải:

- Ơi...

Hải chạy như điên về hướng tiếng kêu. Trăng đuổi theo rần rật sát nút. Một bóng đen đang lảo đảo đi, bóng đen đụng vào một cây phi lao ngã xuống, lồm cồm ngồi dậy, hai tay quơ quào trong không khí. Mái tóc xõa che kín cả khuôn mặt. Hải rú lên:

- Sương...!

Phải, bóng đen đó chính là người con gái mù lòa. Nàng ngã ập vào lòng Hải, khóc nức nở, tiếng khóc khản đặc vỡ trong không gian trắng màu tã.

Thuyền lướt nhẹ trong ráng chiều êm ả. Cảnh trí trên bờ đẹp như bức tranh thủy mặc. Có chỗ, từ trên cao một dòng thác bé như dải lụa vắt vẻo trên màu xanh của núi. Cạnh đó, một ngôi nhà nhỏ chìa ra trên mỏm đá chơ vơ giữa lưng trời. Hải nghĩ có lẽ ngày xưa Lưu Nguyễn lạc thiên thai chắc cũng chỉ chừng này sương khói. Chàng ước khi nào bước chân mình đã có chỗ quay về, chàng sẽ đứng trên mỏm đá lưng trời kia, sẽ đánh một tấu khúc làm rung động những đám mây đứng sững yên bình, và dưới chân chàng, sẽ có...

Cảng trải tấm bản đồ giảng giải:

- Chỗ xanh này là nước sâu, ta đi gần bờ được. Nếu ông...Cảng nhìn Dũng, cắt được đường xuyên qua đông hải đảo thì đến Hồng Kông chỉ mất vài hôm.

Dũng hờ hững:

- Cái đó còn tùy.

Chiếc thuyền của Cảng dài 11 thước, từ đáy thuyền đo lên cao phỏng độ một thước rưỡi, nước cứ mấp mé mạn thuyền chực tràn cả vào khoang. Dũng nào vui được khi đoàn người cùng đi đã tản lạc hết, anh bực bội trong cái thế phải đi cùng với hàng chục người địa phương cải danh là người Việt Nam đến Hồng Kông. Đêm Dũng và Hải say sưa ở nhà Cảng cũng là đêm công an tập hợp đám người Tịnh dưới rừng phi lao, buộc họ phải nhổ neo ngay vì đã mua được thuyền buồm. Lúc đó Sương đang mò mẫm ra ngoài tìm chỗ đi ngoài. Đúng ra nàng đã thức lão Mục dậy dẫn đi như mọi lần, nhưng nghe tiếng bố ngáy đều, nàng nghĩ bụng cứ đi cho đến chừng nào không nghe tiếng người nói thì sẽ ngồi xuống. Dường như chỗ nào cũng vang lên tiếng ngáy ngủ khiến Sương đi càng lúc càng xa chỗ cũ. Đến lúc tìm được chỗ mà nàng cho là “an toàn” thì công an ồ ạt đến. Họ đánh thức tất cả dậy, khẩn trương tập hợp mọi người. Lão Mục quýnh quáng vừa đi vừa gọi tên con cho đến khi bị xô ngã xuống thuyền. Lão cứ nghĩ Sương chắc ở trong đám đông người nhốn nháo. Lão không biết là Sương không thể tự về lại căn lều cũ.

Dũng lái liên tục gần tám tiếng đồng hồ. Linh tính cho anh biết là Cảng chẳng biết gì về chuyện đi biển. Y nhiều lắm chỉ rành tên địa phương mà thuyền đi ngang qua. Dũng bắt y xác định tọa độ con thuyền, đo mực nước, rồi bẻ ngoặt 45 độ. Theo hướng nầy, anh sẽ đến thị trấn Trạm Giang trong vòng bốn giờ nữa.

Nhưng càng lúc nước biển càng đen sì, bờ càng lúc càng xa. Dũng hoàn toàn không nghĩ là Cảng đã định trật chỗ đậu của con thuyền. Mà thật vậy, thay vì chỉ đúng chỗ thì y lại đánh dấu trật lên một cái mỏm cách chỗ xuất phát 150 cây số. Khi Dũng phát hiện ra thì đã quá trễ. Bốn bề chỉ là màu đen của biển, màu đen của mây của trời hú gọi. Chỉ trong một tích tắc của sự nhầm lẫn, bão ồ ập kéo đến. Con thuyền nằm gọn trong hai lượn sóng, cứ thế lượn đi như chiếc diều bị gió đùa. Mũi thuyền bị đánh vỡ, nước xối xả tràn vào. Tát, tát...tất cả cùng tát nước. Con thuyền ưỡn lên oằn xuống như có một bàn tay vô hình đẩy đưa. “Cạch”, từ đáy thuyền vang lên một âm thanh va chạm.

- Đụng cồn cát rồi.

Có tiếng hét. Rồi tất cả cùng sững sờ khi trước mặt họ hiện ra một ngôi chùa trơ trọi trên cồn cát. Ánh lửa leo lét từ bên trong chập chờn soi bốn cây cột những hình thù quái dị. họ ngừng trước một cái miếu! Tất cả rùng mình trước run rủi lạ lùng. Dũng bảo:

- Ông dìu cô Sương vào trong chùa nghỉ, tôi phụ kéo thuyền lên bờ không lại vỡ nữa.

Hải run cầm cập trước những ngọn gió cắt thịt. Chàng chỉ cảm thấy một chút hơi ấm khi thân hình sũng nước của Sương tựa vào người. Trong lòng chàng dấy lên một niềm tin mãnh liệt. Hẳn phải có đấng vô hình nào đã đưa bọn chàng đến đây, nếu không thì giữa biển mênh mông và đêm tối vô cùng chiếc thuyền đã không tấp vào một ngôi chùa cũ nát.

Bóng người lao xao qua mặt Hải chui vào mái chùa. Chàng nghe họ nói:

- Ngài thiêng lắm.

- Ai cũng biết tiếng mà.

Qua câu chuyện trao đổi giữa những người Trung Quốc đi trên thuyền, Hải lờ mờ đoán chùa thờ một vị võ tướng ngày xưa. Vị tướng này thắng một trận hải chiến lừng lẫy ở đây, được dân chúng lập đền. Mỗi năm, ngư phủ Trung Quốc dù hành nghề bất cứ ở đâu cũng về đây cúng tạ để xin đi biển được bình an.

Bên hông chùa có một đống lửa nhỏ của ai đó đốt sẵn. Thấy Hải đến những người đang ngồi xung quanh đống lửa liền nhích ra chừa một chỗ. Bọn người này rõ ràng không phải đi chung thuyền với Hải vì người họ khô ráo. Một người hỏi:

- Anh chị bị đắm thuyền mới tới phải không?

- Vâng, còn các bác. Hải đáp.

- Bọn này lên đây đã năm hôm.

Hải “à” lên mừng rỡ. Thì ra thuyền họ từ Việt Nam đi hơn nửa tháng nay, nghĩa là sau ngày Hải xuất phát. Họ ghé nhiều nơi trên đất Trung Quốc nhưng may mắn là không gặp bão tố suốt cuộc hành trình. Lúc đi, thuyền họ chỉ có chín mươi người nhưng suốt dọc đường họ đã cho khá đông người bị thuyền đắm đi nhờ nên bây giờ con số đã hơn một trăm.

Hải vừa phơi áo vừa hỏi chuyện. Chàng ở trần trùng trục nhưng đã hết lạnh vì ngọn lửa cháy đều ánh sáng rực rỡ. Một chốc, tiếng xèo xèo do nước nhỏ từ áo xuống than hồng đã bớt. Hải dắt Sương ra sau chùa, bóng đêm dày đặc. Chàng ngượng ngập bảo:

- Sương thay cái áo này đi. Cởi áo đưa anh phơi kẻo rét đấy.

Chàng nói thêm:

- Chỗ này tối lắm, không ai thấy.

Chàng đưa áo cho Sương, quay mặt lại. Chàng thấy thảnh thơi vì trong lòng hoàn toàn trong sáng. Chỉ có những vì sao trông thấy, Hải nghĩ. Chàng thương biết bao những dòng nước mắt lặng lẽ của Sương khi biết lão Mục đã đi theo thuyền khác. Từ hôm ấy, nàng lạnh lẽo ngồi phía sau thuyền, đôi mắt như hút cả không gian trước mặt. Một chập, những giọt nước mắt đọng to như dòng sông đang bốc thành khói để đọng sâu nơi màu mắt mây phủ của nàng, và rơi xuống, âm thầm...

Hải rùng mình khi chiếc áo ướt lạnh chạm vào lưng. Chàng chợt nhớ ra là làm sao Sương thấy chàng để đưa áo.

- Ô, Sương thấy anh đứng đây à?

Sương nói, hàm răng trắng đều trong bóng tối:

- Không, nhưng em...đánh mùi được.

Hải bật cười:

- Đi biển mấy tháng có tắm đâu.

Mái tóc dài của Sương lắc lắc:

- Không, em quen bóng tối rồi.

Hải à, bảo:

- Bây giờ em đi thẳng tới trước...à, thế...nào, bên phải, ừ...thế...rồi...trái...trái...rồi cứ thế...

Họ về lại đống lửa. Sương đã được Cảng kỷ niệm cái áo may bằng vải kaki, tuy cũ nhưng rất bền. Nàng vẫn giữ cái áo mặc đi từ Việt Nam dù nước biển đã làm mục. Chiếc áo mà lão Mục đã tự tay khâu một đường rách.

Bỗng nhiên Hải nghe tiếng Dũng cười lớn. Hình như chàng đang hồ hởi nói chuyện với ai đó. Hải lục trong trí nhớ. Phải, giọng nói của người đàn ông đang trò chuyện với Dũng quen lắm. Chắc chắn Hải đã có nghe qua. Rồi giọng Dũng chợt nhỏ đi, như thì thầm, Hải gọi:

- Dũng ơi, ông đâu đấy?

Tiếng Dũng im bặt, một sự im lặng hơi bất thường. Hải ngó quanh quất. Giọng Dũng thọc ngay sau lưng:

- Hải, trông ai đây nè!

Hải ngờ ngợ nhìn người thanh niên có khuôn mặt hao hao giống Dũng. Đôi mắt anh ta sâu thẳm, cái cằm vuông cứng cáp. Thân hình anh ta gân guốc vạm vỡ cứ như là biển cả đã nhồi những bắp thịt nổi lên. Hải nhớ ra rồi:

- Cường...!

Chàng hét lên một tiếng nữa, xúc động:

- Cường...thế...

7

Tại sao anh nằm đây, trên chiếc thuyền con lắc lư sóng? Lạ quá! Cường nhớ đã bị hất tung vào bầu trời đen cùng tiếng hú oan khiên vẳng đi từ một nơi nào đấy, rồi như tất cả đều mất hút vào một cõi không thăm thẳm. Anh nhớ mình bị sóng giật tung lên, rơi xuống đúng vào một lốp xe cột ngang mạn thuyền. Cánh tay như con bạch tuộc cuốn mồi, cặp chặt lấy cái lốp xe vào nách. Nước sủi bọt tức giận, chẻ thành nhiều vết dao muốn cắt rời anh ra khỏi cái vật tròn đen xuất hiện như thiên thần giáng thế. Không, không đời nào anh chịu buông nó. Nó là mẹ anh, nó sẽ sinh thành ra một đời sống, tái tạo ra anh sau lần chết hụt này.

Cường trôi trên biển mấy đêm mấy ngày, anh không làm sao nhớ hết. Lúc khỏe thì quơ tay quẩy quẩy, khi mệt thì phơi mình dưới nắng. Cứ thế, mây bay ngút ngàn miên miên vô tận. Biển không hành hung anh nữa. Biển lành tưởng ngay cả cái vỏ trứng mỏng manh cũng không bị nhận chìm. Cường đã mờ mắt, làn da móp méo như trái cam khô. Nhưng anh nhìn thấy một chỏm núi đen mọc lên từ mặt nước. Anh ngất đi trong cơn mơ kinh khiếp.

Cường được một chiếc thuyền đánh cá cứu. Người anh như đụn giẻ khi được vớt. Anh được săn sóc mấy ngày liền trong khi chiếc thuyền vẫn đi lưới. Anh cũng được biết là người ta đã vớt xác mấy chục người gần Đồ Sơn mấy ngày trước đó. Như vậy là toàn bộ con thuyền đều chết, Cường đau đớn nghĩ thầm, những giấc mơ nặng nề tức ngực lại kéo đến. Anh nhớ cái cổ trắng ngần của Thu, anh nhớ làn môi cương quyết của Đặng mím lại khi dứt khoát cho thuyền ra khơi dù biết trời sắp làm cơn cố. Anh nhớ những đống nước xanh vàng ói mửa đầy thuyền của đàn bà trẻ con trên thuyền. Không lẽ tất cả đã về bên kia thế giới. Có lẽ nào anh là kẻ chứng nhân may mắn và đau khổ. Sao lại thế được!

Cường không muốn trở về Đầm Hà. Anh đã bán căn nhà của Dũng trước khi đi, chẳng còn gì ở đó để mà về. Cường bán chiếc đồng hồ đeo tay, mua một bộ quần áo mới rồi lấy vé ô tô đi Hà Nội. Bố mẹ và em gái Cường ở gần chợ Đồng Xuân, có cửa hàng bán phụ tùng đồ xe đạp, lợi tức thu nhập hơn hẳn lương anh công chức ngày ngày đạp xe run cả đầu gối. Ông cụ ít khi có nhà, những đi về bất thường của cụ khiến Cường nghĩ cụ đang hoạt động gì đó. Nhớ hôm nào ông bảo Cường:

- Con liệu đường xuống học nghề tài công của anh Dũng.

Ông nói ngắn, gọn nhưng Cường hiểu. Hai bố con tâm sự đến sáng. Cường thấy đôi mắt bố thêm quầng, mái tóc dầy rẽ giữa của ông vẫn bềnh bồng nghệ sỹ. Ông thì thầm cho Cường biết là nhóm Bồ Câu Trắng của ông đã bị phát hiện, một vài người bị bắt, số còn lại mạnh ai nấy chạy hoặc ngưng hoạt động chờ thời. Có lẽ rồi bố sẽ bị bắt, ông nói, nhưng đến khi đó tình hình chung sẽ sáng sủa hơn. Trong số những người quen của ông, Cường có biết một vài văn nghệ sỹ tên tuổi. Nhưng với anh, đó là những tên tuổi của một thời đã qua. Cường đã tốt nghiệp phổ thông, nhưng không bao giờ đọc các tác phẩm của họ. Có vẻ như những tác phẩm mà nhiều người lầm lẫn cho là văn hóa quá khác xa với cái...văn hóa mà Cường đối mặt hàng ngày. Đó là những dòng xe đạp ngập tràn thủ đô với những bộ mặt khép kín u sầu. Đó là những cảnh chợ trời cướp bóc giành giật bán đủ các thứ có thể ráp được một chiếc ô tô chỉ thiếu mỗi cái khung. Cường không thể nào thấy “gần” được với những nhà văn tả nghệ thuật uống trà, hoặc có thể hùng hồn đòi khắc văn trên đá. Nghĩ đến họ là nghĩ đến một hoài niệm, xa rời quần chúng và thực tại. Cường không đòi họ đụng đến thực tại của ngày hôm nay, họ đã kinh cung chi điểu. Dẫu sao anh cũng tôn kính họ, như tôn kính lịch sử, mà không ai viết lịch sử của những gì đang xảy ra, nếu có, thì là một hiện thực lịch sử không cấu thành từ tim óc của một cá nhân nhưng là của một quần thể. Nhà văn là kẻ sáng tạo ư? Nghệ sĩ là kẻ sáng tạo ư? Có thể. Nhưng hắn sẽ “sáng tạo” được cái gì khi cảm thụ về chân thiện mỹ của hắn không được giãi bày, nghệ thuật được sáng tạo bằng cảm quan rất đáng phàn nàn của tập thể, một công trình tập thể đồng sắc áo. Chân lý nhân danh tập thể nên nỗi quằn quại của riêng cá nhân người nghệ sỹ đã bị tử hình.

Bố Cường không ngờ đứa con trai út có những tư tưởng gần ông như vậy. Có nghĩa là Cường vẫn khắc mẹ. Đúng, mẹ Cường là người đàn bà giống như bất kỳ người đàn bà nào khác, có nghĩa là rất thực tế. Bà vẫn cho “bố con ông là người viển vông, chết có ngày!”. Bà buôn tần bán tảo kính chồng yêu con nhưng không đếm xỉa đến việc ông làm.

Cường không ngờ là trong nhóm của bố mình có Hải. Anh mến phục chàng trai ấy,tưởng Hải là biểu tượng của thế hệ sinh sau đẻ muộn của mình. Chính vì thế mà Cường đã dốc lòng dắt dìu vợ con Hải đi. Có ai ngờ lòng tốt của anh đã trở thành tai họa.

Về lại nhà đầu óc Cường còn choáng váng. Anh gầy sọm đi tuy đầu óc còn tỉnh táo. Ông cụ biết thằng bé chưa hoàn hồn, nên cứ âm thầm tìm đường khác cho con. Một hôm ông bảo:

- Cửa khẩu Đông Hưng đã mở lại rồi đấy. Con đi được.

Cường đến Đông Hưng lúc trời gần trưa. Nắng dịu chứ không gắt. Hơi mát từ con suối biên giới lẫn trong cảnh buôn bán tấp nập làm anh ngây ngất. Cường mua một vé “xuất khẩu” giá ba ngàn đồng. Bộ đội đứng trong trạm canh thản nhiên nhìn người qua kẻ về, dễ dãi. Cường xuống đò đi qua con suối rộng chừng nửa cây số. Lên bờ, anh lại mua một vé nhập nội giá một nhân dân tệ. Vậy là anh đã ở trên đất Trung Quốc.

Nhanh nhẹn, Cường nhập vào dòng người buôn bán. Anh đi vòng quanh các chỗ bán hàng. Thôi thì đủ hạng người tứ xứ từ lục địa đổ xô ra. Anh đứng trước một gánh hàng rong, ngắm lại bên bờ bên kia. Kìa, quê hương của anh. Gần nhưng xa lắm. Những dãy núi mờ sương, bầu trời xanh cũng như khác hẳn từ bên kia biên giới, như chính bầu trời cũng bị mốc cột chia hai không thương xót. Những con người áo quần lam lũ đầu đội vai mang tần tảo quá, biết bao giờ cái nón cối che ngang tầm mắt mới được giở ra để thiên thanh bầu trời khoáng đạt. Trong lòng Cường dâng lên một cảm giác lâng lâng lạ lùng như đang đặt chân đến một tinh cầu khác, dù cảnh sắc thật ra nào có khác bao nhiêu. Anh đến điểm hẹn là một ngôi nhà nhỏ cất sau những cây cổ thụ cao ngất. Người dẫn đường đã ở đó. Một gã bộ đội phục viên, mắt một mí, da mặt đen tràm và tròng mắt long lanh sắc sảo. Nghỉ ngơi ăn uống xong, Cường theo gã đi sâu vào lục địa. Cho đến khi trời đã chập choạng, Cường nhìn thấy một con sông nhỏ. Một chiếc thuyền dài chừng mười mét đang neo chờ. Cường xuống thuyền, đưa mảnh giấy có viết mật hiệu cho gã bộ đội để gã về nhà lấy phân nửa số tiền, phần còn lại sẽ đưa nốt khi có mật hiệu của anh gửi về từ Bắc Hải.

Gã lái thuyền là một công an Trung Quốc mặc thường phục. Trước kia, gã từng sống ở Hà Nội nên tiếng Việt rất sõi. Gã làm công việc này thành thục cứ như nghề chính của gã là đưa nạn dân đi chứ không phải công an. Trên thuyền còn có non ba mươi người khác. Cường cảm thấy thanh thản hơn chuyến đi lần trước. Bề gì, từ đây đến Bắc Hải anh không phải lo nghĩ nhiều.

Thuyền lặng lẽ đi trên dòng sông quanh co. Hai bên bờ nhà cửa thưa thớt, một vài ánh đèn dầu hờ hững hắt ra buồn ảm đạm. Tiếng chim gọi bầy ríu rít vang rân, rồi trả im lặng cho dòng sông khi đêm càng về khuya. Cường ngủ gà ngủ vịt, lòng dấy lên tâm cảm buồn mênh mông của người viễn xứ. Anh nhớ ánh đèn nhà day dứt, thót cả ruột non ruột già.

Gần sáng thì thuyền đến cửa sông. Nước chảy xiết khá mạnh nhưng gã công an tài công sành sỏi nương theo con nước đưa thuyền ra biển êm ả. Bỗng như Cường có cảm tưởng vừa thoát khỏi một chốn tù hãm tăm tối để đón nhận cả không gian bao la mở rộng. Gió lồng lộng thổi, bát ngát những đợt sóng lăn tăn. Anh tưởng như cả tuổi xanh bây giờ mới thực sự biết sống là gì. Cuộc đời đâu chỉ quanh quẩn xó tường, rồi anh sẽ đến Hồng Kông (Trời ơi, xứ sở của tự do) chỉ trong vòng vài ngày nữa. Ánh điện vàng rực rỡ trong thư của bạn gửi về bắt đầu nhảy múa tưng bừng trong cõi lòng phấn chấn của Cường. Nơi đó có những tòa nhà chọc trời, phố phường không bao giờ tắt ánh sáng kinh kỳ. Anh sẽ xin đi một nước thứ ba, anh sẽ viết thư báo tin cho cha già, anh sẽ cho ông biết sẽ đi theo ước muốn của ông, anh sẽ...anh sẽ...

Đất liền chỉ còn là một vệt mờ mây khói. Sóng lắc lắc làm mấy bà bắt đầu nôn mửa. Nhằm nhò gì cái màu mật xanh để đổi cả cuộc đời ấy. Có mất đi một phần thân thể, có mất đi...Ừ, mà mất thật rồi đấy. Mất mẹ, mất cha, mất quê hương, mất bạn bè, mất tất cả. Ừ, thì cuộc đời là cuộc thương lượng mặc cả mà. Nếu không liên hiệp được với nó thì phải dứt nó đi, xây dựng một cuộc đời khác.

Có một đêm trời gió khá mạnh. Gã tài công tìm ngay một hòn đảo cực kỳ nhỏ, tránh. Sáng gã bình tĩnh đưa thuyền đi tiếp. Nhưng lần này gã đi sát bờ hơn. Cường có thể nom thấy những mái nhà li ti trong bờ, toàn bộ quang cảnh dường như bị chế ngự bởi núi cao xanh thẳm hoặc đen tràm. Ánh nắng có khi vãi một vệt vàng hình chóp nón như có bàn tay nào như vãi thóc trước sân. Thế đấy, thiên nhiên đang đãi ngộ những ai biết ngắm nhìn.

Rồi Bắc Hải. Cường đã tới cái điểm mà từ đây anh phải tự lo liệu lấy. Một thành phố cảng lớn quá sức tưởng tượng của Cường. Tàu bè đậu tấp nập. Cả bọn lớ ngớ sau khi chiếc thuyền đưa đã quay mũi. Họ dự định tới đây sẽ mua thuyền đi tiếp. Nhưng ngay phút đầu lóng ngóng không biết bắt đầu làm sao. Cường chú ý ngay một người con gái đi một mình. Người con gái trạc tuổi Cường, tóc kết đuôi sam, nước da đen khăm khẳm và khuôn mặt có vẻ lam lũ của một người lao động dầm mưa dãi nắng. Cô ta đứng chơ vơ một mình trên bãi, không trò chuyện với ai cả. Một giọng nói cất lên:

- Ai biết tiếng Trung Quốc nhỉ?

- Tôi biết chút ít thôi. Cường đáp.

- Thế tính sao đây?

Tính sao? cứ tiến tới những tòa nhà cao ngất ấy đã. Đúng lúc ấy công an Trung Quốc xuất hiện. Cường nói lắp:

- Ngộ..chẩu hớn cỏn.

Mấy viên công an có vẻ lịch sự. Một gã bảo biết rồi, các nị phải tới tập trung ở chỗ có đồng bào của nị đi Hồng Kông ấy. Một đám đông người địa phương tò mò đứng nhìn lũ người áo quần xốc xếch đi trên đường. Những biểu hiện có tiếng nước ngoài hấp dẫn và hứa hẹn quá. Mọi người chỉ trỏ, bàn tán. Thành phố đẹp gần bằng giấc mộng có đèn xanh đèn đỏ, đẹp nhất là con gài mặc váy ngắn củn, hai bắp chân thon thon khiêu khích. Bắc Hải quả khác xa những làng mạc nghèo nàn lạc hậu mà Cường mới đi qua, Cường như anh mán về thành, ngơ ngáo đi giữa cõi người xa lạ thích mắt. Cường đến bờ biển có đồng bào anh cư trú.

Cái vẻ trù phú của cảng Bắc Hải chỉ làm tăng nỗi bơ vơ lạc lõng của nạn dân nạn kiều sống trên bãi biển. Ngoại trừ một nhà thương thí do Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc thành lập năm 1979, các nạn kiều bị đuổi về nước năm 78 chẳng được hưởng một quy chế gì rõ ràng. Đầu tiên, họ được bố trí lên các nông trường ở tỉnh Quảng Tây. Chịu không nổi đời sống ở đó họ trốn về miền biển và cắm lều sống trên bãi cát bằng nghề đánh cá. Họ làm vệ sinh cá nhân ngay trên bãi, lấy cát lấp lại chờ sóng lên dọn sạch. Nhóm nạn kiều sống ở Bắc Hải đã bị lãng quên hoàn toàn. Không ai cần biết đến họ và họ cũng chẳng trông chờ vào ai. Lương thực của họ là biển cả mênh mông (tê tái) ngoài xa kia. Trung Quốc coi họ là nạn dân người Việt, nhà nước Việt Nam lại coi họ là nạn Kiều. Sức ép của hai thể chế đẩy những người này ra tận mé nước và không thể ra xa hơn được nữa. Những đứa trẻ sinh ra trên cát nóng chờ ngày theo cha mẹ ra khơi bắt cá. Không một ngôi trường nào chịu chứa những đứa trẻ sinh nhầm đất nước ấy. Khi nhìn thấy đời sống nghèo nàn lạc hậu của người Việt gốc Hoa trên mép nước, Cường càng thêm khâm phục tài nghệ nói phét “đảng truyền” vô tiền khoáng hậu của Hoàng Văn Hoan những ngày chống gậy ăn xin trên đất Trung Hoa. Trong một số báo tin Việt Nam lọt về Hà Nội, Hoàng Văn Hoan huênh hoang là đã đi thăm khu nạn dân nạn Kiều đánh cá ở Bắc Hải. Theo tờ báo thì công việc làm ăn của nạn Kiều tấp nập và vui vẻ. “Chiều chiều, khi tàu thuyền cập bến, kẻ mua người bán, tiếng nói tiếng cười vang lên nhộn nhịp...Nhiều bà con nạn Kiều đã trở nên giàu có.”

Vài ngày sau Cường gặp một chiếc thuyền đi từ núi dê Hải Phòng ghé Bắc Hải mua dầu Cường hùn một chỉ vàng xin quá giang đi Hồng Kông. Tài công biểu diễn tình đồng hương bằng cách nhận thêm vài người xin theo, trong đó có cô gái mà Cường nhác thấy hôm mới đến. Gã tài công cười mơn hỏi cô gái?

- Em tên gì đấy?

Cô gái dường như không nghe hỏi. Đôi mắt lần thần nhìn ra biển, nhìn vào những dãy phố. Gã tài công hỏi thêm một lần nữa. Cô đáp:

- Mân.

Rồi ngồi xuống góc thuyền, tay mân mê mép áo. Cường cố lục trí nhớ. Dường như Mân không phải là trong đoàn người đi từ cửa khẩu Đông Hưng. Dường như cô xuất hiện đâu đó lúc Cường đã đến Bắc Hải. Mân ăn mặc như một xẩm Tàu đã sinh sống nhiều năm trên đất Trung Quốc. Tóc kết đuôi sam, cúc áo cài một bên, cái quần đen khá sạch sẽ. Nhưng hề gì. Cường chặc lưỡi. Cũng là nạn nhân như mình.

Vừa vượt qua eo biển Lôi Châu, thuyền bị sút “côn”. Số phận con thuyền đành để mặc cho sóng gió, muốn đẩy về đâu thì đẩy. Cường trông thấy nhiều tàu nước ngoài xuất hiện. Tất cả đều mừng rỡ reo hò, nhúng quần áo vào dầu đốt sáng rực cả đêm tối. Nhưng những chiếc tàu sắt nhanh chóng biến khuất trong màn đêm. Sáng hôm sau, cả thuyền lại nuôi hy vọng khi thấy một tàu đánh cá Trung Quốc xăm xăm tiến lại. Tất cả đàn ông con trai trèo cả lên mui, phất áo rối rít. Chiếc tàu đánh cá ngưng lại, đặt ống nhòm nhìn sang. Giây phút kéo dài hơn thế kỷ. Những con tim hồi hộp chờ đợi một sợi dây sẽ được quăng sang. Một phút...hai phút...năm phút...chiếc tàu đổi hướng chầm chậm hướng ra phía chân trời.

Những tiếng thở dài nén trong lồng ngực. Cường chán nản bảo tài công:

- Có cách nào kết buồm không?

Gã lắc đầu:

- Thuyền ta lớn quá, chịu.

Ba ngày trôi trên biển. Đàn bà con nít say mê mệt, nằm bẹp dí trên sàn, có người thậm chí vật người trên chỗ vừa ói mửa, tóc tai bầy nhầy. Chỉ có Mân là trông đỡ thảm hơn cả. Nàng tựa người vào khoang đôi mắt lạc thần nhin lên bầu trời mây kín. Suốt từ khi đặt chân lên thuyền Mân chưa nói với ai một lời. Dường như những việc xảy ra quanh Mân không làm người con gái kỳ lạ ấy lo nghĩ. Gã tài công có khi trèo ngang qua chỗ Mân ngồi, lẩm bẩm:

- Cái...lạ...

Một chiều. Khi sức lực của mọi người trên thuyền đã cạn kiệt thì một chiếc thuyền Trung Quốc xuất hiện. Chỉ còn vài bàn tay đủ sức giơ vẫy, nhen nhúm hy vọng. Gã tài công ngồi trên nóc ra dấu là thuyền chết máy. Đột nhiên, Cường nghe gã rú lên mừng rỡ. Chiếc tàu đánh cá đã liệng dây sang. Gã tài công chụp lấy sợi dây, nhanh nhẹn cột vào mũi. Nhưng kia, chiếc tàu vẫn xáp lại, xáp lại gần. Cường bảo:

- Anh xin đồ ăn thức uống đi, nó muốn cho đó.

Gã tài công ngước lên, rồi cả thuyền đồng loạt há mồm, chỉ trỏ. Mấy gã Trung Quốc cười hằng hặc ra vẻ hiểu, quăng xuống một bao mì gói, rồi những tảng nước đá ào ạt bay sang. Một gã thủy thủ nhảy qua thuyền gặp nạn, nói chuyện với tài công. Cường thấy gã thủy thủ làm điệu bộ, có lẽ gã không hiểu ngôn ngữ phần lớn là bằng tay chân của tài công. Cường thấy tài công lắc đầu, gã thủy thủ xịu mặt quay về, rồi tài công gọi giựt gã lại, bảo chờ. Tài công kêu đàn ông trên thuyền hội ý. Cường té ngửa người khi gã tài công cho biết là tàu Trung Quốc đòi “mượn” một phụ nữ trên thuyền rồi mới chịu kéo. Gã nói:

- Đó...tôi đâu muốn!

Những gã đàn ông im lặng. Đàn bà trên thuyền phần lớn là vợ con họ, là người yêu. Một thanh niên tức giận chửi:

- Địt mẹ...quân đểu thế. Tớ đếch chịu, chết bỏ chớ sợ đếch gì.

Mấy thanh niên khác ào ào hưởng ứng. Gã tài công nạt:

- Im đi, anh em không có tinh thần làm chủ...

- C...đi vượt biên mà còn nói giọng đó. Người thanh niên nổi nóng, hai lỗ tai anh ta đỏ bừng.

Gã tài công cũng nổi nóng, nhưng gã đấu dịu khi thấy người thanh niên quyết ăn thua đủ:

- Học, mầy biết tao mà. Đây là thế kẹt mới tính như thế chứ.

Học mặt đổi từ đỏ qua tái, tính đáp trả thì gã thủy thủ Trung Quốc thấy lâu quá, hối:

- Tụi ngộ đi đây.

Gã tài công hốt hoảng:

- Tẳng...tẳng...mà!

Bỗng nhiên đôi mắt tài công sáng rực:

- Tôi đồng ý tuyệt đại đa số phụ nữ trên thuyền đều là vợ con anh em mình, ai lại... nhưng có một người...

Gã ngừng lại. Cường nghe tim mình thắt lại. Anh hồi hộp chờ đợi giọng nói phán quyết của gã tài công:

- Con...Mân!

Cường quát lên:

- Không được!

Gã tài công cười hề hề. Mọi con mắt đổ dồn về mặt Cường.

- Đằng ấy bảo không được là không được cái gì? Theo tôi biết thì cái cô Mân đó đâu có liên hệ gì với đằng ấy.

Hai tai Cường nóng bừng. Anh có tật nói lắp khi nóng giận:

- đã đành...mà...mà..như vậy bất nhân...lắm!

Cường nuốt nước bọt, cổ họng đắng chát, gã tài công trở mặt:

- Này, tôi bảo. Tôi lãnh đạo thuyền này, nhớ kỹ như vậy. Hơn nữa, chính ông bạn cũng là người đi nhờ cơ mà. Cái cô Mân đó tôi cho đi hôi không tốn một cắc!

- Tôi đóng một chỉ vàng.

- Rồi sao chớ!

Học xen vào:

- Tôi thấy thất đức.

- Đức! ơ cái anh này rõ vớ va vớ vẩn. Thế để cả thuyền chết chắc có đức hơn à. Chỉ tiểu tư sản.

- Nhưng cô ta chỉ có một mình.

Gã tài công vớ ngay câu nói của Học:

- Chính thế. Các anh dẹp cái lòng đạo đức...giả của các anh đi. Phải nhìn nhận sự hợp tác của Trung Quốc chứ. Tôi hỏi: đồng bào Nam Bộ vượt biển, gặp hải tặc Thái Lan, chúng nó có tử tế thế không nào? Hay là chúng cứ tàn sát, bắt hết đàn bà con gái, thậm chí con nít lên mười cũng không tha, chúng hiếp tập thể, chặt đầu kéo từng chùm con gái theo sau tàu chúng, chặt dây, hoặc bán vào động điếm. có ai làm gì chúng đâu nào, hay chỉ nói phét...khơi khơi.

Cả bọn im thin thít. Gã quả có lý. Tiếng kêu đau thương của đồng bào Nam Bộ gặp hải tặc Thái Lan đã đến tai hết thảy mọi người. Nhưng tiếng kêu ấy chỉ chìm sâu vào đáy vực, không có tiếng vọng nào hồi đáp. Sự đau khổ của họ là đại dương nhưng những hành động ngăn chặn chỉ là giọt nước trong biển cả.

Gã tài công xăm xăm tiến lại chỗ Mân đang ngồi. Cường hét:

- Không được...

Gã tài công quát:

- Giữ nó lại.

Lập tức nhiều bàn tay cứng như thép giữ chặt lấy Cường, ấn anh ngồi xuống. Gã tài công nắm cổ tay Mân. Nàng ngước nhìn gã, ngơ ngác.

- Em chiều bọn họ chút đi.

Mân rút tay về, sợ hãi. Nhưng gã tài công đã hạ quyết tâm, gã giựt phắt người nàng bắt đứng dậy, cặp hai bàn tay cô gái ra đằng sau, đẩy tới trước. Đám đàn bà con gái đã hiểu chuyện, họ co giò dạt ra hai bên lấy chỗ cho gã, đôi mắt họ nhìn Mân nửa thương hại, nửa long lanh giấu nỗi vui mừng nhen nhúm. Đằng nào, nếu không phải là Mân thì hẳn là một người trong bọn họ. Mân ré lên một tiếng nhỏ, rồi im bặt. Nhưng nước mắt nàng cứ lặng lẽ chảy ra, chảy ra âm thầm cứ như tiếng khóc trong người Mân đã đóng lại tự bao giờ rồi. Đôi mắt nàng nhìn xuống. Hai bàn chân trần chưa kịp cắt móng, cái áo cài cúc một bên phập phồng. Một giọt nước mắt rớt xuống ván thuyền ướt nhẹp. Một giọt nước mắt rơi xuống khi gã tài công lải nhải:

- Chiều bọn họ chút thôi mà. Có sao đâu.

Một giọt nước mắt khác rớt xuống khi bước ngang qua Cường. Anh thấy giọt nước mắt rơi xuống chân mình, vỡ tóe ra rồi thấm vào kẽ nứt. Chiếc thuyền chao đảo nhẹ nhàng. Tiếng sóng vỗ lách tách vô mạn, bốn bề mênh mông nước. Những người đàn bà Việt Nam là vật tế thần suốt chiều dài lịch sử. Phải chăng nàng công chúa khi xưa cũng bật khóc như thế khi bước chân xuống thuyền để về Ô Châu Ô Lý. Cái thân hình bé nhỏ của người đàn bà Việt Nam, với chân trần và rèm mi rũ xuống đã cưu mang bao lần thế hệ. Nạn nhân của lòng tham ích kỷ. Những giọt nước mắt rơi xuống, thấm vào kẽ nứt, góp vào biển cả, chan hòa trong đại dương mênh mông khổ ải. Nàng Mân, nàng Mân đau khổ và yếu đuối. Nàng đang bị bế thốc lên tàu lớn, những bàn tay thò xuống kéo xốc nàng, hai bàn chân móng dài của nàng cọ sát trên mạn thuyền cọt kẹt.

Những trận mưa kéo xuyên qua bầu trời, đập xuống mái chùa dột nát. Mưa xuyên qua mái, chảy loang trên nền chùa nứt rạn. Ngọn đèn dầu hiu hắt chập chờn soi những bóng tối người chụm vào nhau dưới hiên chùa rét lạnh. Sóng cuốn ầm vang ngoài bãi vắng. Hai chiếc thuyền tỵ nạn gặp nhau nơi cồn cát, nằm chơ vơ trên bãi, chờ những cơn mưa bớt nặng để biển bớt ba đào sóng dữ. Nhưng trời như cố trêu người thất thế, cứ cho cơn mưa cầm chừng. Có đêm gần sáng, trăng lưỡi liềm hé qua mây đen nghiêng nghiêng dọi, rồi lặng lẽ biến đi dưới bầu trời mây dầy như lớp cơm cháy.

Rồi nàng Mân đã được trả về thuyền, và đã theo Cường tới đụt mưa dưới mái chùa xiêu đổ. Mân ngồi bó gối dưới chân bệ thờ, từ chối mọi hỏi han chăm sóc. Sự im lặng của Mân dễ sợ hơn đêm tối, dễ sợ hơn mọi hình thái de dọa trên đời. Bên hiên, Hải cũng ngồi bó gối. Chàng cũng im lặng suốt một tuần nay. Có đêm chàng ra ngồi trên mép biển, mắt mở trừng nhìn những lớp sóng thi nhau xô đẩy, tung tóe. Cái cồn cát quá nhỏ không đủ để chàng xa lánh mọi người. Từ trong chùa nhìn ra, người ta có thể thấy cái lưng khòm của chàng in trên bọt sóng. Những bọt sóng đã nuốt trôi vợ con chàng, không ai tìm thấy xác hai kẻ bạc mệnh trong số tử thi tấp vào bãi Đồ Sơn. Rồi mai nầy, mưa tạnh, chàng sẽ đi. Có thể chàng sẽ đến. Có thể chàng sẽ không bao giờ đến. Nhưng điều đó có nghĩa gì khi lòng Hải đã băng giá trước hình ảnh mơ hồ của tự do.

Có đêm người ta thấy Sương chập choạng lần ra bãi. Nàng không cần ai dắt. Thính quan và lòng mẫn cảm của nàng dắt nàng đi. Nàng ra tới bãi, lắng tai nghe. Chỉ có tiếng sóng, chỉ có tiếng mưa rơi lắc rắc trên vai. Nàng bắt đầu cất tiếng gọi. Hải ơi! Tiếng gọi mất hút vào tiếng sóng. Nàng cứ gọi, gọi mãi, đi dọc theo mép sóng. Hai chân nàng lạnh ngắt nhưng lòng mẫn cảm cứ bắt nàng đi. Nàng đi giáp một vòng cồn cát. Hư vô đã cách biệt nàng. Không ai thấy nàng khóc.

Rồi một buổi sáng nắng hồng rực rỡ. Nắng rực rỡ làm xao động những triền sóng vô tư. Nắng sưởi ấm những tim gan giá lạnh. Ra khơi, ra khơi thêm một lần nữa. Đã bao lần ra khơi, có thêm một hiểm nguy nữa thì định mệnh cũng đã an bài rồi. Cường đi theo chiếc thuyền chở Hải. Sương hân hoan nghe tiếng Hải nói, như thể sự tái sinh đã đập tan âm mưu phản động của sự im lặng dài, sự im lặng dài đêm thâu, kẻ thù truyền kiếp của mọi giai cấp. Dũng bảo Cường:

- Mày bảo cô Mân đi theo thuyền tao.

Mân bình thản theo Cường, bình thản leo lên thuyền ngồi bó gối. Hai chiếc thuyền được đẩy xuống nước, đi về một hướng nhưng khác lộ trình. Mặt trời soi rạng rỡ.

Thuyền đi qua vạn sơn quần đảo. Những ốc đảo nhỏ có, to có, có cái trơ trụi đất cát đìu hiu trên sông trắng, có cái cây rừng tủa như lông nhím. Lương thực đã cạn hết, gạo không còn một hột, nước không còn một giọt. Cái đói làm người vàng cả mắt. Thuyền ghé vào bờ không biết bao nhiêu lần nhưng toàn là những khu đất hoang dã. Có khi gặp dân thì họ cũng nghèo quá, vật lộn với miếng ăn từng bữa nên cũng không có gì để giúp. Thanh niên đi đào trộm ngô khoai hoặc bất cứ loại củ gì có thể ăn được. Dường như cả trái đất lương thực đã cạn kiệt.

Cánh phụ nữ còn thê thảm hơn nữa. Một lần Sương có kinh. Hải biết được điều đó khi thấy dòng nước đỏ chảy loang trên chân nàng. Hải căng vạt áo cứa cứa lên mạn thuyền để lấy vết cắt nhỏ, chàng xé toạc vạt áo xé thành miếng đưa cho Sương. Hải run rẩy dìu Sương lên bờ, những đốm nắng làm chàng hoa cả mắt. Chàng tưởng trái đất đã mất trọng trường nên khi Sương dựa vào người, Hải té chỏng cọng. Chàng vừa đỡ Sương, vừa nói đỡ:

- Anh không thấy gì cả. Có lẽ rồi anh cũng như em.

Sương gượng cười vịn vai Hải đứng dậy. Khuôn mặt nàng xanh như tàu lá chuối non. Nàng hỏi:

- Có phải áo anh màu xanh không?

Hải ngạc nhiên:

- Em thấy đường à?

- Không, nhưng em nghĩ như thế. Anh tên Hải mà.

Sương bị mù sau một trận ốm nặng năm lên bốn. Nàng đã thấy màu sắc của quê hương nơi nàng sống chỉ thuần là màu tro xám xịt của kiếp người nghèo khổ. Nàng nhớ nhất là màu xanh của biển. Đó là hình ảnh rực rỡ nhất còn đọng trong trí nàng. Nàng ao ước một chiếc áo mang màu biển xanh nhưng ước mơ ấy chưa bao giờ thành sự thật. Hải nói:

- Ừ, áo anh màu xanh nước biển đấy, nhưng bạc trắng cả rồi. Em có hình dung không?

- Có, anh.

Sương nhắm chặt mắt lại. Trước mắt nàng là trùng trùng sóng xanh biêng biếc. Chiếc thuyền con của bố đi đánh cá về. Hình ảnh bố cô độc quá. Nước mắt nàng ứa ra, tràn trề hai rèm mi. Nàng mở toang đôi mắt. Vẫn là bóng tối, và hơi ấm của chàng trai. Hải nói:

- Đứng đây nhé, anh đi tìm cái gì nhai đỡ.

Nàng đứng yên dưới tàn cây. Xung quanh tiếng lá xì xạc tâm sự. Nàng đã đặt chân lên đất liền mấy lần rồi? Hải đã đi kiếm ăn mấy lần rồi? Sương không nhớ hết. Nàng cảm động là Hải đã thay thế bố. Thính quan và lòng mẫn cảm của nàng cho biết chàng trai ấy còn đối với nàng bằng một tình cảm đặc biệt. Nhưng sao Hải đi lâu quá. Sương nghe tiếng sấm rền trên bầu trời, nàng thấy lạnh, sợ hãi. Tiếng gọi ơi ới của người trên thuyền. Tiếng lá rung động mạnh mẽ quanh nàng, rồi Hải:

- Anh tìm được mấy củ khoai nè.

Chàng lại cạp vỏ ngoài. Thốt nhiên Hải xúc động mãnh liệt cố kiềm một tiếng nấc. Chàng đã cạp vỏ khoai cho bé Ngọc lần cuối. Xác con chàng đã rã mục dưới cát bụi thời gian. Môi chàng run run muốn nói. Chợt bàn tay Sương quờ quạng nắm lấy tay Hải:

- Anh nhớ con phải không?

Hải nấc lên thành tiếng. Sương ôm ghì lấy vai chàng. Một vài giọt mưa rơi xuống, lạnh lẽo trên cườm tay. Hải thấy cõi lòng hoang vu như ruộng lúa sau ngày gặt. Chàng cảm thấy hơi ấm từ tấm thân gầy guộc của Sương. Chàng để yên như thế, trong lòng dần dần yên tĩnh.

Rồi thuyền lại đi. Len theo những ốc đảo tránh gió. Đêm xuống. Trăng lên. Trăng lặn. Con mắt đã mờ sức sống. Chiếc thuyền im lặng như mộ bia di chuyển trong đêm mờ. Một đêm, Hải ngồi sau chiếc thuyền chợt nghe tiếng biển réo dữ dội đằng mũi. Chàng len chân lên phía trước, bỗng sửng sốt thấy những làn sóng lửa sáng ngời cứ dâng lên, dâng lên, đập vào mũi thuyền từng chập. Hải kinh hoàng suýt bật thành tiếng kêu. Dũng nói, giọng bình tĩnh:

- Trông kinh thật, lân tinh đấy ông.

Những làn sóng lửa vây lấy thuyền, chập chờn ma quái như ma trơi đi ăn đêm. Hải nghĩ những oan hồn vượt biển đang hiện về trêu chọc. Chàng nhớ đã từng thấy ma trơi như thế trong một nghĩa địa. Bóng ma đỏ rực lượn vòng trong đêm, trong tiếng gió gọi hồn. Thốt nhiên, gai ốc Hải nổi cùng mình. Chàng nhắm mắt lại, tự đánh lừa cảm giác ghê sợ của mình bằng giấc ngủ. Hình như chàng đã ngủ một giấc ngủ dài chờn vờn đốm lửa vây quanh. Sáng hôm sau, Hải choàng dậy khi tiếng Dũng la thất thanh:

- Sống rồi bà con ơi, thành phố!

Từ xa, những ngôi nhà tầng xuất hiện dưới màu sáng hồng của bình minh.

8


Những ngôi nhà tầng san sát thấp thoáng sau hàng cây xanh một màu ướt mịn. Đoàn người trên thuyền ào xuống nước, bì bõm lội vô bờ. Dấu chân in trên cát, đè lên nhau, hồ hởi tiến vào thị trấn. Bao tử được nuôi bằng hy vọng, đôi mắt đã bớt mờ soi chòng chọc vào lớp nhà hiện ra, to dần, to dần. Cả một thành phố thế kia, sống là cái chắc.

Ô kìa! Thành phố vắng ngắt không một bóng người. Có phải là thành phố không? Những con đường ngang dọc phẳng lì mở ngay trước mắt, im lặng chờ người đến. Khi không, những bàn chân chưa khô nước mặn đồng loạt ngừng lại trước con đường đầu tiên dẫn vào phố. Đôi mắt căng rách mí, nhìn nhau, nhìn con đường rộng, dè dặt:

- Quái!

Cường nóng nảy:

- Ta đông thế này, sợ gì.

Cường dợm bước nhưng Dũng ngăn lại, quay qua hỏi Cảng:

- Hượm đã. Này, ông ở đây lâu hẳn phải biết đây là đâu chớ, sao vắng thế này?

Cảng lắc đầu, mặt bí xị:

- Quả thật tôi chịu thôi. Có bao giờ ra khỏi làng đâu.

Cảng nói thật. Đời sống quá nghèo nàn và lạc hậu ở những vùng ven biển đâu có cho những người như gã có dịp ra khỏi làng xóm. Những người ở xa đến có khi còn rành phong thổ địa phương hơn chính gã nữa. Dân nghèo như con ngựa bị che mắt, chỉ thấy một con đường áo cơm trước mặt.

- Thế có ai biết...

- Tôi còn không biết...

-...không? Dũng hỏi.

-...huống hồ là họ. Cảng nói.

Dũng nói:

- Thôi cứ vào cả, không có gì thì mình đi tiếp.

Lòng hiếu kỳ, sợ hãi cộng thêm cái đói cái khát khiến tất cả đồng loạt tiến vào, rất cẩn thận. Hải men theo một dãy phố, mắt nhìn ngang dọc cứ như một anh cao bồi đang đề phòng kẻ địch xuất hiện thình lình từ một cánh cửa nào đó, nã đạn vào mình. Quả thật, dường như chẳng có ai ở trong thành phố câm này. Những dãy nhà mái bằng, cao đúng bốn tầng, nằm khít bên nhau dễ có cả nghìn cái...mái nhà đã dột nát, nước thấm qua chỗ dột mà màu vôi trắng đã đổi thành màu đen. Hải chui vào một ngôi nhà, lông tóc không dưng dựng cùng mình. Vách tường rêu phong che kín phát ra một hơi lạnh như đá. Nền nhà cáu đen, xi măng tróc từng miếng vì bị nước nhỏ từ nóc ngâm lâu ngày, bốc lên mùi rêu phong nghẹt thở. Cái đói hành hạ ruột gan, tay run, mắt mờ, bước chân giở lên nặng tựa núi. Cường độ đói tăng dần cùng với cảnh phố càng đi càng thấy tiêu điều xám lạnh. Có tiếng la:

- Bắt con chó. Bắt con chó!

Một con chó mực xẹt qua trước mắt Hải. Tiếng chân người chạy rầm rập từ ngã tư đường.

- Chận đầu đó, Hải.

Hải nhận ra tiếng Cường. Chàng xoạc chân đứng giữa đường, quơ tay loạn cả lên. Con mực thấy bị chận, quay đầu chui tọt vào một cánh cửa hé. Cả Cường lẫn Hải la lên:

- Vậy là con cùng đường.

Cường cẩn thận cầm một khúc cây cẩn thận bước. Hải đứng rình ngay cửa. Chàng nghe cái “chảng” từ bên trong. Tiếng Cường chửi:

- Chết mẹ con, nhanh quá!

Bỗng nhiên một vật đen từ trong nhà tống vào đùi Hải khiến chàng ngã sóng soài. Con mực thoát ra ngoài, cong đuôi biến mất ở một ngã rẽ. Cường hít hà:

- Tiếc quá, tiếc quá!

Cường để mặc Hải lầm bầm nhăn nhó, anh cầm khúc cây chạy theo hướng con chó ngây dại. Hải vừa tức, vừa tiếc “của” bảo Sương:

- Xém chút nữa là ta có dồi chó rồi, tiếc thật.

Hai người đi qua mấy con đường vắng vẻ nữa. Thỉnh thoảng vài người cùng thuyền đi ngược về phía họ, giơ tay lên trời thất vọng. Một đàn quạ bay về hướng núi. Hải rùng mình. Sương bấm vào tay Hải:

- Có ai gọi?

Chẳng có ai cả, chỉ có tiếng quạ kêu từ hướng núi. Một khắc đi qua, Hải nghe có tiếng người nói chuyện rì rào đâu đây. Chàng định hướng đi tới. Tiếng nói chuyện càng lúc càng rõ dần. Tiếng người, trời, rõ là tiếng động có ý nghĩa nhất trong thành phố hoang liêu này. Qua cánh cửa mở hé, Hải thấy Dũng đang ngồi đối diện với bốn hình nhân kỳ dị. Bốn hình nhân tất nhiên là mang vóc dáng người, một giống người đã ...tuyệt chủng. Tóc họ bạc như vôi (những ông vôi xấu xí) lơ thơ trên da mặt xám xịt. Làn môi đen động đậy, phì phèo lòi hai nướu răng thâm sì. Bốn hình nhân che chỗ kín bằng loại vải không còn màu. Toàn bộ bức tranh trong căn phòng là màu đen sạm, đen tro, làm nổi lên những cọng tóc trắng. Hải thấy Dũng bình tĩnh ngồi, khuôn mặt có vẻ đang kiên nhẫn chịu đựng điều gì đó. Hướng ra cửa, Dũng gọi:

- Vào đây ông, thú lắm!

Hải dắt Sương bước qua mép cửa. Mùi mốc bốc lên khiến cái bụng trống của hai người sắp dâng lên chất nước gì nhờn nhợt, đắng cả miệng. Một cái màn chia đôi căn phòng. Một lão già (ông hay bà?) đi qua bên kia tấm màn mỏng hơn tờ giấy quyến. Dũng nói:

- Họ nấu cháo đãi mình đó.

Lão già bên kia tấm màn lui cui, Hải có thể nom thấy cái lưng cong vòng như lưng tôm của lão. Chợt một luồng gió từ cửa thổi vào, cái màn rách toạc một đường dài. Một lão lật đật chạy ra khép cửa. Dũng giới thiệu lão đóng cửa:

- Đây là Hồng Tiên sinh.

Hải mỉm cười. Dũng tiếp bằng tiếng Quảng:

- Chỉ có Hồng Tiên sinh là còn nhớ họ của mình, bà cụ kia không còn nhớ gì hết.

Hồng Tiên sinh đã trở vào. Lão ngồi xuống một khúc cây tròn, gật đầu chào Hải và Sương, đôi mắt tiên sinh kèm nhèm hấp háy. Hồng Tiên sinh tiếp tục câu chuyện với Dũng, thỉnh thoảng anh ngắt lời, ráp những câu nói rời rạc của tiên sinh lại cho ăn khớp. Lâu lắm, những câu nói lúng nhúng của Hồng lão bối mới kết thành một câu chuyện có đầu có đuôi.

Hồng lão là cháu nội của thi sĩ Hoàng Tuân Hiến, rất nổi tiếng với bài “Ai Lữ Thuận” hùng hồn và bi đát, từng được người đời gọi là “thi sử”. Ảnh hưởng nếp sống hào phóng dù cảnh nhà đang suy tàn, Hồng lão thuở nhỏ thích đi đây đi đó, mê tuồng cổ, từ bé đã lập chí theo tuồng. Rồi theo học ở đại học Thanh Hoa, mê đọc tác phẩm cổ điển, tác giả tiêu biểu của thời đại như Quách Mạt Nhược, Lỗ Tấn. Từ đó tập làm văn, tập kịch suốt thời hàn vi.

Nhưng Hồng lão đã không trở thành thi sĩ nổi tiếng như ông nội. Đỉnh cao nhất của Hồng tiên sinh là dạy học ở trường Thanh Hoa, cuộc sống đó đóng khung trong khuôn viên đại học êm đềm.

Cho đến khi cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản bùng nổ vào mùa xuân năm 1966. Hồng lão sống trong lo âu thấp thỏm đợi chờ tai họa giáng xuống đầu mình, một điều chắc chắn sẽ xảy ra. Hằng ngày, báo đảng liên tiếp công kích các nhà văn, nhà báo dám bôi nhọ chương trình “nhảy vọt”, chính sách công xã mà đảng đề ra trước đó và đã thất bại. Học trò của Hồng tiên sinh lúc đó được phát cho một băng đỏ đeo tay và trở thành Vệ binh Đỏ, được giao nhiệm vụ đi khắp nơi truyền bá tư tưởng Mao Trạch Đông qua cuốn sách đỏ. Vệ binh Đỏ - kỳ thực là học trò của Hồng Tiên sinh đập phá đền miếu, chùa chiền, triệt hạ mọi dấu tích văn hóa có liên quan đến tàn tích phong kiến, suy tôn Mao thành bậc thánh nhân, là đại thi hào sánh ngang Lý Bạch. Thậm chí, Vệ binh Đỏ ở mỗi địa phương tự phát huy sáng kiến, tấn công các thành phần có tư tưởng hay quan hệ với phương Tây, hạ nhục họ trước công chúng. Trí thức bị Vệ binh Đỏ đánh đập không chết thì cũng thương tích trầm trọng, hàng vạn người bị tù đày, hàng trăm vạn người phải tự tử để khỏi trông thấy sách vở của mình bị thiêu hủy, hàng triệu người bị tập trung đi cải tạo.

Biết không chóng thì chầy cũng không thoát được...đảng mệnh, Hồng treo cổ tự tử nhưng nợ đảng chưa trả xong nên người nhà cứu sống. Hồng lão bị Vệ binh Đỏ bắt làm “tự phê”, đầu bịt một tấm giấy trắng dài ngoẵng chĩa lên trời, trên viết một hàng chữ kể tội ác, rồi bị điệu đi diễu hành ngoài đường phố. Đó là mùa xuân năm 1967, Hồng lão còn nhớ. Sau đó, Hồng lão bị đưa đi tập trung lao động, qua rất nhiều trại không nhớ xuể, cuối cùng về đây, một công trường cải tạo được xây dựng trong cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản.

Hồng lão chiêu một ngụm nước lạnh, “khà” một tiếng, chuyền cái chén bể miệng cho lão nhân bên cạnh. Lão nhân này bị một dị tật ở hai chân. Hai bắp chân lão cụp ra đằng sau một góc nhọn khiến lão không khi nào đứng thẳng được. Lúc đi, người lão khùm xuống, thân mình gần như song song với mặt đất. Hồng lão nói:

- Y tiên sinh đây là bác sĩ.

Kiến thức chuyên môn của tôi đã giúp tôi giết cha tôi. Ai cũng biết điều đó. Phải, tôi đã giết cha tôi bằng chính đôi tay hành nghề của mình, đôi tay đã giành giật mạng sống của nhiều người từ tay thần chết. Linh hồn tôi là một linh hồn tội lỗi, lở loét và đầy sâu bọ, không bao giờ hàn gắn. Dù có biện luận gì, dù có thể nói hai cộng hai thành năm theo kiểu biện chứng pháp duy vật, tôi cũng không thể tha thứ cho mình được. Tôi bị tuyên án chung thân, rồi tôi lại được bè lũ bốn tiên sinh tha bổng, chỉ phải đi tập trung cải tạo. Tôi đã tự ải như hàng triệu người khác đã tự kết liễu đời mình, như nhà văn lão xá, tác giả của miêu thành ký, lạc đà tường tử, vì không muốn thấy tim óc của mình bị phá hủy trong cuộc đại cách mạng văn hóa vô sản. Nếu tôi không giết cha tôi thì cha tôi hẳn ông còn sống đến bây giờ. Ông khỏe mạnh, không bệnh tật gì hết.

Cha mẹ tôi sống trong một căn nhà khang trang, có gác thượng, cùng với em trai tôi và tôi. Tôi đang làm việc ở bệnh viện tân sinh, thành viên tích cực của đoàn thanh niên cộng sản, là bác sĩ kiểu mẫu, thậm chí còn được giấy khen của đoàn.

Buổi sáng ngày mười ba tháng tám năm 1966. Phải không? Không, ngày mùng chín thì phải. Cả thành phố náo động vì Vệ binh Đỏ đánh đập các thành phần bị quy là hữu khuynh, trí thức phản động, thì chính trong “quyết nghị mười sáu điểm”, Mao chủ tịch đã minh định đối tượng của cuộc cách mạng vô sản trong điểm thứ nhất là “các phần tử đã xâm nhập đảng, đứng vị trí lãnh đạo nhờ đi theo con đường tư bản và các phần tử trí thức nổi danh đã quảng bá ý thức hệ tư bản”. Chỉ một cái điểm thứ nhất thôi mà thành phố đã náo loạn, bị đập phá. Tôi ngồi trong nhà mà run sợ. Vì tôi là trí thức hành nghề theo học thuật phương Tây thì ắt là hữu khuynh tư bản rồi. Thình lình, cánh cửa nhà cha mẹ tôi bị đạp tung, một đội Vệ binh Đỏ tay cầm gậy gộc xông vào. Chúng dõng dạc tuyên bố gia đình tôi thuộc thành phần trí thức tư sản, rồi xông vào đập phá đồ đạc. Chúng giựt tranh treo tường, đập tủ chén, xô ngã bàn thờ, không còn một thứ gì còn gọi là nguyên vẹn. Thậm chí chiếc áo có thêu kim tuyến của mẹ tôi cũng bị kết là tư sản, chúng lấy kéo cắt nát. Cha mẹ tôi, em trai tôi và tôi nữa bị chúng bắt quì gối ngay giữa phòng trước. Sau đó, chúng xởn hết tóc chúng tôi, còng tay và dẫn đi diễu phố. Hết ngày, chúng dẫn về, lấy roi da đánh đập chúng tôi ngất đi rồi mới bỏ đi, không quên khóa trái cửa căn nhà. Gia đình tôi là kẻ thù của nhân dân. Cả thành phố là kẻ thù của nhân dân. Sự căng thẳng khiến đầu tôi căng trướng, không còn tri giác của một vật bình thường nữa.

Trong suốt bốn ngày, chúng tôi không có gì để ăn. Chén bát đã bể hết. Chỉ còn ít mì gói nhai sống. Chúng tôi sợ hãi và đói khát. Sáng sớm hôm sau chúng nó lại tới, lại hành hạ, lại đi diễu phố, lại bị đánh bằng roi da. Trời ơi, đảng ơi...!

Điện đã bị cúp hết. Căn nhà tối mù. Bên ngoài mưa rơi nức nở. Chúng tôi ngồi nghĩ đến cái chết. Phải rồi, sao không chết đi để hết nhục, để bớt đau khổ thấy mình thua cả chó. Chắc là đã quá nửa đêm. Tiếng mưa rơi tê tái quá! Làm sao để tự ải đây? Cha tôi suy nghĩ, mẹ tôi suy nghĩ, còn tôi thì nát óc. Đứa em trai trên gác thượng chắc cũng đang suy nghĩ. Thình lình tôi nhìn thấy con dao rọc giấy ở chân bàn. Bọn Vệ binh Đỏ hẳn đã làm rơi nó. Trời đã gửi thiên sứ xuống. Tạ ơn trời. Tôi là bác sĩ. Tôi biết là nếu động mạch cổ bị cắt thì các mạch máu sẽ ngưng hoạt động và người ta chết tức khắc, chết tức khắc, chắc chắn như thế. Đây là cách chết nhanh nhất và vô phương cứu chữa. Cha mẹ tôi chưa tin hẳn vào lời giải thích của tôi. Người hỏi có đúng là chết dễ như thế không? Tôi phải lấy bằng bác sĩ ra để đảm bảo với người là chắc chắn như thế. Cuối cùng mẹ tôi bảo: “Tạ ơn trời, sao lại dễ thế được. Tạ ơn trời đã ban cho tôi đứa con học ngành y”. Người nói hoài như thế, mắt long lanh sung sướng. Cha tôi bảo: “Con là người duy nhất biết việc, vậy hãy cắt cổ cha mẹ trước rồi hãy tự cắt cổ con”.

Chúng tôi nắm tay nhau ngồi yên lặng trong bóng tối không biết bao lâu nữa. Chúng tôi sắp sửa xa nhau trên cõi đời này chỉ còn đứa em trai tôi sống. Nó chỉ mới mười bốn tuổi chắc không đến nỗi nào. Tôi nhắm chặt mắt, hồi tưởng từng mảnh vụn kỷ niệm giữa tôi và cha mẹ. Cha tôi là họa sĩ suốt đời lao nhọc để nuôi tôi ăn học. Mẹ tôi là người đàn bà đảm đang nuôi tôi khôn lớn. Chỉ vì tôi là bác sĩ nên nhà tôi trở thành kẻ thù của nhân dân, hai người nuôi tôi nên người để tôi đủ kiến thức kết liễu mạng sống. Tôi ngồi như vậy lâu lắm, cha mẹ tôi phải giục giã tôi phải ra tay ngay đi thôi. Trời sắp sáng rồi. Cha tôi bảo: “Con sắp giải phóng sự đau khổ của cha mẹ. Mẹ và cha không chịu được nữa rồi, vệ binh đỏ sắp đến, con ngoan của cha, nào!”

Tôi đứng dậy, lục lọi trong đám đồ đạc ngổn ngang tìm một mẩu giấy và một cây bút. Trong ánh sáng he hé vừa rựng, tôi viết lời cuối cho em trai tôi, giải thích cho nó hiểu, và cũng để cho nó có chỗ dựa vào đó mà không bị ngược đãi vì cái chết của ba chúng tôi.

Chúng tôi là kẻ thù của nhân dân, là rắn độc của cả nước, để tránh cho nhân dân bị nhiễm độc, chúng tôi hạ quyết tâm xa lìa cuộc sống.

Cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản muôn năm.

Em thân yêu, xin em hãy dứt khoát đi trên con đường của Đảng, của cách mạng, cha mẹ và anh chỉ là chướng ngại trên đường đi của em mà thôi.
Mao chủ tịch vĩ đại muôn năm.

Chờ tôi viết xong, cha tôi giục tôi hãy ra tay tế độ mẹ tôi trước. Mẹ tôi lại khăng khăng bảo hãy cắt cổ cha tôi trước rồi cắt cổ mẹ sau. Ai cũng muốn nhường phần sung sướng cho người khác vì chết trước thì sớm khỏi phải thấy thêm một cảnh hãi hùng. Sau cùng, cha tôi đầu hàng mẹ tôi, ông đồng ý để tôi cắt cổ trước.

Tôi sờ soạng cổ ông và nắm được mạch máu mạnh mẽ của ông, ngón tay tôi cầm được dòng máu cuồn cuộn của ông như từ thác cao đổ xuống. Tôi đâm đầu nhọn của con dao vào. Một dòng máu nóng hổi phun ra xối xả. vậy mà cha tôi không chết ngay, ông còn hỏi coi thử các mạch máu đã ngưng đập chưa. Tôi đáp với kiến thức của tôi thì không đầy một phút mạch sẽ ngừng. Ông nói phải gì mau hơn nữa. Mẹ tôi hỏi tôi có chắc là sẽ tự cắt cổ mình mà chết không. Tôi trấn an là khi mẹ tôi “đi” rồi, tôi chắc chắn sẽ chết theo. Bà không nói gì nữa, kiên nhẫn ngồi chờ cứ như là tôi sắp sửa chữa bệnh cho bà. Chúng tôi ngồi im lặng cho đến khi đầu cha tôi gục xuống. Tôi lại sờ cổ mẹ tôi, nắn nắn, cả sở học của tôi đều bỏ ra trong phút này. Thình lình tiếng đứa em tôi trên gác thượng gào lên khủng khiếp như ma đuổi. Vệ binh Đỏ đã tới. Nó nhảy ba bậc xuống ôm chặt lấy tôi. Tôi biết tôi không thể làm tiếp việc “giải phẫu” được nữa, nên vùng chạy lên lầu, mẹ tôi chạy theo. Tôi ra đến ban công thì Vệ binh Đỏ đã xông vô tới bên dưới. Tôi rú lên một tiếng, nhảy xuống đất. Tôi cố ý cho đầu xuống trước. Xung quanh tôi tiếng la hét hỗn loạn như tiếng quỷ cười.

Câu chuyện như vậy đó. Tôi chỉ còn nhớ là mẹ tôi nhảy theo tôi. Rồi tôi nhắm mắt lại. Thế là hết.

Tôi nhớ đã mở mắt lần đầu, thấy ai đứng quanh như là Vệ binh Đỏ. Rồi mở mắt lần thứ hai thấy nằm giữa cha mẹ tôi. Thì ra chúng tôi đã cùng tới địa ngục. Nhưng không phải may như thế, tôi chỉ bị ảo giác đó thôi. Tôi đang nằm một mình trong bệnh viện. Đầu băng kín, hai chân gãy.

Một tuần sau tôi ra tòa án nhân dân. Tôi bị kết tội giết người và nặng nhất là tội tự ải để tránh bị nhân dân trừng phạt. Tôi bị kết án chung thân và bị đưa vào nhà tù. Hai xương chân gãy lìa, thằng cha bác sĩ bó lại không thẳng, nó để chồng hai khúc xương lên nhau khiến chân tôi bị ngắn đi, rồi băng bột. Thật ra đầu tiên nó dùng một bao cát nặng mười ký để kéo đầu xương gãy dãn ra cho ăn khớp, nhưng khi tôi vô tù, bệnh viện lấy lại bao cát nên hai khớp xương lại thu lại như cũ. Tên bác sĩ cũng không chống đối việc thu hồi bao cát. Tôi chỉ mong là nó không hành nghề bác sĩ nữa. Tôi vẫn chịu đựng được đời tù vì được bảo rằng mẹ tôi vẫn còn sống. Niềm hy vọng được gặp lại mẹ tôi đã giữ cho tôi ráng thở trong suốt mười một năm tù. Nhưng hóa ra người ta đã lừa tôi, thậm chí đứa em tôi còn dối như thế mỗi lần nó đi thăm. Mẹ tôi đã chết, mẹ tôi đã...

Hồng lão kể xong chuyện y tiên sinh, lại chiêu thêm ngụm nước lã. Y tiên sinh cũng như hai lão nhân kia đã mất trí sau khi bị đưa về đây một thời gian ngắn. Hồng lão là người duy nhất còn khỏe mạnh. Hằng buổi tự chèo cái thuyền độc mộc đi câu cá. Cả bốn người sống trong câm lặng, cũng như cái tử thành câm lặng này. Khoảng năm năm trước đây, thành phố bắt đầu vắng bóng người, lớp thì chết vì già, vì bệnh tật, lớp bỏ trốn đi đâu mất biệt. Rốt cuộc chỉ còn Hồng lão và ba “đồng chí” cũng già nua, lọm khọm quên lối về và cũng không biết về đâu, đành ở lại trong cái công trường đã bị nhà nước và thậm chí cả nhân dân cũng không còn nhớ sự hiện diện của nó trên một phần đất hẻo lánh hoang vu ở ngọn Đài sơn.

Bốn kẻ sống sót từ cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản và ba người mới đến chia nhau một nồi cháo loãng hơn nước vo gạo. Hồng tiên sinh chưa bỏ được thói quen hiếu khách tàn dư của giai cấp phong kiến phản động, kẻ thù của giai cấp vô sản bần cố nông bằng cách mang thêm một nồi đất lèo tèo mấy con cá kho nhỏ bằng hai ngón tay chụm lại, trắng nhợt và tanh như còn sống. Hồng tiên sinh lèm nhèm kể:

- Trước cũng có mấy thuyền đến đây...(cắn cái đầu cá nhai bỏm bẻm). Có mấy cô còn xin...ngủ với già nữa để xin tiền...(trái cổ chạy lên chạy xuống), cho dù lão có tiền đi nữa cũng sức đâu...

Hồng tiên sinh chuyển đề tài:

- Có con đường đất, độc nhất, đi chừng năm mươi cây số thì tới làng phố, đông lắm, lão nhớ in như vậy.

Đột nhiên phía cửa có tiếng chân chạy thình thịch, tiếng người la hét “chận lại, chận lại”, tiếng chân chạy ngang qua trước nhà, rồi mất hút. Hải bảo:

- Cường nó chưa bắt được con mực.

Dũng nói:

- Vô phương kiếm ăn ở đây. Thành phố như thế này này...

Hải nói:

- Vào rừng kiếm thử cái gì.

Dũng vái từ biệt Hồng lão, rồi bảo Hải:

- Ừ, đi gần gần thôi. Tôi về thuyền dặn dò rồi về lại với ông.

Hồng tiên sinh dẫn ra sau núi, ở đó có cái bể xi măng chứa nước ngọt. Nước từ trên núi chảy qua những ống tre bắt từ lưng chừng núi xuống,thật khoái vô cùng khi vừa chiêu ngụm đầu tiên từ cái gáo làm bằng vỏ dừa khô. Chàng bắt chước Dũng, vái Hồng tiên sinh rồi dắt Sương đi theo con đường đất dẫn ra rừng.

Bỗng tiếng Dũng kêu lớn đằng sau:

- Hải ơi, Hải ơi, khoan đã.

Dũng thở hồng hộc, mặt đỏ gay, hấp tấp vẫy. Linh tính báo chuyện chẳng lành, Hải hỏi:

- Gì thế?

- Chiếc thuyền biến mất rồi.

- Cái gì!

Hải lôi Sương chạy theo Dũng ra bờ biển, bãi biển vắng ngắt, chiếc thuyền neo gần bờ đã không còn ở đó nữa. Dũng vò đầu bứt tai, ngửa cổ kêu trời, chửi thề loạn xạ. Rõ ràng là mọi người đều lên bờ hết, sau đó mạnh ai nấy túa đi kiếm ăn. Trước khi Dũng vào nhà Hồng lão, mọi người vẫn còn đó. Dũng nghiến răng bảo Hải:

- Ông nhéo thử coi tôi có nằm mơ không?

Hải cũng nghĩ thế. Chàng nhéo mạnh vào cánh tay Dũng, anh la “ối” một tiếng. Không có thuyền! Trời, và ở lại thành phố ma với bốn lão già. Hải nổi gai ốc. Chiều đang buông dần trên bãi vắng, tiếng chim gọi bầy trong rừng ai oán. Hải đưa ra hai giả thuyết: hoặc là Cảng thấy cuộc hành trình khổ ngoài dự tính; hoặc gã bị áp lực của đồng bọn không muốn đi nữa nên lén lấy thuyền trở về khi không có bọn Dũng. Nhưng còn Cường đâu? Cả ba người bắt tay làm loa, gọi lớn. Tiếng vọng rền cả thành phố nhưng vẫn tuyệt nhiên im lặng. Chắc chắn là Cường còn đâu đây vì anh đuổi con mực chỉ mới vài giờ trước.

- Bây giờ tính sao?

- Bây giờ tình sao?

Hai người cùng hỏi nhau trong khi Sương ngồi thụp xuống, sợ hãi. Hải bảo:

- Ông đi hướng nầy, tôi đi hướng nầy coi chúng nó có núp đâu không? Sương chờ đây nhé.

Sương sợ hãi nhổm dậy quơ tay tìm Hải:

- Không, em đi tìm...

Nàng sực nhớ ra là nàng đã thành người vô dụng. Hải nắm tay Sương đi dọc bãi biển. Gió thổi ù ù, bãi biển hoang lạnh và những tảng đá vô tri. Hy vọng nhìn thấy con thuyền đâu đó tan biến như nắng chiều đang dần sẫm. Hải đi ngược lại con đường cũ, chàng rối trí không biết phải xử trí ra sao nếu phải chờ mãi nơi đây. Bóng đêm đã trùm lên cây, lên cát, lên biển. Không biết bao lâu, Dũng nói, tuyệt vọng:

- Chịu thôi!

Hải đề nghị vào trong phố ngủ qua đêm. Những nóc nhà chìm trong bóng tối như sắp thành những hình thù ma quái. Không gian lạnh lùng ghê rợn. Hải tưởng như tim mình ngừng đập khi từ vũng tối đang dần dà dầy thêm, xẹt ngang những đốm lân tinh ma quái. Thành phố này đã chứa bao nhiêu người chết, hẳn linh hồn oan tử đang trở về rủ rê. Hải muốn trở lại chỗ của Hồng lão nhưng bóng tối càng lúc dầy đặc quá,tựa hồ như bầu trời đang đổ thêm mực, chàng không thể nào nhớ ra mình đã đi đường nào đến. Sương nhắc khẽ:

- Vào nhà này đi.

Hải nhớ sực là bóng tối đã trở thành thế giới của Sương. Nàng đã “ngửi” được một căn nhà trong khi chàng và Dũng còn quờ quạng giữa đường. Họ lần theo bức tường rêu phong ẩm thấp. Tay họ đụng mép giường sắt, chất thép chạm tay như một luồng điện lạnh chạy thốc vào người xuyên lên tận óc. Bỗng từ đâu, tiếng chó tru từng hồi đe dọa. Tiếng u..u..u theo gió xuyên qua những đường vắng vọng lên như tiếng than về từ địa ngục, một địa ngục có thật nơi cõi người.

9

Mười hai ngày trôi qua trên thành phố ma. Cơ thể họ đã cạn kiệt sinh lực. Họ không còn sức để nói với nhau nhiều như trước. Mấy hôm đầu, Hồng lão nhường cho ít cháo, nhưng càng ngày thì lượng cháo càng ít dần vì chính Hồng lão cũng không có ăn, mỗi người chỉ đủ một chén lưng. Hằng ngày, Hải và Dũng thay phiên nhau ra ngồi trên bãi vắng, mắt đăm đăm nhìn ra biển ngóng một chiếc thuyền tỵ nạn nào đấy tạt vào. Đêm, họ đốt lửa sáng một góc núi, vừa sưởi ấm vừa làm tín hiệu cấp cứu. Cơ thể họ sắp trở thành bốn ông lão quên lối về. Tóc đã dài chấm vai, mắt thụt vào sâu bằng hai vỏ ốc chết trơ vơ trên bãi, áo đã mủn, quần đã rách, còn lại là da thịt chen màu đất chết. Hai nhánh cây làm gậy của họ gõ lách cách trên đường vắng nghe như tiếng mõ biếng lười.

Hải tìm được một thứ trái nhỏ bằng quả mít non, ruột tím như sim, mọc quanh một đại thụ. Chàng ngâm trái tím với nước biển cho bớt chát, lớp vỏ mỏng trầy trớt thẳm tím cả tay. Đó là thực phẩm duy nhất họ tìm được trong rừng, không kể vài con cá ốm tong teo Hồng lão chia cho. Con mực lâu lâu đánh mùi cá lại xuất hiện đứng rình chừng, nhưng có lẽ nó là con chó khôn nhất trần đời. Có khi Hải đứng rình sau một góc phố, lăm lăm khúc cây sẵn sàng giáng xuống thì bỗng đâu từ sau, nó vụt chạy qua mặt Hải nhanh như cắt. Cách một quãng nó dừng lại, bốn chân dang ra quay đầu ngó lui khiêu khích. Hải nhìn con mực thèm nhỏ dãi. Cái thân hình còm cõi của nó dư sức nuôi sống ba người cả tuần lễ. Chàng thấy dùng sức mạnh không xong, làm bộ đưa tay vẫy vẫy con mực, “Chặc...chặc...”. con mực nhìn Hải nghi ngờ, đôi mắt long lanh ma quái. Chưa bao giờ trí óc của một con người lại ngu hơn một con chó hoang như thế.

Sương quanh quẩn gần căn nhà làm chỗ ngủ nghe Hải tả màu mây, màu cát vàng, hình dáng con mực, màu tím đậm bâng khuâng của quả rừng. Nàng bảo:

- Em chưa ăn thịt chó bao giờ.

Hải bảo, một hôm có ả chó chết xuống gặp diêm vương. Diêm vương hỏi cớ sao ngươi chết. Chó đáp người ta đập đầu tui, cắt khúc tui ra, lòng mề để qua một bên, tim gan để qua một bên, đùi thì chiên, sườn thì xào với lá...Sương cười khúc khích. Nàng bảo anh nói xấu mai mốt chết không được đầu thai. Nàng vòng tay qua cổ Hải, thì thầm:

- Nhỡ em chết trước thì sao?

Hải cười tỉnh, không có chuyện đó, ít bữa thuyền tỵ nạn tới mình cùng đi bây giờ. Sóng mũi Sương cọ vào má Hải, nhồn nhột hơi thở ấm của nàng trong khuya lành lạnh. Dục vọng bỗng dâng lên trong lòng Hải. Chàng nghe thân thể mình cựa quậy, căng thẳng. nhưng liền khi ấy, cơn ham muốn lại bỗng như chiếc xe đã gài hết số mà dốc thì cao vời vợi. Chàng nghĩ đến mùi thịt chó, chàng nghĩ đến một bát canh cá thơm sừng sực. Chàng nghĩ mình đã thành người cô quạnh trên đời nầy. Có vẻ như chàng chỉ còn gần gũi một cô gái tàn tật, một cô gái sống rất thật với lòng mình, sống rất thật với người mà nàng thương yêu. Nàng đã là của chàng, từ cái hôm đầu tiên khi nghe tiếng chó tru đã nằm gọn trong lòng chàng, co rút sợ hãi. Bây giờ nàng đã là của chàng, đã yêu chàng, nhưng chàng không còn sức để bày tỏ, để giữ nàng, cho dù hai tay đang ghì lấy tấm thân nhỏ bé hiền hậu của nàng. Cuộc hành trình, hoang địa, tất cả đã giết chết mầm sống nuôi dưỡng yêu thương.

Sáng ngày thứ mười ba. Nắng hè chói lòa rực rỡ. Thốt nhiên từ phía rừng tiếng kên kên rít the thé. Chao lượn trên bầu trời hồng nhạt. Dũng buột miệng:

- Phải gì hạ được một con...

Anh chống gậy ra biển. Cái thân hình lực lưỡng ngày nào còm xuống, xác xơ như con gà trống sau một trận đá căng thẳng. Hải mơ màng nói:

- Tại sao chúng cứ lượn vòng vòng thế?

Chàng chống gậy ngược hướng lên rừng, tạt vào bể xi măng, chiêu một ngụm nước đầu ngày. Chàng nghe tiếng của bầy kên kên lớn độc địa. Thốt nhiên Hải lạnh xương sống. Chàng ngừng lại bên bìa rừng để thở. Người chàng nhẹ như bông gòn bay lững thững giữa trời. Hải thở, mắt hoa lên, rồi gắng gượng chống gậy vô sâu hơn. Ánh nắng nhạt dần, rừng càng lúc càng dầy đặc. Mùi lá mục bốc lên ngây ngấy. Tiếng kên kên quần quật trên đầu inh cả óc. Hải đánh dấu mấy khúc cây sợ lạc. Chàng chưa bao giờ đi hướng này vì những cây kiền kiền trông giống nhau như tạc, rất khó tìm lối ra nếu không nắm chắc phương hướng hoặc quen đường. Xung quanh chàng giờ đây là hàng cây trơn trợt tựa như có bàn tay ai xát mỡ vào. Hải lại thấy chóng mặt, phải tựa đầu vào thân cây nghỉ. Chàng định quay lui nhưng hai chân cứ dính chặt trên đất. Như có một tiếng gọi vô hình giục chàng đi tới, đi tới. Chàng lảo đảo đi tới nữa, một vật gì lo ló trước mặt, vật đen nhảy múa giống như khi đi thuyền nhìn thấy hòn đảo lắc lư ở xa. Một mùi khăm khẳm bốc đi. Tiếng kên kên long óc nạt nộ trên đầu. Mắt Hải vẫn quáng gà. Cả bầu khí bị bầy chim quấy động hỗn loạn. Ô kìa, Hải lắc đầu thật mạnh. Một xác người nằm nghiêng. Mùi xác rữa đã hơi nặng. Hai cái xác chứ không phải một. Cái xác ở trên ôm choàng cái xác ở dưới, cánh tay cong xuống tham lam ôm trọn cái xác kia vào lòng. Hải thở hồng hộc, lắc đầu để chắc mình không lầm. Cường, chính hắn là cái xác nằm dưới, hai tay xếp vào nhau, mặt nghiêng trên đất, đôi mắt trừng trừng nhìn Hải. Người Cường phình to như cái lốp xe hơi bơm cứng. Khuôn mặt nhăn nhúm vẻ bất trắc. Cái xác nằm đè một bên Cường chính là cô gái đã bị đưa qua tàu Trung Quốc hy sinh thân xác để cứu cả thuyền. Mân, chính Mân, Mân nằm úp đè một nửa lưng Cường, cánh tay vòng qua ngực Cường bảo vệ xác gã con trai khỏi mồm miệng của lũ kên kên bay lượn. Hải sờ soạng khuôn mặt lạnh băng của Cường, ngăn sự xúc động đang làm mờ cả mắt. Cường đã chết thật, xác anh bốc mùi khăm khẳm. Hàng kiến đỏ bò quanh trên tay trên mặt tử thi. Hải lật ngửa cô gái, tần ngần cầm mạch tay cô gái xấu số, Hải cảm được sự động đậy dưới lớp da lạnh lẽo. Chàng lấy hết sức gọi tên cô gái dồn dập:

- Mân... Mân...Mân!

Vẫn bất động. Hải ân hận không mang theo một bình nước nào. Chàng ngó quanh bắt gặp một hố đất sụp đủ nhét xác Cường vào đó. Hải hì hục kéo cái xác nặng hơn trọng lượng người chàng xuống hố, mồ hôi vã như tắm. Chàng lượm cây gãy đậy lên xác Cường để che mắt lũ kên kên. Hải cởi áo lót dưới người Mân làm võng, rồi cứ thế kéo đi xềnh xệch. Hơi thở Hải đứt từng quãng ngắn, cổ chàng nghẹn vì khát. Hải tưởng chừng mình không thể nào đi nổi nữa. Chàng quá đói, ruột nóng như hòn than đỏ, chàng muốn gục xuống ngủ một giấc. Chàng đã ngồi nghỉ lâu quá rồi. Nhưng rồi nhìn khuôn mặt thật thà của Mân, đôi mắt mở của Cường giục Hải đi, Hải đi. Thời gian dài thế kỷ, lối ra dài vạn lý. Hải không còn tỉnh táo để định hướng nữa. Cứ thấy lối nào dễ là đi. Tiếng kên kên xa dần.

Bằng một cách nào đó Hải đã kéo được Mân ra tới bìa rừng. Dường như chàng đã ngất, hoặc sắp sửa ngất đi nhiều bận. Khi Hải bừng mắt ra lần thứ nhất, chàng tưởng mình chưa ra khỏi rừng. Chàng mở mắt ra lần nữa, xung quanh chàng có Hồng lão, có Dũng và bàn tay Sương đặt trên trán. Chàng chỉ kịp quơ tìm tay Dũng, thều thào: “Cường chết trong rừng” rồi lịm đi mê mệt. Hải mơ hồ nghe Dũng hét, vai chàng bị lắc mạnh. Chàng nghe xung quanh ồn ào náo động, những âm thanh như chọc vào phần mềm nhất của não. Chàng lại ngất đi nữa.

Khi tỉnh lại thì xung quanh Hải chỉ còn bóng tối. Thân hình ốm nhom của Sương đang áp sát vào người chàng, hình như Sương đã ngủ, tiếng thở nàng đều đều. Hải ôm cái thân hình mảnh khảnh, bỗng như sự cô độc và im lặng biến thành một âm thanh quánh đặc, gõ thành tiếng trong lòng Hải. Chàng còn sống ư? Lạ quá! Chàng còn sống và còn nằm đây, ôm vào lòng người đàn bà thứ hai đến với cuộc đời. Hải vuốt tấm lưng dài thon nhỏ của Sương nhè nhẹ. Chuyện gì đã xảy ra, chàng đã mê bao lâu rồi? Hải không biết, dường như có một khoảng hở dài lắm từ giây phút này ngược về quá khứ. Có lẽ đến một lúc nào đó, chàng sẽ không còn cảm thấy cô đơn khi nằm bên Sương nữa, bây giờ, cõi lòng chàng nguội lạnh vô cùng.

Hải mở mắt vì sức nóng của mặt trời. Hình như là tiếng ve kêu ròn rã. Chàng thấy mình nằm trên cát ấm, có Dũng ngồi bên thả mắt nhìn ra biển lặng. Hải cầm tay bạn cảm xúc:

- Ông đưa tôi ra đây à?

- Ừ.

Dũng đáp, vẫn bất động. Một lúc lâu, dường như hai người đều không muốn lên tiếng. Không khí buổi xế trưa trong lành. Mặt trời lên, càng lúc càng chói. Lâu lắm, Dũng kể. Anh đi theo vết đất mà Hải để lại do kéo Mân. Dũng tìm thấy chỗ Hải đậy xác Cường không khó. Bầy kên kên đang hất bỏ đống cây đậy tử thi. Dũng ngồi bên xác em, lòng đau đớn đến độ người anh lạnh giá, không khóc được. Cho đến khi trời chập choạng, Dũng khiêng xác em về. Anh ra khỏi rừng thì không còn thấy đường đi nữa. Dũng để Cường trong một ngôi nhà, ở lại suốt đêm với người em xấu số. Sáng hôm sau, anh dùng cây khoét đất, khoét mãi đến quá trưa mới đào được cái huyệt chôn Cường. Lúc đó Hải vẫn chưa tỉnh. Hồng lão câu được hai con cá lớn bằng bàn tay, nấu cháo, rồi nhường cả phần mình cho Mân và Hải.

- Thế ra tôi ngất suốt ngày!

- Ừ, cái Mân tỉnh trước.

- Tại sao cô ấy lại ôm xác Cường.

Dũng bảo, cô ấy kể chuyện cũng như bốn lão già kia. Cứ nhát gừng từng miếng. Nguyên buổi chiều ấy Cường cứ đuổi mãi con mực mà bắt không được. Anh phần cáu mệt, nhưng quyết không bỏ cuộc. Cường bảo Mân đứng chặn một góc đường, khi nào nghe tiếng anh la “đập xuống” thì cứ lấy gân mà giáng khúc cây vào con mực. Mân đứng chờ mãi không nghe tiếng Cường hô đập mà chỉ nghe tiếng Cường la hét càng lúc càng xa mãi trong rừng. Mân sợ hãi rời chỗ núp, vừa lúc thấy Cường đang đuổi theo con mực sát nút. Con chó tinh ranh cứ nhắm hướng rừng mà lủi. Dường như nó đánh hơi biết chạy loanh quanh trong phố thế nào cũng có người rình. Mân hối hả chạy theo, trong thâm tâm Mân muốn có cái gì để ăn, phần muốn trả ơn Cường đã bênh vực mình hôm nàng bị bắt dâng cho tàu đánh cá Trung Quốc. Cứ thế, con chó chạy trước, Cường ở giữa, Mân theo sau cùng. Chạy một lúc thì bóng Cường mất hút, Mân cũng vừa nhận ra là mình đã ở trong rừng cây rậm muốn lui cũng không còn đường. Mân nghe văng vẳng tiếng Cường khi được khi mất. Nàng sợ hãi quay ra nhưng cứ loanh quanh mãi trong rừng, cứ như bàn chân đặt tới đâu thì cây hiện ra liền tới đấy. Mân cất tiếng gọi Cường, gọi Dũng, nhưng bốn bề chỉ trả lời một âm thanh ghê rợn. Nàng chịu đựng ba đêm liền, nàng ngắm từng đàn đom đóm lẫn với lân tinh vòng vo trêu ghẹo. Mân nghĩ chắc mình sẽ chết. Ngày thứ tư Mân gặp một rừng cây trái tím. Nàng ăn trái tím thêm hai hôm nữa rồi cứ loanh quanh tìm hướng ra. Mân không còn sức đứng, chỉ còn bò trên đống lá mục, ngất đi, tỉnh dậy lại bò. Rừng trái tím như một loài cây ma hiện hồn vì chỉ ngày hôm sau Mân không biết nó ở đâu nữa. Xung quanh toàn cây dại giống nhau như tạc. Mân đói quá, thỉnh thoảng bắt được con sên đập chết rồi nhắm mắt nuốt sống. Mân mò tới mò lui giữa rừng lá cho đến khi thình lình đụng phải Cường đang nằm ngất. Cường cũng chỉ ngất vì đói. Có lẽ anh không được may mắn như Mân là tìm ra rừng trái tím. Mân ôm Cường như vị cứu tinh của đời mình trong cơn bĩ cực. Khi Cường hơi tỉnh nhìn thấy Mân ôm mình, anh còn đùa bảo thế nào anh Dũng cũng đem thịt cầy đến. Thế rồi Cường mê đi. Mân cứ ôm siết lấy Cường. Mân không biết là Cường đã chết lúc nào, chỉ mơ hồ nhận biết thân hình người con trai càng lúc càng lạnh, buốt cứng như tảng băng cô độc giữa rừng. Khi biết chắc là Cường đã chết, Mân mới bật khóc một tiếng ngắn. Nàng biết mình rồi cũng chết như Cường nên lòng không sợ hãi cứ ôm cái xác từ lúc bắt đầu giá lạnh cho đến khi khẳm mùi, rồi lịm đi, thấy thân mình nhẹ nhàng bay bổng.

Hải ngồi dậy. Chàng nổi gai ốc hình dung một cô gái ôm xác chàng trai giữa rừng sâu lạnh lẽo. Dũng nói, tiếng nói đã hết dõng dạc ngày nào:

- Tôi, tại tôi...nếu hôm ấy bọn thằng Cảng bỏ đi, và mình không nghĩ là có Cường trên ấy...

Hải biết là chính chàng cũng gánh trách nhiệm trong cái chết của Cường. Nếu cả chàng và Dũng vào rừng hôm ấy...Chàng sực nghĩ tới Sương, tới Mân.

- Hai cô ấy đâu?

- Cái Mân nó nằm dài ra đấy, ai đưa gì thì ăn chứ chẳng động đậy gì. Tôi e thêm vài ngày nữa thì người kế tiếp là Sương đó.

- Có thể là tôi. Hải nói.

- Là cậu, là tớ...

Đột nhiên, Dũng nhỏm dậy, đưa tay chỉ:

- Trông kìa, có thuyền...

Một chấm trắng xa tít chân trời. Chấm trắng tiến vô bờ chậm như đứa trẻ tập bước, nghiêng ngả, chập chờn. Lâu hơn một tiếng đồng hồ hình ảnh cánh buồm mới rõ nét. Những đầu người lố nhố. Nước mấp mé chực tràn vào khoang chiếc thuyền buồm dù biển lặng phắt như mặt hồ. Chiếc thuyền con chầm chậm trôi vào bờ, Hải nom rõ những bóng người nhảy xuống nước, lội thẳng vào bốn cánh tay vẫy của Hải và Dũng. Mép thuyền cao lên một chút vì sức nặng đã giảm. Những bộ tóc bù xù tổ quạ, những hàm râu quăn tít của người mới đến bay phất phất trong nắng trưa nhạt nhòa. Địa ngục biển. Một người đàn ông xấu đến trước mặt Dũng, nói tiếng Quảng bập bẹ. Dũng dang rộng cánh tay, cười lớn:

- Việt Nam đây mà.

Cả nhóm người la lên một tiếng, một triệu câu hỏi ập xuống. Người trên bờ hỏi, người mới tới hỏi. Những nét mặt đang tươi bỗng sạm đi khi nhận ra tình thế ngặt nghèo. Chiếc thuyền buồm đi từ bãi cháy đã hai tháng. Họ đói lăn lóc, họ ăn xin suốt dọc đường. Họ chỉ thay buồm một lần ở Bắc Hải. Họ tưởng đây là một thị trấn lớn. Không biết một thị trấn ma vĩ đại như cuộc Cách mạng Văn hóa. Người tài công lắc đầu chỉ tay ra chiếc thuyền chòng chành:
- Bác xem đấy, chỉ thêm một đứa con nít thuyền cũng chìm, nữa lại bốn người thì có về chầu “bác”.

Hải nói, ruột rối bòng bong:

- Bọn tôi nhẹ như bông gòn.

Gã tài công lắc đầu cương quyết. Gã tên Độ, người Quảng Ninh. Cả thuyền đều là anh em bà con của gã.

Độ nói:

- Tôi tiếc gì mấy bác. Thôi, để bọn tôi kiếm cái ăn cái uống đã.

Hải hướng dẫn gã đi sâu vào phố, dắt gã ra cái bể nước sau núi. Hải vẫn không nản:

- Bác nghĩ tình đồng hương, nỡ nào nhìn bọn em chết ở đất khách quê người.

Độ có vẻ cảm động hỏi:

- Thế hai cô kia đâu?

Hải khấp khởi:

- Chúng nó đi không nổi, cứ nằm liệt ra đấy.

Độ im lặng uống nước. Gã chuyền cái gáo cho bọn đồng thuyền. Thân hình gã nhỏ bé, lông mày rậm, hai mắt sáng long lanh. Người gã, cũng như mấy người kia, hôi một thứ mùi hăng hẳng nắng cả mũi. Độ giậm chân bảo:
- Tôi bảo thật, phải tôi giúp các bác được. Trông thuyền là biết đấy.

Hải tưởng mình sắp quỳ xuống, lạy gã:

- Bác cứu bốn mạng người, chỉ một mạng...

Đôi mắt Độ quắc lên, quát:

- Thôi phải, chắc tôi cho một bác đi nhờ được.

Gã hội ý với những người uống xong. Một người đàn bà nhăn nhó:

- Chắc gì mà một người không khẳm nào. Thôi đi. thế nào mà chẳng có thuyền khác.

Độ quát:

- Bà biết cái gì mà xía vào.

Mấy gã thanh niên bắt đầu lục lạo xung quanh. Độ bảo:

- Tôi còn ở đây, chắc đến mai mới đi được.

- Sao thế?

- Chờ gió lên.

Buổi tối hôm ấy, bọn người của Độ đốt lửa trên bãi cát. Dũng và Hải rút vào nhà. Độ dứt khoát là chỉ cho một người đi nhờ. Thuyền gã đã khẳm, gã không muốn lòng tốt của gã có thể làm chiếc thuyền buồm mỏng manh của gã bị đắm. Hải và Dũng đều nghĩ là cái người may mắn đó chỉ có thể là Sương hoặc Mân mà thôi. Nhưng ai? Cả hai đều kiệt sức, đều đáng được đi sớm chừng nào tốt chừng ấy. Hải nói:

- Hay cứ để cho hai cô ấy bốc thăm.

- Chỉ còn cách đó.

Bốn người ngồi xúm xít trong bóng tối. Tiếng chó tru đầu phố nghe buồn bã. Hải báo cho Mân và Sương tình hình, chàng nghẹn ngào:

- Tùy hai cô mà thôi.

Sương đáp:

- Cứ để chị Mân đi trước, em chẳng vội gì.

Hải nhìn Mân chờ đợi. Cô ngồi thu lu, chỉ thấy một bóng hình bất động. Tiếng u u của chó làm không khí thêm buồn thảm:

- Không!

- Em nói không là sao? Dũng hỏi.

- Em không đi.

- Em muốn nhường Sương à?

- Vâng.

Hải nói:

- Nếu cứ bắt em đi trước thì sao?

- Không.

Giọng Mân mệt mỏi nhưng cương quyết. Sương đã thiếp đi từ hồi nào. Nàng quá kiệt, không ngồi lâu được. Như vậy là xong, Sương sẽ rời thành phố ma ngày mai. Đường đến Hồng Kông chắc không còn xa lắm. Nhưng một thân một mình nàng sẽ ra sao? Ai sẽ quan tâm giúp đỡ người con gái mù lòa. Hải trù trừ trước bóng tối mà chẳng hình dung ra:

- Hay ông đi trước, Dũng?

- Tất nhiên là không, nhưng tôi hiểu tại sao ông đề nghị tôi.

- Tôi chỉ sợ cô ta mù lòa.

- Tôi cũng nghĩ đến điều đó. Nhưng chắc ít hôm thôi là đến Hồng Kông. Xứ tự do, người ta coi trọng con người.

- Thì mong vậy. Hải đáp.

Ừ, biết đâu chừng cô ấy gặp lão Mục đâu đó trong trại tỵ nạn. Hải nghĩ thầm. Một con đom đóm lang thang ngoài song, chui ra chui vào nhà rọi một màu xanh biêng biếc lập lòe trên tường. Chàng sẽ còn một đêm nay bên Sương, rồi chàng sẽ trả nàng về cho cha, cho tự do đang cách mấy ngày đường. Hải nằm xuống, ôm siết thân hình bé bỏng của nàng. Những buổi chiều trên biển, nắng hè soi cát nóng, soi lên thân hình trần của nàng. Chiếc áo nàng đã nhão ra, tựa hồ chỉ một chạm khẽ là những sớ vải sẽ rơi xuống. Nàng đã sinh ra nơi miệt biển, cha nàng đã nuôi nàng bằng biển mặn, nàng đã khốn khổ trên cuộc hải trình sống chết. Nhưng nàng vẫn yêu biển tha thiết. Một tối nào, trăng thượng tuần treo lơ lửng, Sương trần truồng tung mình xuống nước. Màu sáng trăng dìu dịu chiếu trên đầu ngực căng tròn của nàng, lấp lánh những giọt nước như xâu chuỗi kim cương óng ả đọng trên thịt da phơi bày rạng rỡ. Hải ngồi trên cát, ngắm người con gái lõa thể đi tới đi lui. Mái tóc dài rã rượi của Sương bay lê thê như những cánh hải âu ngược gió ngàn và tan trong màu trăng trắng mơ hồ gợi cảm. Một sự tương phản quá lớn giữa khuôn mặt nhỏ nhắn và mái tóc dầy khiến Hải nghĩ gió sẽ nâng mái tóc thổi tung nàng lên trời. Hải lượm một cục sỏi ném xuống biển:

- Anh ở đâu đó?

Hải cố tình im lặng. Sương hỏi đến lần thứ ba, liền giả vờ cắm đầu chạy lên bờ. Biện pháp này lập tức có hiệu quả. Hải chạy sau lưng nàng, khi thấy Sương sắp đâm bổ vào một cây dại chàng mới ôm choàng ngang thắt lưng bé như cổ cò của nàng vật xuống. Sương cười nắc nẻ, tiếng cười nàng làm vỡ cả ánh trăng xao xuyến:

- Chịu thua em chưa nào.

Hải hôn nàng. Đôi mắt nàng sâu thẳm. Một vũng tối đày đọa. Sự ham muốn tắt thình lình khi Hải nhìn sâu vào vũng tối ấy, hai hàng mi dài động đậy. Một hố sâu, sâu như đáy vực. Đáy vực đang mở ra “nhìn” chàng. Hải thở hồng hộc mỏi mệt.

- Khi nào minh đi, anh nhỉ?

Hải hình dung giả sử chàng và Sương sẽ được một chiếc tàu nào đó tiếp tế lương thực, chàng sẽ không đi đâu hết, sẽ sống một đời trên bãi vắng. Nhưng ý nghĩ ấy chỉ lóe ra như vì sao băng tắt ngúm trong bóng tối nửa vời và không để thừa một dư âm sáng lòa nào cả. Cuộc đời Hải đã tô bằng nước mắt, chàng đã mất mát quá nhiều, chàng chưa dành lại từ cuộc đời mỗi muôn một. Chàng đã đánh một ván bài không thấy thắng. Lộ trình đã vạch, Hải phải tới đó, Sương phải tới đó, nào có đâu đường về.

Chiếc thuyền của Độ nhổ neo khi bầu trời còn giăng đầy sao nhỏ. Những vì sao đang tan loãng trong ánh mặt trời. Hải và Dũng chống gậy, cặp Sương ra bãi. Nàng không còn đứng vững, có lẽ Hải cũng không còn đứng vững nếu ý chí không kiềm chân chàng dậy.

Hai người dìu Sương lên cùng với sự trợ sức của Độ. Họ đứng ngâm chân trong nước lạnh, nhìn con thuyền chậm chạp trở mũi. Nước mấp mé mép thuyền. Họ đứng như thế lâu lắm, hằng giờ, cho đến khi cái chấm trắng xóa nhòa trong không gian bất tận. Sương sẽ gặp lão Mục ở trong trại tỵ nạn nào đấy, Hải tin như vậy. Chàng cũng sẽ gặp lại Sương ở bến bờ đấy, một ngày nào đó. Người con gái mù sẽ “nhìn” thấy ánh sáng tự do sau những đêm dài đằng đẵng. Nàng đã xa tận ngoài biển. Hải nhớ quay quắt. Chàng nhớ từng sợi lông măng phớt sau gáy nàng, khuôn mặt gầy gộc biếng tiếng cười, giọt nước đọng nơi đầu vú trong veo màu trăng vỡ, và hai vực thẳm ngày càng sâu...
Tiếng ve kêu re re trên bãi vắng.

Hải đang nghĩ đến chuyện tự đào huyệt chôn mình thì ngoài đường bỗng có tiếng người ồn ào. Hai tai chàng lùng bùng như có muôn vàn tiếng động đập liên hồi. Chàng vịn theo tường gượng ra cửa. Mấy gã thanh niên chạy lăng xăng ngoài đường, dường như họ mới đến. Một người bật thấy Hải, ré lên một tiếng:

- Ở đây có thêm một ông già nữa bây ơi.

Gã tiến lại, nhìn Hải chăm chú rồi vờ lễ phép:

- Lạy cụ, cụ bảo cho tụi cháu biết đây là đâu.

Hải cười thầm trong bụng. Chàng nghe giọng nói quen quen.

- Việt Nam à?

Gã thanh niên cười bỡn:

- Việt gian phản quốc.

Hải không còn sức để đùa với gã, chàng nhếch mép nhọc nhằn:

- Cho cái gì ăn...

Gã thanh niên nhận ra mình đang đùa với lão già sắp chết. Gã hối một người khác:

- Xuống thuyền lấy cơm, chả sắp chết kìa.

Mà Hải sắp chết thật. Chàng ngồi mới một chút mà đã xây xẩm mặt mày. Rồi Hải ngã chúi vào hai cánh tay gầy của gã thanh niên. Khi Hải mở mắt, lại nghe ùn ùn những âm thanh hỗn loạn, nhưng chàng đã thấy bớt mệt. Dường như có một nguồn sinh lực ở đâu đó tiếp vận cho chàng. Một nguồn sinh lực trống rỗng, cái chỗ trống Sương để lại. Giọng gã thanh niên quen thuộc:

- Ổng tỉnh rồi, thôi dang ra bớt cho người ta thở.

Hải đã nhớ ra gã, yếu ớt gọi:

- Phú kèn, trời ơi, Hải vĩ cầm đây nầy...

Phú kèn rú lên, gã vạch tóc, vuốt râu Hải, bàn tay trơn trượt của Phú kèn lắc lắc khuôn mặt teo bằng quả chanh của chàng:

- Ối bác và đảng ơi... “ông” tưởng “con” đang hành lạc ở Hồng Kông rồi, sao ra nông nỗi này chớ...

Những người đứng xung quanh ồ lên một tiếng, “quen hả”, “quen hả”, Hải nghe tiếng người lao xao, tiếng Phú:

- Thôi thế mà tôi không nhận ra ông chớ. Nhẽ ra nhìn “nụ cười cơ giới” của ông là phải nhớ liền, rõ thật.

Hồi còn chơi trong ban nhạc ở Hải Phòng, Hải được anh em tặng cho cái tên “nụ cười cơ giới”: Một cái nhếch mép khó hiểu, cười không ra cười, một kết hợp hữu cơ của vách thịt, méo xệch. Ngược lại Phú kèn - thổi saxophone - lau chau, đùa giỡn trong mọi trường hợp, thuộc típ người chưa thấy mặt đã nghe tiếng, Phú nói:

- Nhìn cái mặt đám ma của ông, mẹ, cứ có một canh xì phé là tỉnh ngay chứ gì.

Hải nhếch mép, cười “cơ giới”:

- Ừ, mà tính sao đây?

- Đi chung với tụi này luôn thể.

Hải yếu ớt kể cuộc hành trình của mình. Chàng nghẹn lời nửa chừng, một điều cấm kỵ đối với Hải khi phải biểu lộ xúc động trước mặt bạn bè. Phú nói:

- Tôi may mắn hơn ông nhiều.

Đoạn gay nhất của Phú là sau khi vượt qua eo biển Lôi Châu, nghĩ sắp đến Hồng Kông rồi, gã chủ thuyền cho tấp vào Xương Giang, ăn chơi nhậu nhẹt một bữa đã đời. Say quá, tài công chấm lộn tọa độ. Gã tính đi hai ngày một đêm là tới Ma Cao, không dè đi được một ngày là gió trở, sóng đánh thuyền về gần chỗ cũ. Lên bờ đi xin ăn, Phú gặp công an Trung Quốc “dụ” chở đi mua thuyền khác, không dè họ chở ngược về Việt Nam. Phú nhận ra điều đó khi càng đi gã càng thấy hai bên đường nhà cửa càng lúc càng xơ xác, chỉ có Quảng Tây mới nghèo như vậy. Gã nhảy khỏi xe khi chiếc xe giảm tốc độ vì phải tránh một chiếc xe chạy ngược chiều. Gã biết tên tài xế thấy gã nhảy qua kính chiếu hậu, nhưng hắn cứ lờ đi chạy thẳng. Phú đi ngược lại đoạn đường đã qua rồi gã đón xe đò tìm về chỗ thuyền đậu. Dọc đường, gã chỉ biết mỗi một câu “Ngộ mậu dậu xìn, chẩu hớn cỏn” (tôi không có tiền, đi hồng kong), ấy thế mà nhờ lòng tốt của nhân dân Trung Quốc, gã xin được tí tiền về lại thuyền kịp khi cả thuyền đã tập hợp đông đủ, sắp nhổ neo. Ngang thành phố ma, tài công lại tưởng là một thị trấn lớn, tấp vào. Nhờ thế, họ cứu được bọn Hải.

- Thế ra công an nó chở cậu về Việt Nam đấy. Hải hỏi.

- Chính thế! Mà phải mình tình nguyện về mới không ức. Trên xe, có chừng hai chục người xin về, thuyền họ đắm, một nửa kiếm phương tiện đi tiếp, cái nửa đi cùng xe với tớ họ lạnh cẳng, tìm đường đi về qua cửa Đông Hưng đấy. Giờ này chắc đã về tới Hà Nội.

- Phước ba đời nhà ông.

Chủ thuyền ra lệnh chuẩn bị đi. Ông ta đếm lại số người, cộng thêm ba người bọn Hải. vừa lúc, Hồng lão từ trong phố đi ra, lão dặn:

- Đi khỏi đây chừng một dặm khéo kẻo vướng phải cồn cát...

- Cồn cát à.

-...ngầm đấy. Thượng lộ bình an nhé.

Hồng lão có vẻ tỉnh táo vì được bọn đi thuyền với Phú cho mấy lon gạo. Chắc lão vừa nấu cháo ăn xong. Hải lội ra thuyền, trong khi hai người đàn bà khác dìu Mân leo lên. Hải nhìn những tòa nhà bốn tầng lần cuối. Chỉ còn một mình Hồng lão tiên sinh đứng bơ vơ trên bãi biển. Mái tóc bạc lơ phơ trong gió. Bộ áo quần xám xịt màu đất của lão in khối cô độc thê thiết trên nền cát vắng, trên nền trời xanh lơ thăm thẳm. Trên vùng đất ngặt nghèo ấy, Dũng đã để lại một phần ruột thịt của mình dưới gốc cây.

Thuyền đi được nửa ngày thì trời sụp tối. Đúng như Hồng lão nói, đang giữa mặt biển phẳng lặng như tờ bỗng rít lên tiếng nước réo như một ấm nước đang sôi. Tài công vừa lái vừa cho thọc cây thăm dò độ sâu. Anh ta lách giữa cồn cát ngầm khéo léo. Ngang một khúc, trên mặt cát thẫm màu đêm, xương người phơi trắng trên cồn cát nổi. Những chiếc sọ ngửa mặt nhìn trời, có cái sọ láu lỉnh, có cái sọ lớn trừng trừng uất hận. Những chiếc xương tay xếp như chiếc đàn T’rung. Đàn bà trên thuyền lâm râm niệm Phật trước những mẩu xương rải dọc theo bờ, nghe từ đâu đấy đang reo lên tiếng than ai oán của những linh hồn đoản số ngậm ngùi gửi nắm xương tàn trên biển khách. Hải thấy đôi mắt Dũng đầm đìa lệ. Anh ngồi im lìm như cái xác chết, dường như bóng tối đang lan ra từ linh hồn sầu não ấy.

Hải nhìn thấy những chùm sao tan tác như những giọt nước vỡ toang ra đọng trên nền (trời) đen thăm thẳm. Chàng nhớ những vì sao tua ở quê nhà:

Sao Tua chín cái nằm kề

Thương em từ thuở mẹ về với cha

Chàng đã xa mảnh đất man rợ cắm dùi trên những câu ca dao lãng mạn. Chàng đã xa cái cuống rún (như thế nào nhỉ) mà một buổi sáng khi còn thơ mẹ Hải dắt con ra vườn chỉ vào gốc cây phượng:

- Mẹ chôn cái cuống rún con ở đây.

Cậu bé Hải mường tượng mẹ đang nói điều gì ấy. Cậu sờ cái lỗ rốn cạn lợt của mình, mân mê một cục đất bé bằng con chấy. Bao nhiêu năm qua rồi, Hải vẫn còn nhớ buổi sáng dưới gốc cây phượng sau hè. Có nguồn cảm xúc lan chảy trong dòng máu Hải, nhớ điên cuồng một miếng nắng rải ngoài sân.

Những giọt nước vãi trên trời mờ dần như bị lấn bởi một thứ ánh sáng lung linh từ đâu đây. Rồi tiếng ồ đánh thức những đôi mắt im ngủ:

- Hồng Kông kia rồi đấy!

Từ xa, một màu sáng vàng nhạt hực lên cả chân trời. Ánh sáng diễm ảo vô cùng, tráng lệ vô cùng. Và những tấm lòng nức lên. Cái đích đã tới, không còn ngờ gì nữa. Hồng Kông, Hồng Kông! Cả thuyền chồm dậy. Bóng tối nghe chừng có lửa, lửa của niềm sung sướng tột cùng.

- Sướng quá, ha ha ha.

Phú ôm chặt Dũng, hét bên tai:

- Bọn mình nhậu một bữa xả láng ông ơi...

Chân trời sáng rực, chân trời sáng rỡ, chân trời sáng lóa. Thuyền băng băng chạy. Những mỏm đảo thấp thoáng, những sườn núi mờ sương khói. Mặt trời lại bắt đầu lên, biển lênh láng nước mênh mang.

Từ sau một hòn đảo, hai chiếc tàu cảnh sát chẻ sóng tiến lại. Hai chiếc tàu màu xanh lá mạ, chẻ thành gọng kiềm xáp tới. Những chiếc áo trên thuyền con hồ hởi vẫy. Hai lượn sóng từ tàu lớn làm thuyền chao đảo nghiêng bên này lượn bên kia.

- Việt Nam vượt biển đây. Tiếng “rao hàng” từ thuyền Hải ré lên.

Tàu cảnh sát tắt máy liệng quanh quan sát. Một sợi dây thừng ném qua, cột, xáp lại. Thuyền con đã cập sát song song vào tàu lớn, nhìn lên cao những nấc thang. Dùi cui cầm tay, cảnh sát Hồng Kông đếm từng người leo lên tàu họ. Phú kèn xin thuốc lá hút khi vừa vượt qua một viên cảnh sát. Gã phải nói hai lần bằng thứ tiếng Quảng Đông ăn đong của mình. Bất ngờ, viên cảnh sát bợp cho Phú hai cái bạt tai xây xẩm mặt mày. Hải tái mặt, một sự bẽ bàng bỗng dâng trong lòng. Xứ tự do mà có cảnh này à. Viên cảnh sát nạt:

- Đại lục phải không?

Dũng nghe được, đỡ lời:

- Chúng tôi toàn người Việt Nam cả.

Thì ra viên cảnh sát tưởng Phú là người đại lục. Gã ăn hai cái tát oan uổng. Rút kinh nghiệm, Hải hỏi một gã khác bằng tiếng Anh:

- Ông thông cảm, tôi thèm thuốc quá!

- Địt mẹ...

Điếu thuốc cháy hết một nửa ngay cú rít đầu tiên của Hải. Bỗng một bàn tay giựt ngay điếu thuốc:

- Chia anh em với chứ.

Một viên cảnh sát khác trao một xấp truyền đơn cho Hải, bảo phát. Truyền đơn viết bằng tiếng Việt, thứ tiếng Việt không văn phạm. Hải đọc lướt qua giật mình:

- Nghĩa là sao?

Viên cảnh sát nhìn Hải thương hại. Y nói chậm rãi:

- Các anh đến muộn rồi!

10

Bình xịt thuốc từ tay một gã coi trại xịt thẳng vào người Hải. Chất bột nhão trắng nhớt nhợt có mùi thuốc sát trùng bắn tung tóe lên tóc tai, cứ như đang xát xà phòng. Người tỵ nạn mới đến bị tẩy uế thật kỹ. Nhóm người Hải theo thứ tự đếm số: bảy mươi lăm người tính luôn cả trẻ con. Tên xịt thuốc đặt bình xịt thuốc xuống đất, móc chìa khóa ở thắt lưng đi mở cửa. Gã mặc đồng phục xanh dương đậm, không mang vũ khí, mặt lạnh lùng như con gà cắt hết tiết. Bốn dãy buồng cửa bằng song sắt tròn, tường bằng đá khối sù sì nằm thẳng góc với cửa chính ra vào xuất hiện. Từ sau song sắt, những khuôn mặt xanh úa túa ra, tò mò nhìn bọn người mới đến. Những đôi mắt lo ngại chia sẻ. Căn dãy buồng tối om dù trần nhà rất cao. Những chiếc giường sắt ba tầng kê sát hai bên tường đá đã chật những người đến trước. Chợt một gã quản trại ngoắc Hải khi anh vừa leo lên một tầng ba theo sự bố trí của một buồng trưởng.

- Anh ra đây chúng tôi nhờ.

Gã có khuôn mặt trắng nhão như cái bánh đa ngâm nước. Gã dẫn Hải vô một cái phòng nhỏ, bảo chàng ngồi trên cái ghế xoay trước cái bàn nhỏ. Hải nhún nhún thoải mái.

- Anh ngồi chép hộ tôi danh sách những người mới tới.

Gã nói tiếng Anh không tệ lắm. Gã kéo ghế, móc túi đưa Hải một gói Marlboro vừa mới bóc. Gã bảo: “Cứ hút”. Một tay vừa viết một tay mồi thuốc, Hải hút muốn ngất đi tại chỗ. Người chàng đê mê như sắp lịm dần. Gã quản trại ra vẻ thông cảm:

- Anh cứ giữ luôn gói thuốc.

Có vẻ chán nản với công việc, bắt chuyện Hải. Thì ra gã thuộc sở Phòng Vệ Nhân Dân (Civil Assistant Service), một tổ chức dân sự thành lập để hỗ trợ cho chính quyền trong trường hợp có tai biến lớn. Họ được chính phủ Hồng Kông trưng dụng để coi mấy trại tỵ nạn và không được trả lương. Qua gã, Hải biết trại này tên là Thanh Châu, một trại chuyển tiếp đón “thuyền nhân” - Hải lần đầu nghe người ta gọi mình là thuyền nhân, sau đó thuyền nhân sẽ được chuyển đi chỗ khác. Điều tuyệt vọng mà gã cho Hải biết là bọn chàng đến Hồng Kông quá chậm.

- Là sao? Hải hỏi.

- Là các anh sẽ không được coi là tỵ nạn nữa...

- Chúng tôi...

- Vì kể từ 16 tháng 6, tất cả những người đến trước đó đều được coi là người tỵ nạn. Các anh khác. Rồi các anh sẽ bị Cục Di Dân thẩm vấn thanh lọc, coi có phải tỵ nạn chính trị không, nếu không...tôi không biết...

Hải chỉ đến sau ngày ban hành “chính sách dứt điểm” hai tuần lễ định mệnh. Chàng cười tự tin:

- Tất cả chúng tôi đều là tỵ nạn.

Gã quản trại lại nói “Tôi không biết”. Quả thật, gã không biết thật. Chính sách này mới mẻ và lạ lùng ngay với chính gã. Cái gì mà đến sau ngày đó lại bị coi là boat people? Và chỉ trước một phút lại là refugees? Giữa cái giây khắc mong manh ấy, là cả một định mệnh à! Những người bị cầm chân trên đất Tàu đã bị đói khổ khắc lên đời mình một dấu ấn chối bỏ. Hải hỏi thăm gã danh sách những người đến trước đó. Chàng hy vọng có tên lão Mục và Sương.
- Họ có thể được đưa thẳng vào đất liền. Tuy nhiên, tôi có thể tìm hộ anh.

Bỗng có tiếng la hét từ một dãy nhà vọng ra. Tiếng chửi rủa tục tĩu, giọng đàn bà the thé, giọng đàn ông cộc cằn. Gã quản trại lật đật chạy đi, lẩm bẩm:

- Lại đánh nhau.

Hải đã chép xong danh sách bảy mươi lăm người cùng thuyền. Bốn chục đàn ông, mười bảy phụ nữ, còn lại là con nít. Mười tám đứa trẻ dưới mười lăm tuổi. Chúng nó cũng là tỵ nạn chứ. Hải bâng khuâng nghĩ. Người ta sẽ dựa vào định nghĩa nào, dựa vào...chàng mù tịt. Chàng mân mê điếu thuốc thơm, chàng nhớ những cữ thuốc lào chia nhau trong một căn nhà tối. Căn phòng chàng đang ngồi cũng mờ đục dưới ngọn đèn trắng. Hơi đá toát ra lạnh lẽo. Hải thèm được ăn, thèm được tắm... bột vôi khử trùng và thuốc tẩy chí rận xịt vào người chàng vẫn còn bám trên người. Gã quản trại đã trở về, vẻ bực dọc hiện lên mặt:

- Anh về buồng được rồi.

Gã đưa Hải đi theo hành lang hẹp, mở khóa cửa buồng lóc cóc, vỗ đầu một đứa bé tì mặt vào song cửa nhìn gã tò mò, rồi đóng cửa máy móc. Chỉ một giây ngắn ngủi, Hải đã ở bên trong cái buồng hôi hám phân người và nước tiểu. Hải leo lên tầng giường ba, nhìn dãy người xếp hàng vào nhà vệ sinh mà ngao ngán.

Những đứa bé nín không nổi, ỉa tòe loe ra nền nhà. Mấy đứa khác bắt chước, cứ vạch quần nhằm chỗ nào không có chân người là đái. Một chị đàn bà tát thằng con trai cởi truồng một cái nảy lửa, quát:

- Mồ tổ mày, cơm đâu mà cứ đòi ăn hử. Con mẹ mày cũng đói nẫu cả người ra đây.

Thằng bé bị tát oan, ré lên the thé. Lập tức, ông bố từ đâu ở giường bên kia phóng về. Ông bố nắm đầu thằng con đẩy chúi vô mấy cái hộp giấy trống để trên giường:

- Tao bảo mầy nín. Nín. Cứ lải nhải tao cho về Việt Nam đấy con ạ.

Thằng bé có vẻ sợ, chỉ còn thút thít nước mũi. Cái bụng lép kẹp đếm đủ hai hàng xương sườn của nó giựt giựt theo tiếng nấc. Phía cuối buồng bỗng một giọng đàn ông la toáng lên:

- Tiên sư con cái nhà ai mà cứ ỉa tòe loe ra đấy. Bẩn đéo chịu nổi.

Giọng một bà trả đũa:

- Con cái nhà bà đấy. Nó muốn ỉa đâu thì nó ỉa, bà thách thằng chó nào đụng tới nó coi nào.

Gã đàn ông bị chạm tự ái, cáu:

- ỉa thì có nhà cầu, cứ tươm cả ra đấy thì cái nhà này biến thành lăng bác cả à!

Tiếng cười rúc rích thú vị. chị đàn bà đổi hướng:

- Có giỏi thì đứng ở Ba Đình nói câu ấy. Qua đây nói ai nghe nào. Lũ hèn...!

Thằng bé cắt lời mẹ, ré lên đòi chùi đít. Bà mẹ bảo: “Cứ chờ đấy, chừng nào nước mở hẵn rửa”.

Thằng bé dang dang hai chân đi về giường. Có tiếng la giẫy nẩy: “Coi chừng nó ngồi lên giường là khốn đấy. Địt mẹ, biết thế này ông thèm vào”.

Hải bàng hoàng trước cảnh trại giam mà chàng không hề hình dung trước đó. Những chấn song, hai đầu buồng kín đến cả ánh sáng còn thiếu. Ban sáng tàu cảnh sát chở vào, Hải nhìn thấy chỉ cách đảo non cây số thành phố cảng Hồng Kông cao nghều nghệu những cao ốc. Vậy mà chàng tưởng chừng xa xôi cách trở nghìn trùng. Chàng đang ở dưới chân núi, vách đá dựng cao sững mà nhìn qua song cửa, Hải chỉ thấy phẳng lì màu đá trơ xam xám với kẽm gai chất lớp lớp leo lên tới mút tầm mắt. Suốt đêm Hải nghe tiếng sóng rì rầm đâu đó. Chàng tưởng hòn đảo sắp sửa bị cuốn trôi.

Người đàn ông mặt mày phương phi trắng trẻo, trạc độ bốn mươi. Cái cần cổ béo ụt của hắn choàng sợi dây chuyền bằng vàng ta đính vào cái tượng Phật ngà voi bọc vàng. Hắn bận bộ vét trắng sang trọng, thắt cà vạt đỏ to bản. Cả bảy mươi lăm người trên thuyền Hải xếp thành hai hàng dọc trước mặt hắn. Đôi mắt một mí him híp của hắn lừ đừ nhìn bọn người quần áo bẩn thỉu. Nhắm chừng bảy mươi lăm mạng người sợ sệt đã thấm cái oai vệ toát ra từ mình, hắn quát, giọng như loa sắt ở Hà Nội:

- Độc thân đứng riêng qua bên này, gia đình đứng qua bên kia.

Mọi người líu ríu đổi vị trí. Một thanh niên ngập ngừng chưa biết đứng theo hàng nào liền bị gã đàn ông tát hai cái “bốp...bốp...”

- Đù mẹ mầy, đứng qua hàng độc thân.

Hai má người thanh niên xui xẻo lằn đỏ dấu tay. Anh sợ sệt nói:

- Bẩm, em có vợ.

Gã đàn ông lại giơ tay lên, tính tát:

- Mả mẹ mầy muốn qua mặt tao hử. Mầy cặp trên thuyền chứ vợ chồng gì. Hôn thú đâu?

Gã đẩy người thanh niên chúi qua hàng độc thân. Hải chụp người thanh niên cho khỏi ngã, nhìn qua dãy gia đình thấy mặt Phú kèn trắng bệch đứng sau lưng vợ. Vợ Phú kèn bồng đứa con gái ba tuổi, sợ muốn ngất liền tại chỗ. Gã đàn ông đi tới đi lui giữa hai hàng như chủ tịch nhà nước duyệt binh. Hắn đi ngang ai là người ấy nhìn xuống đất, chờ hắn qua khỏi mới len lén nhìn trộm. Hắn nói giọng Nam Bộ, tiếng thanh chan chát áp đảo. Thình lình hắn dừng trước một thanh niên khác đứng bên hàng gia đình trợn mắt:

- Qua bên kia.

- Em có vợ con mà. Người thanh niên mặc quần cụt, hai đầu gối run run muốn sụp xuống.

- Đù mẹ mầy lại muốn qua mặt tao hả. Hôn thú đâu?

- Dạ...em...không đem theo.

Gã đàn ông của cục di dân túm ngực áo kẻ xấu số:

- Qua bên kia.

Gã nhấc bổng người thanh niên như xách một con gà. “Toạc...”. cái áo người thanh niên rách toạc. Gã lật đật bỏ người thanh niên xuống, rút khăn mùi soa lau tay cẩn thận, rồi quát liền:

- Qua bên kia, chờ tát vỡ sọ à.

Trong thời gian gã lau tay, một anh có vợ đi theo thật sợ quá, lén nhảy qua phía hàng độc thân. Chị vợ đứng trân bên hàng này, ứa nước mắt. Hai hàng nước mắt lăn lăn làm thành dấu trên bộ mặt chị vợ dơ dáy đen đủi. Dấu nước mắt trên má người đàn bà như hai sợi dây móc từ hàng mi rung động loăng quăng chảy xuống cái cằm tóp nhọp. Gã cà vạt đỏ thình lình chiếu tướng ngay người đàn bà khốn nạn:

- Chị kia chồng đâu?

Người đàn bà không dám nhìn anh chồng vừa lẻn qua hàng nam độc thân, ấp úng nói:

- Dạ...em...độc thân.

- Dzậy qua hàng nữ, đứng làm gì đó hử.

Người đàn bà riu ríu qua hàng nữ. Có lẽ công an Việt cộng cũng chỉ dữ bằng gã béo này. Gã khuỳnh khuỳnh hai tay đi tới đi lui. Bảy lăm con người nín khe sợ sệt. Hải nghĩ thầm, hắn chắc là...an ninh? Chàng cảm thấy bẽ bàng tê tái cả cõi lòng, những hồ hởi phấn khởi khi thấy ánh đèn Hồng Kông tiêu tan như đốm than nhúng vào nước lạnh. Khí thế gã áp đảo quá, thậm chí mấy đứa con nít núp sau cửa sắt cũng co rúm lại, kinh hoàng. Gã béo lại quát lên:

- Đứng yên cả đây chờ tao cho đi mới được đi.

Gã vô văn phòng báo cáo với hai nhân viên Cục Di Dân bằng tiếng Quảng. Gã xoa tay, vẻ khúm núm trước cặp mắt sắc lạnh của sếp. Một chập, gã hùng hổ đi ra nói:

- Nữ đi lối này, nam đi lối kia, gia đình thì vào cả đấy.

Người đàn bà bị bắt làm gái độc thân khóc thút thít, vừa đi vừa ngoái lui. Anh chồng đôi mắt cũng đỏ hoe, cứ theo sức đẩy của người đi sau mà về buồng.

Sáng hôm sau, Hải được người quản trại thuộc sở Phòng Vệ Nhân Dân CAS cho biết gã béo chỉ là thông ngôn viên cho Cục Di Dân, mục đích đến Thanh Châu để tìm người Đại lục trốn theo thuyền vượt biển vì người Đại lục sẽ bị trả ngay về Trung Quốc. Gã béo trước kia ở Sài Gòn, về Hồng Kông năm 1972 và được tuyển làm thông ngôn khi số người vượt biển đến Hồng Kông càng lúc càng nhiều.

- Chỉ thế thôi ư? Hải hỏi, vừa tức vừa sợ.

- Thì cũng...đồng hương của anh đấy. Gã CAS cười khó hiểu.

- Ai lại...

- Rồi anh sẽ còn gặp nhiều phiền toái nữa. Gã CAS nói, gã không có ý dọa Hải.

Gần một tháng sau thì Hải được lệnh chuyển trại. Chàng lại nuôi hy vọng về cái đời sống bí mật bên ngoài cái vách đá lạnh của Thanh Châu. Hải sợ hãi cuộc sống ở đây. Như những con người nghệ sỹ khác, chàng bàng hoàng trước cảnh đời xôn xao nhiều mặt trái. Chàng co rút người sống trong vỏ ốc. Chàng giấu kín mọi tâm tư ước vọng trong những ngày dài sau tường đá. Dường như không còn gì để nói giữa chàng và Dũng, giữa chàng và người bạn văn nghệ Phú kèn, ngoại trừ chia nhau cái điếu cày khi xin đâu đó được nhúm thuốc lào. Hải chứng kiến những đoàn người rách rưới tả tơi như chàng thi nhau đến Thanh Châu. Mặt mày lơ láo còn nguyên nét kinh hoàng về cuộc hải trình, bộ trình khốn nhọc. Hải có cảm tưởng đôi mắt của đồng bào chàng như đôi mắt của loài thú hoang, vừa loang loáng vừa sợ sệt, vừa hy vọng vừa tuyệt vọng. Những cô gái chân đất, ống quần rách tả tơi, đôi mắt cụp xuống tưởng như cả thế giới này chỉ có mặt đất là đáng chú ý. Có thể đúng như vậy thật. Tiếng khóc ỷ ôi của bầy trẻ thiếu ăn. Đôi tai âm nhạc của chàng chỉ lắng nghe tiếng khóc của đời, của những lạc loài trên đất khách, của những phiền não câm lặng. Có thể nào chàng sinh nhầm thời và chọn lầm nghiệp chăng. Hải bao lần tự hỏi, những bài ca mà chàng ấp ủ ở quê nhà, rồi sẽ được hát to giữa những con người khốn khổ bị bao vây bằng nước mặn và núi xám trùng điệp này chăng?

Hải ra khỏi hành lang hẹp, chóa mắt khi chân đặt lên cầu tàu, lên tàu cảnh sát. Hai bên và trước mặt Hải tàu bè rộn rã, những cao ốc sáng chói dưới ánh mặt trời. Cả một bầu khí sinh động lần lượt diễn ra trước mắt. Những người đi cùng với Hải há hốc mồm, kinh ngạc.

Chỉ non mười lăm phút là chiếc tàu cảnh sát đưa bốn trăm mạng người đến ngay trung tâm Hồng Kông. Hải đi theo đoàn người như máy, leo lên một xe bọc lưới trước những cặp mắt tò mò của người qua đường. Đoàn xe dài hai mươi chiếc nối đuôi nhau chen lách giữa đường phố chật hẹp. So với những chiếc xe chở người chật cứng ở Việt Nam thì loại xe chở tù của Hồng Kông quả thật tử tế. Những đường phố tráng lệ và sự thịnh vượng của đất nước có thể thấy trên khuôn mặt no đủ của người dân. Thậm chí, con đường hầm xuyên dưới biển dẫn qua Cửu Long còn sáng hơn đất nước cực kỳ tối tăm của Hải.

Hơn một tiếng sau, chiếc xe đầu tiên ngừng trước một trại giam giữa lòng đảo Cửu Long. Hải hỏi một nhân viên Cục Cải Huấn:

- A Cố, trại nầy tên gì vậy?

- A Kai - Lẩu - Cái đấy. (trại giam argyle).

Những dãy nhà lợp tôn dài hai mươi chín mét, rộng sáu mét trống trải không có giường nhét đủ ba trăm mạng người. Hải băng qua những đường rãnh lềnh bềnh rác lẫn với phân người, theo trưởng buồng lách chân giữa một lối đi hẹp giữa buồng, hai bên thùng bọng la liệt, kẻ nằm người ngồi tràn lan trên nền đất rin rỉn nước.

Hải được xếp chung “giường” với một cậu bé chừng mười tuổi. Cậu ta liến thoắng khi Hải vừa ngồi xuống tấm ván:

- Anh mới đến phải không? Em biết từ hôm qua kia đấy.

- Sao em biết?

- Họ báo trưởng buồng chuẩn bị nhận người hôm qua lận. Trước em ở với cặp vợ chồng...

Cậu bé ngập ngừng bỏ lửng. Một chập mới nói:

- Em tên Thơ đấy.

- Anh tên Hải.

Thơ cười. Khuôn mặt đen nắng, tóc dài chấm vai khiến Thơ có vẻ già trước tuổi. Thơ cởi trần, mặc quần cộc, gia tài của nó là cái ca nhựa màu vàng tươi, một cái muỗng đỏ cũng bằng nhựa, hai thùng mì gói trống, một tấm chăn xám. Nó bảo anh cũng được phát như thế. Hải ngã lưng trên tấm ván thiu thiu ngủ, nghe thằng bé dặn chút xíu để em đi lãnh cơm, anh cứ ngủ đi nhé. Nó có vẻ phấn khởi vì không phải ở chung với cặp vợ chồng nào đó nữa.

Thơ được mẹ đưa xuống thuyền vượt biển ra nước ngoài để “cho tương lai con sáng sủa, mai mốt bảo lãnh thầy mẹ. Thầy mẹ nghe đồn xứ ngoài trọng con nít nên yên tâm để thằng bé đi một mình”. Hai tháng từ ngày xa gia đình đã dạy cho Thơ đủ điều. Thằng bé trưởng thành và hội nhập mau chóng vào thế giới xung quanh. Nó biết cả chuyện chăn gối của người lớn nhờ cặp vợ chồng lục đục cạnh nó vào buổi tối. Nó biết tên những thằng A Xòe hay đánh người trong trại, mấy con “cú lường” ế chồng mặt mụn chỉ chực nhéo tai con nít. Nó còn bày trò đánh nhau với bọn trẻ khác gần một cú lường hắc ám nào đó để xô cho cô ả té ngã trên đường rãnh bẩn nước. Thơ kể mấy chuyện đó với Hải, hả hê và kết luận như một ông lão:

- Em bày trò thế cho đỡ nhớ nhà. Và ở đây chẳng học hành gì cả. Rồi anh coi!

Thằng bé chạy vụt đi. Một người trạc độ bảy mươi tuổi kế giường Hải cười khành khạch. Ông già nửa nằm nửa ngồi, thân hình co rút trong lớp da nhăn nhúm khô như đất. Những đường gân máu trên cổ, trên tay càng khiến ông trông như một người mắc bệnh lao thời kỳ cuối. Mà kìa, ông ho sặc sụa, chĩa mồm qua hỏi Hải khi cơn ho chưa ngớt.

- Ở đâu tới? khục...khục...

- Cháu ở Thanh Châu.

- Tôi cũng ở đấy. Thế chưa vợ con gì hết à?

Hải nói:

- Chưa đi được bác ạ.

- À thế, khủ khủ khủ...e...hèm! Ông chòm xóm ho một hồi, lại bắt chuyện:

- Cậu người Hà Nội à.

- Vâng.

Chợt nhớ ra:

- À, tôi là Thâu, mọi người cứ gọi là Sâu Róm.

Hải nhìn ông Thâu, trông giống một con sâu rọm già không còn cả vỏ để thay da.

- Cẩn thận đấy nhá.

- Sao cơ?

- Thằng bé ở chung với cậu đấy.

- Vâng.

Hải “vâng” nhỏ. Chàng thấy không có điều gì cần cẩn thận với đứa bé con. Chàng hỏi:

- Bác năm nay được bao nhiêu?

- Sáu mốt cậu, chết đến nơi rồi. E hừm.

“Vậy mà sợ đứa nhỏ”, Hải tính nói, lại thôi. Hay là cảnh cáo ông Sâu Róm chỉ là căn bệnh thích như thế của những tâm hồn già? Chợt có tiếng gọi:

- Này bác Sâu Róm ơi!

Người thanh niên đứng me mé trên tấm ván, nháy nháy mắt với ông Sâu Róm. Ông ta bảo khẽ:

- Thằng Thịnh đấy, nó có cái gì cho ăn rồi. Cùng làng tôi cả.

Vẻ mệt nhọc của Sâu Róm biến mất, ông ta nhỏm phắt dậy, kề tai Thịnh nói nhỏ, xong hất hàm ra dấu Hải đi theo. Ba người đi hàng một vì lối đi chỉ bằng dấu chân. Ra khỏi buồng, Thịnh nói:

- Về chỗ tôi chơi. Sát buồng anh đấy.

Thịnh được phân một mảnh vuông ngay góc buồng. Có lẽ mỗi buồng chỉ có bốn góc sát vách là riêng biệt “kín đáo” nhất. Vợ Thịnh chờ ba người ngồi xuống, kín đáo giở cái khăn đậy đĩa bánh tráng cuốn, Sâu Róm ầm ừ:

- Nhất vợ chồng nhà này đấy nhé. Cái Hà đâu?

- Nó về ngay đấy.

Thịnh đáp, bảo cái Hà là em tôi. Vợ Thịnh cầm một cuốn trao cho Hải, chén nước mắm có dầm cả ớt đỏ coi sâu sắc giàu mạnh như xã hội chủ nghĩa.

Sâu Róm móm mém nhai, hỏi:

- Vợ chồng mầy kiếm đâu ra của tiểu tư sản nầy?

- Ông lại trêu, bộ tiểu tư sản mới có đồ nầy sao?

Thịnh nhai nuốt nhồm nhoàm, vẻ tự tin và hưởng thụ. Thịnh du học ở Tiệp Khắc, đỗ kỹ sư công nghiệp. Về nước thấy đời sống càng tệ hại khi so sánh với Tiệp Khắc, anh chán nản lấy vợ, vẫn cứ chán, quyết định dắt theo cô em gái mười tám tuổi vượt biên. Thịnh hỏi gia cảnh Hải, cắn một miếng cuốn chia buồn, rồi bảo:

- Cái giá của tự do là thế. Cơ bản mà nói vinh quang nào không trả bằng xương máu.

- Mầy bảo thế này là vinh quang à? Sâu Róm há mồm cự, thức ăn còn mắc ở nướu răng.

- Cái gì cũng tương đối thôi. So với bác ngày xưa, cái nầy không vinh quang là gì.

- Ừ phải. Nhưng tao chỉ nông nỗi vì cái thời buổi chó chết này thôi. Ngày xưa tao đâu đến nỗi.

Thịnh đã ăn xong, rút cái khăn treo trên vách chùi mép, bảo vợ pha chè, nói:

- Nói như bác thì còn nói làm gì. Cháu hỏi: thế không có bọn người...như bác, xin lỗi bác nhé, cháu không có ý nói bác đâu, thì nước ta đâu đến nỗi...

- Mầy đổ lỗi...

-...điển hình là Tiệp Khắc ấy, cũng cộng sản như ai, mà nhân dân có khổ như ta đâu.

- Mầy chỉ nói xàm. Tao làm gì mà lôi kéo vô cái tội tày đình ấy. Nói có cậu Hải đây, tôi chỉ là thằng già vô dụng.

- Chính vì thế. Thịnh vỗ tay. Bác tự cho mình là vô dụng, chứ nào phải thế. Cộng sản nó thắng là bởi những người tự cho mình vô dụng.

Sâu Róm đỏ mặt, cười gằn:

- Mầy hay. Thế mầy làm gì được nào? Cũng chạy như tao thôi. Chống đối tiêu cực đấy.

- Đúng thế. Nhưng cháu biết mình sai ngay từ đầu, chứ như bác, mãi...mới biết mình sai. Thế cứ như cải cách ruộng đất đấy, sai rồi sửa sửa rồi sai. Khối người chết.

Sâu Róm tợp ngụm nước, không muốn cãi lý với Thịnh nữa. Trọn đời Sâu Róm chỉ có thần tượng Hồ Chí Minh. Sâu Róm đi theo con đường của Bác, tiến nhanh tiến mạnh xuống vực thẳm. Dù thế, Sâu Róm không bao giờ muốn chối bỏ thần tượng của mình. Bao nhiêu tội lỗi Sâu Róm đổ cả lên đầu hậu duệ của Bác. “Nếu bác còn sống, nhân dân ta đâu đến nỗi nầy”, Sâu Róm lý luận và cố gắng tin như thế để khỏi thấy uổng phí cả đời tin vào huyễn tượng của mình.

Thịnh bồi thêm:

- Cả đời bác, có bao lần ăn được một bữa như thế này nào. Cái đích của con người là cơm áo mặc trước đã, sau đó mới đến cái gọi là tinh thần. Bác cứ đi ngược.

Thịnh mò tay vào túi móc ra đúng ba điếu Marlboro. Anh học cái mốt hút Marlboro của thanh niên Hồng Kông mau chóng. Có lẽ nhờ cái màn ảnh nhỏ trong trại thường xuyên loại thuốc lá nầy. Hải ngạc nhiên:

- Làm sao anh có được?

- Cứ có tiền là có hết à. Nhờ mấy thằng A Cố đấy.

Vừa lúc đó một cô gái bước lên ván, tay xách đôi dép nhựa mới toanh. Cô khe khẽ đi men theo vách. Thịnh bảo:

- Chừa phần cho em đây. Đi đâu lâu thế.

Sâu Róm như thoát nợ bị Thịnh hạch tội, nói:

- Cái Hà diện đẹp nhỉ. Anh em nhà mầy lại tiểu tư sản.

Hà khép nép gật đầu chào Hải, ngồi xoay mặt vô vách ăn cuốn. Trái tim Hải thắt lại một khắc trước vẻ đẹp lộng lẫy của Hà. Vẻ đẹp của một bông hoa vừa nhú, mơn mởn như loại trái vừa ươm hồng. Bộ bà ba sạch sẽ của Hà nổi bật lên giữa những người còn mặc áo quần đem theo từ Việt Nam. Thịnh nói:

- Bác lại thành kiến. Của Cao ủy cho nó đấy.

Mái tóc Hà lắc lắc về phía Hải theo động tác lên xuống đang ăn. Khói thuốc phả trắng trước mặt Hải, lờn vờn cái lưng cong của cô gái. Cô gái đã ngốn hết mấy cái cuốn, kín đáo chùi mép rồi mới quay lại. Đôi mắt đen không lớn quá, nhìn phớt qua Hải, mỉm cười. Hải thấy lòng chao động thật sự. Chàng vờ nhìn tách chè nhưng lạ lùng thay trong màu nước sóng sánh ấy chỉ thấy chiếc mũi thon nhỏ, đôi môi hồng của cô gái. Hải tự mắng mình: “Rõ khéo, lại...tiếng sét ái tình à. Đâu có dễ thế được”. Hải châm trà từ cái ca nhựa, cố lấy vẻ tự nhiên bằng cách uống ngụm nước đắng. Chàng đặt cái tách xuống, đôi mắt chợt nhìn đúng vào chiếc nhẫn cưới còn đeo tay. Hải đã giữ nó suốt cuộc hải trình. Cái kỷ niệm giữa chàng và Thu. Nỗi ngậm ngùi về người vợ thủy chung xấu số. Những đêm giông bão. Những vì sao vỡ nước trên trời...

Thịnh thình lình hỏi em gái:

- Thế em có biết chừng nào khai trường không?

- Các anh ấy bảo chắc tuần tới. Anh là hiệu trưởng lại hỏi thế.

- Em có được học không?

Hà lắc đầu:

- Em nhớn thế này. Hai anh ấy bảo nhiều lắm chỉ đến lớp 9.

Sâu Róm hỏi:

- Thầy cô giáo sắp xếp như thế nào?

- Cháu nghe còn thiếu thầy phụ trách bộ môn nhạc thôi.

Thịnh reo lên:

- Thì thầy Hải đây này.

- Vậy cơ. Hà cũng reo lên.

- Tôi chẳng hiểu gì cả. Hải nói.

Thịnh giải thích:

- Có hai anh ở nước ngoài về làm thiện nguyện ở trại này. Họ phụ trách công tác giáo dục, kêu gọi bà con cho con em đi học, sắp đặt giáo viên. Coi cũng xôm trò lắm.

Sâu Róm bàn ngang:

- Học với hành gì, sống như thế này.

Hà cãi:

- Bác cứ bảo thế, các em nó bớt nghịch cũng hay chứ, phải không anh...Hải.

- Học được là một vận hội. Hải tiếp ứng.

Sâu Róm nhìn Hải:

- Tôi...đồng ý giá trị của học vấn. Nhưng trong hoàn cảnh thế này tôi chẳng thấy sẽ có vận hội gì...

Hải nói:

- Chỉ sợ người làm công tác giáo dục không được khích lệ và đánh giá đúng mức vai trò của mình.

- Ừ thế, làm công tác văn hóa mà lại.

- Bác nói sao?

- Thì giáo viên là người có văn hóa, đem văn hóa...

- Không...hẹp như thế đâu bác. Hải cắt lời Sâu Róm. Giáo dục chỉ là một trong nhiều khía cạnh của đời sống, văn hóa không phải chỉ có giáo dục.

- Cậu nói sao lạ. Tôi lấy thí dụ nhé: trong tờ khai sơ yếu lý lịch của mọi người, có câu “Trình độ văn hóa”, vậy chứ cậu ghi làm sao ở đấy?

- Cháu sổ toẹt. Trình độ văn hóa mà ghi lớp mấy, hay trình độ đại học, văn bằng vân vân thì hẹp hòi quá. Đi cày cũng là văn hóa vậy, thậm chí, xin lỗi bác, đi ỉa đồng cũng là văn hóa...

Thịnh cắt:

- Ông nói tôi nghe được đấy. Nhưng thôi, để khi khác. Tôi phải đi họp với anh em buồng trưởng.

Thịnh đứng dậy trong khi Hà cứ cười rúc rích khiến Hải bỗng dưng ngượng vì câu nói... “văn hóa” của mình. Chàng chào Hà với vợ Thịnh, đi qua buồng bên cạnh tìm Dũng. Đợt chuyển trại chỉ có Dũng là quen biết, Phú kèn còn ở lại, nghe nói sẽ chuyển về Chi Ma Wuan. Riêng Mân, có lẽ còn ở Thanh Châu. Hải không hiểu cùng chung thuyền mà bọn chàng bị cắt đi làm nhiều mảnh.

Tiếng loa sắt gắn đầu buồng đọc tên người dồn dập, rộn ràng.

11

Người đàn ông ở nước ngoài về làm ở trại trạc khoảng bốn mươi. Nước da ngâm ngâm lầm lì, môi lúc nào cũng mím lại như một thói quen. Con người ấy thoạt trông như có điều gì bí mật trên khuôn mặt nghiêm trọng, hoặc giả thì phải khoác bộ mặt nghiêm trang ấy để che đậy một sự bối rối trong lòng. Hải gặp ông ta lần đầu ở căn phòng phía sau niệm Phật đường. Ông ta tự giới thiệu là Bổng, làm cho Quốc Tế Xã Hội Vụ, tức International Social Service. Bổng nói năng thiếu mạch lạc, chuyện gì cần đào sâu thì ông ta nói phớt qua, chuyện gì nhỏ nhặt thì lại bàn kỹ. Tuy trả lời các câu hỏi của giáo viên khá trôi chảy, nhưng dường như ông ta thuộc loại người không phải sinh ra để quyết định (có thể Bổng quá cẩn thận chăng?). Dù sao Hải cũng công nhận thiện chí của Bổng khi một tuần ông ta vào trại hai hoặc ba ngày, những ngày kia làm ở trại khác. Bổng mang nhiều loại sách giáo khoa in ở Hà Nội, một số in ở Hoa Kỳ. Hai loại sách giáo khoa này khiến giáo viên nhức đầu không ít vì không biết nên theo loại nào. Hải xin phép Bổng tự biên soạn chương trình dạy theo ý muốn. Phần thưởng mà Hải cho đáng nhất là chàng có thể xuống khu trường học nằm cách các buồng một hàng rào. Khu trường học có cây cối, hàng rào vây quanh sát nhà dân để thỉnh thoảng Hải có thể thả mắt qua hàng rào kẽm gai, xuyên qua kẽ hở của những tấm sắt đen nhìn một ngách đời sống của người bên ngoài cho thơm lây cái tự do thèm muốn và ước vọng. Trong tình cảnh chờ thời và dạy học như thế, Hải nhận được lá thư của Phú kèn từ trại Chi Ma Wuan do Bổng đem vào.

“Bạn thân mến của tôi.
Đến nay, do có điều kiện thuận lợi tôi viết thơ này cho bạn. Đầu thơ tôi chúc bạn được bằng an, mạnh khỏe và công tác tốt.

Sau gần một tháng ngày bạn đi, tôi mới được kêu chuyển trại. Tôi mừng vô cùng vì nghĩ cái trại sắp tới đời sống chắc không đến nỗi nào. Trước khi tôi đi tôi có động viên cái Mân nhưng coi bộ không ăn thua gì. Bạn biết không, từ ngày vào trại nó cứ lầm lầm lì lì không nói năng gì cả. Người ta cứ trêu nó là Mân điên nhưng tôi không muốn tin như thế. Để mình kể tiếp: Sau đó tôi ra tàu cảnh sát, nhìn qua bên phải thấy thành phố cảng đẹp ghê hồn bạn nhỉ. Ai dè bạn biết không bọn tôi bị chở đi hướng...trái, nghĩa là chỉ thấy núi và biển Hồng Kông càng lúc càng xa. Tôi tưởng bị trả về Việt Nam chứ. Nhiều người cũng tin như thế nên đã rục rịch triển khai một phương án đối phó. Rất may là bọn tôi chưa kịp hành động gì cả thì tàu đã cặp vào một hòn đảo lớn. Đảo đẹp vô cùng bạn ạ. Tôi cứ ước được đi dạo một vòng trên ấy thì có chết cũng thỏa. Vợ tôi thì ói mửa mật, nó không quen đi tàu cao nhanh như tàu cảnh sát. Riêng có cháu bé thì không hề hấn gì.

Bọn tôi đi bộ từ cầu tàu đến trại mất mười phút. Trại nằm sát biển, một bên là núi. Tôi ở cái trại dưới chân núi tên là Chi Ma Wuan Hạ, một số người đi lên trại trên gọi là Chi Ma Wuan Thượng. Lúc bọn tôi đến, cũng có một số người từ hai trại Chi Ma Wuan chuyển vô đất liền. Chúng tôi hỏi mới biết bọn người này đến trước ngày 16 tháng 6, họ được chuyển qua trại tỵ nạn. Tôi gặp một số người quen trong đám này. Bạn nhớ Sơn gù không, tay chơi bass có thời ở đoàn mình. Nó đi ngược hướng mình, thấy tôi nó nhào ra ôm đại bị một tay ở Cục Cải Huấn gõ ba toong lên đầu. Nó gửi lời thăm bạn và chúc bạn phấn đấu tốt. Nhìn Sơn gù tôi thấy tủi hổ cho thân phận bọn mình. Tôi còn gặp một số gái mù được người khác dẫn đi trong đoàn Sơn gù (Tôi biết điều đó vì nghe bọn chúng bàn về cô gái khi đi ngang qua). Tội nghiệp, không biết cô ta làm gì qua đây, vì đôi mắt như thế thì ở đâu mà chẳng vậy, có thấy đời là cái quái gì đâu!

Hải ạ! Tôi kể cho bạn nghe những sự cố nhục nhã đã xảy đến cho vợ chồng tôi. Lòng tôi đau đớn vô cùng khi nghĩ đến điều này, có lẽ tương lai tôi cũng xin về Việt Nam thôi.

Vợ chồng tôi được buồng trưởng bố trí cho ở trên một giường sắt ở tầng thứ ba. Buồng này nằm phía hướng biển, đêm đêm tôi có thể nhìn thấy những chiếc thuyền lơ lửng bên ngoài. Qua ô lưới rào, tôi hình dung cảnh sống tưng bừng ngoài kia rộn rã biết mấy. Có lẽ tôi đã sinh nhầm trong một cộng đồng thiếu văn minh, vị kỷ, bè phái và thậm chí còn dã man nữa.

Ban trật tự ở đây quy tụ toàn bọn đầu gấu, du thủ du thực. Bọn chúng cấm hút thuốc trong buồng. Tôi bị một thằng bắt đứng kiểu cò bay một chân, hai tay giơ ngang, rồi bắt một lúc phải hút tám điếu thuốc cho đến ngất đi vì lỡ dại hút lén điếu thuốc xin bọn A Xòe trong phòng. Một đêm vợ chồng tôi đang ngủ, cháu Ly nằm giữa, tôi nằm ngoài. Một thằng đầu gấu, cũng cái thằng bắt tôi hút tám điếu thuốc một lúc, hắn tên Minh, leo lên giường. Hắn gí dao vào lưng tôi, bắt nằm day mặt ra ngoài, rồi...hắn làm chuyện đó với vợ tôi. Tôi không thể nào kể tiếp, tôi khóc đây...

Bọn đầu gấu đánh đập tàn nhẫn những người dám kháng cự. Bọn chúng muốn lấy gì của ai là lấy, chính thằng Minh này đã hiếp gần tám chục , tôi nói tám chục cô gái nhẹ dạ khi mới chân ướt chân ráo vào trại. Nó bảo “Ngủ với anh đi rồi anh cho định cư”. Những người mới đến tưởng hắn là quan chức gì quan trọng vì hắn nghênh ngang trước mặt bọn A Xòe la hét, khi vỡ lẽ ra chỉ đành ôm hận mà thôi. Chính bọn Quản giáo A Xòe cũng khối đứa làm chuyện đồi bại đó. Cả trại ở trong không khí bàng hoàng sợ hãi, sự khủng bố đã lên cực điểm. Chúng tôi không có một thể chế nào bao che, những người dân mất nước ngậm nước mắt trong trái tim rỉ máu. Vợ chồng tôi cũng sống trong bầu không khí kinh hoàng ấy. Chúng tôi cùng ngượng ngập không muốn nhìn nhau. Lỗi tại tôi, một thằng chồng đớn hèn không bảo vệ nổi vợ mình, một thằng đàn ông ăn hại đái bát, tôi đã quá lo bảo vệ mạng sống bèo bọt của mình. Tôi...
Có phải chính chế độ cộng sản đã sinh sản những đứa như thằng Minh không, đã sản sinh những con người hèn như tôi, suốt cuộc đời không dám kháng cự, suốt cuộc đời không dám ăn ngay nói thật, chỉ biết cúi đầu cam chịu, đến khi chết, có lẽ cái hèn đó cũng không buông tha mình, nó theo mình xuống địa ngục, để nếu đầu thai làm người Việt Nam nữa, cái hèn nó sẽ đi theo. Tôi đã muốn tự tử là việc can đảm nhất của người hèn, ấy thế mà tôi làm cũng không được. Tôi sẽ bỏ cháu Ly lại cho ai?

Tôi viết thơ về nhà dặn đừng ai đi nữa. Chẳng thà sống trên đất nước mình, dù lắm điều xấu xa đê tiện nhưng những xấu xa đê tiện dù sao cũng được rải mỏng trên toàn đất nước, chia đều ra thì mỗi người chỉ chịu một ít mà thôi, còn ở đây mọi điều xấu tập trung lại trong một vuông đất nhỏ hẹp, cứ như là tinh hoa của bọn xấu đã qui tụ về đây, nổi bật sau hàng rào sắt và kẽm gai.

Tôi đã làm đơn tình nguyện xin về Việt Nam. Trong thâm tâm tôi, Hải ạ, vẫn nghĩ nếu được đầu thai làm kiếp khác thì tôi vẫn muốn là người Việt Nam. Tôi thèm bát canh rau dầm cà, tôi yêu những con đường dài lặng lẽ, tôi yêu nỗi buồn phiền, cái buồn buồn của cỏ cây xứ mình.

Tôi chúc bạn một lần nữa phấn đấu hoàn thành công tác tốt trên bước đường tìm tự do. Phần tôi, định mệnh đã an bài.

Chào bạn thân của tôi.

Phú kèn”

Nộp lá đơn xin hồi hương xong, Phú kèn thấp thỏm chờ đợi. Gã hình dung ngày vợ chồng gã bế con mặc áo rách về làng. Tất cả vốn liếng vay mượn, dành dụm của Phú kèn đã tiêu ra cho chuyến đi. Hàng xóm sẽ cười khinh miệt kẻ thất bại là gã, sẽ cho gã là ngu xuẩn khi lại xin về một nơi ai cũng muốn đi. Gã sẽ sống ra sao trong hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy. Nhà nước sẽ không bao giờ tha thứ cho những người như gã, kẻ phản nước, phản dân, chạy theo bã phồn vinh giả tạo. Gã là tên Việt kiều lỡ vận, thành thế ai mà thương xót kẻ cùng đường ấy!

Phú kèn hình dung một ngày mai cực kỳ đen tối và đau nhức. Gã trăn trở, không còn thấy một lối thoát nào nữa. Buổi sáng, Phú kèn qua buồng kế tìm ông kịch tác gia Lê Khắc cố vấn. Lê Khắc là con người trầm tĩnh và kín đáo. Ông đi một mình, vợ đã lấy chồng khác trong thời gian ông bị tập trung cải tạo ở Thanh Phong, Thanh Hóa. Khi khai lý lịch ở nhà giam, Lê Khắc ghi:

Họ và tên: Lê Khắc.
Bí danh: không.
Nghề nghiệp: Việt gian
Tội danh: (để trống)
Trú quán: vô gia cư
Nguyên quán: vô tổ quốc
Tình trạng gia đình: vô gia đình
Trình độ văn hóa: vô văn hóa

Công an chấp pháp đập ông một trận, lột mắt kiếng bẻ làm đôi, bắt khai lại. Nhưng Lê Khắc trước sau vẫn như một. Được thả sau 20 tháng cầm tù, Lê Khắc vượt biển, cái mắt kiếng gãy được ông ta chắp lại bằng keo, dính lỏng lẻo trên sống mũi. Ông lê la các buồng an ủi nạn nhân của bọn đầu gấu, trong đó có Phú kèn. Lê Khắc kể cuộc đời của ông ta cho Phú kèn nghe, bảo:

- Cậu biết nhục thì còn lương tri.

Ông ta gỡ mắt kiếng cận, chỉ vào chỗ gãy:

- Chừng nào chân lý bị bẻ làm đôi thì ta phải sống để hàn nó lại.

Lê Khắc khinh miệt bọn đầu gấu ra mặt. Chúng tức lập kế đánh ông một trận nằm liệt giường ba ngày. Ngày thứ tư, ông bảo những người tới thăm:

- Chân lý còn bẻ đôi, ta còn sống.

Ai cũng nghĩ Lê Khắc thuộc loại người gàn. Riêng Phú kèn nể tư cách ngạo nghễ của ông, biết người như Lê Khắc ôm hoài bão lớn. Đang đọc sách, thấy Phú kèn đến, ông bảo:

- Ngồi đó, kẻ sĩ của thời đại trại giam. Tôi sẽ dắt cậu vào lịch sử.

Lê Khắc gấp cuốn sách bằng chữ Tàu lại, lấy cọng kẽm làm dấu chỗ đọc dở, nói:

- Cậu biết đây là cuốn gì không? Ông trì ngón tay lên bìa cuốn sách đọc: “Thống Sử”, những gì mà chính sử không chép thì nó nằm cả ở đây. Truyện chép thời nam Tống, vua thì u mê, quan thì gian ác. Tôi đọc mà cứ ngỡ là thống sử thời đại ta vậy. Cậu nghe cái đoạn nầy, một quan nha mắng một quan nha, tôi chỉ đổi ít chữ thôi nhé:

“Muốn làm lãnh đạo giỏi thì trong tự điển lãnh đạo không có chữ nào gọi là lương tâm, phải gạt liêm sỉ, tập thói hung ác, xúi bọn giàu làm xấu để bắt chúng nộp tiền chuộc mạng, đứa nào chống thì đánh kỳ chết, đày lên rừng thông nước độc, đứa nào theo thì bắt chúng nạp vợ làm tin. Lãnh đạo giỏi mà còn chút lương tâm, liêm sỉ thì chỉ trị được nước trong thời bình, thời loạn ắt bị lật. Ấy là nguyên tắc của phép ngồi trên ăn trước. Lãnh đạo giỏi phải biết lật sấp lương tâm mà cai trị. Thế mới là thức thời”

Lê Khắc vỗ tay cười lớn. Chưa bao giờ Phú kèn thấy ông cười như vậy. Bình thường ông kín đáo, vầng trán nhăn nếp suy tư. Cười xong, Lê Khắc nói giọng trầm ngâm cố hữu:

- Cậu làm đơn xin về đấy à

- Anh cũng biết?

- Cậu quên tôi là nhà báo hả. Vả lại, bà con trong này biết nhau nhất cử nhất động. tôi hỏi thật: Cậu về vì cái vụ đó hay vì con đường mờ mịt.

Phú kèn qua để tìm người tâm sự, không dè được Lê Khắc mở lời trước. Gã đáp:

- Cả hai anh ạ.

Lê Khắc chế nước lạnh đun sôi từ ca nhựa ra chén. Cử chỉ thận trọng, mời Phú:

- Uống tí nước. Cả hai, hừm, cả hai. Cậu về nước thì làm nên trò trống gì?

- Em qua hỏi anh việc đó.

- Cậu mau quên nhỉ. Thế cậu đi làm gì. Đói quá đi à, tôi chắc cậu không phải loại đó; thấy người ta đi mình cũng đi, cũng không phải; đời sống trong nước khó thở, không phải nốt, khó thở chứ không phải không thở được. Trả lời tôi, thành thật nhau nhé.

- Em chỉ muốn ôm cái kèn thổi những gì mình muốn. Em biết mình mất tất cả nếu ở đây hay trở về. Nhưng đằng nào cũng là quê mình mà anh.

- Cậu tự suy nghĩ lấy. Không ai cho mình chân lý. Cậu hãy “lật ngửa tư duy” ra mà trăn trở, tìm tòi. Với tôi, dứt khoát là không về, dứt khoát cũng không ở lại đây.

Vài hôm sau, Lê Khắc đi tìm Phú kèn. Hai người ra đứng bên hàng rào, tì tay vô ổ lưới nhìn những hòn đảo mờ sương xa xăm ngoài biển. Ngay trước mặt họ là bãi cát gồ ghề đá. Một chiếc thuyền con đang neo vào bến đậu chờ khách, Phú kèn gợi:

- Hôm qua em thấy anh trả cuốn “Thống Sử” cho A Xòe.

- Ừ, tôi đã đọc xong.

- A Xòe có vẻ trọng anh.

- Cậu nghĩ thế? Bọn nó vẫn coi dân mình bằng một phần tư góc mắt. Một lũ hèn hạ ăn nhờ ở đậu, chạy trốn, mất phẩm giá. Thật không gì tàn mạt hơn nữa.

Bầy chim hải âu nhảy tung tăng trên bãi biển. Lê Khắc lưỡng lự hồi lâu mới nói:

- Tôi dứt khoát trốn trại. Điều này chỉ một mình cậu biết.

Phú kèn bàng hoàng một giây. Người đàn ông đứng tuổi nầy không đùa giỡn bao giờ:

- Anh trốn đi đâu?

- Ra ngoài Hồng Kông, tìm đường đến nước thứ...

Lê Khắc im bặt khi nhận diện một tên trong bọn đầu gấu đi lại. Hắn mặc áo ba lỗ bỏ vô cái quần bò chặt cứng, đầu sùm sụp nón tai bèo. Đôi mắt sau vành nón của hắn khiến Phú kèn run bắn. Lê Khắc bảo:

- Mát nhỉ. Giá gì tắm biển được thì nhất.

Tên đầu gấu đi thẳng. Phú kèn thở ra nhè nhẹ, hỏi:

- Làm sao anh sống được ngoài Hồng Kông?

Lê Khắc trầm ngâm:

- Tôi biết không đơn giản. Nhưng hề gì, tôi còn sống được trong “bao tải” ở Thanh Hóa, tôi tin là Hồng Kông sẽ khá hơn “bao tải” cậu ạ.

- Mà anh làm gì mới được chứ?

- Vốn liếng của tôi chỉ còn cái đầu. Ừ, để coi.

Lê Khắc lầm lì hoạch định phương án trốn trại. Ông đã dò hỏi, làm như chỉ vì tò mò, nhân viên Cao ủy và một thông dịch viên người Việt đến làm ở Chi Ma Wuan, con đường mà họ đã đến đây. Chỉ có hai ngả: một bằng tàu cảnh sát hay thuyền đi từ đảo Peng Châu, một đường bộ cắt núi (thấp) từ đường cái chạy đâu trên đảo này, đảo Lan Tau. Với khả năng đọc và nói tiếng Quan Thoại và Quảng Đông, ông lần dò hỏi thăm vài nhân viên Cải Huấn dễ tính về lối sống, cách sinh hoạt ngoài tự do. Lê Khắc đọc báo hằng ngày, tìm tòi và hình dung mạng lưới của xã hội Hồng Kông qua báo chí. Với đầu óc tinh tế và cực kỳ nhạy bén, ông từng bước hoạch định phương án trên cơ sở kiến thức thâu lượm được. Ông vững tin là mình sẽ thoát được hàng rào lưới, những cuộn kẽm gai lủng lẳng giăng bốn bề đến chim bay không lọt, và bốn trại canh ở bốn góc trại.

Từ khi biết ý định của Lê Khắc, Phú kèn ăn ngủ không yên. Gã thấy giống như chính gã sắp trốn trại vậy. Gã hình dung đủ thứ cực hình tra tấn man rợ mà bọn A Xòe và bọn đầu gấu sẽ dành cho Lê Khắc nếu ông bị bắt. Gã cứ đi giáp vòng hàng rào trại, túng quẫn như con gà bị nhốt trong chuồng. Hơi nóng từ một sân đổ bê tông bốc lên hừng hực, có khi gã thấy hoa mắt, e ngại nhìn những đứa trẻ bẩn thỉu đứng trốn nắng dưới mái hiên nước mũi chảy lò thò. Gã đi vòng vòng đến một hôm, cũng trưa nắng chang chang, Lê Khắc từ hướng kia đi lại chận đầu gã, bảo nhỏ:

- Vào chỗ tôi uống tí chè.

Những hộ ở buồng Lê Khắc tuyệt đại đa số là gia đình có con. Trẻ con, tuổi từ một tháng đến mười lăm làm nên một không khí náo động. Lê Khắc bảo:

- Cái Vân bên cạnh vừa ủng hộ ít chè tươi. Uống cậu, hừm...Buổi tối lắm lúc ngủ không được vì vợ chồng nó cứ lục đà lục đục. Con vợ biết điều thỉnh thoảng “chè nước” để tôi thông cảm.

Lê Khắc chỉ một thằng bé chừng mười tuổi, ngồi bên giường đối diện, hai mắt mở thao láo nói:

- Con cái Vân đấy. Người choắt lại vì tối nào cũng phải coi bố mẹ “làm việc”.

Ông thở dài nói:

- Hai mươi lăm phần trăm là trẻ con vị thành niên. Chúng được nuôi nấng trong hoàn cảnh đổ mồ hôi này. Khi lớn lên, nếu không bị bệnh tâm thần thì cũng thành kẻ bất thường, thậm chí cả bất lương nữa. Hỡi ơi!
Phú kèn đau đớn nhớ đêm nọ, cái Ly con gã bị đánh thức thình lình vì bàn chân đạp ra thình lình của tên đầu gấu. Con bé bật khóc the thé thấy bố mình nằm úp mặt một bên, còn mẹ mình nghiến răng chịu đựng. Con bé sẽ mang hình ảnh ô nhục của bố mẹ đến bao giờ? Lê Khắc cắt đứt dòng tư tưởng nhưng nhức của gã:

- Cậu suy nghĩ về việc rút đơn tình nguyện hồi hương chưa?

- Em chưa dứt khoát tư tưởng.

- Tôi không khuyên cậu điều gì trong hoàn cảnh này. Cậu thấy đó, số người lên thanh lọc về chỉ có ăn “cánh gà”. Cái cơ may được bao nhiêu phần trăm? Một! cho dù tôi ở trong số một đó đi nữa, tôi cũng không đi tiếp kiến.

- Sao vậy?

- Tôi chống lối làm ăn tắc trách phản động của chúng nó. Tôi không chấp nhận để người khác lục vấn tư cách của mình.

- Vì thế...

- Đúng.

- Anh sẽ nói cho thế giới biết!

Lê Khắc cười khinh miệt. Khuôn mặt xương xẩu toát ra nét dữ dằn ngạo nghễ:

- Thế giới! Thằng mù trong phim “Hà Nội trong mắt ai” đâu cần biết thế giới này. Cậu hãy cho thằng mù cái máy chụp hình để nó chụp thế giới này. Thấy gì? Tôi chỉ làm bổn phận của một con người lương thiện biết tự trọng. Tôi sẽ xử tử thế giới bằng sự tự do của chính mình, do mình chọn lấy, không ai khác. Cậu hiểu chưa?

Tiếng ca nhựa lóc cóc các dãy buồng. Mọi người lục đục lãnh cơm trưa. Phú kèn nói:

- Em phải về lãnh cơm cho cháu.

Lê Khắc nói:

- Cậu lãnh đi, qua đây ăn với tôi bữa cơm trại cuối cùng.

Một đứa bé nghếch đầu lên giường Lê Khắc:

- Chú đưa ca cháu lãnh giùm cho.

Lê Khắc đưa ca và thau nhựa cho đứa bé, ông khòm mình chổng mông trên giường, đầu chúi xuống vì thằng bé thấp quá với tay không tới. Cái mắt kiếng sút ra rơi đúng vào cái thau nhựa. Thằng bé cười:

- Chết chửa, chú khéo đấy, không lại không thấy đường thì khổ.

- Cám ơn cháu.

Lê Khắc đeo kiếng vào lại, chờ Phú kèn. Một chập thằng bé mang thức ăn về, nó khoe:

- Hôm nay không phải ăn cánh gà chú ơi. Đậu phụ cơ.

Phú kèn cũng vừa đến, gã báo:

- Phải bón cho cháu.

Hai người ngồi xếp bành trên giường. Phú kèn lo sợ ngó quanh quất:

- Anh làm sao...

- Cứ ăn. Đâu vào đấy cả rồi.

- Em không dám nói gở, chỉ nghĩ dại anh có mệnh hệ gì.

Khuôn mặt Lê Khắc nghiêm trọng:

- Phải, nếu tôi gặp chuyện không may, cậu giúp tôi điều này được không,

- Anh cứ nói.

- Cái giỏ xách của tôi đấy. Chút xíu nữa cậu cẩn thận lấy cái bao thơ tôi để trong đó. Nếu tôi chết...

- Xin anh...

- Chết là cùng chứ gì. Nếu tôi chết, cậu tìm cách gửi nó cho nhân viên Cao ủy. Lá thơ tôi viết bằng tiếng Anh. Còn không nghe tin tức gì của tôi thì cậu cứ giữ lấy nó làm kỷ niệm.

Phú kèn suýt bật khóc. Gã thấy như đang nghe một lời vĩnh biệt. Gã gật đầu lia lịa, mắt mờ lệ. Gã đút lá thơ trong bụng, không dám nói một lời từ biệt. Thình lình gã nói:

- Em không có gì, xin kỷ niệm anh vật quý nhất phòng thân.

Phú kèn lận trong túi ra chiếc nhẫn cưới. Lê Khắc lắc đầu cương quyết:

- Tôi hiểu lòng cậu. Giữ nó mà lo cho vợ con, tôi đã chuẩn bị đủ.

- Em biêt thế...

- Tôi dứt khoát không nhận.

Phú kèn cười méo xệch, gã thấy mình bỗng thông minh hơn ngày thường.

- Anh đừng vùng vằng thế kia, có thấy cái đám kia nó đang nhìn mình không. Em đi đây.

Gã bỏ chiếc nhẫn trong ca nhựa khéo léo, rồi tụt xuống giường đi ngay. Vài người tò mò nhìn vẻ xúc động của gã.

Lê Khắc bình tĩnh ngồi uống nước một mình. Ông xúc động trước tấm lòng của Phú kèn. Ông nhìn chiếc nhẫn vàng tây mỏng tanh nằm dưới đáy ca, lòng dào dạt cảm xúc. Nhớ sực ra thái độ bất thường của mình có thể gây chú ý, ông vờ lấy báo đọc. Những dòng chữ tàu nhảy múa. Chưa bao giờ Lê Khắc thấy mình thiếu tập trung đến thế.

Hoàng hôn đã xuống ngoài kia. Trời tối mờ, rồi tối hẳn. Lê Khắc nhập vào đám đông đang xúm xít quanh cái ti vi màu trong trại. Ông thương cảm những bộ mặt hốc hác đắm nhìn cái màn ảnh màu. Ông thương những kèn cựa thúc đẩy nhau. Chương trình cuối đang hồi gây cấn. Những cảnh làm tình lãng mạn, những nụ hôn kịch tính trên màn ảnh. Lê Khắc rời đám đông, đi dạo như ngày thường ông vẫn làm. Khuất một ngọn đèn cuối trại, ông rẽ ngoặt đứng trong bóng tối. tim ông đập thình thịch. Ông đã tập làm quen với phương án trốn trại hàng tối, nhưng sao đến lúc hành động ông vẫn không tránh khỏi sự bức xúc. Ông chăm chú quan sát cái chu vi hàng rào vuông nhỏ ông đã cứa sẵn nhiều đêm trước. Chợt một gã đàn ông đâu trong buồng gần chỗ Lê Khắc đứng đi ra. Gã ngó dáo dác nhìn ông tò mò rồi đi thẳng ra sân trại. Tim Lê Khắc thắt lại. Ông lại lắng nghe, sửa lại mắt kiếng. Tiếng trầm trồ từ đám người xem ti vi vọng lại. Ông cho tay vào túi lấy cái kềm nhỏ cắt thép. Cái kềm lao công khổ trí ông lấy cắp được của đám thợ từ bên ngoài vào trại làm việc. Lê Khắc lại nhìn trước nhìn sau, rồi từ tốn đi lại sát hàng rào nhìn ra biển như vẫn làm mọi đêm. Ông dùng ngũ quan để phán xét đằng sau. Ông cắt, cắt vòng một ô vuông nhỏ sát đất, rồi lại đứng lên trầm ngâm nhìn ra biển. Bỗng có tiếng hỏi từ xa:

- Chú Khắc chưa đi ngủ đấy à?

Hai đầu gối ông muốn quị xuống. Thực tình ông đã nghe tiếng hỏi này nhiều đêm rồi, người hỏi chỉ hỏi cho có hỏi, chứ đã quen mắt với cảnh thằng cha nhà...văn hóa khùng đứng một mình trong bóng tối. Chờ tiếng chân người hỏi đi xa, Lê Khắc lập tức cắt mạnh mẽ, gấp rút. Mồ hôi ướt rịn trán, ướt nhẹp tay. Lê Khắc cương quyết cắt lần cuối, nếu bị phát hiện ngay lúc này thì ông cũng tuôn qua lỗ chạy. Gã gác trại ở cái chòi canh ở góc trại sẽ đuổi theo, sẽ bắn. Mặc kệ, ông đã đến phút cuối, ông đã cưỡi lên lưng cọp.

Lê Khắc ngửa người đút đầu ra trước. Không gian bỗng như ngào ngạt trải vô bờ trên mặt ông, cái hàng rào cao vòi vọi. Ông trườn lưng, xương sống cào cào vào lề bê tông đau điếng. Hai chân đạp mạnh, ông đã lọt ra ngoài hàng rào trại. Lê Khắc bẻ lại chỗ cắt, cằn người theo vệt đen của một cây cao hướng ra biển. Ông nhìn vô trại một lần chót rồi cắm đầu chạy băng qua cầu tàu. Đến chân núi, ông hối hả leo lên. Chạy, chạy! Lê Khắc băng qua đá, lên dốc, xuống dốc...

Ông đã tìm ra con đường mòn dẫn vào trại. Đi cách con đường chừng một thước, ông giảm bớt tốc độ. Ông biết đường còn dài phải giữ sức. Vài căn nhà lá lưa thưa im như nghĩa trang. Ông thấy biển khi hiện ra xa xa khi biến mất lúc qua một gò cao. Ông nhìn thấy những ánh đèn chớp nháy của tàu bè. Ông đi miết, hai đầu gối bắt đầu mỏi. Nếu đúng hướng và chắc chắn là đúng hướng vì đây là con đường dẫn vào Chi Ma Wuan độc đạo, ông sẽ đến làng Bối áo chỉ non một giờ nữa. Tới ngã ba làng Bối Áo, ông rẽ phải để ra bến phà.

Quả đúng như Lê Khắc tiên liệu, những ngôi nhà tầng đã hiện ra sau một ngã ba. Ánh đèn trắng ríu rít sức sống trên sườn núi sau những ngôi nhà ấy. Lê Khắc sửa áo, bình tĩnh đi như người dạo mát. Một con chó sủa inh ỏi khi ông đi ngang một căn nhà lợp ngói. Ông đã đến một con đường tráng nhựa vừa đủ hai chiếc xe chạy ngược nhau. Những hàng quán bên đường đã đóng, ngọn đèn trước cửa hiệu vẫn còn mờ, những ngọn đèn nghiêng nghiêng buồn bã trong đêm khuya đìu hiu vắng vẻ. Ông đi ngang qua một chiếc xe buýt sơn vàng đậu nghỉ đêm bên đường. Ông thấy trơ trọi quá. Cái ông đang tìm đã có, nhưng là sự hiện hữu cô độc ly khách trên đường vắng. Không một ai xung quanh chia sẻ nỗi niềm của ông. Lê Khắc ngồi xuống một phiến đá, những hàng cây cao rào rạt, sương đêm ướt đẫm...

Ông ôm mặt khóc thổn thức.


12


Một tiếng “bịch” rồi “ối” la lên phía khoảng sân hẹp trước buồng. Con nít ríu rít chạy ra, người lớn ùn ùn nhào nháo. Gã quản trại Phòng Vệ Nhân Dân sắp sửa đá tiếp một quả vào mạng sườn của anh lạp-xạp liền ngưng bộ khi thấy bà con rần rần túa ra coi. Gã nạt:

- Vào hết trong buồng!

Gã rút chân về nhưng không phải để ngưng trò đánh đấm. Bất thình lình trong khi anh lạp-xạp đang dúi dúi cái đầu núp sau cán chổi, gã Phòng Vệ Nhân Dân trở người đánh cú “rờ-ve” chát ngay mặt anh lạp-xạp. Con nít rú lên:

- Ồ...ồ...!

Thịnh kéo tay Hải đang đứng coi, bàn:

- Chả có nghề, tớ cá với ông.

Hải nóng:

- Nghề mẹ gì, tại thằng kia không dám đánh trả.

Gã Phòng Vệ đánh trúng cú nữa, xí xố nói, cử chỉ hung dữ. Đám con nít reo hò chọc:

- Phòng Vệ Nhân Dân đánh nhân dân, Phòng Vệ Nhân Dân đánh nhân dân. Hí hí hí!

Gã Phòng Vệ giơ tay dọa đám con nít. Chúng thụt cổ, le lưỡi làm bộ sợ hãi. Gã vừa quay gót, chúng lại la đồng loạt:

- A Xòe, A Xòe, A Xòe ăn mười cục cứt.

Anh lạp-xạp vừa tức vừa xấu hổ, cũng bật cười. Anh ta ngước cái mặt đỏ lên, phân trần:

- Tôi chỉ lượm cái tàn thuốc dưới rãnh.

Đối với dân nghiện ngập thì nhựa thuốc lá còn mê ly rùng rợn hơn ngủ với đào chớp bóng. Hải đã thấy một anh lạp-xạp triển khai chức năng làm sạch của mình qua việc bắt “dế nhủi”. Anh ta đứng canh me ở đường rãnh thoát nước ở chỗ văn phòng trại. Ô kìa! Một tàn thuốc lấp lửng chảy ra. Đến một ngã ba, cái tàn thuốc nhập vào dòng thác cách mạng thứ hai từ hố xí chảy xuống. Để biểu diễn tình đồng rận keo sơn, cái tàn thuốc tán ngay vào một cục phân người đang lững thững trôi bồng bềnh. Anh lạp-xạp, tư duy kiểu tiểu tư sản hữu khuynh, dùng cái xẻng chận ngay cái tàn thuốc một cách chuyên nghiệp trong khi cái xẻng không đụng cục phân một ly. Anh ta nhìn trước nhìn sau tránh đôi mắt của bọn xét lại Phòng Vệ Nhân Dân, rồi nhanh như Mig 23 cúi xuống vớt cái tàn dư phản động cho vào tấm khăn tay cáu bẩn. Sau giờ công tác, anh ta tranh thủ phơi cái tàn thuốc, lật qua lật lại cho chóng khô. Thế là có một cữ rất phê. Với cái tinh thần triệt để khai thác tư liệu tiêu thụ có sẵn, anh lạp xạp cất kỹ cái bình thuốc lào vừa hút vì “nước đã thấm chất nicotin mà lị”. Lấy một cọng vải từ cái khăn gói tàn thuốc, anh ta nhúng vào bình nước chỉ hơi đen đen, lại phơi cọng vải cho khô trước khi tiêm cọng vải vào ống, bật lửa kéo một cữ nữa, xong, anh ta cất kỹ cái bình không thì có kẻ cứ xin đi “rửa hộ”. Anh ta giải thích:

- Nó rửa cái gì, cứ cho nước sạch vào thì mất cả mùi. Hút nhạt thếch chẳng ra cái thể thống nào cả.

Mà phải đâu chỉ có anh lạp xạp. Từ thượng tầng trí thức đến hạ tầng cơ sở đều đổ đốn ra một chất nhựa rất phê ấy. Cả Hải, bữa nào không kéo nhờ được một cữ, cữ cuối, có khi hút cả tàn vào miệng là người cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, lên lớp giảng bài mà như kẻ mộng du.

Mỗi lần Bổng vào là Hải lại nhận được một bữa thuốc. Ngoài cái đó ra Bổng còn làm công tác gửi thư. Cũng như phần lớn bà con khác, trong tập vở giáo án Hải luôn kẹp một lá thư viết sẵn. Chàng ngượng ngùng bảo Bổng “dán hộ” tem, có khi những lá thư không dán tem lên tới hàng chục nhưng Bổng cứ nhận. Hải biết là Bổng gửi giúp vì chàng nhận thư hồi âm của mẹ. Nét chữ run rẩy rất khó đọc của cụ làm Hải bật khóc. Cụ cứ ngỡ như thư Hải viết là mọi người đã tới Hồng Kông vô sự. Cụ viết: “Nhà ta quả còn phúc ấm, chẳng chóng thì chầy con của mẹ cũng thành Việt kiều”. Hải khổ sở vì sự hy vọng của mẹ. Chàng nhớ con nhớ vợ rạc cả người. Có hôm đang dạy lũ trẻ tập hát, Hải muốn chừng bỏ dở buổi dạy khi nom một đứa giống bé Ngọc không chừng. Đồng nghiệp đều có nỗi khổ tâm riêng nên chẳng ai buồn nghe tâm sự kẻ khác. Giữa mấy ngàn người xào xạc náo nhiệt, nỗi cô đơn đè nặng Hải như núi.
Nhưng dường như trời không khe khắt với riêng ai cả. Một hôm Bổng triển khai thêm một lớp cho khối mẫu giáo. Ông ta tuyển thêm giáo viên, nhờ Hải giới thiệu một người, Hải nói:

- Có cô Hà đang học giáo viên ở Hà Nội. Tuy chưa có kinh nghiệm nhưng nhiệt tình công tác lắm.

Lạ lùng là Bổng nhất trí ngay với đề nghị. Hà được Hải báo tin, cười nắc nẻ:

- Em không làm tốt là anh chịu cả nhé.

- Ừ, anh chịu.

Nhưng Hải không “chịu” vì Hà giảng dạy không được tốt. Chàng phải chịu những xầm xì bất mãn của đồng nghiệp vì tình thân của chàng và Hà đã không che mắt ai được nữa. Có người độc miệng bảo:

- Con bé ấy mới nứt mắt mà đã đứng trong hàng ngũ giáo viên. Cái ông Hải mê gái ấy, không có tươi mát thì rũ cả ra.

Hải tảng lờ như không. Chàng thấy mình được đền bù mỗi lần trông Hà đùa giỡn với lũ trẻ trong lớp. Nhưng Hà chỉ vui lúc ấy. Tan giờ, nàng tìm Hải bảo:

- Người ta nói em có gì với anh đấy.

- Kệ.

- Em không chịu đâu.

Hà vùng vằng, Hải mỉm cười:

- Em không chịu là không chịu người ta nói hay không chịu anh?

Hà chúm môi nói:

- Cả hai.

Hải nhìn khuôn mặt trắng hồng của Hà mà thốt nhiên rùng mình. Chàng hình dung nếu Hà đi một mình ở trại Chi Ma Wan thì làm sao giữ thân cho được. Ngay cả vợ Phú kèn có chồng bên cạnh mà còn bị làm nhục như thế. Trong một lá thư khác Phú kèn nói gã đã rút đơn xin hồi hương sau khi Lê Khắc trốn trại. Gã nói sẽ quyết tử ở lại đối đầu với Cục Di Dân. Cuối thơ gã chúc Hải bớt cô đơn và phấn đấu công tác tốt. Hải nhắc lại lá thơ của Phú kèn mà chàng đưa cho Hà đọc hôm trước, nói:

- Em không chịu cả hai thì Phú kèn nó chúc trật rồi.

- Thì mặc kệ anh ấy.

Vài ánh mắt soi mói ngoài cửa. Hải nghĩ thầm, thậm chí người mình với nhau mà còn khó cảm thông, nữa là người nước ngoài. Chàng gấp vở, chờ Hà ra cửa mới đi theo. Tiếng ô tô ngoài đường vọng lên ròn rã. Trại Argyle nằm sát bên một con đường lớn ở Cửu Long, chỉ khuất sau vài cây lớn. Khúc đường dẫn về phía trại khá thưa nên người ngoài khó lòng biết họ đang đi ngang một trại giam nạn dân. Cuối năm 1988, thuyền nhân vẫn tiếp tục đến Hồng Kông bất chấp thời tiết cực kỳ xấu và lòng hiếu khách tồi tệ của dân bản xứ. Con số bao nhiêu người bỏ mình trên biển không ai biết nhưng số người đến thì xuất hiện đều đều trên tờ nhật báo Anh ngữ lớn nhất ở Hồng Kông, tờ South China Morning Post. Ngày 1 tháng 12, tờ báo đăng hình một thanh niên đầu tiên được ra tự do. Người này đến trước ngày bắt đầu thanh lọc, đang ở trại tỵ nạn Pillar Point, hay còn gọi là Trại 46. Các trại được xếp là tỵ nạn đã mở cửa, người tỵ nạn tự do ra ngoài tìm việc làm. Dân chúng liền bày tỏ sự bất mãn vì cùng với tệ nạn xã hội - một điều không tránh được - họ cho là khối người đến trước ngày dứt điểm đang giành giựt công ăn việc làm của người bản xứ. Song song với việc mở cửa các trại tỵ nạn, chính quyền bắt đầu dựng thêm các trại giam. Những phương án đề xuất tìm địa điểm dựng trại đều gặp sự chống đối của dân chúng. Hai vấn nạn hàng đầu của Hồng Kông đã rõ rệt: năm 1997 (Hồng Kồng bị trả về thuộc địa) và nạn dân. Giữa tình thế sôi bỏng của một xã hội phú túc và hỗn loạn như thế, trại Argyle được lệnh dời trại qua trại mới, trại giam Đầu Bạc (Whitehead). Lúc đó là đầu năm 1989, Hải chuyển trại chuyến này.

Hải có thể nghe tiếng sóng biển thật khẽ trong những đêm khuya vắng. Tiếng động khe khẽ nhẹ nhàng ấy vỗ về tâm tư Hải, hình ảnh ngôi nhà ba gian và một cái dãi nước lờ đờ đục sau hè, những ngày Hải vừa chập chững lớn, chạy loanh quanh sân sau, nhìn nắng chiều chiếu một nửa thân cây chuối và nghe tiếng gà gáy xa xăm u uẩn. Hình ảnh ấy ăn sâu trong tâm khảm, khi khôn lớn đi lang bạt giang hồ, Hải ôm đàn hát thầm, nước mắt ứa lặng lẽ mỗi lần hát “Ngày trở về” của Phạm Duy.

Ngày trở về
Anh bước lê
Trên quãng đường đê đến bến lũy tre
Nắng vàng hoe
Vườn rau trước hè chờ đón người về
Mẹ lần mò
Ra trước ao
Nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ
Tiếc rằng ta
Đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ...

Hải lui về một hình ảnh có sẵn. Chàng hình dung người mẹ quơ tay lần mò ra ao, thân hình mẹ run rẩy. Chàng khóc vì bài hát bao lần, những khi ngồi một mình, những khi chiều tà hoang vắng, những đêm buồn gió rít ngoài cửa, hay ngay cả những đêm giao thừa nghe đì đùng pháo nổ xa xôi. Hải nghĩ cả cuộc đời nghệ sỹ của chàng cũng sẽ không bao giờ làm được một lời ca tài hoa như vậy. Chàng biết sẽ chẳng bao giờ có một ca khúc làm chàng xúc động với những hình ảnh tràn ngập như thế, như mọi hình tượng ấy đã dàn dựng sẵn trong hồn.

Chàng cho rằng một nghệ phẩm thành công không phải chỉ vì nó dựng lên được hình tượng trong lòng người, mà thực ra nhờ nó khơi được một cảnh sắc có sẵn, một âm thanh ngự đâu đó trong lòng tha nhân. Khi hình và thanh trú nơi người được khuấy lên do tác động của tác phẩm, người nghệ sỹ đã thành công, thành công không phải vì hắn đã truyền được bản chất rất riêng của hắn qua những kết cấu hữu cơ, mà vì đã đánh thức được nhiều (hay chỉ một) hình tượng trong lòng người thưởng lãm, đã từ lâu ấp ủ, đã bao ngày yêu dấu, hay thậm chí đã quên mất rồi vì những phồn âm tạp cảnh giăng bít ngõ đời.

Hải nghe tiếng sóng thật khẽ. Mẹ chàng sẽ níu áo con trong một chiều tà nào đó, có nắng vàng rơi trên bụi chuối sau hè. Chàng nghĩ Phạm Duy đã làm tuyệt vời lời ca vì thể hiện được hình ảnh đẹp nhất của người mẹ là sự lặng lẽ, lặng lẽ cực kỳ mà cũng sinh động cực kỳ. Chỉ “nắm áo” và “lần mò”, mẹ không nói lời nào cả. Nhưng thế, đã đưa cái động của mẹ hòa vào nỗi hàn tĩnh mịch của chiều vàng hiu hắt nắng.

Thơ đạp nhẹ vào chân Hải, ú ớ cơn mê. Chàng và Thơ nằm trên tầng thứ ba. Có một khoảng không quý báu từ giường gỗ lên trần nhà. Hai tầng dưới cao chỉ vừa đủ cho người lớn ngồi. Hải phải tấn mấy cái thùng giấy đựng mì gói nơi mép phòng vì sợ Thơ mê ngủ lăn xuống đất như hôm có thằng bé rớt từ tầng ba xuống vỡ óc. Thơ lại ú ớ: “Bà...bà...bà cho cháu cái đó đi”. Chàng nghiêng mặt nhìn thằng bé. Nước dãi đọng một bên má nó ướt nhẹp. Khuôn mặt nó như quắt lại sau tiếng mớ. Thình lình, nó hét lên lanh lảnh, cái mồm xéo xệch gọi: “Bố...bố”. Hải thảng thốt khi thấy đôi mắt nhắm nghiền của nó ươn ướt nước. Bên ngoài, trời he hé sáng.

Có tiếng kêu ơi ới từ hàng rào phân trại B. Tiếng trả lời oang oang bên phân trại Hải. Hai trại chỉ cách nhau cái hàng rào lưới, sáng sớm nào cũng có tiếng gọi ơi ới như thế. Người bên này vừa đánh răng ở vòi nước sát hàng rào vừa trao đổi. Người kia bảo:

- Mày tranh thủ qua bên này chút đi.

Bên này:

- Qua sao được.

Bên kia:

- Hôm nay anh Bổng vào đấy. Nhờ anh ấy dẫn qua.

Bên này:

- A Xòe khó lắm.

Bên kia:

- Tao biết mà. Thì cứ canh lúc nào “cú lường” đổi ca hẳn qua. Tao nhờ anh Bổng xin mày qua tham quan trường học.

Gần tới trưa Bổng vào. Hải thấy Bổng trình giấy ở cổng, đeo ba lô lầm lũi bước. Ông ta đi với một cô gái nhỏ nhắn, vừa đi vừa vẫy tay chào mấy người quen đứng dán mắt vào hàng rào. Có chị giáo viên hồ hởi hỏi vọng ra:

- Anh Bổng vào đấy à.

- Vâng.

- Thế có mua lạp xưởng hộ em không đấy.

- Có đây. Cô kêu hộ giáo viên tập trung ở lớp nhé.

Dù đã dặn kêu hộ, Bổng cũng lên văn phòng trại gọi loa. Cô gái đi theo Bổng đeo ba lô, tóc ngắn, trên khuôn mặt bầu bĩnh thoáng vẻ e dè khi những người trong trại vây lấy cô trong lúc Bổng tạt qua buồng hiệu trưởng Thịnh kêu đi họp. Hải tò mò đứng ngoài đám đông, quan sát cô gái lạ.

- Thế chị vào đây công tác đấy à? Đám đông lao nhao hỏi.

- Vâng.

- Làm ở trại chúng em đấy phải không?

- Vâng, tôi làm ở trại này.

- Thích nhỉ.

Mấy đứa bé thấy cô gái hiền lành, bạo dạn níu tay. Cô mỉm cười vỗ vỗ đầu mấy đứa trẻ. Vài người bàn nhỏ:

- Trông bình dị nhỉ.

- Xùy, người ta ở nước ngoài về.

- Ai chả biết thế

- Nầy chị ấy ơi, chị là người Bắc hay Nam đấy?

Cô gái lộ vẻ không vui. Cô ngần ngừ nói:

- Tôi cũng là người Việt Nam như các anh các chị mà.

Một gã giáo viên sồn sồn vồ vập:

- Tui nghe giọng chị biết người miền Nam mà. Chà, rứa là người mình cả. Quí rứa hè.

Gã vừa phát biểu là giáo viên Anh ngữ. Gã có vẻ tự tin nói tiếp:

- Tui tên Lào

- Anh là giáo viên à?

Lào hiu hiu nói lớn:

- Tui dạy tiếng Anh

Cô gái mỉm cười. Đám đông giãn ra khi thấy Bổng. Bổng gọi:

- Đi vào đây Phương ơi

Chờ giáo viên lục tục kéo tới, Bổng lẩm nhẩm rồi hỏi:

- Còn thiếu ai nữa?

Thịnh đáp:

- Báo cáo anh, còn thiếu cô Thi phụ trách khối mẫu giáo.

Bổng nhăn mặt khó chịu:

- Lúc nào cũng trễ, ở ngay trong trại mà.

- Cô ấy có con mọn

Bổng ừ hử:

- Thôi được, giới thiệu với các anh chị đây là cô Phương, giáo viên từ Tân Tây Lan về làm việc tại trại ta.

Tiếng ồ lên:

- Thế anh Bổng bỏ chúng em đấy à.

Bổng pha trò:

- Tôi đâu bỏ các chị nổi. Cô Phương sẽ điều hợp và giúp đỡ các anh chị ở trại A. Tôi sẽ coi ở trại B. Có điều gì cần giải quyết, từ nay các anh chị cứ báo cáo lên cô Phương.

Bổng cho biết trại sẽ dành hai dãy buồng làm lớp học, tạm dùng niệm Phật đường làm hai lớp mẫu giáo. Bổng ra hạn tuổi cho học sinh tiểu học. Thịnh giơ tay phát biểu:

- Tôi nhất trí về đề nghị của anh. Tuy nhiên, vì tình hình thực tế không cho phép, số tuổi anh quy định cho khối tiểu học không phản ánh được trình độ khả năng của bản thân nhiều em.

Bổng cau mày, mắt lỏ ra:

- Anh Thịnh muốn nói gì?

- Ý tôi là do tình hình khó khăn ở nước ta nên nhiều em đã lớn vẫn chỉ mới học đến lớp một.

Bổng đáp:

- Con số ấy chắc không nhiều. Các anh chị biết em nào như thế thì cứ bố trí cho thích hợp.

Mọi người lao nhao hỏi. Dường như Phương có vẻ chưa thông với lối bàn thảo như thế. Những từ ngữ mà Bổng sử dụng không khác gì một người sinh ở miền Bắc đối với cô có vẻ xa lạ. Cái gì là “bố trí”, rồi thì “tình hình thực tế”! Sau buổi họp, Bổng cắt nghĩa lại cho Phương, ông ta cười bảo:

- Rồi Phương sẽ quen đi.

Giáo viên có vẻ phấn khởi vì có thêm người mới. Họ hỏi đủ thứ chuyện về đời sống ở nước ngoài. Hải thấy Phương toát mồ hôi vì những câu hỏi tò mò. Cô gái ban đầu còn trả lời nhỏ nhẹ, dè chừng, sau, chừng đã quen thuộc cô hăng hái thảo luận, phê bình. Hải nhớ nhất là câu nói của Phương:

- Tôi cũng là tỵ nạn như các anh chị, chỉ may mắn đi trước thôi.

Cô gái cũng có khối điều để tìm hiểu đời sống ở một trại giam. Tiếng loa sắt gắn ở đầu buồng gần đó chợt vang lên gắt gỏng:

- VRD 21212, VRD... Tôi nhắc lại lần chót là lên ngay văn phòng trại nhé.

Người xướng tên có vẻ khó chịu, anh ta lầm bầm chửi nho nhỏ sau khi đọc. Bổng nói:

- Thôi cô giáo Phương ở lại sinh hoạt. Tôi qua bên kia.

Chờ Bổng đi khỏi, giáo viên lại bu quanh Phương mời mọc:

- Trưa nay chị vào chỗ em ăn cơm trại nhé.

- Vào chỗ em đã nào.

Giáo viên anh ngữ Lào đằng hắng:

- Có chị đây tui lại có người tâm đầu ý hợp rồi.

- Anh bảo sao cơ?

- Thì có chữ mô khó, chị giải thích cho tui. Mà nầy, chị phải giúp cho tui cái ni lớp tiếng Anh mới tốt được.

- Anh cứ nói.

- Tui cần cuốn tự điển Anh Việt, Việt Anh. Chị coi, dũng sĩ mà không có kiếm báu thì mần ăn chi được nợ.
Phương thoáng khó chịu nhưng cũng lật sổ tay ghi. Cô làm việc ngay tại chỗ, yêu cầu Thịnh nộp danh sách học sinh đăng ký đi học, sắp xếp thời khóa biểu, bố trí giáo viên phụ trách bộ môn. Phương bảo Hải:

- Tôi cần những người như anh. Trong điều kiện sống như thế này, cần làm không khí học đường vui nhộn, tập cho các em những bản nhi đồng ca, cần gì anh cứ nói.

- Chị quan tâm thế thì còn gì bằng. Hải nói, chàng nghĩ đến Thơ. Phải bắt thằng bé đi học đi hát để nó được mơ những mộng đẹp.

Buổi tối, chàng sai Thơ chạy qua buồng nữ tìm Hà. Từ khi về đây, Hà ở buồng nữ độc thân, cấm địa của đàn ông độc thân tại chỗ như Hải. Năm phút sau, Thơ trở về, thở hồng hộc:

- Chị Hà bảo anh ra chỗ vòi nước chờ chị ấy.

Hải ra chỗ vòi nước. Ngay căn phòng trống dành cho giáo dân sinh hoạt, Hải nghe các buồng trưởng đang bàn thảo. Giọng Thận, tổ trưởng Tổ Thi Đua, ong ỏng đề xuất phương án kiểm tra chất lượng giảng dạy của giáo viên. Chàng đoán rồi đây Thận sẽ không để Phương làm việc dễ dàng.

Quả nhiên vài ngày sau, một đại diện buồng trưởng yêu cầu Phương đến dự một buổi họp liên ban. Phía bộ phận giáo dục, có Phương và Thịnh, bên thi đua có Thận và ba người đàn ông trung niên khác. Chờ Phương ngồi, Thận vô đề ngay:

- Chúng tôi “nà” Tổ Thi Đua.

Phương gắt:

- Cái gì vậy?

Thịnh cắt nghĩa, giọng anh ta rụt rè khác thường:

- Anh Thận là tổ...

Thận nói:

- Chúng tôi lập ra Tổ Thi Đua để kiểm tra và động viên mọi sinh hoạt của bà con trong trại. Trước khi trình bày, tôi xin được thay mặt bà con trong trại cám ơn chị đã quan tâm giúp đỡ bà con trong trại ạ.

- Thế ra chú là trưởng trại. Phương vẫn chưa hiểu rõ người đàn ông cận thị nặng, khuôn mặt xương và giọng nói thật dứt khoát muốn nói gì.

Thận kiên nhẫn:

- Không phải thế. Tôi “lói” thế này thì chị đả thông tư tưởng: Trong trại này có nhiều ban ngành chuyên môn. Chẳng hạn như Khối Giáo Dục, đại diện các buồng vân...vân... Tuy nhiên, nếu các ban ngành mạnh ai nấy nàm việc thì sẽ thiếu nhất trí, hơn nữa sẽ không phản ánh tình hình chung trong trại cũng như tâm tư nguyện vọng của bà con. Phát xuất từ nhu cầu thực tế đó, chúng tôi mạnh dạn đứng ra thành lập Tổ Thi Đua. Chức năng chủ yếu của chúng tôi nà kiểm tra chất nượng phục vụ của các ban ngành để đảm bảo mọi người mọi việc đều được thi hành tốt. Nói tóm nại, chúng tôi tự thấy có nhiệm vụ đảm bảo cho bà con trong trại có một nếp sống văn minh lành mạnh, có văn hóa.
Phương hỏi:

- Vậy có nghĩa là chú muốn tham gia vào Khối Giáo Dục.

Thận mỉm cười. Giọng ông ta trầm bổng:

- Gần như thế. Chúng tôi biết chị đang phụ trách Khối Giáo Dục, và trong nay mai các cháu sẽ được cắp sách đến trường. Tuy nhiên, muốn cho các cháu được học tốt thì chất nượng giảng dạy của các giáo viên phải đạt yêu cầu chuyên môn. Có lẽ chị mới về chưa biết, nhiều giáo viên chưa từng tốt nghiệp sư phạm nhưng vẫn đang nàm công tác giảng dạy của người giáo viên nhân dân.

Thịnh đỡ lời:

- Chẳng hạn như tôi, bản thân là một kỹ sư nông nghiệp.

Thận lại mỉm cười tế nhị:

- Vâng. Nhưng anh Thịnh chỉ nàm công tác điều hành trường lớp. Điều chúng tôi muốn nói là có một số giáo viên chưa thông qua trình độ chuyên môn nhưng vẫn đang nàm công tác của người kỹ sư tâm hồn. Nếu tình trạng này còn tiếp diễn thì bà con trong trại sẽ không để con em mình đến lớp. Trên cơ sở đó, chúng tôi đề nghị một phương án kiểm tra chất nượng giáo viên để đánh giá trình độ chuyên môn, giáo viên nào không đạt mục đích yêu cầu thì chúng tôi không để họ nên lớp.

Phương gắt:

- Nếu vậy các chú muốn làm gì đây?

- Chúng tôi sẽ lập ra một ban chuyên môn khảo sát trình độ của từng người. Ban chuyên môn sẽ gồm những giáo viên kinh nghiệm đã có quá trình giảng dạy ở Việt Nam. Chúng tôi biết ai nà người có kinh nghiệm, tuy nhiên điều nầy cần có sự nhất trí của chị. Mục đích chúng tôi mời chị đến hôm nay là để trình bày như vậy.

Phương nói, dường như cô đã quyết định trong thời gian Thận nói:

- Tôi không đồng ý. Tôi là một giáo viên, tự tôi sẽ đánh giá khả năng của từng người khi họ lên lớp. Hơn nữa, giáo viên là nhân viên do cơ quan ISS tuyển, họ ăn lương của ISS, dù chỉ một trăm hai chục đồng một tháng.
Không khí căng thẳng trước phản ứng quyết liệt của cô gái nhỏ bé. Người đàn ông thứ nhất ngồi cạnh Thận nói:

- Chị chưa nắm rõ ý anh Thận. Chúng tôi chỉ muốn đảm bảo chất lượng giảng dạy nên mới đề xuất một phương án như thế.

Phương cương quyết:

- Tôi hiểu chứ sao không. Nhưng đó là các anh vi phạm tự do của người khác. Các anh nên nhớ là: Ai sẽ là người đủ tư cách kiểm tra giáo viên. Làm sao tôi tin là người kiểm tra cũng là giáo viên như các anh chị nói.
Phương đổi từ “chú” qua “các anh”, cô gằn chữ “vi phạm” mạnh. Người đàn ông thứ hai phát biểu:

- Chị nói như thế là không rõ tâm tư nguyện vọng của bà con trong trại. Chúng tôi muốn đảm bảo các cháu sẽ được giảng dạy tốt. Chị cũng nên nhớ bản thân các giáo viên của chị cũng chỉ là bà con trong trại mà thôi.
Người đàn ông thứ ba tiếp:

- Chúng tôi chỉ phản ánh nguyện vọng của tuyệt đại đa số bà con trong trại.

Người đàn ông thứ nhất:

- Nếu chị nhất trí, ta sẽ triển khai việc thành lập ban giám sát.

Phương hỏi:

- Các anh được mọi người bầu lên à?

Thận đỡ:

- Không ai bầu chúng tôi, tuy nhiên việc nàm của chúng tôi dứt khoát nà thể hiện tâm tư tình cảm của bà con.

Phương cứng rắn:

- Đã vậy, tôi không...nhất...nhất...nhất trí với các anh chị. Chính tôi sẽ mở các khóa huấn luyện cho giáo viên:

Thịnh hạ bầu không khí căng thẳng bằng một câu ba phải:

- Tôi đề nghị thế này: Nói chung là các anh trong Tổ Thi Đua cũng có lý mà chị Phương cũng có lý của chị ấy. Chúng ta nên bàn lại việc này trong một dịp khác.

Phương đứng lên, bảo:

- Tôi không có thì giờ để bàn gì thêm nữa. Tôi có nhiều việc phải làm chứ không chỉ để họp.

Thận và ba người đàn ông cười gượng khi Phương chào họ. Trên đường về, Phương trách Thịnh:

- Từ nay anh đừng kêu tôi đi họp thế nữa, chỉ tổ mất thì giờ. Họ lấy quyền gì mà giám sát chúng ta chớ, chỉ có độc tài mới đàn áp thô bạo như vậy.

Thịnh cười buồn. Anh đồng ý như vậy nhưng bản thân anh cũng bị nhiều sức ép trong trại, anh phải chiều lòng họ để được yên. Thịnh kể nội dung cuộc họp cho Hải, bảo:

- Tôi sợ cô ấy thẳng quá, chắc bên Thi Đua họ không nhượng bộ.

Hải nói:
- Những người quen sống trong môi trường tự do là thế. Không có chuyện cưỡng bức thô bạo.

- Tớ không hiểu ý cô ta khi mới đầu thì “chú chú” sau kêu “anh” tuốt luốt.

- Nhân xưng đại danh từ đâu có nói lên sự kính trọng. Ngôn ngữ phản ánh văn hóa. Người mình hay chê là tiếng Anh tiếng Tàu nghèo từ xưng hô. Tớ thì tớ cho là một dân tộc càng có nhiều tiếng để gọi nhau chỉ phản ánh một sự độc tài, độc tài trong định chế xã hội nhưng đặc biệt hơn cả là độc tài trong tổ chức gia đình. Bởi vì cậu phải gọi người đàn ông là “cha” nên cậu không được quyền cãi lại những ý kiến có khi vô lý của “cha”. Có đúng thế không? Cậu có một ngàn cách để bẻ lại tuy nhiên khi phản bác ý kiến của tớ, cậu không biết mình đang đứng trong một phạm trù ngôn ngữ, nghĩa là bị ước lệ, để biện giải. Người ta hay nói mình có tôn ti trật tự, cháu thì phải thưa bác thưa chú, cái đó giữ cho gia đình có riềng mối, xã hội có luật lệ. Kỳ thật, những cái gọi là tôn ti trật tự đó chỉ là một sự áp đặt, một ước lệ thiếu duy lý, và bóp chết tự do cá nhân. Không phải vì Tây phương thiếu những cụm từ đó mà gia đình và xã hội tan rã, không...

- Cậu nói nhiều quá.

Hải mỉm cười nhưng mặt đăm chiêu. Dường như chàng đang chịu đựng một nỗi cô độc. Hải tiếp:

- Khi tự do cá nhân bị bóp nghẹt thì con người không bao giờ vươn quá những điều kiện hiện hữu.

Thịnh nói:
- Tớ không hiểu cậu. Việc xưng hô có gì là mất tự do đâu?

- Có chứ. Chẳng hạn một nàng dâu sẽ không dám bảo với bà mẹ chồng là ý kiến của mẹ thiếu cơ sở luân lý, mẹ chấp nhất từng cái nhỏ nhặt cỏn con trong khi nếu loại trừ những điều nho nhỏ ấy mẹ sẽ thấy thế giới này rộng vô cùng, thế giới này không phải chỉ có bốn góc nhà và chiếc xe hơi đâu. Nhưng mà nàng dâu sẽ không dám nói điều ấy chỉ vì cô ta kêu người đàn bà ấy bằng mẹ. Tuy nhiên, dẫu gọi bà ta là “mẹ” hoặc chỉ chữ “you” thì sự phán xét của cô ta về người đẻ ra chồng mình vẫn không thay đổi. Vậy mà ác thay cô ta chỉ có thể nói “you không đúng” chứ không thể nói “mẹ không đúng”. Tự do cá nhân hay con người thật của cô ta đã bị các ước lệ vắt quắt lại thành một dị hình khác. Con người đã bị xúc phạm thô bạo.

- Tớ hiểu ý cậu. Cậu đã bị những danh từ hành hạ. Chắc thế.

- Không hẳn thế. Con người chỉ có thể đối thoại thẳng thắn khi cùng ở một vị trí. Cũng như cậu đâu có thể đối thoại trực tiếp được với người không muốn nghe.

- Vì thế mới đi. Thịnh đáp.

- Cậu có đối thoại được với Cục Di Dân không khi cậu vẫn kêu họ bằng “ngài”.

- Cậu thấy đấy!

Hải thấy. Phong trào chống thanh lọc đang dâng lên mạnh mẽ từ sau đợt thuyền nhân gồm 75 người đầu tiên về Việt Nam trong chương trình tự nguyện hồi hương. Sâu Róm có mặt trong đợt đầu ấy. Hôm chuyển trại từ Argyle qua Đầu Bạc, Sâu Róm ở lại, khóc dầm dề, bảo: “Cuộc đời tôi như thế đã hết rồi. Cái chút hy vọng tự do tôi nhường cho các cậu.” Hải nghĩ Sâu Róm chúc thật. Chỉ tiếc lời chúc không đúng một phần trăm thực tế vì trước khi chuẩn bị đánh nhau với Cục Di Dân giành tự do thì “nhân dân” đã dàn trận đánh nhau trước. Đánh nhau bằng tay, bằng chân, bằng cô lập. Người miền Nam, nghĩa là sống từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam, rút vào ở chung một buồng. Họ vừa có vẻ ngạo nghễ vừa căng thẳng sợ hãi vì số người miền Bắc đông gần gấp mười. Có người xin chuyển qua trại Cape Collinson vì trại này dành riêng cho người miền Nam mà thôi. Có hôm Hải đọc một tờ báo Việt ngữ xuất bản ở nước ngoài. Chàng thấy tờ báo đăng lá thư của một cựu sĩ quan chế độ cũ kêu gọi đồng bào hải ngoại hãy cứu gấp ông ta vì ông ta đang phải ở chung với... Việt cộng! Nhu cầu cần đọc tin trong trại quá lớn nên chẳng mấy chốc ai cũng đọc được lá thư thống thiết này. Kẻ phẫn nộ chửi thề, kẻ cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ. Hải buồn bực sẵn, thêm cái lá thư khiến chàng ngao ngán. Hơn mười năm thống nhất, dù là sự thống nhất tạo bằng xương máu, đau khổ chồng chất nhưng con người vẫn đóng khung. Hải nghĩ cái biên giới chính trị còn độc hơn hầm chông thuốc độc, và có lẽ còn lâu lắm đất nước chàng mới thống nhất được.

13

Trong trại bỗng xuất hiện một loại truyền đơn miệng do trưởng buồng mớm. Nội dung: “Những người đến sau ngày 16 tháng 6 sẽ được đi định cư ở Á Căn Đình”. Không còn gì đáng hồ hởi phấn khởi hơn thế nữa. Mọi người hoang mang, ngờ vực, hy vọng với cái tin giật gân như thế. Hải dò Phương, người mà chàng tin tưởng thật lòng:

- Chị ở ngoài rành tin tức hơn chúng tôi. Thế có đúng thế không?

Phương há hốc mồm, mắt cô đầy nét kinh ngạc:

- Ai bảo anh như thế. Nếu có tin như vậy thì tôi là người đầu tiên cho các anh biết chớ.

Phương trầm ngâm tiếp:

- Các anh sống với hy vọng hão như vậy thì sẽ không biết cách đối phó với tình hình thực tế, rồi có ngày trắng mắt.

Hải nhận xét chỉ sau vài tháng làm việc, Phương đã tiếp thu cái cách nói chuyện và phê phán của người miền Bắc khá kỹ. Hải bảo:

- Tôi nghe Sơ nói.

- Thì anh cứ đi mà hỏi Sơ. Tôi chỉ nói là không, hoàn toàn không có những tin bịp bợm như vậy.

Phương vùng vằng bỏ đi. Hải bỗng đâm nghi ngờ chính mình. Bản thân chàng cũng không tin là chính phủ Hồng Kông lại thay đổi chính sách liền liền như Bác và Đảng. Trong khi Hải đang hát thầm “Em biết tin ai bây giờ” thì cả trại kháo nhau rần rần “có Sơ vào đấy”.

Hải đã thấy người nữ tu ấy mấy lần. Một người nhỏ bé ăn mặc đơn sơ giản dị. Khuôn mặt ốm nhỏ của bà có vẻ vừa hiền lành vừa sắc sảo, đôi khi sắc diện bà lại lạnh lùng dù đang cười tươi rói vui vẻ với những người đang xúm xít chung quanh. Bà thường cho tiền Hội Công Giáo, một nghĩa cử cao đẹp mà giáo dân khắc tạc trong lòng. Hình ảnh người nữ tu thật đẹp đẽ trong lòng những kẻ khốn cùng. Vì thế, mặc dù không phải là lần đầu vào trại, tin Sơ vào vẫn làm cho nhiều người hồ hởi.

Hải đang trèo xuống giường thì đúng lúc Thịnh xẹt qua, nét mặt căng thẳng:

- Không xong rồi Hải, buồng trưởng kêu tôi họp, đại diện Khối Giáo Dục.

- Thì có sao?

- Chẳng phải thế thôi đâu. Có cả anh Bổng. Dường như đây là ý Sơ Diễm Công nữa.

Hải theo Thịnh lên căn phòng sinh hoạt Công Giáo. Bà con đã ăn sáng xong, vây kín ngoài căn phòng. Hải chen chân vào kiếm một chỗ đứng gần sát cửa sổ, hé mắt nhìn vào. Buồng trưởng đang đứng quanh Sơ Diễm Công, nét mặt hằn học. Sơ nói gì đó, họ gật, rồi một người gầm gừ hung dữ:

- Giết nó, phải giết nó.

Đám đông đứng ngoài như bị kích thích, gầm lên:

- Đúng, phải giết nó. Quân Giu Đa bán Chúa.

Đám động chợt im bặt khi từ đâu, Bổng xuất hiện đi bên cạnh Jack, Cao ủy đại diện trại Đầu Bạc. Nét mặt Bổng xanh xám như tàu lá chuối. Riêng Jack có vẻ bình tĩnh, bộ dạng vẫn khoan thai như ngày thường. Bổng đi thẳng vào phòng họp, tránh nhìn những đôi mắt hằn học đang muốn ăn tươi nuốt sống Bổng. Đám đông vừa khép lại khi Bổng và Jack vừa vào liền vội vã tránh ra để lấy chỗ cho lão Siu trưởng trại. Lão đường bệ đi thẳng lên chỗ ngồi ngay giữa phòng, bên trái là Sơ Diễm Công, bên phải là Bổng và Jack. Buồng trưởng ngồi cả bên dưới chung với các bộ phận khác. Mặt Thịnh xanh mét. Dường như anh ta đang nín thở.

Lão Siu ra hiệu bảo đám đông im lặng, rồi bắt đầu khai mạc bằng một tràng tiếng Quảng. Viên thông dịch đứng sau lưng, chờ lão dứt liền vô đề:

- Tôi đến đây theo yêu cầu của ông Jack và quý vị. Những hiềm khích giữa quý vị là chuyện của quý vị, tôi không muốn dính líu tới. Tuy nhiên, với tư cách là trưởng trại, tôi muốn đảm bảo rằng mọi người đều được đối xử công bằng, cũng như đảm bảo an ninh cho đời sống trong trại. Tôi yêu cầu quý vị phải nhã nhặn và tôn trọng lẫn nhau.

Lão Siu mời Cao ủy Jack phát biểu. Bổng, đối tượng chính của cuộc họp, thông dịch:

- Thưa bà con, tôi đại diện cho Cao ủy Tỵ Nạn, đến đây theo lời yêu cầu của anh Bổng, bởi vì anh Bổng cũng là nhân viên gián tiếp của Cao ủy. Đây là chuyện nội bộ của quý vị, tôi sẽ lắng nghe ý kiến của quý vị một cách khách quan.
Bổng dịch xong, mọi người im lặng một giây. Bổng tằng hắng, nói:

- Thưa bà con, có lẽ bà con đã biết mục đích của cuộc họp hôm nay. Có dư luận nói rằng tôi có mâu thuẫn gay gắt với Sơ Diễm Công, rằng tôi đi nói xấu Sơ, đủ cả. Trước mặt Sơ và bà con ở đây, tôi xin khẳng định là không bao giờ có chuyện ấy. Giữa Sơ và tôi không có điều gì gọi là mâu thuẫn cả. Mặc dù sự thật là như thế, nhưng vẫn có tiếng đồn qua tiếng đồn lại. Tôi muốn làm sáng tỏ việc này, và cũng theo yêu cầu của Sơ, tôi đã yêu cầu ông Jack đây tổ chức buổi họp này để làm sáng tỏ vấn đề. Tôi xin hết.

Bổng quay qua dịch lời phát biểu của mình cho Jack. Sơ Diễm Công cười nhạt:

- Trước hết Sơ xin nói với các anh chị ở đây là Sơ không bao giờ yêu cầu anh Bổng tổ chức cuộc họp ni, thực tế anh Bổng có nói điều chi không tốt về Sơ, bà con đây đều rõ. Sơ cũng không yêu cầu phân trần làm chi, ai trắng ai đen bà con đây biết cả. Sơ vào đây chỉ làm theo ý Chúa mà thôi.

Bổng nói:

- Chính Sơ đã yêu cầu tôi, rồi kêu gọi bà con trong trại tổ chức cuộc họp, bây giờ...

Đám đông bên ngoài la ó cắt lời Bổng:

- Im đi, im đi, dám bảo Sơ nói láo hả!

Người nữ tu giấu vẻ hài lòng. Nhân dân ủng hộ thế kia thì chân lý phải về phía Sơ rồi. Tổ trưởng Thi Đua giơ tay xin phát biểu. Lão Siu gật đầu, Thận hùng hổ nói:

- Câu kết tội vừa rồi của anh Bổng nà một cơ sở vững chắc để bà con hiện diện hôm nay nắm rõ thực chất con người anh. Anh Bổng bảo Sơ yêu cầu anh tổ chức cuộc họp trong khi thực tế Sơ không nàm việc đó. Có khác gì bảo Sơ ăn gian nói dối. Ta đi vào chi tiết: Anh đã nhiều lần tuyên truyền trong hàng ngũ anh chị em giáo viên nà Sơ vào đây chỉ để gây rối an ninh trật tự của bà con, Sơ chỉ nà con người đạo đức giả, Sơ không xứng đáng khoác áo thầy tu. Có đúng thế không?

Bổng cãi:

- Tôi không...

Tổ viên Trật tự Thuyên, một gã râu ria xồm xoàm, đứng dậy hét:

- Im, anh chưa được phép phát biểu. Ný do của buổi mít tinh hôm nay nà để chúng tôi, những người đại diện bà con trong trại, hỏi tội anh. Anh nà kẻ vô nương tâm, chỉ có những người như thế mới đành lòng qui chụp một nữ tu đức độ hết lòng vì bà con trong trại. Thử hỏi trước khi Sơ vào đây thì có ai nàm công tác ấy nào?

Một bàn tay kéo gã tổ viên trật tự ngồi xuống. Gã ăn nói không khéo có thể làm vỡ kế hoạch. Gã hậm hực hiểu ý, nhưng hai cánh tay trần cứ quơ quơ như sự tức giận đã khiến những thớ thịt săn cứng trên người gã di động. Lão Siu lạnh lùng nhìn gã, ngắm nghía hai hàng chữ nổi bật xăm trên hai bắp tay: “Xa Quê Hương Nhớ Chị Dâu”, tay kia “Sướng Chỉ Một Lần”. Lão Siu nói một câu ngắn. Viên thông dịch:

- Ngài trại trưởng yêu cầu ai muốn phát biểu giơ tay trước, không làm mất trật tự như thế.

Một buồng trưởng giơ tay, sắc bén:

- Thưa ngài trại trưởng, thưa ngài Cao ủy Jack, thưa Sơ và bà con, trước hết tôi khẳng định tôi không phải là một tín đồ Thiên Chúa Giáo, do đó lời phát biểu của tôi hoàn toàn khách quan.

Anh buồng trưởng cao giọng, càng nói càng hăng:

- Từ trước đến nay, đời sống của bà con trong trại rất an ninh và vui vẻ. Bà con chỉ biết có một mình Sơ, một nữ tu đức hạnh đã hết sức giúp đỡ đồng bào, từ đứa trẻ sơ sinh cho đến cụ già gần đất xa trời, không ai là không mang ơn Sơ. Nhưng từ khi có những người từ nước thứ ba trở về thì trong trại này nảy sinh ra nhiều việc tiêu cực. Điển hình là anh Bổng, anh đã gây cho bà con một bầu khí nghi ngờ, hoang mang, thậm chí có kẻ còn xét lại hành vi tư tưởng của Sơ Diễm Công nữa. Anh bảo rằng Sơ quyên tiền của đồng bào ta đã định cư ở nước thứ ba để làm việc riêng, số tiền mà Sơ cho Hội Công Giáo ở trại thật ra không thấm vào đâu so với số tiền Sơ quyên được. Tôi nghĩ rằng hành động của anh Bổng là hành động của kẻ phá hoại, bóp méo sự thật, vô giá trị, thiếu lương tâm. Chưa hết, riêng trong hàng ngũ của anh chị giáo viên, anh Bổng còn nói rằng sở dĩ Sơ không thích anh vì Sơ sợ bị chia ảnh hưởng, trước đây bà con chỉ biết có mỗi mình Sơ, nay bà con lại chia sẻ lòng mến thương ấy cho người khác, do đó Sơ cảm thấy bị mất mát, bị thiệt thòi. Tôi nghĩ đó là tư tưởng tiêu cực, ích kỷ, không đáng đứng trong hàng ngũ của những kẻ hy sinh quyền lợi cá nhân vì bà con tỵ nạn. Những điều tôi vừa nói là có bằng chứng, xin cứ kiểm tra với anh Thịnh, hiệu trưởng Khối Giáo Dục thì rõ.

Mọi người dồn mắt về phía Thịnh. Một buồng trưởng khác giục:

- Anh Thịnh, có đúng anh Bổng nói với anh thế không?

Thịnh ấp úng. Anh ta bối rối vì những đôi mắt đổ lửa. Bổng nói:

- Anh cứ nói sự thật.

Thịnh nói, ngập ngừng vì bầu không khí căng thẳng:

- Bản thân cá nhân tôi không nghe anh Bổng nói như thế. Tuy nhiên, tôi nghe nhiều người nói là giữa anh Bổng và Sơ có sự mâu thuẫn.

Sơ Diễm Công cười nhạt, có vẻ xúc động:

- Sơ thông cảm tại răng anh Thịnh nói rứa. Anh dù sao cũng dưới quyền anh Bổng mà.

Đám đông phẫn nộ:

- Nói đi, nói sự thật đi, đồ hèn.

Bổng nói:

- Tôi xin sơ rút lại lời vừa rồi. Anh Thịnh làm hiệu trưởng do các giáo viên bầu lên, bản thân Sơ làm gì thì tự Sơ biết lấy, tôi không phải loại người đi nói xấu sau lưng kẻ khác. Nếu có điều gì Sơ mâu thuẫn với tôi, có thể vì Sơ không thích tôi:

Sơ Diễm Công đứng dậy, phân trần:

- Anh lại vu oan giá họa cho tôi rồi. Tôi chỉ là người đàn bà chân yếu tay mềm, tôi không đủ sức tranh cãi với anh, tôi...tôi...

Sơ Diễm Công lấy khăn tay cầm sẵn, đưa lên chặm mắt. Mọi người trong phòng họp và đám đông vây ngoài có thể không ngờ Sơ dễ xúc động như thế. Họ im lặng một khắc như để chia sẻ với người đàn bà chân yếu tay mềm đang gặp nạn, rồi gầm lên hung dữ:

- Quân Giu Đa phản Chúa. Mầy ăn hiếp một vị Sơ yếu đuối thế à!

- Rõ đẹp mặt chưa!

- Địt mẹ, đánh chết mẹ nó đi.

- Có thấy Sơ khóc không đấy.

- Giết...nó...!!!

Đám đông như bị kích thích sau tiếng thét gào lên hung dữ. Một bàn tay mềm mại nắm tay Hải. Chàng nghe giọng Hà thì thào:

- Eo ôi! Ghê quá.

Hải bảo nhỏ:

- Em về đi, đến đây dự buổi đấu tố này về tối nằm mơ à.

Bên trong, lão Siu đập bàn bảo trật tự. Một anh buồng trưởng át tiếng đám đông.:

- Bà con trật tự coi nào. Làm gì mà nhặng lên thế.

Một thanh niên ở trần đứng cạnh Hải, lầm bầm chửi:

- Mẹ kiếp cái thằng phản thùng. Nó bảo mình la lớn như thế giờ lại bảo im.

Một gã khác ra vẻ hiểu biết:

- Mầy! Thế mới ăn khớp chứ lị.

Hải đã hiểu ra câu chuyện. Chàng kéo tay Hà đi, vừa nghe trật tự Thuyên hét:

- Thưa ngài trại trưởng và Cao ủy Rát, tôi yêu cầu quí ngài phải cấm anh Bổng vào trại nầy, nếu không khối trật tự chúng tôi không đảm bảo toàn tính mạng anh ta.

Tiếng hét của gã Thuyên u u trong tai Hải. Chàng may mắn chưa hề biết một cuộc đấu tố trong kỳ cải cách ruộng đất như thế nào, nhưng chàng hình dung màn kịch chỉ có thể đến như hôm nay là cùng. Bị cáo là kẻ thù của nhân dân, kẻ phản động dám chận đường bánh xe lịch sử, phản tiến bộ, lạc hậu, phong kiến, hữu khuynh, tiểu tư sản bán nước. Hải hình dung khuôn mặt thiểu não của Bổng. Đôi mắt ông ta lạc thần, có lẽ trong xứ sở tự do mà ông ta từ bỏ để về đây, chưa bao giờ có một cảnh đấu tố sát khí như thế. “Bảo toàn tánh mạng, bảo toàn tánh mạng!” Hải rên lên đau đớn. Chàng nắm tay Hà rảo bước trong sân, không ai thèm để ý chàng trong lúc này. Nghệ thuật kích thích quần chúng, gọi là xách động, đã lôi kéo mọi sự chú ý về căn phòng tôn giáo làm tòa án. Nắng chưa tràn ngập những lưới rào cao vòi vọi. Khi lên án kẻ khác, khi xâm phạm thô bạo tự do của người khác, người ta mới thấy mình còn tự do, người ta quên mất bốn bề là hàng rào với kẽm gai giăng vời vợi che mất bầu trời. Hà nói, giọng còn xúc động:

- Em thấy chỉ có người mình mới đối xử với nhau như thế.

- Ừ, một dân tộc được tập luyện trong hận thù. Nhưng anh không đồng ý với em khi nói “người mình”. Em thử đếm xem có bao nhiêu “người mình” như thế?

- Chỉ hơn mười người trong tổng số 2000 người trong trại.

Hải mỉm cười, đôi mắt sáng rực vẻ hài lòng:

- Đấy, em xem. Không tới một phần trăm. Nhưng khi thiểu số hoạt động thì thiểu số đại diện cho đám đông hiền lành tiêu cực.

- Em thấy tội nghiệp anh Bổng. Cái anh Thịnh nhà em khi không cũng bị lôi vào cuộc.

- Anh thương hại anh Bổng. Một con người cô độc, muốn xa lánh đám đông mà lại nhảy vào đám đông. Một kẻ trầm lặng, thích tư duy hơn làm việc. Với mớ kiến thức tu học ở nước ngoài, anh ta có khả năng đùa cợt với sách vở, anh ta có thể bẻ cong một lý thuyết trừu tượng nào đấy ngay cả chỉ dùng một lối ngụy biện nào đấy, nhưng phải đối diện với đám đông, anh ta chỉ là kẻ ngờ nghệch, ngây thơ và lúng túng.

- Anh ấy học cao đến thế à?

- Tiến sĩ sử học. Đó là điều đáng ngạc nhiên bởi anh ta phải hiểu lịch sử phản ánh cá tính của một dân tộc. Hoặc có thể vì anh ta suy luận rằng đám đông không làm nên lịch sử nên anh ta coi thường đám đông. Chính bởi thế nên khi cái sức mạnh rời rạc ấy được kết hợp lại, anh ta đâm ra bỡ ngỡ. Nhưng em tin đi, và anh nghĩ anh Bổng cũng sẽ tư duy là, đám đông không bao giờ kết hợp được trường kỳ, họ chỉ kết hợp vào một thời điểm duy nhất nào đấy, rồi sau đó sẽ tan đi. Nhưng chính sự kết hợp vào thời điểm định mệnh ấy, đám đông có khả năng tạo nên...

- Lịch sử. Hà ngắt lời.

Hải mỉm cười:

- Em giỏi lắm. Ừ, anh sẽ ghi vào lịch sử tỵ nạn em ạ.

Có tiếng cậu bé Thơ gọi đằng sau:

- Anh Hải ơi, anh có thơ đây.

Hải lật đật đi lên phòng phúc lợi. Chàng hỏi:

- Sao em biết.

- Em thấy số thẻ của anh mà. Em có lấy thẻ cơm của anh nè.

Hải dò, tờ giấy dán ở cửa phòng quả nhiên thấy số thẻ của mình. Chàng trình thẻ cơm lãnh thư. Đó là lá thư của Phú kèn từ Chi Ma Wuan. Chàng lật đật bóc phong bì, chụm đầu đọc chung thư với Hà. Phú kèn đã rút đơn xin hồi hương, gã phấn khởi kể Lê Khắc đã vượt trại thành công, còn viết thư cho gã nữa dù không ghi địa chỉ hồi âm. Gã bảo thư tới sẽ nhờ một Cao ủy chụp bản sao lá thư của Lê Khắc “để ông đọc chơi cho biết tình hình tự do bên ngoài. Thích thật nhưng cũng gian nan cực kỳ”.

14

Hai ngày liền cảnh sát chặn soát mọi chiếc xe đò chạy trên đảo Lantau, hay “Đại Nhữ San”, hoặc nói theo dân địa phương là “Cái Đầu Vỡ Của Hồng Kông”. Con đường xương sống độc nhất chạy men theo chân núi vừa là sinh lộ cho dân sinh vừa là tử lộ cho “nạn dân”, có khi là một khúc đèo gắt như cùi chỏ, có khi nằm giữa làng xóm và biển, là trục chính cho mọi phương tiện di chuyển trên đảo. Lê Khắc không dám bắt xe đò, ông đi bộ ra bến phà Silvermine. Cái khâu vàng đã nhờ một gã A Xòe trong trại đổi ra tiền Hồng Kông khiến ông yên tâm vì giá sinh hoạt trên đảo “rất mềm”. Ông dư sức mua ba cái bánh bao ăn một ngày, tính nhẩm với những chi tiêu tiện tặn nhất Lê Khắc đủ sống hơn một tháng ngoài vòng pháp luật.

Lê Khắc vào một quán ăn sát bến phà, quan sát cách mua vé, giờ giấc. Những chuyến phà cứ cách một giờ là có một chuyến. Ông đợi cho đến khi có chuyến đi đông nhất mới mua vé xuống phà. Ông biết là mình đánh nước liều vì nếu bị khám xét trên biển thì chắc không thoát được. Lê Khắc ngồi ở tầng dưới, lắng tai nghe ngóng những chuyện trò inh ỏi xung quanh. Không ai thèm để ý đến ông cả.

Ông chợt để ý một cặp trai gái đang dáo dác tìm chỗ ngồi. Người thanh niên nhỏ con, ăn mặc luộm thuộm khác với vẻ chưng diện của thanh niên Hồng Kông. Người con gái cũng vậy, cô ta mang cái ba lô đỏ trên lưng, tay xách thêm một cái giỏ có vẻ nặng. Hai người - Lê Khắc đoán là hai vợ chồn g -có vẻ mệt mỏi dù ánh mắt họ loang loáng. Người con gái chợt nói, Lê Khắc rùng mình khi nghe cô ta nói tiếng Việt:

- Thôi lên tầng trên đi anh.

Người thanh niên không nản chí:

- Ngồi đây ăn tô mì gói đã. Trên đâu có bàn.

Ánh mắt người thanh niên chợt dừng lại trên mặt Lê Khắc khiến ông rùng mình. Họ là ai? Người ở trại mở? Người Việt ở nước ngoài về du lịch? Lê Khắc suy nghĩ dữ dội. Chắc chắn không phải người đi du lịch vì họ ăn mặc luộm thuộm chẳng khác gì Lê Khắc cả. Lê Khắc nín thở khi hai người thanh niên tiến lại, nói:

- Hàm cối (xin lỗi ông)

Ông suýt bật cười và hài lòng vì anh ta không nhận ra Lê Khắc là người Việt. Ông co chân để lấy chỗ cho cặp trai gái chen vào giữa. Người con gái có vẻ ái ngại vì chỗ ngồi khá chật. Mấy người bên cạnh đang ăn mì, hút thuốc, khói mờ mịt. Cô cởi ba lô,để cái giỏ dưới sàn rồi khép nép chen vào ngồi trong. Người thanh niên bảo:

- Em uống cà phê không?

- Uống chung với anh đi, đỡ tốn tiền.

Cô người dựa trên ghế, chờ chồng (?) mua thức ăn về. Người thanh niên đến quầy, vừa nói vừa chỉ chỉ ra dấu với gã phục vụ viên. Tiếng máy phà nổ ầm ầm, phà đang “de” ra biển. Nhìn lui, Lê Khắc thấy những hàng quán vắng vẻ trên bờ.

Người thanh niên khệ nệ bưng hai tô giấy đựng mì gói và hai tách cà phê bốc khói. Cô vợ cự:

- Mua gì hai ly lận.

- Thì có bao nhiêu đâu.

Anh ta lại “Hàm cối” để Lê Khắc co chân lấy chỗ. Ông làm bộ nhăn mặt ra vẻ khó chịu để chứng tỏ thái độ bất lịch sự cố hữu của người Hồng Kông. Cô gái giở nắp tô mì, liếc Lê Khắc rồi bảo nhỏ với chồng:

- Cái thằng cha mặt mày khó chịu.

Anh chàng uống cà phê, tỉnh bơ.

- Kệ mẹ nó, tụi Hồng Kông đều thế cả.

Họ ăn uống, anh chồng rút bao thuốc Dunhill xanh, phân trần:

- Uống cà phê mà không có thuốc chịu không nổi.

Cô gái liếc xéo chồng, trề môi:

- Thì em có nói gì đâu. Muốn hút thì hút đi mà.

Người chồng choàng tay qua vai vợ, ngửa mặt thả khói. Cô vợ ngồi không yên, lấy giấy bút ra tính toán lẩm nhẩm. Người chồng hỏi:

- Em mua gì cho ai mà lắm thế
.
- Thì người trong trại nhờ mua. Không mua thì tội, mà mua thì xách nặng quá.

Người chồng thở dài chia sẻ. Anh ta bỗng nhắc vợ:

- Em mua cái gì nhớ giữ receipt đàng hoàng. Không mình làm tốt mà người ta hiểu lầm.

- Thì đó, mệt muốn chết. Còn thiếu ký lạp xưởng cho ông Thịnh nữa.

- Nó còn giàu hơn mình.

Người vợ không trả lời, mặt buồn xo. Lê Khắc bỗng chú ý hơn câu chuyện giữa họ. Thì ra người vợ đang làm ở trại Đầu Bạc. Cô than phiền với chồng về những rắc rối xảy ra trong trại, nào Thịnh hiệu trưởng nào đó bị áp lực của buồng trưởng, chuyện lằng nhằng giữa Bổng và bà Sơ nào đó. Người chồng trầm ngâm nghe cô vợ nói, thỉnh thoảng đưa ý kiến giúp vợ giải quyết một trường hợp nào đấy. Anh ta lý luận gãy gọn, khúc chiết, nhưng không kém phần cứng rắn. Có lẽ nếu hai vợ chồng biết người ngồi bên cạnh đang vờ thiu thiu ngủ là một gã trốn trại thì chắc họ không trao đổi nhiều như thế. Lê Khắc chợt thắt ruột khi nghe cô vợ hỏi:

- Mấy người trốn ở Chi Ma Wuan đã bị bắt lại chưa anh?

- Chưa. Cũng không dễ gì.

- Em không biết trốn ra ngoài họ làm sao mà sống.

- Thì cũng sống được. Họ quen với đời sống khắt khe ở miền Bắc rồi.

Người chồng lại châm thuốc. Khuôn mặt xương xương của anh ta có vẻ mệt mỏi của người thiếu ngủ. Cô vợ e hèm:

- Hút lắm vào!

- Thì em coi, hút cho tỉnh chứ có ngủ ngáy gì bao nhiêu đâu

Cô vợ nguýt:

- Em cũng thiếu ngủ mà có hút đâu.

- Em khác. Anh chồng chống chế.

- Khác? Khác cái gì hả!

Cô mắng yêu rồi dụi đầu vào vai chồng, thiu thiu ngủ. Anh chồng cũng thiu thiu ngủ gà ngủ gật. Lê Khắc suy nghĩ dữ dội. Hai vợ chồng này rõ ràng là từ nước ngoài về làm việc ở trại giam. Ông có nên “đầu thú” họ để nhờ họ giúp đỡ không? Họ sẽ tố cáo với cảnh sát? Ông tin ở trực giác của mình. Anh chồng dù sắc bén và cứng rắn nhưng vẫn có vẻ hiền lành. Cô vợ không ngại vì nhất nhất đều hỏi ý kiến chồng, khuôn mặt trông ra dáng thật thà. Chưa bao giờ Lê Khắc thấy mình do dự như thế. Ông gặp may hay rủi? Nhờ họ ông biết thêm một tin quan trọng nữa: Không phải chỉ có mình ông trốn trại mà còn có mấy người khác, cũng vượt từ Chi Ma Wuan. Ai thế?

Chiếc phà thỉnh thoảng hú còi te te. Thuyền bè tấp nập kín cả biển. Những tòa nhà ngất trời càng lúc càng gần. Lê Khắc biết mình sắp đặt chân lên đảo Hồng Kông. Lạy trời, ông sẽ bình yên trên bờ, một chặng đường mới...
Người chồng thức dậy trước, lay vợ:

- Phương, Phương, đến rồi.

Cô vợ vươn vai uể oải. Anh chồng nói:

- Hôm nay mình đi hơi trễ. Mai đi chuyến mấy giờ em, anh phải đi sớm.

- Tám giờ mười lăm đi.

Anh chồng lẩm nhẩm:

- Tám giờ mười lăm đến Hồng Kông là chín giờ mười lăm. Cũng được.

Phà chạm mạnh vào cầu tàu lắc lư. Tiếng tu huýt ré lên lanh lảnh khiến tim Lê Khắc thắt lại. Cảnh sát đã bao vây? Một tiếng tu huýt ré lên trên bờ đáp lại. Thì ra đó là dấu hiệu để tài công đứng trên bờ biết mà cột dây cho phà neo lại. Cô vợ hỏi:

- Anh làm gì mà đi sớm vậy?

- Anh phải họp ở văn phòng Cao ủy.

Hai vợ chồng đứng dậy, Lê Khắc chờ họ đi ra cửa mới bám theo sau. Ông muốn càng biết thêm tin tức qua cuộc trao đổi giữa hai vợ chồng càng có lợi cho ông. Hành khách ùn ùn xô đẩy. Cô vợ bám sát vào lưng chồng để anh ta “mở đường máu” chen vai thích cánh với đám hành khách đông như nhặng. Họ chen lấn hung hãn bất kể đàn bà con gái. Người chồng kiên nhẫn lấn, cô vợ đằng sau thỉnh thoảng lại lẩm bẩm cằn nhằn đám hành khách thô bạo. Lê Khắc lọt tới đường thì mất dấu cặp vợ chồng. Ông đứng sau một xe bán nước, ngơ ngác chưa biết nên đi theo hướng nào. Người đông nhung nhúc, xe cộ đông nhung nhúc. Một chập, Lê Khắc nhác thấy cặp vợ chồng trẻ đang lên cầu thang băng qua đường. Ông quyết định đi theo hướng họ. Nhà cửa vẫn tiếp tục được xây cất giữa đường phố đông đảo. Người đi đường hối hả. Sức bật của kinh tế khiến Hồng Kông, dù sắp phải trả về cho Đại Lục, vẫn có một sức sống mãnh liệt. Lê Khắc quan sát kỹ các ngã tư đường vắng vẻ không thấy bóng cảnh sát sắc phục như ở Việt Nam. Ông vào một hiệu sách mua bản đồ Hồng Kông, đọc “cọp” một cuốn hướng dẫn khách du lịch để nắm rõ các phương tiện di chuyển trong thành phố. Hơi nóng và khói xe cùng với mùi người khiến không khí như đặc quánh lại. Những cô gái cao thon ăn mặc trang nhã, đi đứng thoăn thoắt khiến thành phố như tô thêm vẻ lộng lẫy quyến rũ của miền ham vui xác thịt. Lê Khắc thấy mình lạc lõng bên những thiếu nữ trắng ngần da thịt cặp kè với những gã trai mắt một mí vô hồn và trống rỗng. Ông đứng dựa vào tường một cửa hiệu bán nữ trang, đầu óc choáng váng.

Lê Khắc nhập vào dòng người đi xe điện ngầm. Ông gần ngạt thở vì sức xô đẩy của người trước người sau dồn lên xe. Người ông thấp bé, đầu chỉ ngang cổ người xung quanh. Ông ngắm nghía sợi dây chuyền của cô gái đang tựa ngực vào vai ông. Mùi nước hoa thơm nức khiến Lê Khắc dễ chịu. Người con gái có vóc hình thật đẹp khiến Lê Khắc bất giác nhớ những người tình đã đi qua trong đời ông. Cô gái xuống trạm kế, lập tức người khác chen lên lại tựa vai, ịn bộ ngực mềm mềm cưng cứng vào người ông. Dường như Hồng Kông bị thống trị bởi giành giựt và nét thẩm mỹ, cả hai điều ấy sắp bị nuốt chửng bởi sự thô bạo từ Đại Lục.

Lê Khắc xuống ga Mongkok. Ông tìm ngõ ra khỏi đường hầm metro, kín đáo mở cuốn bản đồ. Nắng hè dữ dội khiến ông ngây ngất như bị say sóng. Những con đường nối tiếp nhau, những ngã tư đèn xanh đỏ, những ngõ hẻm bẩn thỉu rác rến. Lê Khắc băng qua những con đường mộng tưởng ấy, ông cần sự tỉnh táo, không lạc lối, phải đến đích.

Từ xa, hàng rào trại mở Kai-Tak xuất hiện. Những mái tôn đang dịu trong nắng chiều. Mồ hôi vã ra như tắm khiến ông phải tháo mắt kiếng nhiều lần, lau khô. Ông vừa đi vừa ngó, chợt giật thót khi có tiếng hỏi khẽ bằng tiếng Việt:
- Ông anh đang tìm “tươi mát” đấy à?

Một cô gái nhỏ thó, ăn mặc diêm dúa cợt nhã. Lê Khắc nhìn cô gái từ đầu đến chân, làm ra vẻ trân tráo:

- Trời nóng mà cô em. Sao cô em biết anh hai đây là người Việt?

Cô gái cong môi, ỏn ẻn:

- Ối giời, nhìn bộ vó ông anh là biết đang “quýnh” lên đấy mà.

Lê Khắc tán:

- Em tươi mát thế, trông mà phát thèm. Này, cho anh hỏi thăm tí.

- Hỏi đi

- Cô em ở Kai Tak à?

- Điều đó không quan trọng. “Đi” không?

Lê Khắc làm vẻ hối tiếc:

- Í dà, muốn “đi” lắm mà bận chút việc.

- Gì thế?

- Biết Tứ Hải Phòng không? Cái ông cao, đen, họa sĩ đấy mà.

- Biết thì sao mà không biết thì sao. Đây không làm công việc trả lời. Cô gái trân tráo.

Lê Khắc mừng thầm, nhỏ nhẹ:

- Anh hai là...tay chơi, không để em thiệt đâu.

- Bao nhiêu? Cô gái xòe tay.

- Bao nhiêu là sao?

- Năm choạc, không “đi” chỉ tổ mất thì giờ.

Cô gái nhún mông, nhìn ra đường tìm kiếm. Lê Khắc ngắm nghía khuôn mặt còn rất trẻ của cô gái. Ông thấy lòng chùng xuống bùi ngùi. Cặp lông mày cong lá liễu, lưỡng quyền cao, đôi môi quét son đỏ chót vụng về. Ông gật:

- Được. Gã ở đâu?

- Đưa tiền trước.

Lê Khắc đếm tiền. Cô gái nhét tiền vào sắc tay, bảo: đi theo bờ rào, đến đó, thấy cái cổng hé không. Dãy buồng thứ ba, đấy...đấy...gã ở phòng cuối. Này, mà không chắc ông già ấy có nhà không đấy nhá.

Lê Khắc đến đúng dãy buồng cô gái chỉ. Trẻ con đùa giỡn trên nền xi măng, có đứa đang nghịch nước, mặt mũi lấm la lấm lét, tay chân dơ bẩn. Thanh niên để tóc dài, cởi trần, ngồi trong quán nghe nhạc xập xình. Chúng hau háu nhìn Lê Khắc. Ông nhủ: “Bề gì, cũng là đồng hương, nếu phát hiện ra mình trốn trại chắc không đến nỗi nào”. Ông sửa bộ, làm mặt tỉnh bơ bước thẳng nhưng mắt vẫn để ý đến số buồng. Đây rồi, hẳn phải là nơi ở của một gã họa sĩ. Những miếng giẻ dính đủ màu sơn. Lê Khắc thất vọng khi thấy căn phòng trống trơn. Ông ngồi đại xuống mép cửa, chân vẫn thòng xuống đất. Một đứa trẻ từ buồng bên kia chạy qua:

- Bác, bác tìm bố cháu đấy à?

Lê Khắc nhìn đứa bé trạc tám tuổi. Khuôn mặt kháu khỉnh và thông minh. Ông đáp:

- Ừ, thế cháu biết bố cháu đi đâu không nào?

Cậu bé mau mắn:

- Để cháu đi gọi, bố cháu qua bạn bố cháu chơi đấy.

Cậu bé chạy vụt đi. Có tiếng ru con từ căn phòng mở cửa sổ. Tiếng ru buồn buồn mệt nhọc. Những tấm nhựa sọc xanh căng trước căn buồng dìu dịu một màu chiều buồn bã nơi trại vắng. Lê Khắc sốt ruột ngồi chờ. Rồi ông nghe tiếng hỏi vẳng từ xa của Tứ, tiếng trả lời của đứa con từ đầu dãy. Tứ xuất hiện, hắn vẫn cao, đen hơn trí nhớ của Lê Khắc về người bạn cũ. Tứ khựng chân khi thấy Lê Khắc đứng dậy. Ông ta bảo con:

- Con đi chơi để bố nói chuyện.

Cậu bé nhìn Lê Khắc tò mò trước khi lững thững bỏ đi. Tứ gọi giật:

- Khoan đã nào (móc túi lấy tiền), chạy qua bác sáu mua bố bao thuốc.

Chờ con đi khuất, Tứ mới òa lên mừng rỡ:

- Tôi biết hết rồi, vào trong “nhà” đã.

Ông ta trải chiếu, với bình thủy rót nước, mắt ngó Lê Khắc chăm chăm:

- Nhà bác trông khác đi nhiều. Đọc báo, đọc thư cậu em ở Chi Ma Wuan kể, cứ nghĩ thế nào bác cũng lại đây.
Lê Khắc mỉm cười:

- Mấy năm? Gần hai năm rồi đấy, mầy vẫn không khác xưa gì cả.

- Haha...Tao vẫn là Tứ Hải Phòng. Lá thư cuối cùng nhận khi nào?

- Coi nào! Năm sáu tháng gì đó. Tao nhớ như in số thuyền của mầy. Biết có lúc cần mà.

Cậu bé mang bao Marlboro về. Tứ lại sai:

- Con đem cái thau nầy qua cô Sương rồi ăn luôn với cô ấy, để bố nói chuyện.

Cậu bé bê cái thau nhựa vừa đựng cơm vừa đựng thức ăn, mang đi. Lê Khắc hóm hỉnh:

- Có bà hai đấy à. Mừng bạn.

Lê Khắc nâng tách trà, ngạc nhiên thấy Tứ không đùa lại. Tứ nói:

- Lần nầy mầy trật lất.

Tứ bị vợ “để” đã năm năm. Bạn bè cứ nghĩ với lứa tuổi hồi xuân thì sớm muộn ông cũng sẽ “bước thêm bước nữa”. Khi Tứ dắt con vượt biên lọt tới Hồng Kông, ông viết thư đều cho Lê Khắc kể cuộc sống, nhưng tuyệt không hề có bóng dáng đàn bà xuất hiện trong những lá thư ấy. Lê Khắc bảo:

- Trật thì thôi. Tao ở tạm đây ít bữa có êm không?

Tứ trầm ngâm không đáp ngay khiến Lê Khắc sốt ruột. Ông ướm, trong lòng buồn bực:

- Nếu không êm thì tao đi vậy.

Tứ mỉm cười:

- Mầy đừng hiểu lầm tao. Mình biết nhau từ lâu mà bạn. Tao nói như thế nầy: chỉ “êm” 50 phần trăm. Thỉnh thoảng chúng nó đánh nhau, cảnh sát lại bố ráp, nhưng chủ yếu chỉ để tìm vũ khí.

- Đầu gấu đấy à?

- Ừ, đủ thứ anh chị. Buôn lậu, bạch phiến, ma cô, ma nớp, thậm chí còn đi ăn cướp ngoài Hồng Kông nữa. Đây là sào huyệt mà cha.

- Quân nào thế?

- Có đứa ở đây cả chục năm rồi. Chả có nước thứ ba nào nhận. Án tích như thế.

Tứ vừa kể vừa dọn cơm. Ông có cái bếp điện, vài cái nồi nho nhỏ đủ hai cha con nấu ăn. Tứ câu trộm điện từ dây điện đường, những sợi dây đan lộn xộn vào nhau được giấu sau dây mắc áo. Những người ở trại tự do như Tứ phải tự túc đời sống y như dân bản xứ. Dù chỉ “bán tự do” vì họ chưa mang một quốc tịch nào cả, họ phải tự xoay sở tìm kế sinh nhai trong cái vùng đất tiền đất bạc này. Các nước Tây phương chỉ nhận nhỏ giọt, viễn ảnh định cư vẫn đen tối dù là trên nguyên tắc, họ có thể được đi bất kỳ nước nào. Nghệ sỹ hết thời như Tứ sống chật vật, may lắm thì bán được vài bức. Tứ làm luôn nghề đóng khung tranh. Dường như những tác phẩm của Tứ không phù hợp với yêu cầu của đám thanh niên thừa tiền. Nỗi ám ảnh quá khứ, những kinh nghiệm đau nhục tràn lên những vệt sơn như mảng dao cắt ngọt vào thớ gỗ, hình hài những thiếu nữ lõa lồ nằm bơ vơ trên sóng chỉ được cảm thông bởi những người đồng cảnh, và tiếc thay kẻ đồng cảnh thường không có tiền để thưởng lãm nỗi đau của chính mình. Hạnh phúc của Tứ - cánh chim lạc bơ vơ trên nền vải đen, hay muôn vạn lá vàng xếp lớp trong màu đen vô tận của hư vô chỉ là kỷ niệm của những kẻ đã từng bước lên cái vô cùng của thời gian hủy diệt. Tuy thế, vẫn là hạnh phúc tự Tứ cho mình.

Sáng sớm hôm sau, Lê Khắc đi thật sớm. Không khí trong lành, những hồi tưởng kỷ niệm giữa ông và Tứ thời làm việc ở Hà Nội khiến Lê Khắc cảm thấy tinh thần sung mãn. Ông biết mình không thể kéo dài đời sống ngoài vòng pháp luật nầy lâu nếu không tìm ra cách nào để trốn khỏi Hồng Kông đi nước khác. Ông đã thất vọng sau một đêm tìm hiểu cuộc sống bên ngoài, qua Tứ. Những mắt xích của xã hội tự do, ở một phương diện nào đó, cũng không khác gì một nước cộng sản. Xã hội giam kín những kẻ tạo nên nó, tự bày ra luật lệ, tự xây nhà tù để tiêu hủy và trừng phạt những tâm hồn nổi loạn. Lê Khắc, kẻ nổi loạn, người muốn chọc thủng những lỗ tai không màng nhĩ. Và như thế, ông tự giết mình bằng sự cô đơn. Chỉ còn lại là hy vọng, mỏng dần như lớp sương mù một sáng nắng.

Lê Khắc đến bến phà trung tâm lúc 9 giờ. Ông đã dứt khoát là sẽ “đầu thú” với cặp vợ chồng hôm trước. Niềm hy vọng của ông. Có thể có một kẽ hở nào đó mà người thanh niên khôn ngoan kia biết được để giúp ông thoát khỏi những mắt xích. Ông nóng nảy đọc đi đọc lại bảng ghi giờ phà từ Lantau đến. Kim đồng hồ treo ở cửa ra vào như đứng sững cùng sự trông chờ của ông.

Tiếng tu huýt ré lên. Lê Khắc lại giựt mình thắt ruột. Chiếc phà lớn sơn trắng chập choạng cập vào cầu tầu, sợi dây thừng được móc qua, cửa phà hạ xuống, những dòng người ùn ùn xô đẩy. Lê Khắc hồi hộp đứng ngay bậc thềm, đôi mắt ông tê nhức nhìn những mặt người lấn ra. Những lượt người như sông chảy đi qua. Lê Khắc chảy nước mắt sống vì phải tập trung quá tải.

Người cuối cùng đã ra hết.

Tim Lê Khắc đập bình bịch. Ông nhớ chắc là người chồng bảo sẽ đi chuyến tám giờ mười lăm. Ông đã vuột họ? Họ đổi chuyến? Lê Khắc nặng nhọc nhìn lại tấm giấy ghi thời khóa biểu phà đi và phà đến. Một giờ nữa sẽ có chuyến đến. Ông đi loanh quanh khu bến phà, kiên nhẫn chờ.

Chuyến phà kế cũng vắng bóng cặp vợ chồng ấy. Chuyến tới nữa, chuyến tới nữa...cặp mắt cận thị nặng của ông đau nhức. Cả một buổi sáng trống không.

Tứ bảo:

- Tao biết cặp vợ chồng đó. Mầy bảo cô vợ tên Phương?

- Ừ, người chồng kêu vậy.

- Không sai. Chả tên Nam, họ có vào đây mua bánh chưng cho bà con ở trong trại giam dịp Tết vừa rồi.

Lê Khắc mừng rỡ:

- Mầy chắc liên hệ được với người ta không? Anh ta coi còn trẻ lắm, lanh lợi và có vẻ khôn ngoan.

- Không trẻ đâu, cũng cỡ tuổi mầy và tao đấy.

Lê Khắc thở dài:

- Bọn mình đều tứ thập nhi bất hoặc cả rồi mà còn long đong lận đận.

- Lại nổi máu lãng mạn tiểu tư sản. Để tao tính.

Tứ tính “tới” thật. Vài ngày sau, Tứ bảo đã liên lạc được với Nam, anh ta hẹn gặp Tứ ngay trong trại Kai-Tak dù lý do Tứ đưa ra trong thư nhắn thật mơ hồ: “Nhờ anh giúp hộ em chuyện này, không có anh không xong”. Lê Khắc thấy mình thấp thỏm như sắp đi hỏi vợ. Tứ cười bảo:

- Khẩn trương thế, chuyện gì tới nó tới. Qua đây tao giới thiệu cô Sương nầy.

Tứ dặn con chơi loanh quanh gần nhà, ai đến tìm bố thì qua cô Sương kêu bố về. Ông dẫn Lê Khắc băng qua hai dãy nhà lợp tôn, vách cũng che bằng tôn, và đứng trước một căn phòng lợp tôn có cửa ra vào lớn vừa một miếng tôn hình chữ nhật. Ông vén màn, gọi:

- Chú Tứ đây Sương ơi.

Có tiếng người con gái trả lời:

- Chú vào đi, cháu có ngủ đâu nào!

- Có bạn chú đến chơi nữa đấy.

Lê Khắc nghe tiếng “dạ” khẽ của Sương. Ông theo Tứ leo vào phòng ngồi xếp bành trên sàn gỗ. Ông chợt ngẩn ra khi trong ánh sáng mờ nhạt của căn phòng, khuôn mặt trắng xanh của cô gái có vẻ đẹp phảng phất Tây phương hiện ra lộng lẫy. Đôi mắt sâu thăm thẳm của nàng nhìn bâng khuâng ra cửa. Lê Khắc không muốn tin đó là một đôi mắt đã mất ánh sáng như Tứ nói. Nàng lí nhí chào Lê Khắc mà ông đoán do ông vừa phát ra tiếng động khẽ khi ngồi xuống. Tứ lom khom rót nước chế ra ca nhựa. Sương nói:

- Chú Khắc thông cảm nhé. Đáng lẽ cháu phải rót nước mời chú cơ.

Lê Khắc có cảm tưởng như ông vừa chạm nỗi buồn của cô gái vì sự hiện diện của mình. Ông đáp:

- Có sao, chú Tứ mời chúng mình cũng được vậy.

Lê Khắc nhớ trật ra là ông vừa nói một câu vô duyên nhất của thằng...nghệ sỹ. Ông lúng túng chữa:

- Cô Sương ăn cơm chưa đấy.

- Cháu mới ăn đấy. Chưa chiều đâu chú nhỉ?

Tứ đặt vào tay Sương ca nước. Ông hồn nhiên kể chuyện, những mẩu chuyện ngắn ngắn giữa ông và Lê Khắc. Sương chăm chú lắng nghe, hàng mi dài chớp khẽ khiến không dưng mà Lê Khắc rúng động cả cõi lòng. Sương hỏi:
- Thế chú Khắc ở trại nào? Cháu chưa bao giờ nghe chú Tứ bảo cả.

Lê Khắc đưa mắt nhìn Tứ lưỡng lự. Tứ đỡ lời:

- Chú ấy trước kia ở chung với chú ấy mà.

Cả Tứ lẫn Lê Khắc đều thầm ngượng ngập vì nói dối một cô gái tàn tật. Tứ khỏa lấp bằng cách nói huyên thuyên về nghề báo của Lê Khắc. Sương ngắt lời:

- Tiếc là cháu chả đọc được.

- Thế cháu có thích nghe đọc không? Tứ hỏi.

- Có đấy.

Tứ cười hà hà bảo Lê Khắc:

- Hôm nào mầy qua đọc chuyện cho cô cháu tao nghe nhé.

Sương chớp mắt. Lê Khắc nói thầm. ừ...chú...sẽ đọc truyện, coi nào, cháu sẽ thích truyện gì nhỉ...hẳn không phải là “Thép đã tôi thế đấy” rồi.

Một người đàn bà đi ngang qua, ghé mắt nhìn vào, chào Tứ:

- Bác Tứ ăn cơm chưa đấy?

Bà ta chào xong đi thẳng. Tứ bảo:

- Đầu nậu đấy. Tối ngày cờ bạc.

- Thế nào chú Khắc, không thèm đọc truyện cho cháu nghe phải không?

Lê Khắc gật đầu ngớ ngẩn:

- Có chứ, ngày mai, ngày mai bắt đầu nhé.

Tiếng cậu con Tứ gọi:

- Bố ơi, có chú gì tìm bố đấy. Con bảo chú chờ ở nhà mình.

Hai người lật đật chào Sương. Lê Khắc đoán là Nam khi nghe cậu bé tả vóc dáng. Ông bỗng thấy mình mâu thuẫn: ông thấy không cần thiết phải gặp Nam ngay. Nếu Nam khuyên ông ra trình diện, hoặc tệ hơn nữa anh ta sẽ tố cáo ông, thì sao! Thời gian tự do của Lê Khắc ngắn quá, ông phải tranh thủ sống, phải...đọc truyện cho người con gái diễm lệ mù lòa. Ông tưởng tượng ra nhiều thứ trên quãng đường rất ngắn trở về chỗ ở của Tứ. Tứ e ngại bảo:

- Mầy tính sao? Có nói thật với anh ta không?

Lê Khắc níu vai Tứ, họ đứng lại ngay lối đi:

- Tao khó nghĩ quá. Mầy nghĩ hộ tao đi.

Tứ chưng hửng, ánh mắt nghi ngờ nhìn Lê Khắc:

- Mới hôm trước cũng chính mầy muốn gặp. Sao thế?

Lê Khắc không biết trả lời sao cho phải. Đúng, ông muốn gặp Nam, muốn bày tỏ tâm tư nguyện vọng. Nhưng chỉ một giây khắc vừa rồi thôi, ý định ông đã chao động, ông sẽ bị bỏ vào hàng rào lưới, sẽ cách xa, sẽ cách xa...Lê Khắc vừa tìm thấy giá trị của một cuộc sống. Ông có thể đem vào trong tâm hồn bị ngăn chia với thế giới bên ngoài kia những hình ảnh, những màu sắc, những trăn trở thao thức, và cả những cảm quan nghệ thuật sống một cuộc đào thoát vô vị nếu không làm được một điều gì cụ thể đến mức ông có thể nhìn thấy, thậm chí còn va chạm được nữa. Thốt nhiên, Lê Khắc tự nhắm mắt lại. Chưa lần nào ông hình dung mình sẽ sống trong thế giới mù. Ông vẫn “thấy” bầu trời xanh ngắt, những vũng lầy đen đọng, những bông hoa lấp lánh thắp dọi trời đen. Thế..., ông sẽ chia sẻ ít nhiều với cô gái mù đơn độc đất khách.

Tứ đã nhận ra vẻ mặt khác lạ của Lê Khắc, ông gầm gừ:

- Mầy làm cái quái gì thế?

- Mầy đếch biết cái quái gì cả.

Lê Khắc mở mắt ra, bảo thôi cứ gặp anh ta rồi tính. Những ngọn đèn trong trại vừa bật. Hai người rảo bước. Nam đang ngồi ở bậc cửa, phì phà hút thuốc. Tứ xoa tay xin lỗi:

- Bậy quá, tôi để anh chờ.

Nam cười tỉnh bơ:

- Có sao. Được nước nào nhận chưa?

Nam biết Tứ qua vài lần triển lãm tranh của ông ở Hội Bảo vệ Nhân quyền. Lâu lâu có việc vào trại, anh ta tạt qua chỗ Tứ, trao đổi vài câu rồi đi. Đối với Tứ, Nam có một vẻ bí mật nào đấy, một người ở nước ngoài về, một thanh niên có học, nói giọng Hà Nội, sống ở Nam, ốm nhỏ và giản dị khác người. Tứ giới thiệu Lê Khắc rồi hỏi:

- Chị Phương có khỏe không đấy? Tôi chờ đi Mỹ anh ạ.

- Thì cũng đại khái vậy. Nam nói, nghĩ thầm...Lại đi Mỹ, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ mà. Anh hỏi thăm cậu con Tứ, tình hình trong trại bảo:

- Dạo này yên đó chứ, mà ông thường đi đâu dữ vậy?

Tứ rút điếu thuốc Nam mời, châm lửa. Ông nói về Sương. Một cô gái mù lạc cha trên đường vượt biển, hiện sống chung với một cô gái khác nhưng dường như cô này ít khi ở nhà. Tứ thấy mình có bổn phận chăm sóc cho người con gái tội nghiệp. Ông nói:

- Tình cảnh cô ta như thế tôi không đành lòng anh ạ. Thì giờ rảnh là bố con tôi lại chạy qua chạy về. Cứ nghĩ con gái hơ hớ thế kia mà ở chốn binh đao nầy...

Nam có vẻ xúc động. Anh ngớ ra:

- Tôi vào trại hoài mà có nghe ai nói đâu.

- Chẳng ai để ý đến bản thân người khác nếu không có lợi cho mình.

- Thế cô ấy sẽ đi đâu?

- Nghe bảo là Hòa Lan gì đấy. Tôi không rõ.

Nam mở sổ tay, ghi số thuyền và tên họ của Sương. Tứ mừng thầm, nói thêm:

- Dạng như bọn tôi chẳng làm gì được. Nếu được anh quan tâm nhắc nhở các phái đoàn...

Nam cười nhạt, bảo:

- Tôi chỉ rành tin tức hơn các anh một chút thôi. Phái đoàn! Hừm... Có lẽ chẳng ai muốn giành thêm gánh nặng đồng bào mình.

Ba người đàn ông im lặng hút thuốc. Nhưng chỉ một khắc, Nam trở về với bản tính năng động của mình. Anh thao thao trình bày những diễn biến trên diễn đàn quốc tế về vấn đề người tỵ nạn. Những kế hoạch mà chính quyền có thể thực hiện trong chiều hướng bất lợi cho thuyền nhân. Qua Nam, Lê Khắc hình dung một bức tranh rõ rệt với hai màu đen trắng thể hiện về người tỵ nạn. Giọng anh ta có khi sôi nổi về một đề tài tranh luận giữa những người làm việc như anh và đại diện Cao ủy Liên Hiệp Quốc. Những cái nhìn thẳng thắn và trực diện vào vấn đề, không sống trong ngụy vọng về một tương lai tươi sáng đối với một vấn đề đã kéo dài quá lâu. Có khi Nam gay gắt với tình hình sinh hoạt bất ổn do người tỵ nạn tự gây ra. Anh phóng ra một cái nhìn toàn diện về đời sống thuyền nhân, từ tấm phối cảnh ấy, nhặt ra những mẩu nhỏ để trình bày như là một trường hợp điển hình. Những mẩu nhỏ về cá nhân của từng mảnh đời lưu lạc, những chi tiết bị lãng quên, được Nam tô đậm, thật đậm, bởi lẽ chính những mẩu đời nho nhỏ ấy mới là chân diện mục của cuộc sống. Cộng đồng không phải là sự kết hợp hữu cơ giữa các cá nhân. Chân lý và phân tử không hiện từ bất kỳ một kiến trúc vĩ mô nào cả, mà chính là những mẩu đời nhỏ nhặt, riêng, chắt chiu từ cuộc sống, từ bức tranh phối cảnh.

Một mẩu đời đau đớn...

15

Bà con bảo là cô ấy điên. Trẻ nít trêu chọc:

Hò la hò lơ
Con điên bớ con điên
Da đầu tróc lở
Đêm ngày nức nở
Mầy không muốn thở
Mầy ị trong quần
Làm hôi cả nước
Mầy cứ ở đây
Con điên bớ con điên
Chúng ông chả để yên
Hi..hi..hi...

Mỗi ngày trẻ con cứ đi qua đi lại chỗ Mân nằm, đặt lời hát ghẹo như thế dăm bảy lượt. Người lớn vỗ tay khuyến khích, bọn trẻ càng khoái trí hò lớn. Mà quả thật bọn trẻ không vu khống. Người Mân, từ áo, từ quần, từ đầu tóc bù xù không tắm gội, toát ra một mùi hôi thum thủm. Mấy người nằm gần nàng hết bịt mũi, bịt mồm, rồi chán tìm chỗ xa xa mà nằm. Vài ba hôm đói quá Mân mới ngồi dậy ăn bậy chỗ cơm trại mà có kẻ tốt bụng để trên đầu nằm. Ăn vài ba miếng xong, nàng lại nằm uỵch xuống, để mặc phần cơm trại của mình cho ai muốn lãnh thì lãnh. Cô gái điên nổi tiếng khắp các buồng trên đảo Thanh Châu. Một nữ nhân viên xã hội người Mỹ tìm hiểu hoàn cảnh cô gái, bó tay với cô gái, bất lực với kiến thức chuyên môn của mình. Cô ta khẩn khoản yêu cầu một nhân viên xã hội người Việt tiếp tay. Kiến thức của người Mỹ không tiêu hóa nổi văn hóa của người Việt, cô ta nói như thế với Nam.

Lúc gã A Xòe mở cửa buồng cho Nam thì bọn con nít đang hò la hò lơ trước giường của Mân. Anh quát bọn trẻ, bảo im. Nam đứng quan sát người đàn bà điên đang nằm nghiêng trên tấm ván giường hai. Đó là một khối cô đơn. Một người đàn bà còn sống. Tóc dài xõa lưng quấn quýt vào nhau. Đôi gót chân tím rịm nứt nẻ những luống đất khô hằn học. Nam vuốt mái tóc dài của người đàn bà, gọi khẽ:

- Mân à.

Đó là một tiếng kêu tầm thanh cứu khổ. Mân xoay đầu lại, nàng đã sực trở về một nơi nào đấy với một kêu nhẹ như hơi thở nào đấy. Cả một giấc mộng dài thức tỉnh. Cả nụ cười hiền như giấc mộng kia nữa, đang nở trên môi người kêu ấy. Những năm tháng dài tím rịm, những đòn vọt và nhục đau trên thân xác của đời con gái...lăn long lóc...lăn long lóc...từ vực thấp xuống vực sâu. Không gian vùn vụt, vùn vụt...hiện tại càng lúc càng lún sâu và quá khứ của nàng thì càng lúc càng xa càng nhỏ như mảnh trời trong sáng trên miệng vực.

Cái mảnh trời nhỏ hoắc xa nghều nghệu ấy là cái phần sáng nhất mà Mân mộng tưởng. Mẹ nàng bị thọt chân, không phải vì đạp bom Mỹ mà chỉ bởi vì mẹ nàng thọt, thế thôi. Cha nàng không có, hoặc có thì Mân không hề biết ông. Lẽ tất nhiên cha nàng cũng không phải hy sinh trên chiến trường Nam Bộ trong cuộc chiến tranh giải phóng. Những điều na ná như thế chỉ có trong tiểu thuyết của một thời...đã qua. Quê nàng ở Thanh Hóa. Và câu chuyện về gia cảnh nàng giản dị như thế này: mẹ nàng thọt chân, lại trót dại sinh ra ở vùng đất cày lên sỏi đá. Và vì thế thì việc người mẹ không nuôi nổi bầy con là chuyện thường. “Bác” bảo nhân dân đảm đang thì kệ “bác”. Người mẹ thọt chân vẫn không nuôi nổi bầy con. Trời nuôi chúng, trời nuôi Mân lớn lên trở thành một thiếu nữ có đôi vai u lao động và gót chân cứng cỏi nứt ra như tiếng khóc nức nở đói nghèo. Điều quan trọng trên cả đảng là Mân đã trở thành thiếu nữ, một món quà không thể thiếu được trong cuộc hội người. Một món hàng phải mua trong dịp nhân loại lên cơn động cỡn thì chả gì các dòng thác cách mạng đều xuất phát từ nguồn ấy mà.

Thế! Rồi có người bảo với mẹ thọt là cho Mân qua Trung Quốc làm ăn một thời gian ngắn. Người ta bảo cái tuổi bẻ gãy sừng trâu của Mân nếu chịu khó siêng năng ở cái...đất tiền bạc ấy thì chả mấy chốc mà mẹ con thọt xây nhà gạch mái ngói. Một giấc mơ vĩ đại hơn mọi cái vĩ đại. Một giấc mộng vàng. Bỏ một vùng đất khổ. Bỏ một vùng đất tưới bằng máu mà khô cằn vẫn khô cằn.

Nhưng cả cái giấc mộng vàng kia cũng không ghê gớm bằng lúc Mân phải dứt bựt ra khỏi làng, xa người mẹ thọt để phiêu du đất khách trời xa vạn dặm. Nước mắt ướt đẫm những tờ giấy bạc người ta ứng trước cho mẹ nàng, ướt cả đường đi chiêu cống. Mà Mân đi “cống” thật. Nàng được giao cho một gia đình ở Quảng Đông. Gã Tàu mập bọng như con giòi thật tử tế. Gã bắt nàng tắm rửa, cho bộ quần áo mới mặc vào mát tới chân tóc. Mân thích lắm. Nàng có cái ăn cái mặc, chỉ dăm bữa nửa tháng là người nàng béo ra hây hẩy. Trông Mân như một ả xẩm bận áo chẽn, tóc kết đuôi sam lủng lẳng. Đùng một cái, có buổi sáng gã Tàu bắt Mân thay áo mới. Áo cưới. Căn nhà bỗng tấp nập kẻ vô người ra xúng xính. Gã Tàu bận đồ chú rể, rước dâu từ trong buồng rước thẳng ra bàn lễ gia tiên, có quan viên...một họ, pháo nổ. Cô dâu không hiểu chú rể nói gì, chú rể không hiểu cô dâu nói gì. Nhưng gã Tàu cần gì, ngôn ngữ xác thịt mới là điều quan trọng. Nó là thứ siêu ngôn ngữ của loài giòi ung mọng rưng rức mỡ, không có nó nhân loại ắt tiêu tán đường ra rồi. Ít ra con giòi mập này cũng lương thiện, làm ngay cái mình muốn làm, nói ngay cái mình muốn nói, không úp mở, không giấu giếm, không sợ “mất mặt” (mà giòi thì có mặt mũi gì đâu mà mất cơ chứ!)

Phải mất một tuần như thế Nam mới nắm được chừng ấy câu chuyện của Mân. Mỗi ngày Nam vào trại, leo lên giường Mân, đỡ đầu người đàn bà đặt lên đùi. Anh lại tìm cách ráp nối những câu chuyện không đầu không đuôi lại. Những chấm câu bằng tiếng khóc không thành tiếng, thậm chí bằng cả tiếng cười của nàng khi nhớ đến một khung trời nào đấy, hoặc cả khi lặng lẽ không thốt một lời. Nam cứ ngồi yên như thế, vuốt từng sợi tóc đã bớt rít vì Mân đã chịu đi tắm. Trong đôi mắt lặng phắt của nàng là cả những ruộng đồng ngô nghê chân thật. Không có sóng, không có nước, không có gì cả. Chỉ là những ruộng đồng khô cằn đất Thanh Hóa. Nàng phải ở đó, nàng không phải sinh ra để lưu lạc giang hồ. Nàng là đứa con của mẹ thọt, của hằng ngày đi bắt ốc mò tôm đáy nước mới là hạnh phúc. Nam hỏi:

- Bây giờ em thích gì?

Mân co rúm người trăn trở:

- Em chỉ muốn về với mẹ.

Đôi mắt ruộng vườn sáng choang những tia nhìn khao khát về hình bóng người mẹ thọt. Cái bụng của nàng càng ngày càng lớn. Một mầm sống đang vươn lớn đậu hạt từ cuộc giang hồ. Nam hỏi:

- Em thèm ăn gì không?

Mân rụt rè, ước mơ của nàng xa xỉ quá:

- Em chỉ thèm mì gói.

Chỉ trong một hôm, nàng ăn sạch mười gói mì Nam mang vào. Sung sướng cực kỳ...

Rồi chú rể Tàu trói Mân vào giường khi nàng chống cự. Gã lột áo quần nàng làm cái điều mà xã hội có thói chấp thuận cho một anh chồng làm. Mân vẫn bị trói vào giường. Tới bữa có mẹ chồng đem cơm vào để vỗ béo. Gã Tàu hả hê, mẹ gã hả hê, gia đình chồng hài lòng vì con mình hả hê. Chỉ có Mân khóc, la gào trong chiếc giường tân hôn. Người mẹ thọt xa quá chắc không nghe con mình khản tiếng, đớn nhục ê chề ở một nơi mà nàng không biết cả tên.
Mân đẻ một đứa con, chao ơi, lại là con trai cho gã Tàu. Quí vô cùng, ở một nơi mà nhà nước cấm khoan cấm đẻ. Cái “công” ấy giải phóng Mân khỏi bị trói vào giường. Nhưng đứa con Mân thì không được đụng đến. Nàng là người mẹ sâu bọ, là công cụ sản xuất. Cái gia sản mà Mân cưu mang thuộc quyền sở hữu của người khác. Nàng nhìn đứa con nàng chập chững, biết đi, rồi biết nói. Nói gì thì mẹ nó cũng không hiểu. Than ôi, Mân thèm nhớ tiếng người mẹ thọt đến thế. Nàng được đi ra tới đầu ngõ. Có một hôm gặp một người đàn bà khác, nói tiếng Việt, cũng bị bán qua Tàu làm vợ. Mừng đến thế.

Mân trốn.

Nàng bị bắt lại. Giam hãm trong buồng. Tiếng khóc của nàng không ai hiểu. Mà lạ thay Mân không thù ghét ai cả. Nàng chỉ thương thân, thương mẹ già cơ cực không ai lo.

Ở cái cõi xa xăm ấy mẹ thọt vẫn bắt ốc mò tôm.

Mân lại trốn.

Nàng cứ đi như thế. Thấy chỗ đông người là đi, dừng lại xin ăn, lang thang trên đường vắng, lang thang trên phố khuya. Nàng qua những làng xa nghèo khổ đến con gà không cất nổi tiếng gáy. Trong trí nàng cả một bãi đời hoang vu. Nàng đến một nơi cửa nhà sáng rỡ, ô tô tấp nập, cửa hàng sáng choang ánh đèn. Vẫn chưa phải là nơi mẹ thọt ở. Nàng phải về một nơi tối lửa tắt đèn và chỉ có những người thọt là thuộc về nàng. Mân đi. Kẻ mộng du giữa thành thị. Nàng đến một bờ biển. Trí nhớ lơ lửng của nàng đi theo một bọn người rách rưới nghèo khổ. Đó là những người phải thuộc quê hương Mân. Chắc hẳn thế. Mân đói rạc cả người mà bọn kia cũng đói mờ cả mắt. Nàng theo họ. Nàng xuống thuyền...

Một người sinh ra không phải để đi. Nam nghĩ như vậy. Anh viết báo cáo bằng tất cả trái tim sôi sục. Mân không thể ở đâu khác ngoài làng quê ở Thanh Hóa bên người mẹ thọt. Mân phải về, bằng mọi giá, với cái bào thai hoang dã. Giòng máu Việt Nam đang nuôi nấng cái mầm hoang ấy. Ngay buổi đầu nàng đã không muốn phá dù Mân đã không dứt khoát như thế. Mân biết mình có thai. Một sự buồn mửa trào lên họng. Nàng ghê tởm cả xác thân mình. Nàng thương cảm cái mầm sống nhung nhúc đang chòi dần ra, đang nở dần ra bằng dòng máu nàng. Mân không biết nữa. Nàng muốn rửa xác, rửa thật sạch vết ô trên thân thể, thậm chí cả trong tâm hồn. Nàng muốn chà bàn chải sắt tẩy uế, tẩy nhục, tẩy cả cục máu trong bụng. Nhưng cái mầm sống đã bắt đầu chòi đạp. Nó đang nghe, đang thở hơi thở nàng. Nó là ai, nó ở đâu, thiên thần hay ác quỷ? Trời ơi, nó có cảm được nước mắt nàng ứa ra, ứa ra. Người ta kêu nàng là con điên, thậm chí cả bầy trẻ ranh kia nữa. Điên là gì thế!

Mân phải trở về với mẹ, Nam biết rõ hơn ai hết. Mân sẽ sanh trong vòng ba tháng nữa. Chuyến máy bay đưa người hồi hương kế tiếp không có tên Mân. Không ai hiểu nguyện vọng đơn giản của nàng để xếp cho nàng một chỗ. Mà cũng phải, có ai muốn trở về Việt Nam đâu. Người ta cũng không hề nghĩ là có người không hề xin đi “định cư” như Mân. Hẳn vì thế mà người ta cho là điên, điên chỉ vì muốn về, không phải vì áo quần cáu bẩn, tóc tai rối bù và hôi thum thủm của Mân. Thật là một lầm lẫn sát nhân nếu phải bắt Mân sống ở một nơi mà mặt trăng còn thấp hơn những nóc nhà vòi vọi. Nàng đã lưu lạc đến nơi này vì nhà nước của nàng giết người bằng nghèo đói và lạc hậu, nhưng sự sung mãn vật chất của tư bản lại giết người bằng nỗi cô đơn.

Khi báo tin cho Mân là nàng sẽ về trong chuyến bay tới, Nam thấy hai mắt nàng long lanh xúc động. Mân ôm cái bụng đã tròn như trăng rằm:

- Em nhớ mẹ em, em thương mẹ em quá.

Da thịt Mân nở ra. Mân sẽ mang đứa con trong bụng về với làng xóm. Cái gia tài suốt những tháng năm dài đằng đẵng. Mân không mặc áo gấm về làng, không vinh qui bái tổ. Nàng mang về một mầm sống mà càng ngày Mân càng thương yêu nó như thể chính nàng đã chủ động trong việc hoài thai. Mân có một đứa con. Mân không thù hận ai cả. Nàng cười mơn man, xoa cái bụng tròn, trả lời Nam khi anh bắt gặp nàng giấu mấy gói mì dưới mền:

- Em đem về cho mẹ em!

 

16

Biển lặng đã mang những người đi từ miền Bắc đến Hồng Kông với số lượng chưa hề có trước đây. Khắp nơi người ta nói đến “nạn dân” với vẻ cáu kỉnh, bực dọc. Trại giam lại mọc lên để đáp ứng nhu cầu. Ngay ở trại Bạc Đầu, từng đoàn xe chở người đổ xuống, tấp nập, náo nhiệt, bàng hoàng mỗi lần cổng trại giam mở ra đón hàng loạt, hàng loạt những con người xác xơ tơi tả như miếng giẻ rách, hôi mùi biển, mùi dầu, mùi đoạn trường theo suốt cuộc hành trình. Những căn phòng trống lót ván, nóng hừng hực, mặt trời nóng hổi, tiếng khóc trẻ thơ...không còn một phút yên tĩnh nào nữa. Bên ngoài hàng rào, những cái lều lính mọc lên để chứa thuyền nhân, nền bê tông đổ lên cỏ xanh làm móng nhà, tiếng đập, tiếng cưa, tiếng hàn xì rần cả khoảng trời nhỏ khiến nước biển còn xao xuyến rung rinh.

Hải và cậu bé Thơ phải nằm sít lại để nhường bớt vài phân vuông giường cho một người mới đến. Nhiều đêm nóng quá lại chật chội, Hải bò dậy đi ra ngoài, lủi thủi tản bộ dưới ánh đèn trắng bạc. Sương đêm mát rượi những cọng thép lỗ rào. Một vài người khó ngủ cũng ra ngồi chồm hổm bên hàng rào ngó ra biển, ôm ngực ho sù sụ. Hải bấu tay vào lưới, ngón tay lành lạnh hơi sắt thép. Mặt biển bị cắt thành ô nhỏ, rung rung những xao xuyến đợi chờ. Những người đàn bà dắt díu nhau đi qua trước mặt Hải. Một người đã chết, chết thật rồi. Hải không còn mơ dáng Thu dắt con chạy trên sóng nữa. Có lẽ nàng đã xa, đã bỏ Hải. Rồi thân hình lõa lồ của Sương trên bờ biển thành phố ma lung linh sương khói. Người chết đã khuất mà người sống cũng xa. Người con gái mù đang ở đâu, nàng còn sống hay đã chết? Nàng có là vì sao băng xẹt qua bầu trời đêm sáng lòa và tắt phụt, không cả một dư âm, không cả một dấu tích!

Hai người đàn bà đau khổ đã đi qua đời Hải khổ đau. Chàng thương con xót vợ, chàng khóc âm thầm dưới những cơn mưa lất phất, dưới những vì sao ưa ứa lệ. Những con người chưa vừa ý với sự đau khổ của Hải, họ muốn Hải phải khổ hơn nữa. Họ muốn Hải phải vẹn toàn, phải làm tròn đạo đức, luân lý, thủy chung, là gánh luôn gánh nặng của người khác. Nhiều bà rủa:

- Ối cái thằng cha mồ vợ chưa xanh cỏ.

- Cái ngữ ấy, không có “tươi mát” chắc chết tươi.

Có lẽ đúng thật. Hải đã chủ động trong cuộc sống. Hải có những khát khao tầm thường, những ham muốn bình thường, những rung động bình thường, và cả những tư duy về cái đẹp. Con người thật chỉ khác con sên điều đó, không giấu tấm thân nhớp nhúa nhễ nhãi trong lớp vỏ cứng cáp xấu xí. Tấm thân phải thè ra, phải trườn trên đá, thậm chí cả trên điếm nhục, để lăn tới, lăn về đâu đấy.

Hải ăn “cánh gà” đợt một. Chàng đã triển khai những chi tiết, những tâm tư tình cảm để trình bày với Cục Di Dân. Hải bị những người chủ trương ba không (không thanh lọc, không về, không tin Cao ủy) cười vào mũi:

- Bà con chống thanh lọc, anh lại đi tiếp kiến có ăn cánh gà cũng lô-gich thôi.

Thật sự Hải nhận cánh gà chỉ vì quá chủ quan. Chàng đầu tư vào đơn kháng cáo, tập trung những điểm chủ yếu chứng minh mình bị ngược đãi. Tuyệt đại đa số bà con ăn cánh gà chỉ vì chủ quan cho rằng chỉ cần khai lý do ra đi là “tìm tự do”, “bất mãn với đường lối chủ trương của Đảng và nhà nước” là xong chuyện. Thật sự không đơn giản như thế. Cục Di Dân bảo:

- Anh bất mãn kệ xác anh. Tôi cũng đéo cần biết anh đi tìm tự do. Di dân kinh tế. Cút!

Người đi tiếp kiến kể buổi phỏng vấn với luận điệu đại loại như thế. Cục Di Dân hỏi gì, thông dịch viên quờ quạng ra sao không cần biết, chỉ tóm gọn buổi tiếp kiến như thế. Bất mãn, hậm hực, chửi thề và đau đớn vì mình đã khai thật. Phải tuyên truyền ăn gian nói dối như Thuyên trong khối Trật tự trại thì đã được cho ra tự do rồi. Thuyên, tay đầu gấu Quảng Ninh đâm cha chém chú hiếp chị dâu, chân lý của gã là con dao dài tám tấc mài nhọn đầu, nước thép xanh biếc trông ghê hồn. Cục Di Dân hỏi nghề nghiệp gã. Nghề? Thì lắm. Bẻ khóa, đục tường, ăn cắp vặt, ăn cắp lớn, trấn và lột. Gã không được vào hàng ngũ tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa hay móc ngoặc (thuộc giai cấp thượng lưu). “Trấn” người ta không được ư! Thì chém. Tay anh chị khét tiếng như thế mà Cục Di Dân hỏi nghề. Ấy vậy mà gã “được”.

Gã khai: “Bản thân cá nhân tôi phục vụ trong ngành công an nhân dân. Nhưng càng ngày, nhận thấy rằng ný tưởng cao đẹp nà phục vụ nhân dân không còn nữa. Cấp lãnh đạo tham ô móc ngoặc, nhân dân bị chèn ép. Bản thân tôi cũng nhiều nần va chạm với lãnh đạo, do những cọ xát như thế nên tôi bị trù dập. Sớm ý thức được và chỉ có việc lật đổ chế độ cộng sản thì nhân dân mới hết đói khổ, tôi bí mật tập họp một số anh em đồng chí âm thầm hoạt động chống phá. Không may, chúng tôi bị phát hiện, khi công an khám nhà tôi thì tìm ra một khẩu súng nục. Biết nếu không trốn ra nước ngoài thì sớm muộn cũng bị bắt nên tôi quyết tìm đường đi tìm tự do nhân phẩm. Nếu bị trở về thì các ngài cứ bắn cho tôi một phát súng còn hơn, bởi vì chắc chắn tôi sẽ bị trù dập ngược đãi với một lý lịch phản cách mạng như thế”.

Hải phải nhìn nhận là gã khai có cơ sở. Buồn cười nhất là có một bà làm chủ hụi ở Hải Phòng, giật hụi trốn qua Hồng Kông. Không biết bà chủ hụi gốc Hoa này khai làm sao mà được công nhận tỵ nạn chính trị vì trở về Việt Nam chắc chắn bị ngược đãi. Có lẽ Cục Di Dân sợ nếu cưỡng bức bà chủ hụi về thì sẽ bị các con hụi ngược đãi bà chăng?

Trong khi những người chống đối chính sách thanh lọc lần lượt (và lén lút) đi tiếp kiến cục di dân, “cánh gà” mọc lên um sùm trong trại thì ngoài đảo Tài Á Châu, một đảo hoang xa tít, bọn đầu gấu lại nổi loạn. Chúng tấn công luôn cảnh sát để cướp thực phẩm. Cảnh sát vì bất ngờ phải rút lên tàu nhổ neo chạy. Bọn đầu gấu được dịp “trả thù dân tộc”. Chúng “ngược đãi” người Việt gốc Hoa trên đảo, hãm hiếp đàn bà con gái cho đến ngất. Thảm kịch kinh hoàng xảy ra trong một đêm làm rúng động toàn bộ các trại giam ở Hồng Kông. Khối trật tự và buồng trưởng trại Đầu Bạc họp khẩn, viết kiến nghị bày tỏ mối quan tâm sâu sắc đối với nạn nhân ở Tài Á Châu. Hải được bố trí đem kiến nghị lên gặp Cao ủy Jack. Hải gõ cửa văn phòng nằm sát hàng rào.
Tiếng Jack:

- Vào đi.

Hải đẩy cửa. Trại trưởng Siu đang bàn thảo gì với Jack. Hai người nhìn Hải chờ đợi. Hải trình bày bức thư có chữ ký của các buồng trưởng, trình bày mục đích và đề đạt nguyện vọng của tập thể trại là nếu cần bà con sẽ tự động quyên góp áo quần trong trại, nhịn một ngày cơm gửi tặng trại Tài Á Châu trong tinh thần “lá rách đùm lá nát”. Lão Siu ậm ừ nói:

- Hừm, các anh tình nghĩa thế thì làm sao có những chuyện đáng tiếc như vừa rồi. Jack, ông nghĩ sao hả?

Jack mỉm cười, khuôn mặt trầm ngâm:

- Để coi, ít ra cũng là một nghĩa cử.

Hải nói:

- Xin các ông hiểu là tuyệt đại đa số bà con đều là người tốt, chỉ có ít phần tử xấu gây rối loạn mà thôi.

Lão Siu bỗng hung hăng:

- Ít phần tử thôi à! Anh lạc quan đấy. Các anh đối xử với nhau như thế trách gì chúng tôi.

Jack nói:

- Cao ủy đại diện cho người tỵ nạn nhưng đại diện cho sự xấu xa và kỳ thị. Các anh kỳ thị Nam Bắc. Người miền Nam xa lánh người miền Bắc. Nếu cũng trong tinh thần đó thì người Tây phương như tôi sẽ cư xử với các anh thế nào đây. Các anh chung tiếng nói, chung màu da...

Hải cãi:

- Ông chủ quan đấy thôi. Giả sử như trong trại này có một trăm người Đức, một trăm người Anh và một trăm người Ái Nhĩ Lan, hừm...Các ông giết nhau đấy chứ, đánh nhau sứt đầu lỗ trán như chúng tôi là còn nhẹ quá mà.

Jack gục gặc đầu:

- Khá đấy. Nhưng các anh là người chung một nước. Các anh cùng một mục đích, cùng ra đi tìm tự do và thậm chí cùng lý tưởng nữa. Phải thế không?

Hải đỏ mặt:

- Có thể. Nhưng bản thân mỗi cá nhân không ai giống ai. Trong mỗi con người đều có phần hèn mạt, cả ông, cả tôi, cả ngài trại trưởng, chúng ta có thể là người khôn ngoan biết giấu cái phần thấp hèn đấy. Một lúc nào đấy, cái phần đớn hèn nó phát triển, nó vùng lên trong người thì sinh ra cái nọ cái kia.

Jack cười ha hả. Ông cựu giáo sư đại học thích thú:

- Như vậy chúng ta là...chó cả. Các phần hèn ấy nằm trong tất cả chúng ta như cục cứt ở trong ruột, có ỉa cục nầy đi thì cục khác xuất hiện. Anh về đi. ha...ha...ha...ráng mà giấu cục cứt trong người anh cho khéo, như ngài trại trưởng đây.

Hải cáo lui, thấy mặt lão Siu đỏ rần. Lẽ ra lão nên đỏ mặt khi đi ngang phòng khám bệnh nhìn hai hàng dài đàn bà con nít đầu úp thau che nắng, mồ hôi mồ kê nhễ nhại chờ vào khám bệnh. Lẽ ra lão nên xấu hổ cái hôm có người đàn bà đau đẻ, nhân viên lão lề mề chở ra nhà thương ngoài phố. Sự chậm trễ và coi thường nhân mạng khiến người đàn bà đẻ dọc đường. Thấy đứa bé thò đầu ra, nhân viên Cục Cải Huấn cầm hai chân người đàn bà ép lại chận không cho đứa bé ra ngoài. Đứa bé ngạt thở chết trước khi xe đến bệnh viện. Lão phải xấu hổ vì sự bất nhân như thế hơn là vì một câu nói của Jack. Dĩ nhiên lão cũng có quyền hãnh diện về một đôi điều tốt đẹp, chẳng hạn như nhân viên lão phớt lờ nếu bị một vài đứa trẻ ném đá, hoặc bị chúng chửi rủa thô tục nữa. Sự nhẫn nhịn đó Hải cho là bản chất của một xã hội trọng dân chủ, nếu phải vào tay công an nhân dân ta thì bố mẹ bầy trẻ phải “mệt” hay đại khái một cái gì gần như thế.

Những lớp người từ các trại khác được chuyển dồn về Đầu Bạc. Lớp học đóng cửa chỉ trừ khối mẫu giáo. Giáo sư dạy Anh ngữ Lào thất nghiệp bèn mở lớp kèm...đàn bà độc thân. Thật sự Lào đã bị Phương mời ra khỏi Khối Giáo Dục khi một hôm cầm cuốn sổ tay của một đứa học trò, cô khám phá ra Lào dạy “What want” là “anh chị muốn gì” , “What get” là “anh chị lấy cái gì”.

Lào cự:

- Chị biết răng được, tui có cử nhân Luật.

Phương suýt chửi thề bằng...tiếng Anh. Cô kiên nhẫn tìm thầy trong số những người vừa từ trại khác chuyển đến. Vừa may lúc đó có người giới thiệu một nhà báo thông thạo nhiều thứ tiếng mới ở trại tù Victoria chuyển về. Phương không ngạc nhiên khi gặp nhà báo ấy, là Lê Khắc.

Hôm gặp Nam ở Kai Tak, Lê Khắc đã không thổ lộ thân phận của mình. Ông yêu cầu Tứ cho ở một thời gian nữa, bảo:

- Trước sau gì tao cũng ra đầu thú. Mày lại sắp đi.

Tứ đã được phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Ông biết tính bạn vui buồn bất thường, chỉ nói:

- Tao chỉ sợ nhỡ bị bắt chúng tẩm quất mày không chịu nổi mà thôi. Ở thì cứ ở.

Lê Khắc ậm ừ. Ông thực sự xao động từ khi gặp Sương. Ông bắt gặp ở nàng cái hình tượng ấp ủ cho một nhân vật. Sắc đẹp của nàng, sự mù lòa của nàng, và thậm chí cả sự trong sáng của nàng đã tạo trong lòng ông nỗi xót xa đè lên hy vọng, vừa đau khổ vừa sung sướng. Mỗi sáng, ông đem tờ báo Hoa ngữ đọc cho Sương nghe. Ông đọc bằng cả tâm hồn mình, bằng những hình ảnh mà ông cố nặn lên để một người mù có thể cảm thông được. Điều đó đối với ông không dễ. Lắm khi, Sương sờ bàn tay xương xẩu của ông, mơ màng hỏi:

- Những lâu đài chú tả có lạnh như thế này không chú?

Lê Khắc lúng túng bảo, chắc là không, lâu đài nào cũng ấm cả, nỗi cơ hàn không có ở những nơi dư thừa ánh sáng. Có lẽ, cháu ạ, chỉ có bàn tay chú lạnh thôi.

Lê Khắc hỏi xin Nam một hộp đồ chơi sắp chữ của trẻ con. Ông dạy cho Sương cách nhận diện mặt chữ. Nàng thích thú với trò chơi mới, có vẻ như Sương đã tiếp xúc được với thế giới tràn đầy bí mật. Nàng đã đến gần hơn với cuộc sống, nàng đã nghe được tiếng thở dài của cuộc sống, tiếng trăn trở của những bước chân trần cô độc, nàng đoán ra được sự kèn cựa của cuộc đời, tiếng trở mình, tiếng rung chuyển của ngục tù, và thậm chí cả màu hư không của những giọt lệ lặng thinh. Nàng kể những điều đó cho người đàn bà ở chung mỗi tối, chị ta đi làm ngoài Hồng Kông về. Sương bảo:

- Bây giờ em đã hình dung ra cái cửa sắt màu gì, và chị đã đi tìm trong nắng vàng ra sao.

Đó là một người đàn bà tội nghiệp. Chị không bao giờ bảo Sương làm gì bên ngoài Hông Kông. Chị chỉ kể cho Sương nỗi buồn của chị. Chị có đứa con mười hai tuổi. Đứa con chị ở với ông bà ngoại khi chồng chị vào Nam lấy vợ bé. Chị được bà con cho đi vượt biên. Tới Hồng Kông rồi chị mới biết là bằng cách nào đó ông bà ngoại đã gửi đứa con đi theo chị trong một chuyến khác. Thành thử, chị hy vọng là con chị đang ở một trong những trại giam nào đấy. Chị không tài nào biết được. Chị phải đi làm gửi tiền về nuôi ông bà ngoại đứa trẻ. Chị kiên nhẫn đi làm. Chị kể Sương nghe trưa nào cũng đến trại giam Shamshuipo, ở đó có cánh cổng sắt màu đen, bên dưới có khoảng cách nhỏ vừa đủ kê khuôn mặt vào. Chị quỳ trên đất cứng, thò mặt vào nhìn vô trại. Những đứa trẻ đang chạy nhảy chửi thề trong sân đá. Chị cứ nhìn hoài như thế, hy vọng đứa con chị sẽ xuất hiện. Chị chỉ thôi nhìn khi gã A Xòe gác cổng đuổi chị đi. Chị không muốn tuyệt vọng. Đứa con chị đến sau ngày 16 tháng 6, thế nào nó cũng ở trong ấy, hoặc...đâu đấy. Chị đến trại buổi trưa, quì giữa trưa, và ra đi cũng giữa trưa, nắng đổ mồ hôi cay cả mắt, xé nát lòng người mẹ tả tơi.

Một sáng Sương bảo Lê Khắc:

- Chú coi thử cái này nghe.

Nàng giở tấm vải đậy trên sạp. Lê Khắc cảm động khi thấy Sương sắp tên ông ngay ngắn. Chữ L đỏ rực, chữ A xanh biếc hồn nhiên...không nghe Lê Khắc nói gì, Sương hỏi:

- Bộ cháu sắp trật rồi hở?

Ông cười khỏa lấp cảm xúc của mình:

- Cháu giỏi lắm. Đúng phom. Bây giờ chú sắp để cháu đoán thử nha.

Lê Khắc lấy hộp chữ. Sương lắng tai nghe ngóng âm thanh xì xạc của chữ cái đụng vào nhau.

- Nào, cháu biết chữ gì không?

Sương rờ rẫm cái chữ mới sắp bên cạnh tên “Lê Khắc”. Nàng lẩm nhẩm...reo lên:

- “Sương”! Đúng không nào.

Cả hai cười nắc nẻ. Tiếng cười bay lên những tàn phượng nở hoa vàng. Lê Khắc giở cuốn vở học trò, đọc trang đầu của một chuyện tình viết vội. Sương ngơ ngác:

- Chú viết về cháu đấy?

- Ừ, chuyện tình của cháu.

Sương bảo chắc gì đã là chuyện tình, cháu nghĩ...

Lê Khắc vén những sợi tóc trên trán nàng, nói:

- Cháu đã kể cho chú nghe anh ấy săn sóc cho cháu như thế thì hẳn phải có cái gì. Cháu không thích à?

- Không phải...Sương ngập ngừng bảo. Cháu không biết nữa, có thể... là gì đấy. Cháu không biết...

-...mặt mũi anh ta. Thế chú có biết chú ra làm sao đâu. Cần gì, cháu. Tình yêu không có hình tượng nào cả. Nó không có tên, nó là gì đấy như cháu nghĩ. Thế thôi.

Lê Khắc đọc tiếp. Chuyện tình của một cô gái mù trên đường vượt biển. Những cơn mưa lạnh. Những ngày gió chướng. Tiếng sóng. Lời thì thầm. Sự đói khổ...Họ tắm cho nhau trên biển vắng...

Sương khóc rưng rức. Giọng Lê Khắc như lá vàng rơi trên kỷ niệm. Người con gái bắt nhận ánh trăng tàn ảo mộng cháy tự đáy lòng. Chàng trai chỉ thấy đường chân trời. Thế giới của cô gái kỳ bí và diễm lệ, những lớp mây sâu thẳm trong ký ức. Họ lạc đến một hoang đảo. Chàng trai kiệt lực. Trước mắt anh, thế giới mù đục một màu sương. Lê Khắc nói:

- Cháu thích một đoạn kết không?

- Cháu không biết.

- Một chuyện tình đẹp thường không có đoạn kết, thế là toàn vẹn sự lãng mạn. Cháu biết không, người đi làm cách mạng và tình yêu đều cần lãng mạn để thánh hóa những điều tầm thường. Chú sẽ đi tìm hoàng tử cho cháu.

Sương nức nở:

- Thôi chú ạ. Cháu đã nghiệm ra hạnh phúc là điều không nên thấy. Cháu...đã có chú!

Lê Khắc chợt muốn ôm cô gái để hôn lên tâm hồn trong sáng những vì sao. Ông quệt ngón tay thấm nước mắt trên hai hàng mi dài máy động:

- Chú...sắp xa cháu rồi.

Sương ngồi im không nhúc nhích. Hơi thở của người đàn ông bỏng cả mặt. Nàng nói:

- Cháu biết sẽ có ngày ấy.

- Chú Tứ sắp đi rồi. Chú sẽ ra trình diện. Chú không ân hận vì đã gặp cháu trong những ngày đào thoát. Cháu đã thay đổi cả chương trình của chú.

- Cháu không hiểu.

- Chú đã nghĩ là sẽ làm cho các dân tộc yêu tự do sẽ nhìn lại những con người đang sống trong cõi chết. Và bây giờ chú thấy đó chỉ là một ý nghĩ lãng mạn mà thôi. Tiếng nói của chú đâu có lớn hơn một động cơ tám máy trên đường phố. Còn cháu, cháu sống trong thế giới mù lòa bằng cả lương tâm của thế giới. Lòng cháu sáng hơn mắt chú, Sương ạ.

- Cháu sẽ xin về.

- Đừng, ở nước ngoài các phương tiện vật chất tiên tiến sẽ làm cho mắt cháu sáng lại. Họ sẽ chữa mắt cháu.

- Chú đi đâu?

- Chú sẽ sống cuộc sống của đồng bào mình, còn cháu sẽ thấy ánh sáng tự do.

Sương không gượng được nữa, nàng ngã chúi đầu vào vai người đàn ông cô độc. Nàng lại mất một lần nữa, không ai muốn ở lại với nàng. Nàng đâu cần sống trong ánh sáng mà lại cô độc. Sự mù lòa chia sẻ vẫn quí hơn, vô ngần.

Dù đã được Nam bố trí cho Lê Khắc đến gặp một viên Cao ủy, Lê Khắc vẫn bị tống vào nhà giam Victoria. Trong nhà tù, ông gặp vài đồng hương phạm tội hình sự, ông gặp mặt trái của Hồng Kông. Có thể do sự can thiệp của viên Cao ủy, Lê Khắc không bị đánh đập gì. Rồi ông được đưa về trại Đầu Bạc, ở đó, ông gặp nhân vật người đàn ông trong chuyện tình viết vội của ông. Ông được Tứ vào thăm một ngày trước khi cha con Tứ qua trại chuyển tiếp ở Phi Luật Tân. Sương vẫn chưa được nước nào nhận. Tứ bảo ông tặng Sương tất cả những bức tranh không bán được, dạy cho nàng cách rờ tranh để nhận màu.

Tháng lương đầu tiên mà Lê Khắc nhận nhờ được tuyển làm giáo viên là một trăm hai chục đồng Hồng Kông. Ông đưa cả cho Phương nhờ mua hộp chữ. Khi biết ý định của Lê Khắc, Phương bảo:

- Tôi sẽ mua cho chú. Chú cứ giữ tiền phòng khi cần.

Lê Khắc xúc động. Cuộc đời không tệ như ông tưởng. Ở hoàn cảnh nào cũng có những trái tim bác ái. Ông bảo Phương:

- Chị cứ cầm hộ tôi. Nếu không dùng thì nhờ anh Nam trao hộ cho cô ấy. Tôi ăn cơm Cao ủy cần gì tiền.

Lá thư đầu tiên ông gửi cho Sương to như một hộp quà. Lê Khắc sắp chữ, xin băng keo dán lại. Ông ngạc nhiên khi thư trả lời của Sương không phải là “hộp quà” mà là trên giấy trắng mực xanh đoàng hoàng. Thì ra Sương đọc nhờ Nam viết hộ. Sương viết:

“Chú xa nhớ!

Từ ngày chú đi cháu không biết phải làm gì cho hết ngày. Cháu sờ những bức tranh của chú Tứ. Chú ấy bảo tranh chú dầy sơn dù lúc nào chú ấy cũng thiếu tiền để mua sơn, có thể bề dầy của không gian và thời gian - chú Tứ bảo đấy nhé - mới thấm nhập vào hồn người thưởng lãm. Chú ấy bắt cháu để tay lên màu đen cho đến chừng nào màu đen thấm vào từng tế bào não của cháu. Rồi lại để tay lên màu xanh cho đến chừng nào cháu “thấy” được màu trời lồng lộng. Chú ấy lại bảo cháu hãy bắt lấy màu đỏ cho đến khi cháu cảm thấy dòng máu mình chảy đẫm lòng bàn tay. Thế đấy, cháu đã thấy được những cuộn sóng hung hãn xô đẩy trên xác những thi thể lõa lồ của người con gái trong một hoàng hôn nhuộm máu đỏ. Chú ạ, cháu đã hiểu tại sao chú Tứ lại bắt cháu học nhận màu đen đầu tiên trong bài học đầu tiên chú ấy dạy. Toàn bộ tranh của chú ấy bị màu đen ngự trị chú ạ (có phải chú Tứ muốn nói về cháu). Cả biển cũng màu đen chú Khắc ạ. Thỉnh thoảng lắm cháu mới “thấy” một màu xanh lẻ loi. Cháu kiểm tra với anh Nam thì anh ấy bảo màu xanh của chú Tứ là màu xanh của rừng cây đã trút hết lá. Nghĩa là màu xanh tuyệt vọng, màu xanh chết! Sao cuộc đời buồn thế chú? Có khi cháu không muốn “xem” tranh nữa. Nếu như thế giới này chỉ toàn màu đen như thế thì cháu sáng mắt để làm gì. Thà đui mù như cháu còn hơn.

Cháu viết dài sợ phiền anh Nam quá. Chú cảm ơn anh ấy hộ cháu nhé. Chú thấy không, ở đâu cũng có người tốt như chú vậy. Chú ráng phấn đấu để qua thanh lọc nhé. Chừng ấy, chú cháu mình lại gặp nhau.

Có tìm gặp bố cháu ở đâu không?”

Dưới bức thư có chữ Sương nguệch ngoạc. Lê Khắc run rẩy vì cảm động. Ông có cảm tưởng sự bức xúc trong lòng khiến ông muốn đạp hàng rào để phóng đi tìm Sương. Ông hiểu những điều Sương muốn nói về tranh của Tứ. Màu đã chọn , đã ở sẵn trên khung vải trước khi Tứ nhúng cọ vào. Tứ đã dùng cái hữu hạn của kinh nghiệm sống để thể hiện cái vô cùng của tâm thức lưu đày. Ở một lúc nào đó, tranh của Tứ bị gò bó trong hình tượng cuộc sống. Lê Khắc đã bảo Tứ phải đập nát con đê hữu hình kia đi, để nước loạn, là Tứ, vỡ tràn trên khung vải, chảy ra trăm nghìn ngả, không lối, không đường, không biên giới, biên cương, thể hiện cái cuồng loạn của tâm tư, của ý thức, bất chấp lề luật, bất chấp kỷ cương, ấy là đi gần đến ngã, không màu, không sắc, không hình tượng. Cuộc đời nó thế, sống trong cái hữu hình mà vượt lên với vô hình. Một họa sĩ tài ba cũng phải thế, không bị tràn ngập bởi màu sơn, cũng không chọn màu sắc mà cứ cầm cọ vung lên khung vải, như càng cây đâm vào hư không có theo một hình hướng nào đâu.

Sau ngày lên tiếp kiến thanh lọc, Lê Khắc lại nhận được một bức thư khác của Sương. Ông biết mình sẽ nhận “cánh gà” trong buổi sơ ngộ với Cục Di Dân. Khuôn mặt người phỏng vấn nhìn ông ác cảm ngay từ đầu. Tướng Lê Khắc không phải dễ nhìn. Trán vồ, hai lỗ mũi to hếch lên trời như hai ống thổi lửa, cái cằm bạnh dữ tợn. Lê Khắc biết thế. Ông đọc đi đọc lại thư Sương để vơi buồn bực trong lòng.

“Chú Khắc xa nhớ!

Cháu nhận được thư chú rồi. Anh Nam đọc cho cháu nghe. Cháu mừng lắm. Cháu biết là chú không quên con bé tàn tật nầy mà. Có thế chứ.

Cháu đã sờ đến bức tranh thứ tám, bức cuối cùng đấy, của chú Tứ. Bây giờ cháu đã hiểu tại sao khi đưa bức này cho cháu, chú Tứ bảo: “Chú tặng bạn chú bức tranh vô hình này, chờ bạn chú ra khỏi cõi hữu hình mà lấy”. Chú Tứ tặng chú đấy, chú biết không?

Cháu sờ mãi mà không tìm được hình tượng nào cụ thể của bức tranh chú ạ. Nó cứ bàng bạc làm sao ấy. Đến cả anh Nam cũng chịu, không đoán ra. Dường như chú ấy vẽ một cơn mộng, cơn mộng mỏng như khói sương vậy đó. Toàn bộ bức tranh là màu trắng, màu xám, màu lá xanh, toàn là màu lạnh thôi chú ạ. Nó là sự trăn trở, thao thức, ước vọng và thậm chí cả dục vọng nữa. Một cái gì không thể nắm bắt được mà rất thực, rất cụ thể, rất người.

Cháu không hiểu đâu. Cháu để cất bức này cho chú đấy. Anh Nam hỏi mua một bức nhưng cháu nhất quyết không lấy tiền. Mình mang ơn không hết, phải không chú.

Chú đã đi tiếp kiến chưa? Ở Kai Tak có mấy người ở trại chú vừa được ra tự do đấy. Cháu có hỏi thăm chú nhưng không ai biết cả. Chú có khỏe không? Ráng phấn đấu công tác tốt chú nhé. Nhớ viết thư cho cháu, kể cho cháu nghe cuộc sống, tâm tư tình cảm của chú đi.

Có tìm gặp bố cháu ở đâu không?”

Dưới bức thư lại ký chữ “Sương” nguệch ngoạc. Lê Khắc muốn ứa nước mắt. Ông đã không làm được một điều gì cho Sương. Có lẽ bố nàng đã mãn số, đã đến một cõi vô hình mà ông thường nói. Ông thất thểu đi trong trại, thấy Hải đứng bên Hà nơi hàng rào phía biển. Nhân vật của ông đã làm nên cuộc tình mới, đã...xong!

Ông nhớ Sương quằn quại, nửa đêm rên rỉ một mình. Ông đã quyết định cho ông một đời sống khác. Hôm cảnh sát tấn công trại bắt những người biểu tình chống cưỡng bách hồi hương, mắt ông cay xè, đỏ ngầu vì đau khổ, vì những quả lựu đạn cay cảnh sát bắn vào trại. Trong tiếng kêu thảng thốt của đàn bà, tiếng rên khóc của trẻ con sợ hãi, tiếng chân chạy hỗn loạn và màu đục mờ của khói lửa. Lê Khắc viết bản kháng cáo.

Ông ghi tiêu đề: Kháng Cáo Của Một Thuyền Nhân Đến Muộn.

17

Bố tôi đã lầm lẫn khi cho tôi sinh hoạt Câu Lạc bộ Âm nhạc thiếu niên Hà Nội từ khi tôi mới lên năm. Có lẽ ông muốn tôi trở thành một giảng viên âm nhạc như ông chăng, hoặc là một thiên tài cỡ Bethoven ấy. Cũng có thể trong thời của ông, nghệ sỹ có cái tự hào của họ khi biểu diễn trước công chúng, và không chừng lại xuất hiện lác đác vài thiên tài cỡ tác giả bài quốc ca nữa. Nhưng tôi cho rằng dù đó là ý của bố tôi thì ông vẫn lầm lẫn như thường. Làm một nghệ sỹ sáng tác theo kiểu người-thực-việc-thực thì làm sao mà thành thiên tài được, thậm chí “sáng tác” để mỗi tháng hưởng chế độ nửa lạng bột ngọt và một hộp sữa đã mệt đến ngất đi rồi, nói gì đến tài với cán.

Ấy thế mà tôi phải học hát, học nhạc lý, học đàn và cả đánh trống nữa. Lúc tôi vừa tốt nghiệp cấp II phổ thông thì trường Trung cấp Văn hóa và Nghệ thuật mở khóa chiêu sinh. Do quá trình tham gia sinh hoạt trong Câu Lạc bộ Âm nhạc tôi được nhận vào học lớp ca nhạc. Tuy chỉ có cấp II nhưng tôi được xếp vào thành phần “có văn hóa cao” vì hầu hết học sinh của trường được tuyển chọn theo yêu cầu về năng khiếu hơn là về trình độ học vấn. Nhưng cả cuộc đời tôi chỉ huy hoàng một chút đó mà thôi. Năm sáu bốn đi nghĩa vụ quân sự. Năm sáu tám bị thương. Năm sáu chín được phục viên về nhà không biết làm gì.

Thời gian ở trong quân đội chiến đấu nhiều hơn là làm công tác văn nghệ. Vì ôm súng nhiều hơn ôm đàn nên tôi xoay qua bộ môn... “sáng tác ngầm” những vở kịch tưởng tượng về hình ảnh đói khát anh hùng của bộ đội chiến đấu cho lý tưởng cao đến mức khó sờ.

Cái ý thích viết kịch nó kịch cho tôi nhiều quả lăn chiêng ngã ngửa sau khi phục viên. Chẳng phải vì lý lịch bản thân xấu, hay thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản (tôi mà trí thức cái mẹ gì, tiểu tư sản thì có lai rai vài sợi vì ông nội tôi trước kia là thợ sửa ô tô giàu có, chuyên sửa xe Stai của Tây). Tôi không xin được việc là vì tôi chưa biết cái luật chơi trong một xã hội ưu việt và dân chủ cùng mình. Đi xin việc mà túi áo trên không cồm cộm thuốc cán, không biêt tâng bốc mùi thơm của thuốc lá với thủ trưởng cơ quan, chỉ rặt tự báo cáo thành tích đánh đấm và khả năng văn nghệ của mình thì thậm chí đến Bác và Đảng cũng phải bảo đồng chí chưa theo kịp đà tiến của xã hội. Đồng chí có khả năng viết kịch à. Đó là một khả năng phù phiếm, không cần đâu, Đảng và nhà nước chỉ cần những người có khả năng làm ra của cải vật chất và tư liệu sản xuất thôi.

Cuối cùng thì ông bố già nua còm cõi của tôi phải ra tay. Ông bán vật gia bảo độc nhất trong nhà là cái dương cầm từ thời Tây để lấy tiền “lo” cho tôi. Ông khóc ròng mấy đêm liền, chửi tôi là đồ bất hiếu ăn hại đái nát. Ban đêm mơ ngủ ông cũng réo tên tôi ra mà chửi, chửi đã rồi ông khóc hu hu như đứa trẻ mất quà.

Thế là tôi có việc. Mới đầu chỉ làm công tác trông xe cho nhà văn hóa. Sau thấy tôi có khả năng văn nghệ, lãnh đạo cất nhắc cho tôi vào diễn thử vài vở kịch. Thường thường tôi sắm vai bọn xấu chuyên bẻ khóa đào tường, hoặc tệ hơn là phá hoại thành quả cách mạng. Tôi diễn mấy vai nầy rất đạt. Có lẽ trước hết là nhờ bộ mặt cô hồn khó coi của tôi. Cái lỗ mũi tốc hốc, hai tròng mắt sâu hoắm thế kia mà sắm vai du thủ du thực thì đạt chỉ tiêu yêu cầu là cái chắc. Có khi tôi còn cương ẩu trên sân khấu khiến khán giả cười khúc khắc đã đời. Tôi nghĩ có lẽ nhờ óc quan sát, và hễ ra tới ngõ là gặp ngay “ bọn xấu” nhan nhản thế kia, nên tôi chỉ việc bắt chước chúng nó chẳng khó khăn nghĩ ngợi gì cả.

Tôi cũng là người ham học hỏi. Thì giờ rảnh là tôi kiếm sách đọc, từ sách gối đầu giường của lãnh đạo cỡ nhục bồ đoàn cho đến các loại sách xấu của bọn một thời bị chê là tiêu cực trong Tự Lực Văn Đoàn. Tôi nghiệm ra rằng hễ càng đọc nhiều chừng nào là đầu óc mình càng rối như ăn cục mỡ lợn không tiêu vậy. Mà đã rối thì khó làm lãnh đạo lắm (tôi vẫn nuôi mộng làm lãnh đạo) vì các đồng chí lãnh đạo anh minh sáng suốt là nhờ không đọc nhiều như tôi vậy. Tôi cũng nghiệm ra rằng làm một diễn viên mà chỉ sắm vai bọn xấu thì dù mình có diễn đạt yêu cầu thì cũng khó mà ngoi lên được. Phải sắm vai nào thật tốt, chẳng hạn một “chú” nông dân nghèo bị sập hố bom, chú ta quên cả thân mình, quên cả vợ con mới cưới cũng bị sập gần đó, để nhào lên cứu đồng chí Bí thư đang đạp mìn loanh quanh đâu đấy. Tôi triển khai ý này với các bạn diễn viên, tìm những chỗ sơ hở mà thoạt tiên tôi không nghĩ đến. Thí dụ đồng chí Bí thư thì chẳng thể nào mà đạp mìn được vì đồng chí lúc nào cũng đi sau nhân dân vào chỗ chết mà. Thế!

Tôi bị phê bình là có tư tưởng tiêu cực, xem thường lãnh đạo, cần chấn chỉnh tư duy. Tôi chấp hành liền, trong đầu lại nảy ra nhiều ý khác. Tuy nhiên từ một diễn viên mà muốn tiến nhanh tiến mạnh thành nhà soạn kịch thì còn một bước xa cỡ từ chủ nghĩa xã hội ưu việt đến chủ nghĩa tư bản hốc hác. Phải kinh qua nhiều khâu tế nhị và trắng trợn. Một mặt phấn đấu học hỏi các bậc thầy nghệ thuật, một mặt phát huy truyền thống móc ngoặc, nhờ phấn đấu kịch liệt như thế nên tôi nghiễm nhiên trở thành nhà soạn kịch đạt chất lượng yêu cầu. Nếu như tôi an phận với những vở kịch chỉ đủ làm hài lòng lãnh đạo thì hẳn bây giờ tôi đã được hưởng chế độ lương bổng bậc 7 và như thế là không chừng tôi đủ mua trả bố tôi một cái dương cầm “cực kỳ”.

Thưa ngài giám đốc Cục Di Dân, cuộc đời nó không đơn giản như thế, chung qui là tại trong mỗi con người chúng ta đều có cái phần mỏng hơn sương nhưng chắc hơn núi mà ta thường gọi tên nó là liêm sỉ. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cùng tinh thần yêu chuộng dân chủ cao độ, ở nước chúng tôi hoàn toàn không có chế độ kiểm duyệt. Văn nghệ muốn viết gì thì viết, hoàn toàn tự do suy nghĩ. Nhưng để cho một tác phẩm, trong trường hợp của tôi là một vở kịch, thì bản thân người cầm bút không phải chỉ viết rào rào trên giấy mà hắn phải hình dung là đã có bao nhiêu khâu phải qua nếu muốn kịch bản được công diễn. Đầu tiên phải diễn cho lãnh đạo xem thử, lọt qua rồi lại phải diễn cho lãnh đạo tỉnh. Rồi phải sửa tới sửa lui trước khi cho nó ra ràng. Ra tới công diễn rồi thì nhân dân không muốn xem nữa vì kịch bản đã trở thành tác phẩm của lãnh đạo, của tập thể, nhân dân tìm hoài chẳng thấy mình nằm đâu trong đó cả.

Năm tám tư, nhà nước bỏ chế độ bao cấp. Đoàn văn nghệ chúng tôi phải tự túc kinh tế, cân bằng thu chi. Muốn cân bằng thu chi thì cần khán giả. Khán giả đông không khó, khó lãnh đạo có thông qua buổi biểu diễn hay không. Chúng tôi được lãnh đạo cho chọn một, lãnh đạo chọn một, như thế thì ít ra nghệ sỹ chúng tôi cũng có tự do lựa được một tác phẩm để biểu diễn. Cái bài chúng tôi chọn phải được phát thanh trên đài phát thanh Hà Nội hoặc diễn trên ti vi. Dù đã tự do đến thế những lần biểu diễn cũng chỉ thu hút dăm ba khán giả. Lãnh đạo chủ trương dù chỉ có một khán giả (giác ngộ) thì vẫn biểu diễn nhưng chúng tôi không thể sống với sự xa xỉ như thế.
Vì thế tôi phải sáng tác một vở hài kịch lấy tên là “Thuốc cán đầu câu chuyện” lên án nạn quan liêu cửa quyền, móc ngoặc, bè phái. Khán giả đông không ngờ. Tôi xông theo bánh xe lịch sử viết tiếp một vở có nội dung chỉ trích truyền thống đưa tiền trước nói chuyện sau của công an nhân dân. Khán giả chật rạp. Lãnh đạo vẫn làm thinh. Tôi viết một vở kịch ngắn cực kỳ cảm động diễn tả một cô gái Nam Bộ bán mình cho cán bộ để cứu cha ra khỏi trại cải tạo. Đêm thứ nhất chật rạp. Đêm thứ nhì khán giả ngồi toàn xuống cả lối đi. Lãnh đạo phản ứng. Vở kịch bị cấm diễn đêm thứ ba dù đã quảng cáo ầm ĩ. Đoàn tổ chức kiểm điểm cái thằng có tư duy phản động là tôi. Tôi làm kiểm điểm, vẫn chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, giữ vững lập trường là chỉ mô phỏng “người thực việc thực” trong xã hội chủ nghĩa. Tôi bị cho nghỉ việc, bị truy tố là tuyên truyền chống chính sách nhà nước, đưa đi cải tạo 20 tháng ở Thanh Phong, Thanh Hóa.

Tôi ở chung với đám phạm nhân có tên trong “Hồ Sơ Tiêu Diệt”. Đói xanh ruột. Có khi bắt được con chuột cứ bỏ vào mồm mà nhai sống, máu bắn vọt ra đầy miệng. Có khi đi chôn một thằng chỉ gần chết chứ chưa chết hẳn, khiêng cái hòm gỗ ra nghĩa trang mà cái thằng sắp chết nó chưa chịu đi trình diện Bác, cứ lồm cồm lục đà lục đục trong hòm. Kệ, bọn khiêng hòm chúng tôi cứ thảy xuống hố, lấp đất. Trước sau gì cũng chết thì chết trước cho rảnh tay người khác, người anh em đồng chí!

Năm tám tám được trả tự do về không biết ở đâu. Bố tôi đã chết phần vì hận thằng con, phần vì tiếc thương cái dương cầm bán đi mà không được việc gì. Chắc là ông không nhắm mắt. Tôi lang thang ngồi đồng ở nhà mấy thằng nghệ sỹ quen biết. Cái hỏng của bọn làm văn nghệ là chúng nó đều nghèo đói rách rưới cả. Đến ngay cả thằng đã vào biên chế mỗi tháng lãnh hộp sữa cũng đem bán cho bà đầu ngõ, trong khi con hắn thiếu sữa cứ khóc ầm cả lên. Thế đấy! chúng còn đói rạc người ra thì làm sao mà giúp nổi bạn bè. Có đứa thương cho ở nhờ gác xép. Tôi quay qua làm nghề chế tạo thuốc trị hôi nách, cái bí quyết tôi được một anh bạn tù (nói anh hồn anh bạn) truyền cho trước khi chết. Có gì đâu, một nhúm bột khoai trộn hàn the, rắc thêm một thứ bột gia truyền mà tôi thà chết chứ không chịu khai ra đây e mấy ngài học lóm. Lấy thìa múc bỏ vào gói giấy bán mười cắc. Cái nghề làm chơi mà ăn thiệt. khách hàng đồn đãi đông như ri. Toàn là các bà các cô đi nắng mồ hôi ướt nhẹp nách áo. Đã có thuốc rút nước, thoa vào bên phải một ít, bên trái một ít, thế là thơm lừng cả lên. Công việc làm ăn càng ngày càng khá. Tôi cúng vọng anh bạn truyền nghề cái thủ lợn gọi là vọng cố nhân. Thuốc của tôi bán tận vô Nam, gửi cả bằng đường xe, đường tàu suốt. Một năm sau thì tôi tạ từ đứa bạn cho ở nhờ, dọn qua căn nhà mới mua. Cuộc đời tưởng đã yên, ai dè thằng ăn không được nó tức, nó thấy mình ăn nên làm ra toàn nhờ sức lao động của mình, nó truy tố. Công an khám nhà, tịch thu gần tấn bột, bao gói, nhãn hiệu. Bao nhiêu mồ hôi công sức tan theo mây khói, nhà bị niêm vì tội “không đăng ký giấy phép kinh doanh”.

Ấy thế, làm một người dân lương thiện cũng khó. Tôi gom góp một ít tư trang đã gửi nhờ bạn bè làm vốn ra đi. Lý do bác đơn xin tỵ nạn của tôi cũng hợp lý thôi. Vì ông không đăng ký kinh doanh, ông lại viết kịch đả kích chính sách của nhà nước. Chúng tôi nhận thấy rằng nhà nước đưa ra chính sách đăng ký xin môn bài hành nghề là hợp lý với luật pháp của mọi đất nước. Sau đó ông cũng được nhà nước khoan hồng không bắt đi tập trung cải tạo. Sau khi đã cứu xét tất cả lời khai của ông, giám đốc Cục Di Dân đã không đồng ý là ông bị ngược đãi ở Việt Nam chiếu theo công ước về người tỵ nạn của Liên Hiệp Quốc năm 1951. Do đó ông không được phép lưu trú ở Hồng Kông để chờ định cư ở nước ngoài. Ông sẽ bị giam giữ theo điều khoản 13D của Sắc lệnh Di trú cho tới ngày rời khỏi Hồng Kông.

Đúng! Đúng! Đúng! Các ngài thật sáng suốt và công bằng. Các ngài không muốn dang tay đón những con người đến từ ma quỉ, những kẻ đã đánh nhau tơi bời từ đó, mang theo thù hận qua bên này, tiếp tục đánh nhau, tiếp tục hiềm khích, nghi ngờ, lại được đặt trong một cõi sống quá chật hẹp, là phân bón cho dục vọng sinh sôi. Các ngài muốn chúng tôi trở về với ma quỉ để ma ở với ma, và cộng đồng nhân loại không muốn ở chung với những kẻ đã lớn lên trong thế giới quỉ, cộng đồng nhân loại không chịu san sẻ bất cứ một điều gì tốt đẹp với chúng tôi...
Tôi xin kính cẩn đi giật lùi trước bàn thờ tự do dân chủ để trở về với địa ngục xưa.

18


Ngay hôm Hải được công nhận tư cách tỵ nạn thì Hà ăn cánh gà đợt một. Trước mắt Hà chỉ còn con đường trở về mà thôi. Nàng bám tay vào hàng rào nhìn ra biển, thản nhiên bảo Hải:

-Coi như là kỷ niệm, anh nhỉ!

Hải nắm tay Hà, trong lòng chợt nghĩ đến ông thầy tướng nào đó đoán số Hải trắc trở đường tình. Có thể lắm. Dưới mắt Hải có một nốt ruồi, tướng “thương thê trích lệ” như nhiều người thường nói. Chàng đã mất vợ, mất con, và sắp sửa mất thêm một cuộc tình muộn nữa. Nay mai chàng sẽ ra đi tự do, còn Hà? Chàng yêu Hà tha thiết, chàng yêu Hà như yêu tuổi trẻ đang vùn vụt trôi qua của chàng. Đôi mắt trong sáng của Hà bắt chàng phải quay về với thế giới tuổi thơ, tuổi thơ của bé Ngọc, thằng Quỳnh...những tuổi thơ hồn nhiên chắt chiu trong một thời nào đó. Hải không thấy tuổi thơ ở những tuổi thơ thật sự trong trại. Chàng đã dắt dìu cậu bé Thơ từ trại Argyle qua tới đây nhưng dường như nó đang vuột khỏi tay chàng. Nó trổ mã trước tuổi, mắt đã chứng kiến cảnh chung chạ của người lớn, tai đã nghe tiếng rên rỉ...Đôi mắt nó là đôi mắt của con thú đục ngầu những kích thích tưởng tượng trước một trò chơi quá lớn. Một con thú cuồng loạn bị chết trong cũi sắt, không giao tiếp với sự sống mà vẫn phải chứng kiến cuộc đời. Thơ đã là cậu bé mang ước mơ của người lớn, quắt queo thân xác và tâm hồn tan hoang dưới nhiệt độ tàn phá của hoạn quan.

Sự tàn phá! Những đôi mắt còn xanh, những đôi môi ươm đỏ nói cười bằng ngôn ngữ của người lớn. Hải nhận ra trong ngôn ngữ của tuổi thơ trong trại của những đứa lên ba mắt đỏ dính ghèn, của những đứa lên tư da đỏ vết đậu mùa chưa khô, của những đứa lên năm nước mũi chảy vào mồm, những đứa lên sáu ủ rũ dưới hiên - không có tiếng “không”. Chúng thay bằng tiếng khác:

- Tao đéo thèm chơi với mày nữa

- Tao đéo vào

- Mầy có cái đó không?

- Đéo có.

Đó là những tiếng hoàn toàn trong sáng trên đôi môi thơ. Hải chỉ e là đến một lúc nào đó, khi có người tra tự điển tìm chữ “không” thì đọc thấy: đó là tiếng cổ có nghĩa phủ định, như ta nói đéo ngày nay vậy, thí dụ...

Hải hình dung chàng có một đứa con sinh trong trại, lớn lên! Chàng nói:

- Anh muốn làm đám cưới.

Hà lặng thinh. Người lính canh đang đốt thuốc đi ngoài hành lang. Hà nói:

- Anh ra tự do cưới em làm gì?

Hải biết điều đó. Chàng hy vọng mong manh là Hà có thể thắng kháng cáo. Chính quyền chưa có chế độ một cặp vợ chồng chỉ cần một người ra tự do là người kia đi theo. Hải đánh liều cuộc đời với tình yêu. Chàng sẽ không để vuột một lần nào nữa, một lần nào nữa. Tự do là cái quái gì! Những người đi với chàng tới đây đã trở về, những người đã nhổ vào mặt tượng thần tự do, thế đấy. Người bạn Dũng trốn cuộc sống từ ngày đặt chân đến Hồng Kông, cạo đầu làm một tu sĩ không chùa miếu, giữ trong lòng một điều gì bí mật riêng anh. Nhưng Hải biết điều bí mật ấy. Sau khi biết tin Mân trở về, Dũng làm đơn xin hồi hương, từ chối không để ai thanh lọc mình. Cái im lặng dễ sợ của Dũng vượt lên mọi sự im lặng. Anh đã về, có lẽ anh đang tìm cách xuống Thanh Hóa. Hải thấy mình cũng phải sống như thế, cho đáng mặt bạn bè. Chàng sẽ ra tự do, nhưng chàng sẽ, chàng sẽ...

Hải đăng ký kết hôn ở văn phòng Phúc Lợi, chờ ngày ra Hồng Kông làm thủ tục. Chàng tin là chàng luôn luôn đúng trong những quyết định làm xoay cả cuộc đời. Chàng sẽ ở ngoài Kai Tak, chờ cho đến khi nào Hà thắng kháng cáo. Nếu nàng thua, chàng sẽ không đi đâu cả. Tự do đã không cần thiết nữa. Chỉ có tình yêu là đáng kể, chỉ có tình yêu là đáng giữ, ngoại giả là bèo bọt phù phiếm.

Giữa lúc Hải sắp ra tự do thì toàn trại rúng động trước tin 48 thuyền nhân ở Chi Ma Wuan Thượng bị cảnh sát dã chiến bắt cóc. Buổi sáng sớm, bầu trời còn lấp lánh ánh sao đêm thì Phú kèn chợt nghe tiếng mở cổng. Gã tự nhủ: “Quái, chúng nó phát cơm sớm vậy cà”. Phú kèn đã ăn cánh gà và vừa được chuyển từ Chi Ma Wuan Hạ lên Chi Ma Wuan Thượng một tuần. Hai trại, cái trên cái dưới có thể trông rõ nhau nhưng trại trên chỉ nhốt thuyền nhân đã nhận đủ cánh gà. Phú kèn vén màn cửa, nhìn qua ô cửa lưới. Gã không tin ở mắt mình nữa khi cánh cổng sắt to lớn vừa mở ra thì ùn ùn cảnh sát dã chiến đầu mang mặt nạ, tay cầm dùi cui, tay cầm lá chắn, đeo thắt lưng da lủng lẳng lựu đạn xông thẳng vào trại. Vợ con gã đang ngủ, cái Ly nằm dang cẳng thở vi vu ngon giấc. Cả buồng gã ở ai cũng ngủ, dường như cả trại chưa ai thức vào giờ nầy. Phú kèn ú ớ muốn kêu lên mà như bị vướng gì vào cổ họng, gã ớ ớ tịnh khẩu, người cứng ngắt vì sợ hãi. Đột nhiên có tiếng la kinh khủng của một người đàn bà, tiếng la của người thấy ngày tận thế:

- Dậy đi, dậy đi, tất cả mọi người dậy đi!

Điện trong buồng chợt tắt phụt, bên ngoài trời vẫn tối. Những đôi giày nện rầm rậm trên sân. Tiếng người đàn bà rú lanh lảnh:

- Cảnh saáátt!!

Cả trại nhảy dựng lên, có người mới mở choàng mắt thì cảnh sát đã tràn vào chật buồng. Phú kèn ôm cứng vợ và cái Ly, gã run cầm cập. Một gã đàn ông vận quần bò mặc áo đỏ trong đám cảnh sát dõng dạc át tiếng hỗn loạn:

- Yêu cầu ai ở giường nấy không được động đậy hay đứng lên...

Từ các buồng bên:

- Ối giời ơơii! Hục...hục...hục...

- Huu...uu...u..u...!

- Cứu tôi với!

Gã áo đỏ đọc số thẻ, hét:

- Những người có tên vừa rồi phải chuyển trại ngay bây giờ. Cho đúng một phút thu xếp đồ đạc...

- Ôi giời ơi...

- Chúng tôi không đi đâu cả...

- Hu...u..u...!

- Nhất định không đi đâu cả.

- Giời ơ..i..

Hàng triệu thứ tiếng kêu kinh khủng cột vào nhau, tiếng rên khóc, tiếng hò hét chống cự xé toang im lặng, im lặng chết, im lặng thấy tử thần bên ngoài cửa lưới:

- Bịch...bịch...bịch

Cái dùi cui phạt xuống, đôi giầy trận móc lên:

- Bịch...bịch...bịch...

Dùi cui vung lên hiểm độc.

Gã áo đỏ chỉ tay lên giường số 1. Sáu cảnh sát chơi trò bắt người đồng loạt đếm: “Dzách...dzì...xám...”. Chúng nhào tới. Dùi cui đưa lên hạ xuống. Đứa bé ba tuổi ở giường số 1 ré lên thảm thiết. Người cha liều chết đè lên con.

- Bốp...chảng...

Hai tay đứa bé bị bẻ ra sau, một gã bóp mồm đứa bé. Ngất! người mẹ gầm thét giãy giụa, một chân người mẹ bị một cảnh sát túm chặt, hai tay hai đứa khác giữ, bẻ quặp ra sau. La hả! Bịt mồm, kéo sệt xuống đất, khiêng ra xe...

- Hu..hu..hu...!

- Ối...ô..ô.ô...!

- Dzách...dzì...xám...

Chụp tóc cô gái mười bốn tuổi. Bẻ tay, giữ chân, bóp chặt mồm nó. Lôi ra xe.

- Dzách...dzì...xám...

Người cha bị bấm huyệt sau ót, đá văng từ giường hai xuống nền xi măng, bẻ quặp tay, kéo xềnh xệch ra xe.

- Dzách...dzì...xám...

Phú kèn ôm chặt vợ con khi tay gã áo đỏ chỉ về giường gã. Tròng mắt gã lòi ra kinh khủng.

- Dzách...dzì...xám...

Sáu gã nhào lên. Cái Ly rú lên:

- Mẹ...ơơi...!

Nó ngất. Trong giây phút thập tử nhất sanh ấy, Phú kèn quên cả sợ, gã đấm mạnh vào mặt gã cảnh sát. Bàn tay chưa chạm mặt đối phương thì Phú kèn đã bị túm chặt, gã đạp, gào, đấm, đôi mắt sắp rớt ra ngoài khi vợ gã bị lôi xuống trước. Đôi giầy bị đá và ba sườn Phú kèn, một gã “vô tình” giẫm lên ngực gã, gã kia bóp mồm Phú kèn. Cái mồm thổi saxophone của gã bị hàn chặt, cửa ngõ giao dịch với cuộc đời bị bịt kín, vậy mà dường như trong cái mồm của con người nghệ sỹ ấy vẫn thoát ra một điệu kèn đồng, điệu kèn nức nức, tiếng kèn sùng sục giãy giụa, tiếng kèn hục hục như tiếng chó kêu lúc bị nhốt ngoài đêm lạnh. Gã nghe khán giả hò reo nức nở, khán giả đang cổ vũ lẫy lừng khủng khiếp. Rồi gã chỉ nghe tiếng cổ vũ của một người đàn bà mà thôi. Người đàn bà rú lên như thú hoang mang bị bầy thợ săn đuổi cùng đường. Người đàn bà rú, như tiếng mẹ gã. Ừ, mẹ gã đang vỗ tay reo hò điệu kèn của gã đấy. Mà mẹ gã chết lâu rồi. Gã cứ thổi, tiếng kèn hục hục, điệu kèn đưa đám, điệu kèn đưa đám ma nhân loại, điệu kèn ca ngợi tự do, ca hát tình người, một tiếng vui, một điệu buồn, gã cứ thổi, hục hục, hục hục...Cả nhân loại đang reo hò tở mở, tiếng chày vồ bắt nhịp, tiếng dùi cui, một giọng đồng, một cuồng điệu, một tấu khúc lạc loài...Gã thổi, gã thổi nghèn nghẹn nhưng dứt khoát không chịu ngưng. Cả cộng đồng đang đồng ca theo tiếng kèn của gã. Nghe không! ồ, trẻ thơ rú lên sung sướng, đàn bà reo lên hồ hởi, thế, gã thổi hục hục điên dại, gã thổi hục hục bài ca ngợi dân chủ, nhân quyền, tự do, nhân phẩm, tình người. Tiếng kèn hục hục của dân tộc gã, một trăm năm, một nghìn năm, dân tộc gã vùng lên, ngã xuống, cúi mặt tủi nhục, đau đớn. Một nghìn năm, một trăm năm dân tộc...dồn lại, ép lại, về đây với tiếng kèn uất nghẹn, nhục nhằn, đày đọa. Gã cứ thổi, gã sẽ thổi trên sân khấu đời, trên sông, dưới nước, trên non cao, trong hồn thiêng đất nước. Tổ tiên gã reo hò tở mở. Tổ tiên chau mày nức nở. Một nghìn năm, một trăm năm, năm mươi năm...ép về trái tim phồng của gã, hai lá phổi nghẹn ngào nghẹt thở. Gã cứ hục hục muôn triệu nhục nhằn đang dồn vào cuống họng. Bầu trời trong mắt gã mờ đi, tối đặc. Không phải đâu. Bầu trời đang bình minh đấy. Chỉ trong mắt gã thôi. Gã hục hục, hục hục, thế giới đã tắt lửa, những trái tim không còn đập trong lồng ngực còn sống. Gã nghẹn đi. Bầu trời đen đặc. Trời cao đen đặc, đen đặc, đen đặc...Người đàn bà rú như chó sói kêu trăng...đen đặc...tối! gã đã trở về với đất nước giống nòi gã, gã ở trong vũng lầy tổ tiên gã để lại, nhân loại chê gã, gã đi sau lãnh trọn. Bầu trời tối, tối sầm, tối đặc, tối tàn khốc tàn bạo cuộc đời. Tiếng chó sói rú vọng đêm trăng. Cô độc giọng thanh, cô đơn tiếng đục, hục hục, hục hục...

Tiếng kèn của Phú kèn gửi về Hải từ nhà tù Phượng Hoàng:

“Bạn thân mến!

Vĩnh biệt, vĩnh biệt bạn, vĩnh biệt tất cả. Vĩnh biệt tương lai, vĩnh biệt thần tự do dân tộc. Tôi đang mê trong ám ảnh đất nước bùn lầy.

Ngày địa ngục hôm nay

Ngày địa ngục hôm qua

Ngay vào giây phút bị bắt đi tôi vẫn thoi thóp hy vọng là tự do sẽ hoàn sinh trên cái mồm bị bóp chặt. Tôi ngạt thở, tôi thèm một cốc khí trời từ đâu đó, tôi thèm môi đàn bà, tôi thèm, tôi thèm...

Cảnh sát xích ba bốn người vào nhau, tay khóa trái sau lưng. Chúng tôi bị đẩy xuống ba chiếc tàu cảnh sát. Tôi ngất trọn vẹn cả cuộc hành trình. Ôi, từ bến tàu Chi Ma Wuan đến bến tàu Hồng Kông, nước biển không nhiều bằng nước mắt trẻ thơ rơi. Trời còn sáng, sương mù ảo ảo núi xa. Họ đưa chúng tôi đến trại tù có tên là Phượng Hoàng. Bạn chưa bao giờ thấy chim phượng hoàng nhỉ? (Bạn đừng tưởng tượng chim Hồng chim Lạc của ta đấy nhé) Có thật đấy! Cánh to, thân nhỏ, lông xù xì và trong lòng nó những xấu xa dơ bẩn. Đấy, chúng tôi đang ở trong lòng phượng hoàng, da thịt rời từng mảnh đau đớn khôn cùng, bạn ạ.

Vĩnh biệt tự do!

Bác sĩ đến khám, đàn ông bị đánh dữ nhất, có người trẹo cổ, bụng tức, như tôi bị giẫm lên ngực, hộc ra máu. Gã bác sĩ mặc áo blu trắng, nhưng bên trong là đồ cảnh sát dã chiến bạn ạ. Đấy! con người vẫn thích che đậy như thế, tiếc là màu trắng blu của gã che không nổi bộ đồ tác chiến dầy hung độc. Gã chích chúng tôi ban ngày, tối, muỗi chích cay độc.

Hãy bám lấy tự do bạn nhé! Thế hệ chúng ta quằn quại, nhọc nhằn. Hãy sống giùm tôi ngoài cửa trại, sống giùm con tôi, sống giùm vợ tôi. Tôi phó thác cuộc chiến này cho bạn, tôi giao vợ con tôi cho bạn, tôi chỉ là con tằm yếu ớt, xéo thì oằn, giẫm thì nát, tôi muốn nhả tơ đời cho cạn. Mà hồn tôi đã cạn kiệt tơ tằm.

Bạn ơi, tôi trở về với năm nghìn năm lịch sử. Tôi chạy trốn định mệnh. Không ai thoát khỏi định mệnh. Tôi yếu quá. Tôi khóc đây. Tôi yếu hơn cả đứa con bốn tuổi của tôi. Nó thấy tôi khóc, nó bảo: “Bố khóc gì thế! Con không khóc đâu”. Nó ôm tôi, người nó mỏng như tàu lá chuối, ấy vậy mà nó ôm tôi, vuốt ve thằng bố hèn yếu của nó. Cổ tay nó có vết bầm nhưng nó không cần biết. Bạn nghĩ coi, cái thằng Phú kèn chỉ giỏi làm vui thiên hạ, chọc cười bá tánh nhưng không thổi nổi điệu kèn ru con. Được con ôm, tôi tủi thân thương vợ xót con, càng khóc mùi mẫn. Nó thấy thế lại bảo: “Nín đi bố, nín đi bố”. Giời ơi! Đứa cha bất lực là tôi. Người chồng vô dụng là tôi. Kẻ đáng lẽ cầm giáo đi trước nay đã lùi sau mặt trận. Thê nhi xông trước ra cả rồi.

Chúng tôi thòng biểu ngữ chống cưỡng bức hồi hương ra ngoài cửa. Chị Lê khóc vùi, nước mắt chị ấy chắc ướt ống kính của mấy ông nhà báo thập thò ngoài kia. Tôi không biết có ai thấy khuôn mặt thấm đẫm nỗi hờn căm và tuyệt vọng của chị. Có ai xúc động trước dòng lệ chứa chan nghẹn ngào của chị. Chị đã lặng lẽ ra đi, đã nằm chùm hum trên giường khi cảnh sát tấn công trại, chị lên thanh lọc, bảo Cục Di Dân là không ra đi vì lý do chính trị hay kinh tế gì hết, chị không biết những từ đao to búa lớn ấy. Chị ra đi vì chồng chị đánh chị mỗi ngày hai lần, ra phường thưa không ai xử, chị uất ức, thế là đi. Không vì chính trị không vì kinh tế, ngoài hai cái đó ra không có lý do bị chà đạp nhân phẩm.

Mà nhân phẩm là cái quái gì!

Bạn, tôi nhớ tiếng đàn tuyệt vời của bạn khi tiếng khóc của chị Lê vẫn vô cùng bên tai. Lịch sử sẽ không ghi những giọt nước mắt, lịch sử chỉ ghi những biến cố trọng đại. Xung quanh tôi tường dầy buốt lạnh, ở bên ngoài bạn có nghe lớp da trần run rẩy của tôi.

Tôi sắp trở về. Vĩnh biệt Chi Ma Wuan, vĩnh biệt hai lớp hàng rào. Mang theo một đời giông bão, mang theo vết máu bầm trong lồng ngực. Tôi trở về nguyên vẹn nhưng không còn nguyên vẹn. Con ơi con đừng khóc, em ơi em đừng khóc, chị Lê ơi đừng khóc nữa.

Bạn, vĩnh biệt bạn!

Bạn giữ thư này thay thiệp tang tôi viết tên mình trên đó”.

19

Người đàn bà đi tìm con buổi tối trở về mang theo hai gói cơm. Chị sớt ra chén, đặt vào tay Sương, bảo:

- Có cả rau muống xào tỏi đấy.

Chị lặng lẽ ăn. Sương lắng nghe tiếng nhai cầm chừng của chị, có khi trệu trạo, có khi nàng không nghe gì cả. Sương nói: “chị ăn đi”. Người đàn bà buông chén, nằm vật ra giường khóc thút thít. Sương cũng buông chén, lần tay tìm vai người đàn bà. Đôi vai rung dội vào lòng nàng như nhịp đều của quả tim. Có hôm người đàn bà ghìm không nổi, gục đầu vào Sương khóc như một đứa trẻ. Dường như cả cuộc đời này chỉ còn mỗi cô gái mù là để cho chị dựa vào, tỉ tê kể. Sương lắng nghe bước chân của chị trên hè phố, dưới trời nắng lửa, dưới những cơn mưa rào bất chợt. Nàng hình dung cả cánh cổng sắt đen, người đàn bà thò mặt vào, những đứa trẻ chơi đùa trong sân, ríu rít chửi tục. Cả đời sống bên ngoài trại, hay bên ngoài thế giới tối tăm của Sương được chị mang về mỗi tối, trút vào cái vực thẳm của nàng đủ màu đủ sắc, tiếng xe chạy, người nói, những ẩu đả, thậm chí nàng ngửi được cả mùi lựu đạn cay nữa. Chị bảo nếu không có Sương, người chị sẽ nổ tung lên vì ngần ấy chất chứa. Nước mắt chị thấm ướt đầu gối Sương. Chị thở ngập ngừng, mùi nước hoa xông lên mũi đắng cay khó nhọc. Sương bảo:

- Chị nhớ chứ, em bảo chị đừng xức dầu thơm nữa.

- Chị cần mùi dầu thơm.

- Em thích mùi tóc cháy của chị.

- Người ta không thích như thế.

Sương vuốt mái tóc cứng của người đàn bà, người đàn bà nông thôn chân chất, đầu đội nón lá, gập mình trên bông lúa sừng sực. Nàng thích thế:

- Mỗi lần nghe mùi dầu thơm em thấy em xa chị.

Người đàn bà nghẹn ngào:

- Chị cũng thấy chị xa lạ nữa.

Người đàn bà khóc nỉ non. Chị không biết đọc, biết viết, tâm hồn chị trần trụi sơ sinh. Vậy mà chị phải xức dầu thơm. Nước hoa đục khoét tâm hồn chị, ăn mòn da thịt trần truồng của chị như chất cường toan gặm sắt thép. Mỗi sáng chị diện cái quần bò áo thun trắng, nhẹ nhàng sợ làm động giấc ngủ của Sương, lặng lẽ rời trại. Nhưng thính giác của người mù bén nhạy nên Sương nghe rõ cả tiếng kéo phẹc-ma-tuya của chị, cả khi chị cài nịt vú nàng cũng nghe được. Nàng nghe bước chân chị gõ trên thềm xi măng lóc cóc, xa dần. Buổi tối chị về, có khi đã quá nửa đêm, có khi mặt trời vừa chập choạng, bất thường như thế, nhưng luôn luôn có cái gì cho Sương ăn, thậm chí đủ ăn cho ngày hôm sau. Rồi chị nằm vùi trong lòng Sương, đôi vai rung động. Có dạo chị về lúc trời đã bình minh, ngủ vùi một ngày, mùi nước hoa mệt nhọc tan trong bầu khí càng lúc càng nóng. Căn phòng của Sương ba mặt tôn, mặt thứ tư có khung vuông bằng chu vi một tấm tôn tháo đi, quá nhỏ nếu là cửa lớn và quá lớn so với diện tích cái cửa sổ. Người đàn bà nằm xoay đầu ra cửa, nắng hắt chéo trên người chị, móng tay dài sơn đỏ để trên ngực, mái tóc xổ tung vắt ra ngoài ngạch cửa, đong đưa trong gió những sợi cứng. Lắm khi mấy gã thanh niên đi qua, cúi thấp đầu nhìn xuyên qua cổ áo để hở của người đàn bà, cười hô hố! Khi Sương kể những chi tiết cười khả ố của mấy gã thanh niên trước cửa, chị nghệch ra, lặng thinh.

- Họ cười gì thế chị? Sương ngờ nghệch hỏi.

- Chị mặc áo hở cổ.

Sương ngượng ngùng nhớ ngày nào nàng trần truồng đi trên bờ biển vắng. Nàng đứng yên nghe Hải tả bầu trời, màu trăng bàng bạc trên sóng biển, trên cát, trên da thịt nàng. Rồi Hải ôm ghì thân thể nàng trong cơn thèm khát tuyệt vọng, như một đốm lửa chỉ vừa hực lên đã tắt phụt. Nàng không hiểu tại sao nàng lại nghĩ đến Hải, trong khi tiếng nói trầm ấm của chàng, thân hình gầy xương của chàng đã lặng lờ khuất như viên sỏi lẳng lặng chìm sâu xuống đáy nước để nhường cho hình ảnh của Lê Khắc. Người mà nàng kêu bằng “chú”, tiếng kêu vừa xa cách vừa gần gũi, vừa yêu thương lẫn tuyệt vọng ấy, miệt mài trong lòng nàng mãi mãi.

Buổi sáng lúc người đàn bà vừa đi khỏi thì Sương chợt có cảm giác là có người đứng trước cửa nhìn nàng. Dường như mặt trời bị cái gì đó che khuất. Sương sợ hãi lên tiếng:

- Ai đó?

Vẫn không có tiếng trả lời. Sương nghe rõ cả hơi thở của một người, một người đàn ông. Một tiếng thở dài phát ra từ phía cửa, nặng nhọc và buồn bã. Sương càng sợ, nàng lớn tiếng:

- Ai?

Tiếng người đàn ông cất lên, rõ, sát vào mặt nàng:

- Sương, Sương, anh là Hải đây, Hải đây em.

Tiếng nói của biển, của trăng sáng...Sương ú ớ, nàng bật khóc khi tay Hải vuốt nhẹ lên má nàng. Chàng nói: “Anh không ngờ có ngày gặp lại em, Sương, em sao thế”.

Sương tránh bàn tay Hải, lùi lại góc phòng, run run bảo:

- Phải anh Hải à?

Nàng bật khóc thành tiếng. Hải hơi bất ngờ trước phản ứng của Sương. Chàng cởi giầy leo vào phòng, yên lặng nhìn người con gái đang xúc động. Đôi môi rung rung của nàng. Chàng đã hôn lên đôi môi ấy, tháng ngày đã là khoảng cách xa lạ. Hải nói:

- Ừ, anh, em nhận ra tiếng anh chứ!

Phải, nàng đã nhận ra tiếng chàng, cả hơi thở của chàng nữa. Tay nàng chợt chạm bức tranh của Tứ, những màu sắc của Tứ, những màu sắc mà Lê Khắc đã mang đến trong thế giới vô màu của nàng. Bỗng như nàng lấy lại bình tĩnh, hỏi:

- Anh, gặp chú Lê Khắc không?

Hải nói: “Có, anh đọc thư của chú ấy gửi em nè”. Chàng thò tay lên ngực áo. Bức thư của Lê Khắc, đôi mắt của người đàn ông buồn bã và cương nghị hiện ra qua ô lưới hàng rào trại buổi chiều nhìn Hải xách gói ra tự do. Và nước mắt của Hà, người vợ mới cưới buổi sáng buổi chiều nhìn theo chồng như nhìn một cánh chim thoát cũi sổ cánh bay về phương trời biền biệt. Hải ra đi với biết bao nhiêu thứ để lại, trong trại giam, trên đường vượt biển. Người vợ đã chết, đứa con đã chết ở một bờ bãi vắng. Người vợ mới trong hàng rào tuyệt vọng sau khi bị từ chối tư cách tỵ nạn lần thứ hai. Chàng cưu mang chừng ấy nhọc nhằn và hạnh phúc với hai bàn tay trắng. Bàn tay vẫn để trên ngực áo, đôi mắt dừng lại trên đôi mắt lặng yên của Sương, những ngón tay vân vê mép áo. Hải hỏi:

- Ai cắt móng tay cho em thế?

- Chị ở chung đấy. Anh đọc thư đi.

Hải đọc. Chàng không hiểu một tí gì cả, có vẻ như đây là những dòng chữ nối tiếp bức thư trước. Một câu chuyện đúng hơn. Vì có một nhân vật, hai nhân vật. Ôi! Hải thấy nhân vật Lê Khắc kể sao giống chàng quá. Cũng đi vượt biển, một cô gái mù. Một nhân vật nhiều cá tính nhưng cũng thật tầm thường như những con người đang sống chung quanh Hải. Anh ta có những giấc mơ đầy dục vọng, những sở thích, thậm chí chỉ làm lu mờ góc cạnh sắc sảo của một cá nhân bị mất tất cả chỉ để lấy được một điều, tự do. Nhân vật chỉ được ống kính của người viết dọi sáng một góc, không có gì đặc biệt, trừ tình yêu và cuộc sống. Anh ta kết hôn với cô gái trong trại trước khi ra tự do. Anh ta sẽ chờ đợi người yêu ngoài cổng trại, từ chối cả hạnh phúc lớn lao mà anh ta đã tìm gặp để đợi người con gái anh yêu đang mòn mỏi trong ô lưới. Lê Khắc viết những dòng cuối:

“Chú nghĩ rằng đây có thể là một đoạn kết có hậu để cháu yêu thương cuộc đời hơn, cái phần sau của cuộc đời ấy chú không tài nào dẫn dắt cháu đi đến. Cái tột cùng của đời sống là hy vọng, phải không cháu? Nên chi người ta sống được là nhờ những ngày tháng chờ đợi nhau, hy vọng nhau, nối kết nhau bằng sự yêu thương rất mực đợi chờ. Như cô gái điên hoài thai thương yêu đứa con chưa chào đời mà vẫn ghét người đã tạo ra nó, mà vẫn chờ ngày về với làng xưa bên người mẹ tật nguyền đau khổ. Chú rất tiếc là cuộc tình thơ mộng của cô gái mù không trọn vẹn, bởi cuộc đời có mấy khi tròn trĩnh đâu. Người con trai đã lấy vợ vì anh ta là biểu thị của cá tính rất mực cảm xúc, rất mực khát khao, thậm chí rất mực tầm thường nhưng cũng rất đỗi con người. Sương ạ, có lẽ cuộc đời là thế, cháu không nên kỳ vọng nhiều, cháu chỉ nên sống trong hình tượng về màu sắc rực rỡ của thế giới mà thôi, không nên nhìn thấy nó, bởi kỳ quan đẹp nhất của cuộc đời là cái gì ta không nhìn thấy nhưng vẫn cất giấu nó trong sâu thẳm ước mơ. Một điều gì linh thiêng giấu tận đáy lòng. Khi cháu nhìn thấy Kim Tự Tháp, Kim Tự Tháp không còn là kỳ quan trong lòng cháu nữa. Khi cháu nhìn thấy Vạn Lý Trường Thành, Vạn Lý Trường Thành chỉ còn là máu khô xương trắng. Khi cháu đến gần một nghệ sỹ, anh ta chỉ là một con người nghiện ngập, hút sách, rượu chè, kiêu căng và hợm mình. Khi cháu bắt được sợi tơ trời trong một ngày nắng gắt, màu trắng tơ trời sẽ chết lịm trong hai bàn tay của cháu. Khi cháu ngửi ra mùi hương, khói đã tan. Khi cháu nhìn thấy tự do, tự do chỉ là lá mục trôi trên ống rãnh chảy từ hầm cặn bã. Chú chúc cháu như một người có đủ ngũ quan nhưng không nhìn thấy giới hạn xung quanh mà chỉ thấy đường chân trời biền biệt, con người ấy sẽ chạy về phía chân trời rất gần nhưng vô cùng không gian xa thẳm ấy, sẽ chẳng bao giờ đến được, sẽ chẳng bao giờ với tới, sẽ chẳng bao giờ chạm tay nhưng linh hồn đã cao vút chân trời, đã ở trong lồng lộng hư vô. Chú chúc cháu, như thế, thay một lần gặp gỡ.

Sương ơi, chú đã sống sót một nơi quá tàn tệ nhưng chú e rằng không qua nổi bầu trời tự do dân chủ cũng bởi vì khi ở quê hương, chú mơ đến đường chân trời nhân phẩm và đạo lý, và ác thay chú đã đụng đến chân lý cao vọi ấy. Giấc mơ của chú, của nhân loại về kỳ quan tự do dân chủ đã tắt lịm trong bầu trời giông bão của thực tế đen như tinh cầu tắt nắng. Chú đi tìm huyễn tượng mà cứ tưởng mình đi tìm chân lý. Nhưng cháu ạ, dù có đi tìm một huyễn tượng nào đi nữa cũng không có nghĩa là chú từ bỏ cả quá khứ của mình. Không bao giờ. Quá khứ của chú là gì? Là những tháng, những năm khôn lớn ở miền Bắc, ăn học ở miền Bắc, được người ta o bế ở miền Bắc. Một quá khứ rặt màu tang trắng, chết chóc, hận thù và trả giá nhưng chú đã nhận diện mình ở trong tất cả những điều ấy. Chú có một anh bạn dạy học ở đây sinh trưởng ở miền Nam, nghĩa là cái núm ruột phía bên kia. Anh bạn bảo: “Các anh ở phía bên kia, tìm tự do mà còn bám vào quá khứ thì đi làm gì?” Chú đã tâm tình nhiều lần nhưng dường như anh bạn không chịu hiểu, hoặc anh ta có hiểu nhưng nhất định không chịu tin. Trước hết, bạn chú chủ quan khi đồng hóa chú, và những người ở bên kia cùng với chế độ. Bạn chú lại đòi chú phải rửa bỏ cái quá khứ của chú cứ như là hãy lột da mình nhúng vào biển tự do cho sạch hết vị đắng mà chú đã thấm nhiễm suốt bao nhiêu năm. Anh bạn không chịu hiểu cho chú là trời ơi, một người không còn quá khứ thì còn gì là mình nữa, một người không có kỷ niệm thì còn gì là mình nữa, một người không có nguyên quán thì còn gì là mình nữa. Đó là một tất yếu lịch sử, lịch sử trong tiến trình cấu thành người. Bạn chú có lý của bạn chú. Nhưng than ôi, cho dù quá khứ là đốm lửa cháy bỏng thịt da, cho dù quá khứ là tiếng bom gào đạn thét, cho dù quá khứ là giả trá phi nhân, cho dù quá khứ là chia cắt, là nghèo đói, chiến tranh, độc tài, lường gạt, thì những điều đau đớn ấy cũng là trú quán mà tất cả chúng ta phải nương về để sống bởi nào có được cái may mắn chọn lựa như bạn chú đâu! Chúng ta, Sương và chú, những người miền Bắc, những người đau khổ và không may,, có phải đã sinh nhầm trên một mảnh đất bị ruồng rẫy? Chúng ta còn chia lìa dù đã có thể đi từ Hà Nội vào Sài Gòn trên chiếc tàu suốt chở mang bao nỗi niềm cơ cực. Có cuộc sum họp nào làm đau lòng lịch sử như thế nữa. Có giấc mơ thành hiện thực nào phũ phàng hơn thế nữa. Sự thống nhất đã làm nên kỳ quan, nhưng thế đấy, bao giờ kỳ quan mới trở thành hình tượng thể hiện được giấc mơ ngàn đời của nhân loại.

Này cháu, bạn chú chưa cho chú tới gần, mà chú cũng không cho phép bạn chú bắt mình theo định hướng của bạn chú, nghĩa là bắt chú phải từ bỏ quá khứ đã nhào nặn nên con người. Chú tôn trọng quá khứ của bạn chú, chú đã mất tuổi thanh xuân và đau đớn nhìn vận nước, nhìn quá khứ trôi qua như cát ướt chảy qua kẽ tay. Có thể vì thế chăng, nên chi lửa đã nổi lên bão bùng. Có thể vì thế nên những người thuộc “phe” bạn chú đã đốt cháy, đốt thành than năm bé trai, năm bé gái, sáu đàn ông và sáu đàn bà, trong một ngày đầu xuân!

Chú ngửi được bầu khí trời của sáng hôm nay mùi thịt cháy trong đống tro tàn lịch sử. Chú nghe tiếng khóc của em thơ đang bị đốm lửa đốt tiêu tan cả trái tim đỏ máu. Chú nghe tiếng gào đau đớn của những bà mẹ bị nung chín như trong chín tầng địa ngục, và tiếng la thống thiết của anh em trong ngọn lửa bốn bề sôi sùng sục đỏ không gian. Nước mắt chú rỏ xuống nền sân lạnh, và chú chỉ tiếc rằng là sẽ chẳng bao giờ nữa, sẽ chẳng bao giờ nữa, giọt nước mắt ấy sẽ được rơi cho ấm mềm lòng đất lạnh quê hương.

Và như thế, chú lại chúc cháu một lần nữa, là sẽ như một người có ngũ quan bình thường ấp ủ đường chân trời vời vợi nhưng sẽ chẳng bao giờ đến được cõi miền biền biệt ấy.”

Sương khóc nức nở, nước mắt nàng ướt đẫm trên ngực áo, nhòe nhoẹt trên gương mặt nhạt nhòa nắng hắt. Nàng linh cảm một điều chẳng lành. Cái điềm chẳng lành xoáy mãi trong linh hồn mẫn cảm của người con gái, nó không phải là đường chân trời biền biệt mà là một cái gì rất thực, rất lạnh, trong nàng. Hải gọi nhỏ:

- Sương.

Sương đã lớn, bằng đoạn dài khổ ải, và vì thế đã khổ. Thế giới của nàng không còn tối tăm một màu nữa, và vì thế nàng đã khổ. Nàng thấy những màu, những sắc, nàng đã nghe sự cô đơn giăng màu tang trắng, sự cô độc của biển cả, những đêm trăng, những ước mơ vụn vặt và tinh khiết, những đi về vội vã như tháng ngày vội qua của người đàn bà tìm con trên phố lạ, những mưa rơi thầm gõ trên mái tôn, tiếng chim hót, tàn phượng rung xanh lá dọi trên bóng mát thềm nhà. Nàng đã thấy tất cả, cả khí lạnh của cọng lưới giăng thành rào, những mảnh đất khô đổ vùi trên xác em chết trên tuyến đường đi tìm chân trời xa thẳm, tiếng kêu của bầy kên kên, tiếng khóc của cô gái bụng chửa trong ngục giam, mùi cay nghẹt của những trái lựu đạn, và thậm chí cả những gói mì từ ngục tù bên này mang về cho tù ngục bên kia. Sương khóc nghẹn ngào, những giọt nước rơi từ đời người trắc trở.

Hải nói:

- Mình vào thăm chú Khắc em nhé.

Hải giúp Sương khóa trái cánh cửa, cầm tay nàng dắt ra khỏi trại. Nắng đổ gắt, mùa hè biền biệt trên không. Hải vẫn còn tiền dạy học, đủ sống vài tuần trước khi kiếm được việc làm. Chàng khó nhọc dìu Sương lên xe đò, xuống hầm metro, đổi chuyến tàu điện. Một không gian bỗng trở lại trong lòng Hải. Chàng đã dìu Sương đi qua lắm nẻo đường, những nẻo đường xa lạ, mù mịt và chênh vênh cuộc hành trình. Có một lúc nào đó Hải tưởng chàng đã yêu Sương, người con gái đã nằm trọn trong hai tay chàng dưới những giọt nước mưa lách tách rỏ xuyên qua lá, dưới mái hiên nhà ai đó, trong một hoàng hôn tím rịm nhớ nhung, hay dưới ánh sáng vằng vặc của mảnh trăng treo trên khung trời của miền đất lạ. Tóc Sương ướp bụi đường, môi nàng nồng muối chát từ vùng biển này qua vùng biển khác, hoặc có thể hương môi ấy thấm đẫm từ nước mắt của nàng nữa. Chàng nghĩ là đã yêu Sương, yêu tha thiết mà đằm thắm. Chàng phải yêu người con gái cô độc trong cảnh man rợ và dịu dàng của những miền đất Trung Quốc, dưới những màu mây ngũ sắc, và trong những đìu hiu của những bàn chân lạc bước lên nhau. Định mệnh kỳ lạ thực. Định mệnh đưa chàng đến nhưng cũng đẩy chàng đi khỏi hình tượng của một người con gái, hình tượng của sự đẹp đẽ, một lúc nào mà chính chàng cũng không ý thức nổi nữa. Hải chỉ mường tượng ra rằng, từ khi xa Sương, là Sương bắt chàng nghĩ hoài về thôn xóm mà chàng đã bỏ lại đằng sau. Hình ảnh Sương tội nghiệp quá, tội như quê hương chàng, nó bắt chàng sống mãi với màu vàng ố của những mái tranh nghèo, với liếp cửa nghiêng nghiêng trong mưa chiều, thậm chí cả với hình ảnh những lữ hành run rẩy đi xiêu bạt muôn phương tìm cái sống. Hải biết toàn bộ con người chàng được nhào nặn từ từng ấy chất liệu quê hương. Hơi thở của chàng là hơi thở của những lữ khách sinh ra ở Nam Định nhưng phải dắt díu nhau lên Hải Phòng kiếm ăn độ ngày. Hơi thở của chàng có cả mùi đất xông lên trong một cơn mưa vội mùa hạ. Chàng sống trong những hình ảnh ấy, nghĩa là rất gần, thậm chí không có một khoảng cách nào giữa chàng và chúng vì chàng đã là cảnh những tình ấy, thế mà chàng vẫn bứt rứt không yên mỗi khi không gian thời gian ấy hiện về. Chàng chạy trốn quê nghèo vì quê nghèo bạc đãi chàng. Chàng chạy trốn chính mình! Hải đã thành một kẻ gần như khác biệt với con người ngày chưa vượt biển. Quả mật Kinh Kha dường như bị phơi khô sau cuộc bộ trình, sau hải trình bằng giấc mộng dài. Hải đau khổ không dám nói điều ấy cho ai khác, ngoại trừ nói với chính chàng. Có phải sự thay đổi là tất yếu, có sẵn trong mọi người? Chàng đã yêu nước, chàng tưởng chàng đã yêu Sương, và chàng xa hai hình tượng ấy. Sương là mặt kia của đất nước chàng. Nghèo đói, thô bạo, khủng bố, lường gạt là mặt này, mặt kia, ôi, vẫn ngọt ngào, ngọt ngào đến mức khiến Hải tưởng khó bứt rời xa được. Nhưng dù vậy Sương, cái mặt kia, cứ nhắc Hải hoài về cái vùng đất hai mặt hai lòng.

Bàn tay Sương rịn mồ hôi khi Hải cầm tay nàng dắt xuống xe đò. Lâu lắm, lâu lắm...lâu bao nhiêu cũng không vừa, nàng mới đặt tay vào lòng bàn tay người đàn ông đã dắt nàng trôi nổi một khúc dài lưu lạc. Toàn thân nàng run lên, vừa sung sường vừa đau đớn, khi Hải vừa đi vừa nói, vừa tả cảnh. Bao lâu, bao lâu rồi. Tiếng rơi của giọt nước lên vai Hải những lần mưa nào đó. Tiếng sóng biển, tiếng quạ kêu, tiếng thì thầm. Kỷ niệm nàng đầy ắp âm thanh. Những lóng xương còm cõi của Hải khi nàng ép thân thể lên người chàng, khi nàng muốn truyền sức sống nung nấu trong những cơ bắp chưa kiệt vào lớp da quăn quắt héo khô. Định mệnh kỳ lạ thật, định mệnh đẩy nàng đi trước, một giây khắc huyền thoại nhưng đã trở thành miên viễn. Cách xa. Nàng đang đi bên cạnh người đàn ông đã hơn lần sống chết, sống trong tình yêu, chết trong cuộc đời, sống trong đợi chờ, chết trong mơ ước, sống trong hy vọng, chết dưới thời gian, sống trong nỗi nhớ, sống trong một lần trao gửi, sống trong nỗi rung động, và chết, chết hắt hiu bởi trái đất không bao giờ quay ngược vòng để khởi lại chu kỳ. Bên tai nàng vẫn là tiếng động, tiếng xe, tiếng người, tiếng bước chân chàng, tiếng bước chân nàng, những bước chân tan ra hai ngả đường. Bàn tay chàng vẫn ấm, vẫn đầm đập nhịp mạch, bàn tay nàng vẫn ướt, vẫn mồ hôi ướt sũng, nhưng hơi ấm không làm khô băng giá, nhưng tim mạch không làm hồi sinh những tiếng động đã viết thành dĩ vãng. Chàng vẫn đi, đang đi bên cạnh nàng đấy. Tiếng nói chàng vẫn đều đều bên tai nhưng chỉ cắt sâu vào nỗi đau hun hút nhức đau. Chàng đã đi quá xa rồi, Sương biết thế. Sương chỉ đuổi bắt một ảo ảnh kết bằng muôn trùng âm thanh, vô vàn tiếng động. Nàng không còn lại một điều gì để giữ trong lòng bàn tay. Nhưng Sương vẫn sống được, sống được vì nàng đang có một con người đau khổ hơn hướng về nàng nương tựa. Đó là người đàn bà đồng ruộng phải xức dầu thơm, người đàn bà đi tìm con trong trại giam, người đàn bà lang thang trên hè phố đông đúc cô đơn. Nàng nghe được tất cả những điều đó dù nàng đã bị cướp mất đời sống của một con người bình thường. Nàng không cần thấy gì hết, bởi nàng có cần nhìn thấy quê hương đau đớn của mình đâu mà vẫn phải chịu chung triệu nhục nhằn, nàng cũng nào cần nhìn thấy xứ sở tự do đâu mà vẫn phải nhận nghìn lời xua đuổi. Và như thế thì có khác gì nhau đâu giữa triệu nhục nhằn và nghìn lời xua tan tác.

Năm tháng dài đã đi qua đời Hải và Sương khi họ đi đến con đường nhỏ dẫn vào trại Đầu Bạc. Chàng đã mua một ký lạp xưởng trên đường đi cho Hà, một gói thuốc cho Lê Khắc, một bó hương cho thân nhân người thanh niên chết hôm được Cục Di Dân công nhận tư cách tỵ nạn chính trị của anh ta. Hôm được giấy ra tự do, anh ta nhờ người mua rượu nhậu với bạn bè lần chót. Say quá, anh ngã từ giường ba xuống đất vỡ đầu chết. Có lẽ ở bên kia thế giới người thanh niên xấu số không cần thanh lọc cũng vào tới cửa tử.

Chàng sung sướng nghĩ chút nữa sẽ gặp lại Hà trong nửa giờ ngắn ngủi, chán nản nhìn chiếc xe chở nhân viên Cục Cải Huấn đang ngược chiều, những khuôn mặt lạnh lùng mệt mỏi. Chàng thấy mệt nhọc như một người chạy đua sau khi đã đến đích muộn màng. Trong lòng chàng chỉ còn đốm lửa nuôi tinh thần sống sót là tình yêu của Hà. Có lẽ Lê Khắc đúng, chàng đã với tới chân trời nên cõi lòng nguội lạnh khát khao. Chàng sợ hãi nhìn lại những đêm tham gia đấu tranh chống cưỡng bức hồi hương, những cuộc đấu tranh mới đầu là tự nguyện nhưng về sau đã mất dần tính chất ấy, những đứa học trò của chàng mệt nhọc khi bị hối thúc ra ngồi giữa sân trong đêm lạnh. Cuộc chiến chưa tàn nhưng lòng người đã ly tán, đã tuyệt vọng, đã ngồi chờ định mệnh. Chuyện tỵ nạn! Hải thở dài không thấy lối thoát. Đồng bào của chàng, hỡi ôi, ra đi rồi trở về mang theo vài chục đô la Mỹ, để rồi lại ra đi, những con người chân đất khát khao sống.

Người gác cổng chỉ Hải đường đến phòng đợi thăm nuôi. Chàng vừa đi vừa tả cho Sương nghe quang cảnh xung quanh, những tấm sắt nóng che kín khuôn viên trại. Những trạm canh dọc đường. Tiếng trẻ nô đùa vọng từ bên trong. Không một tàn cây che nắng, không một bóng râm còn giữ lại trên mảnh đất bàng hoàng những dãy nhà dài nối tiếp nhau, những hàng rào chất chồng nhau, cả bầu trời cũng bị cắt xén ra làm nhiều mảnh. Thời gian chết sững.

Hải viết số thẻ của Lê Khắc và Hà, trình cho nhân viên phụ trách phòng thăm nuôi, ngồi chờ. Cái băng ghế dài chật ních những người từ trại mở hoặc từ nước ngoài vào thăm thân nhân. Chàng nóng ruột nhìn ra cửa, nhìn con đường dốc xuống uốn ngoằn dẫn vào trại. Đôi mắt mở to của Hà, tháng ngày ùn lại, những ngón tay đan kín tâm tư. Hải châm thuốc, rối rít đầu lửa đỏ.
Điện thoại reo trong gian phòng nhỏ của nhân viên trực phòng đợi. Gã nhấc máy, nhíu mày, ghi lời đối thoại. Gã buông điện thoại, chồm người qua cái quầy thấp. Hải giật bắn người khi gã trọ trẹ đọc tên Sương bằng tiếng Việt. Hải dìu Sương đứng dậy, lúng túng trước những cặp mắt đổ dồn.

- Thưa ông, chính là cô này.

Gã nhân viên Cục Cải Huấn nhíu mày ngắm Sương. Gã hỏi:

- Cô là gì của Lê Khắc

Sương run giọng:

- Thưa, tôi là thân nhân của chú ấy.

Gã thở phào, buông giọng:

- Ông ấy chết hôm qua, tự tử.

Khuôn mặt Sương tái đi, nàng khụy xuống. Hải hỏi dồn:

- Thưa ông, ông ấy tên Lê Khắc, số thẻ VRD... lầm chăng? Chúng tôi vừa tiếp thư ông ấy.

- Không lầm. Ông ấy thắt cổ trong buồng tắm, hồi đêm.

Hải vẫn lặp lại câu hỏi cho đến khi gã đàn ông gắt. Chàng vẫn cho có một sự lầm lẫn chăng, nhưng Sương thì biết chắc nàng không lầm. Chú ấy chả bảo lời chúc thay một lần gặp gỡ là gì. Trời ơi, chú, chú Khắc. Cặp mắt kiếng gãy gọng của chú. Đôi mắt buồn thăm thẳm của chú. Mùa xuân mà chú mang lại, màu sắc mà chú mang về. Sương khóc rưng rức, những dòng nước ướt đẫm trên nền nhà cứng lạnh. Chú còn có Sương để nương tựa, như người đàn bà tội nghiệp đi tìm con vẫn về nương tựa cháu. Cháu đâu thể chết được khi sự sống của mình là nỗi tựa vô bờ của người mẹ đau khổ kia. Chú đã mang về cuộc đời cho cháu, đã chỉ cho cháu thấy đường chân trời mênh mông bát ngát.
Ôi đường chân trời tím rịm tử sinh.
Tiếng ồn ngoài con đường vắng. Ánh sáng trong phòng đợi dường như bị vật gì che khuất lại. Hải ngửng lên, hai bàn tay chàng ướt đẫm nước mắt Sương. Chàng thấy Hà đứng trơ ngay khung cửa. Không gian sau lưng Hà tưng bừng nắng chói.

Ngoài xa, tiếng loa sắt đọc số thuyền rền trong trưa nắng:

- VRD220...VRD 769 ...VRD 248...VRD 101...VRD 257...VRD 1433...VRD 266...VRD 177...VRD 174...

Lê Đại Lãng

Nguồn Trẻ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn