BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73353)
(Xem: 62245)
(Xem: 39432)
(Xem: 31177)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Đàn Bà

11 Tháng Ba 201412:00 SA(Xem: 1133)
Đàn Bà
54Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
54

Phiêu Lưu Ký


1. đàn bà, lyndiol, ménol, thuốc chích và vòng xoắn


THƯA NGÀI, NGÀI CÓ VỢ CHƯA Ạ ? Ngài quyết định sống độc thân cho đến ngày thân nhân ngài lo thủ tục xin giấy thông hành đưa ngài về quê ? Nên lắm. Bạn tôi, ông Mai Thảo đang phơi phới sống những tháng năm không vợ. Đôi khi, thấy bạn tôi nằm cô độc trên giường mà tấm drap ngã mầu cháo lòng và trải luộm thuộm, đánh võ với cảm, cúm, nhức đầu, xổ mũi, tôi đã tưởng rằng ông Mai Thảo "bất hạnh" vì hộ tịch chẳng được cái hân hạnh làm hôn thú giùm ông. Nhưng, những buổi chiều đẹp, thấy bạn tôi ngồi ngất ngưởng bên chai rượu Rémy Martin cùng vài bạn rượu, uống quên đường về, tôi bèn chiêm ngưỡng cái triết lý chê lấy vợ của ông Mai Thảo một cách say sưa, thèm muốn. Những anh có vợ như tôi, như Thanh Nam, như Hoàng Hải Thủy, như Dương Hùng Cường chỉ đủ can đảm thù tạc bên bàn rượu từ bảy giờ chiều tới chín giờ. Ông Mai Thảo và tất cả những ai độc thân đã bất kể thời gian. Họ sung sướng hơn các nhà tu hành ở cái điểm được hưởng đủ tứ khoái công khai. Trong khi các nhà tu hành, thèm nhỏ rãi cái khoái thứ ba. Thèm quá thì chỉ còn cách lạy Phật, lạy Chúa đi một đường lén lút. Nôm na gọi là đi đêm. "Đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma". Rủi gặp con ma báo chí, bước đường tu dễ "nửa đường đi xuống" lắm à...


Những người sống độc thân là những người được hưởng đầy đủ ân huệ của Thượng Đế, nếu họ đừng dại dột đi tu hay lợi dụng cổng chùa, cổng nhà thờ để trốn lính ! Người chủ cũ của tôi, linh mục Nguyễn Quang Lãm khả kính, đã tỏ vẻ thương xót tôi khi tôi "tiếu ngạo giang hồ" làm những quả giã từ vợ con đi lang thang vĩa hè y hệt con chó đói : "Ai bảo mày lấy vợ, đi tu như tao có phải sướng không ?" Tôi hỏi : "Thưa cha, đi tu cần làm chủ cái nhà thờ. Cha lêu bêu không có nhà thờ, sướng ở cái khổ nào ?" Cha Lãm cười khanh khách : "Bố mày, mày xỏ ông nhé ! Nhà thờ là sự bằng an của tâm hồn, con ơi ! Con luôn luôn nghĩ tới cảnh thê tróc tử phục, con khổ suốt đời." Tôi khoái quá, gạ gẫm : "Vậy cha giới thiệu con vào một chủng viện đi" Cha Lãm lắc đầu : "Nội cái vụ mày ăn tục, nói phét đã khó thành... cố đạo". Tôi gãi gáy : "Thưa cha, cha cũng ăn tục nói phét ra rít". Cha Lãm bợp yêu tôi một phát : "Bố mày, tao giờ là cha rồi ! Mày láo lếu, ai cũng trêu trọc, không người trị mày nên Thượng Đế sai vợ mày trị mày đó con ạ! Rán mà chịu kiếp đàn ông".

Thưa ngài, ngài có vợ chưa ạ ? Ngài sắp lấy vợ, ngài bắt chước ông Đại Đoàn Kết Nguyễn Gia Hiến, thực hiện khẩu hiệu đoàn kết bằng cách lấy vợ ? ông Nguyễn Gia Hiến lấy vợ vì ông ít hy vọng trở lại Thượng Viện tháng chín này. Ông ta lấy vợ để ôm vợ, giả đò lên giọng Phạm Thái mà lãng mạn "Chí lớn trong thiên hạ không đầy đôi mắt mỹ nhân", hay học đòi cái nỗi chán chường giang hồ múa võ của Trương Vô Kỵ mà nịnh Triệu Minh "Từ nay, ta sẽ dùng bút lông tô chân mày cho hiền thê". Ông Nguyễn Gia Hiến sướng nhé, ông và vợ ông là bà Nguyễn Hoàng Oanh đã đi vào... văn học sử một cách phước thiện đấy. Thưa ngài, ngài nhất định lấy vợ. Vâng, kệ ngài. Đời ngài kể như vất vả rồi. Ngài sắp phải chiến đấu với loài rắn độc. Vì, thưa ngài, Giê-hô -va Đức Chúa Trời cũ đã can đảm phán : "Đàn bà là rắn độc". Ngài không dám can đảm đâu. Những kẻ có vợ đều hèn nhát. Nếu anh nào can đảm, anh ấy phi vũ phu thì là kẻ bạc tình. Ngài sắp lấy vợ, ngài sắp sống mãn đời ngài bên cạnh một đàn bà. Thưa ngài, đấy, những gì ngài cần biết về Đàn Bà. Biết rồi, xin ngài cho tôi một chứng minh để tôi trả lời linh mục Nguyễn Quang Lãm câu nói bất hủ : "Ai bảo mày lấy vợ, đi tu như tao có phải sướng không", ngài nhé !

Tôi không hiểu tại sao các bà vợ hôm nay sợ đẻ thế. Giả thuyết sợ đẻ vì đẻ đau đã bị những cái máy hút của quý vị đốc tờ Nguyễn Duy Tài, Trần Đình Đệ thông qua. Mỗi nhà đẻ ở Sàigòn bây giờ, đều có cái máy hút khiến sự "vượt cạn" của các bà bớt khổ sở. Quan niệm "đàn bà đi biển mồ côi một mình" chẳng thể tồn tại. Máy hút đốc tờ đỡ đẻ, cô mụ là bạn đồng hành. Vậy tại sao các bà cứ sợ đẻ ? Đẻ tốn tiền chăng ? Học đòi sang trọng, vác bụng tới đốc tờ Nguyễn Duy Tài để bị chém cổ chăng ? Không, đốc Tài giầu lòng từ bi lắm. Các thượng tọa, đại đức trụ trì tại Ấn Quang tự đã cảm hóa được đốc tơ Tài. Do đó, đỡ đẻ và hoạt động Phật giáo là niềm giải thoát của đốc Tài. Người ta đã có tâm hồn Phật thì chả còn tâm hồn bóc lột sản phụ. Tôi không tin các bà sợ đẻ bởi lý do đốc tờ đỡ đẻ "ăn mắc". Tôi cũng không tin vì nền kinh tế bánh đa nhúng nước của Việt Nam đòi hỏi các bà một sự "đóng cửa cai đẻ". Bằng chứng là phần xuất quân bình rồi kiệm ước rồi lại phân xuất quân bình chưa gây nổi nạn chết đói. Hôm trước, giá xăng lên trăm phần trăm. Hôm sau, xe hơi đi Vũng Tàu nghỉ mát đông gấp bội. Và, ở của các rạp xi-nê chiếu phim cao bồi có Pranco Néro hay kiếm hiệp có Trịnh Phối Phối, nếu tới muộn, khán giả chịu khó xếp hàng chờ đợi. Để mua về ban công mà đành ngồi trên bậc gạch. Thực thể đó chứng minh nền kinh tế và tài chính của ta càng ngày càng huy hoàng song song với vật giá leo thang và đánh thuế đủ ba mươi sáu kiểu. Sở Thống Kê cung cấp tin tức đều đều. Vật giá chỉ nhấp nhổm vài phần trăm. Tôi hãnh diện lắm. Nước tôi đã có bốn nghìn năm văn hiến; có Thượng Viện với vài vị nghị sĩ nịnh hót tài tình, mị dân khéo léo; có Hạ Viện với quý vị dân biểu ăn cắp tượng Chàm, nhòm 1ỗ khóa, buôn lịch cởi truồng ăn nói mất dạy; có chợ cá Trần Quốc Toản thối um ; có Hội Đồng Quốc Gia Văn Hóa với ông hội viên "va dơ lin và nước bọt bôi dương vật" Giáp Văn Thập; có Hội Đồng Quốc Gia Báo Chí với quý vị chủ báo Batman, Astroboy, SỐ Mạng bàn tay, Đua Ngựa, Chọi Dế..., nước tôi còn có một nền kinh tế không sản xuất!

Tôi học hành lem nhem, khả năng chỉ đủ viết truyện nhảm nhí nên tôi chê viết những loạt bài khảo cứu tải rặt danh từ khó tiêu, hoặc "ý kiến" hoặc "lập trường". Vâng, tôi không sưu khảo, tìm tòi dài dòng. Tại sao các bà thành phố sợ đẻ, tôi xin nhường cho ông Mã Xái, người đốc tờ đã công du hải ngoại tìm biện pháp ngừa để cho giống nòi, thuyết trình tại Hạ Viện. Các bà sự đẻ vì lo vú dài quả mướp, eo lếc hỏng hết, chóng già... cũng xin nhường cho ông Ngô Văn Hiếu, đốc tờ chuyên sửa sắc đẹp ở lầu 1 Crystal Palace Sàigòn. Tôi chỉ biết vì sợ đẻ nên các bà đã xài Lyndiol, Ménol, thuốc chích và vòng xoắn lu bù. Vợ tôi là một đàn bà (em yên chí, anh không can đảm như Giê-hô-va đâu), một đàn bà bị trào lưu... sợ đẻ quyến rũ. Và nàng sợ đẻ thật lực. Là con chiên của Chúa nhưng, lạy Chúa vạn lạy, vì sự đẻ quá xá, con chiên Trần Thị Phượng đã cưỡng lời khuyến cáo của Đức Giáo Hoàng trong một thông điệp mang đầy tính chất nhân đạo của Ngài.

- Anh ạ, ba đứa là đủ rồi. Hai trai, một gái đầy đủ cháu nội, cháu ngoại, con dâu, con rễ rồi.

- Thêm đứa con gái nữa cho đủ hai đôi. Lưỡng phé chắc ăn hơn.

- Em không thích đẻ nữa.

- Rỡn.

- Nói thật.

- Tại sao không thích đẻ ?

- Không cần trả lời anh. Em đã dặn bạn bè rồi, mồng một Tết sắp tới, chúc gì thì chúc, đừng có gở miệng chúc "đầu năm sanh gái, cuối năm sanh trai".

Tôi khựng lại, mím môi, suy nghĩ. Ừ, lạ ghê. Những cái Tết gần đây, câu chúc "đầu năm sanh gái, cuối năm sanh trai" bỗng mất hẳn. Cụ Trần Tế Xương ơi, giá cụ sống đến hôm nay, cụ sẽ chẳng còn hậm hực :

"Lẳng lặng mà nghe nó chúc con

Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn

Phố phường chật hẹp người đông đúc

Bồng bế nhau lên nó ở non".

Tôi nham nhở :

- Em sợ đẻ thì em nên bắt chước những người đàn bà có chồng ghen trong tiếu lâm Việt Nam,

Nhà tôi hỏi :

- Họ cai đẻ thế nào ?

Tôi đáp :

- Anh chồng đi lính trấn thủ miền xa, sợ vợ ở nhà nhảy dù, nên bắt vợ đánh ở khóa, khóa cửa chặt rồi đem chìa khóa ra nơi bưng biển.

Nhà tôi cằn nhằn :

- Anh sửa soạn bàn nhảm.

Tôi nói :

- Nếu em ngại khóa cửa thì anh đành đi một đường hy sinh, nơi gương hai thành Hoàng Ngọc Liên và Hoàng Anh Tuấn vậy.

Nhà tôi ngạc nhiên :

- Hy sinh cái gì ?

Tôi nheo mắt :

- Cái... ấy ấy... mà. Ngượng chết ! Nhà tôi bĩu môi :

- Anh mà biết ngượng. Cái ấy sao ?

- Anh... thiến !

- Thiến ?

- Hoạn đó. Như con gà, con heo bị thiến, nó chỉ còn biết gáy và hết... đạp mái ! Nó béo mập, mỡ dầy cả tấc, ù lỳ, trông chán chường lắm.

Nhà tôi lắc đầu :

- Giải pháp đó hỏng, kể như anh sống mà đã chết.

Tôi nịnh :

- Anh chết cho em... cai đẻ.

Thấy nhà tôi buồn hiu, tôi vội vàng nói :

- Rỡn đó, anh sẽ thiến theo kiểu Tây chứ không thiến theo kiểu Tầu tức là giải phẫu Hoa Đà. Thiến kiểu Tây là cắt một đường dây điện. Cắt xong, bật đèn hết cháy. Lúc nào muốn cháy, bác sỉ sẽ nối dây điện giùm.

Nhà tôi sốt sắng :

- Hết cháy là sao ?

Tôi cười :

- Là đụng vào, điện vẫn giật... tê tê nhưng không có con.

Nhà tôi quay mặt đi che giấu sự mắc cỡ :

- Cắt có đau không ?

Làm sao tôi biết được có đau không! Thằng Hoàng Ngọc Liên "cắt" ở bệnh viện Cơ Đốc Phú Nhuận, thằng Hoàng Anh Tuấn "cắt" ở phòng mạch một người bạn đốc tờ. Con nhà Liên kể lể một danh sách các nhân vật đã nhờ nó hướng dẫn "cắt". Nó quảng cáo hung hãn, bảo đảm không đau. Tiền nong chỉ tốn vài xín. Nó có cái giấy chứng nhận "đã cắt", gặp các góa phụ là đem ra khoe ầm ỹ nên rất được các góa phụ thể thủ tiết với chống nồng hậu giao du. Thằng Hoàng Anh Tuấn thì thuật lại vụ hai vợ chồng người đốc tờ bạn của nó, đè nó ra, chích thuốc tê mà "cắt". Tôi đùa, hỏi nó : "Vợ bạn mày có sờ dế mày không", nó chửi ầm lên "Bố khỉ, vợ nó cũng là đốc tờ, nó sờ dế tao như sờ miếng thịt trâu chết!". Nó khuyên tôi : "Sáu con như tao hãy "cắt". Mày còn trẻ, "cắt" làm gì". "Cắt", có thể thay đổi tính tình. Và, nếu vô lương tâm, ỷ y vào sự "đã cắt", có thể phá hoại trinh tiết của nhiều thiếu nữ ngây thơ."

- Không đau, nhưng mà...

- Mà sao ?

- Tính tình có thể thay đổi.

Tôi bỗng thốt lên lời vàng ngọc :

- Tại sao em không dùng Lyndiol ?

Nhà tôi mắt sáng rực :

- Lyndiol à, em nhớ rồi...

Lyndiol, một trong những dược phẩm "ghê gớm" của nhà bào chế Organon Hòa Lan. Lyndiol đã trở thành một thứ thuốc cai đẻ lý tưởng cho các bà sợ đẻ từ mười năm nay, tại cái mảnh đất đang chiến tranh chết chóc này. Tôi xin diễn tả hình thức và nội dung Lyndiol, Hai mươi hai viên thuốc nhỏ bằng cái khuy bấm nồi ngoạn mục trên cái vỉ giấy bạc hình chữ nhật được bọc bởi ni lông cứng. Chung quanh cái vỉ bạc, ngoài mép, hai mươi mốt mũi tên nối đuôi nhau chạy. Hai mươi mốt mũi tên đánh đại lấy hai mươi mốt viên thuốc, nhà Organon cẩn thận ghi hai thứ tiếng, đề rõ bảy ngày của một tuần, hoặc tiếng Anh tiếng Tầu, hoặc tiếng Tây tiếng Ấn Độ, hoặc tiếng Xiêm tiếng hoặc tiếng Y-pha-nho tiếng Nhật... Viên thuốc thứ hai mươi hai gọi là viên thuốc cuối cùng, vỉ thuốc xinh xắn đựng trong cái hộp cỡ hộp thuốc lá Gitang của Tây cà lồ nhưng dài hơn chút xíu. Hộp in mầu gạch của. Giữa nên mầu là cái vòng tròn trắng. Trong vòng tròn trắng có hai vòng tròn, một đen kịt giống Ấn Độ bán vải, một trắng toát và hai mặt trăng khuyết. Tôi không hiểu ý nghĩa... cai đẻ của cái dấu hiệu này. Song tôi nghĩ, nếu xuất bản loại sách "Nam Nữ Bửu Giám" người ta nên thuổng mà làm "ăn bờ lêm" cho nhà xuất bản của mình. Lyndiol uống... trước khi ngủ. Mỗi khi uống, ấn mạnh ngón tay trên nắp ni lông cứng. Viên thuốc tụt xuống. Theo lời chỉ dẫn của bác sĩ, chào cờ Cộng sản cho tới khi nghỉ chào thì uống viên thứ nhất. Uống hết viên cuối cùng, đợi chào cờ Cộng sản. Đợi muộn nhất là một tuần sẽ "thấy" linh hồn đỏ của lãnh tụ mắc xít. Chừng không "thấy", cứ bình tĩnh sử dụng Lyndiol. Tháng sau vẫn không "thấy" thì nên an ủi "Trời bắt mình thêm con đây, thôi ta để cho vui. Bởi vì, ta đã quên uống một viên nhầm ngày chồng ta sung sức chiến đấu !"

Quên uống một viên Lyndiol, nhớ kịp, hôm sau phải uống ngay, thật sớm. Lyndiol ly kỳ lắm. Nó chính là thuốc để đẻ! Vâng, các bà lấy chồng vài niên, thèm con nít bế bồng mà không có, quý vị đốc tờ đã bắt uống Lyndiol. Quý vị ấy bảo rằng hãy uống đều đều vài tháng rồi giả vờ quên đi, lập tức sẽ thụ thai. Bên Âu Mỹ họ theo phương pháp này, kết quả rất mỹ mãn. Đẻ liền tù tì, đẻ như cái máy đẻ mà uống Lyndiol đủ hai mươi hai viên trong vòng hai mươi hai ngày mỗi tháng, tự nhiên máy đẻ ngừng hoạt động" Ly kỳ chưa ? Người đàn bà nào "hợp" Lyndiol, dùng nó, lên ký ầm ầm. Người đàn bà nào không "hợp" Lyndiol, dùng nó, tính nết đâm cau có, gắt gỏng. Ngoài tác dụng để đẻ và cai đẻ, Lyndiol còn trị bịnh huyết trắng một cách tài tình.

- Em dùng Lyndiol, anh bằng lòng chứ ?

- Tùy ý em. Em nên nhớ rằng quí vị cố đạo quý vị thầy chùa đã bị Cộng sản kết tội không lấy vợ để sản xuất. Nay em dùng Lyndiol, em cũng bị kết tội không sản xuất.

- Dùng Lyndiol là chống Cộng, chống lại sự kết tội của Cộng sản tức nhiên mình chống nó.

A, Lyndiol còn thêm tác dụng chống Cộng! Thiết tưởng Lực Lượng Đại Đoàn Kết của chủ tịch Nguyễn Gia Hiến nên cổ võ Lyndiol cho... vợ các lực lượng viên của mình đi.

- Em chống Cộng bằng Lyndiol !

- Thì giống người ta chống Cộng bằng mồm chứ sao !

- Ý kiến hay. Lyndiol, muốn dùng nó, phải có toa bác sĩ nhà thuốc mới bán. Anh sẽ đi xin toa mua thuốc cho em.

Nhà tôi bắt đầu :

- Anh nói sao ?

Tôi ngoan ngoãn đáp :

- Phải có toa của đốc tờ.

Con rắn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũ mím môi :

- Ai ra lệnh đó ?

Kẻ A-đam khốn khó nhún vai :

- Bộ Y Tế.

Nàng chép miệng :

- Cái Bộ vô tích sự !

Bộ Y Tế, đôi khi, quả là vô tích sự. Thuốc Lyndiol đâu có ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng mà cũng bày đặt chuyện chỉ bán nếu có đơn thuốc của đốc tờ. Hay Bộ Y Tế sợ nữ cán bộ Cộng sản cai đẻ ? Các nữ chiến sĩ du kích Cộng sản cai đẻ rất nguy hiểm cho sự quấy phá đều đều, bền bền. Phải ngăn chặn Lyndiol vào mật khu. Thiếu Lyndiol, quan niệm tách nước - thứ tình Cộng sản được Mao lãnh tụ khuyến khích, đại khái, tình yêu coi như uống tách nước rồi rửa tách, rót nước nữa mà uống, không chút luyến lưu bất cần nghĩa lý, y hệt (khó nói ghê)... - sẽ hỏng bét. Sẽ có những cái bầu trong bụng nữ cán bộ. Một nữ cán bộ hộ lý mà mang bầu là phá hoại xã hội chủ nghĩa, là giẫm nát sự giải buồn của lãnh tụ, là không phục vụ công cuộc cách mạng chống Mỹ cứu nước !

Hãy tưởng tượng các nữ chiến sĩ lao công, hộ lý, đặc công ôm đàn ác-coóc-đê-ông và vác trống đồng ra đi giải phóng dân tộc! Tưởng tượng xong mới công nhận Bộ Y Tế của ta chống Cộng thật cao siêu. Chống từ tinh trùng Cộng sản chống ra. Vậy mà mãi chưa chiến thắng Cộng sản. Rất tiếc, những lần vào sào huyệt địch, quân ta chỉ toàn tịch thu được thuốc trụ sinh do mấy ông dược sĩ ở Sàigòn tiếp tế và bán cả xe cóc cần toa. Và chẳng hề lụm nổi một viên Lyndiol. Tôi tự hỏi, Lyndiol không ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, không được xác định là thuốc cai đẻ, lại bày bán cả đống ngoài chợ trời, Bộ Y Tế bày trò có toa đốc tờ mới cho hiệu thuốc bán là cái con khỉ gì!

- Vô tích sự thật nhưng em yên tâm, anh sẽ xoay toa mua Lyndiol

Tôi nhìn nhà tôi. Thấy nàng quyến rũ hơn cả bao giờ. Bèn gạ :

- Nhé em nhé !

Nàng lắc đầu :

- Để có Lyndiol rồi tha hồ.

Chết. Tôi sắp khốn nạn vì Lyndiol. Những tháng trước đây, vợ chồng tôi áp dụng phương pháp Ogino. Nhờ đó, thỉnh thoảng chán "cơm nhà" - không chán cũng phải chán, nhỡ lệch phương pháp ngừa đẻ thì nguy to, - tôi phơi phới đi ăn "cơm tiệm" hay "cơm khách". Tôi đã cảm ơn ông vua ngừa đẻ Ogino. ông vua này ngăn chặn cái sự "nhé" đêm bảy ngày ba của những bà vợ ham "nhé". Tôi đoán chừng kẻ phát minh ra Lyndiol là một mụ đàn bà căm thù đàn ông. Mụ hại đàn ông chúng tôi. Mụ bắt đàn ông phục vụ đàn bà long đầu gối.

Chắc hẳn mụ này rõ anh chồng thích ăn "cơm khách", hoặc mụ rỗ huê, sứt môi, mắt lé, mũi tẹt, hàm răng "dưới mái tây hiên", người thẳng đuốn giống cây tre bương nên đàn ông chê bỏ. Mụ cay cú chơi xỏ đàn ông trên cõi đời. Tôi với mụ nào quen biết gì nhau mà tôi sắp bị... đòn thù!

- Này em...

- Gì ?

- Nghe nói Lyndiol khan hiếm lắm.

- Thiếu giống. Chợ trời nó bày nhan nhản. Em sợ thuốc giả. Mới lại toàn chữ Thái, chữ Miên, biết dùng ra sao.

- Lyndiol tốn tiền khiếp !

- Có hơn hai trăm một hộp.

- Uống Lyndiol bị khô... tử cung!

- Kệ.

- Tính nết cau có, gắt gỏng.

- Kệ.

- Nhỡ quên một viên, thụ thai có thể đẻ ra quái thai!

Nhà tôi hãm cái phanh anh dũng xài Lyndiol đánh "rét". Tôi muốn ngài tưởng tượng. Vâng, ngài hãy tưởng tượng một anh du kích Cộng sản tình nguyện đi gài mìn. Anh du kích ngỡ rằng trái mìn nổ là anh sẽ được Đảng gắn huy chương. Khi vác mìn hăm hở đi, xếp anh ta bảo anh ta sẽ tan xác cho cách mạng vô sản, anh ta bèn... hối hận. Hãy tưởng tượng khuôn mặt anh du kích Cộng sản, thưa ngài, Nhà tôi hơi chột dạ :

- Thật hả ?

Và bình tĩnh giả tạo :

- Làm gì có chuyện đó

Rồi nàng cười khẫy :

- Em biết anh ngại xoay toa mua Lynđiol, anh kiếm cớ.

Tôi ngại Lyndiol thì có. Ôi, Lyndiol, một thứ thuốc làm thối chí những thằng chống ham ăn "cơm tiệm". Lyndiol, một thứ thuốc bồi bổ đắc lực cho triết lý "cơm nhà quà vợ".

- Được rồi, nhớ đẻ quái thai, em rán mà chịu.

- Anh đừng dọa.

Tôi đau khổ đi xoay toa. Vào cái dịp nhà tôi làm quen với Lyndiol, tôi chưa quen vị đốc tờ nào. Nhân đọc cái quảng cáo "Bác sĩ Nguyễn Tân Xuất mới mở phòng mạch tại ngã ba ông tạ", tôi hơi mừng. Làm một liều diễn nôm Tân Xuất. Tân : mới. Xuất : ra. À, ông đốc Tân Xuất mới ra trường. Mới ra trường là đợi khách, chắc chắn. Quí vị đốc tờ mới ra trường ti toe mở phòng mạch giống quí vị thầy cãi trẻ tuổi ở cái nước đợi. Tôi hân hạnh chơi thân với một vị thầy cãi vừa mở văn phòng riêng. Văn phòng vị thầy cãi này, một niên ròng, chỉ dành làm nơi đấu láo của bạn bè, tuy cái bảng đồng ngời sáng. Ngày nào, ông bạn thầy cãi của tôi cũng áo đen nhà nghề xách cạc táp ra hầu tòa. Nhưng thay vì cãi, bạn tôi chỉ xoay thuốc lá vặt của tụi phóng viên tòa án mà đốt cho đỡ buồn.

Có hôm đợi quá, hết tiền mua xăng chạy vespa, tôi đã đóng vai ma cô, dụ dỗ thân chủ nhà quê lớ ngớ trước cổng tòa án về văn phòng bạn tôi để bạn tôi cãi... thật rẻ ! Khi người ta đói, người ta bình dân, xuề xòa vô cùng. Tôi bắt đường xe nhân dân ( xe buýt) xuống ngã ba ông Tạ. Tôi đã đoán đúng. Đốc tờ Tân Xuất đang đổ cá ngựa cùng cô y tá răng vổ trong phòng mạch. Anh chị say mê lắc xí ngầu. Tôi gõ cửa hai phút, anh chị mới hay có khách lạ. Cô y tá răng vổ hỏi tôi :

- Khám bệnh, hả ?

- Dạ.

Đốc tờ Tân Xuất sáng rực mắt. Ý hắn đây là lần đầu tiên từ khi mở phòng mạch ông đốc mới được bắt mạch bệnh nhân, ông đốc bước ra bắt tay tôi. Cô y tá dẹp bàn cá ngựa, ông đốc mời tôi ngồi, giỏ đồ nghề và mào đầu :

- Ông đau bệnh chi ?

- Tôi bần thần, mệt mỏi, ăn không ngon, ngủ cứ hay chiêm bao thấy ma quỷ.

Ông đốc đi ống nghe lên khắp lưng, khắp ngực tôi. Ông nghe lâu lắm. Lương tâm thầy thuốc mà. Nghe xong, ông bơm tay, đo "tăng xông" và hỏi :

- Ngoài ma quỷ, ông còn chiêm bao thấy gì ?

- Kiệm ước, hễ thấy kiệm ước là tôi rống lên, vợ tôi phải lay tỉnh.

Ông đốc ra lệnh cho cô y tá :

- Vitamine c !

Tôi bắt đầu đóng kịch :

- Bác sĩ ơi, tôi còn bệnh này kinh khủng bác sĩ đuổi cô y tá ra ngoài mua kẹo ăn đi, tôi mới dám nói bác sĩ khám.

Ông đốc cười :

- Bị lậu, hả ?

Tôi nhăn nhó :

- Lục cù đinh !

Đốc tờ Tân Xuất bảo y tá răng vổ đi mua ba đồng bốn điếu "Ru bi Quèn". Ngài mà trông tận mắt cái bàn tay đốc từ đợi Tân Xuất móc ba đồng bạc "Lúa Ngô" ngài sẽ cười bằng thích. Tôi không dám cười. Đốc tờ Tân Xuất giục :

- Cởi lẹ coi nào !

Tôi gãi gáy :

- Thưa bác sĩ, tôi không có bệnh gì cả. Tôi kiếm cớ khám bệnh để xin bác sĩ mở lòng nhân đức cho cái toa.

Ông đốc ngạc nhiên :

- Mua Bê ni xê lin, hả ?

Tôi mếu máo :

- Bẫm, mua Lyndiol.

- Vợ sợ đẻ à ?

- Dạ.

- Mấy con rồi.

- Bảy.

Tôi nói láo. Ông đốc tặc lưỡi :

- Ố là là... Bao tuổi ?

Tôi khai :

- Ba mươi.

Ba mươi mà đã bảy con.

- Bẩm hai lần sinh ba !

Ông đốc kê toa liền. Toa mua được mỗi một hộp Lyndiol. Ông đốc dặn cuối tháng nhớ đến ông coi bệnh... chiêm bao gặp ma giùm. Tôi cảm ơn rối rít. Ông đốc "ăn" bốn choạc, ta ríp ngã ba ông Tạ. Tôi đưa tấm giấy năm trăm, ông không có tiền thối. Kêu cô y tá răng vổ thì cô này đi mua thuốc lá lẻ mãi chẳng thèm về. Ông Đốc đích thân ra đường đổi bạc"

Tôi bèn thuồng mười tờ giấy kê đơn của ông đốc, gấp vội nhét vô túi. Chả bao giờ tôi còn gặp ông đốc tờ Tân Xuất nữa. Thôi, để ông ta chơi cá ngựa với cô y tá răng vổ của ông ta.

Tôi về nhà, nghiên cứu chữ ký của đốc tờ Tân Xuất. Tôi lấy pơ luya đồ chữ ký của nhà trí thức Việt Nam rồi phăng phăng ký ráp. Ký đủ ba mươi sáu lần, tôi mới đám đồ toa chưa kê thuốc của đốc tờ Tân Xuất mà... ký thật sự. Kết quả hoàn toàn như ý muốn. Bởi vì, thưa Bộ Y Tế, một nhà thuốc ở Sàigòn thì mười năm mới có một lần hân hạnh bán thuốc theo toa bác sĩ ngã ba ông Tạ. Và cái sự Cộng sản nó mua bê ni xê lin cũng vô cùng dễ ợt, nếu nó mua theo kiểu "kiến tha lâu đầy tổ". Vậy là tôi mua được mười một hộp Lyndiol, đủ cho vợ cai đẻ mười một tháng.

Thưa ngài, tôi đã diễn tả về nội dung và hình thức một dược phẩm dao hai lưỡi của viện bào chế Organon. Ngài hiếm con, hãy khích lệ bà nhà dùng Lyndiol. Ngài đông con, càng nên khích lệ bà nhà dùng Lyndiol. Vấn đề đẻ quan trọng lắm. Nhân loại là của đàn bà. Một vị nữ dân biểu của nền Cộng Hòa Việt Nam thứ nhất đã nói một câu bất hủ "Đàn bà đẻ ra đàn ông. Không có đàn bà thì đàn ông không biết chui từ lỗ nào ra đời" khi thảo luận "Luật Gia Đình". Luật này do ông luật sư gia nô của trang nữ lưu Trần Lệ Xuân soạn thảo. Bởi thế, đàn ông dân biểu thời đó sợ hãi đèn dầu Liên Đới mà chấp nhận xuất xứ một chuyến chui ra đời. Kẻ hài bước vẫn nghĩ xuất xứ đó chỉ là cái lỗ... đèn dầu Liên Đới. Tôi tự hỏi, tại sao luật lệ ở nước ta lúc thảo luận, thường hay thảo luận từ cái lỗ. Đấy, "Luật Chương Trình" vừa qua có cả chuyện nước tiểu từ cái lỗ của một nữ lưu dân cử chảy vô chai ! Đàn bà nguy hiểm vô cùng. Đàn bà đẻ kỹ, đàn ông méo mặt. Nhà nước phải cứu nguy nạn đẻ. "Đàn bà muốn là trời muốn".Cựu Ước, theo Moise, Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũ lấy một cái Xương sườn của người nam để chế ra người nữ. Đàn bà có từ đó. Và từ đó, đàn bà gây nghiệp chướng cho đàn ông. Đàn bà mớm miếng táo Kiến Thức vào miệng đàn ông. Đàn ông ngây ngất, đê mê, mệt phờ và biết xấu hổ. Và loài người khốn nạn vì đàn bà.

Đàn bà, Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũ nghiêm túc đe doạ : "Mi khó trị, đề rắn độc đương đầu mi". Đàn bà bị đồng hóa với rắn độc. Giê-hô-va còn phán : "Mi sẽ chịu ách đô hộ của đàn ông", Giê-hô-va đã sai. Vì ngài không sống chung bên đàn bà. Đàn bà cai trị đàn ông. Vị tổ của đàn ông là mông xừ A-đam đã bị vị tổ của đàn bà là bà đầm E-vơ xỏ mũi, bắt nằm dài để được mớm miếng táo. Nuốt táo xong, A-đam thở dốc, vẫn bị mớm. A-đam không dám làm cách mạng. Và nhu nhược suốt đời. Những E-và sinh sôi nảy nở. Và làm thối nát đàn ông, sa đọa trái đất. Giê-hô-va bị phản bội. Ngài ức lắm. Mới tạo ra nạn hồng thủy.

Nhưng Giê-hô-va chẳng nỡ tiêu diệt loài người. Ngài chọn ông Noé, bảo đóng chiếc tàu, lượn trên làn sóng đại hồng thủy, cố sống sót để lập một thế giới toàn những người xứng đáng làm người. Ngài lại sai lầm thêm lần nữa. Trên chuyến tàu tị nạn, ngài cho phép Noé, hễ chọn một con đực tốt thì chọn luôn con cái tốt; con trống tốt cặp với con mái tốt... Và, con cái tốt, của ông Noé, bắt buộc phải là bà Noé. Những con cái tốt của đám con trai ông Noé, bắt buộc phải là vợ họ. Như vậy, đàn bà, nỗi thất vọng của Giê-hô-va, tác phẩm phản bội tác giả, vẫn được cứu rỗi trong nạn hồng thủy.

Tôi đoán chắc bà Noé đã thủ một con dao dí vào cạnh sườn ông Noé. Ông Noé sợ tái mặt, nhìn Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũ bằng đôi mắt nai cầu khẩn. Và Giê-hô-va "ô kê". Trái đất, trước và sau nạn hồng thủy, không có gì thay đổi. Vì đàn bà còn sống sót. Đàn bà, loài rắn độc, theo truyền thống E-vơ, tiếp tục cai trị, xỏ mũi hành hạ, đàn áp đàn ông. Đàn bà Đắc Kỷ cho sự nghiệp đàn ông Trụ Vương đi tàu suốt. Đàn bà Bao Tự thiêu cơ đồ đàn ông Châu vương. Đàn bà Tây Thi đẩy đàn ông Ngô vương vào cõi hai năm mươi. Đàn bà Joséphine bắt đàn ông Napoléon ngửi mùi phó mát hăm nhất. Đàn bà Trần Lệ Xuân đưa dao con chó cho cách mạng giết đàn ông Ngô Đình Nhu. Đàn bà Trần Thị Phấn tự Hoa xách guốc rượt đàn ông Mã Xái. Đàn bà Kiêu Mộng Thu mời đàn ông Khiếu Thiện Kế xơi trứng đẻ ra quái thai và dụ đàn ông dân biểu ngửi nước đái. Đàn bà Huỳnh Ngọc Anh đòi đảo chính đàn ông. vân vân... Ôi, đàn bà, tôi sợ đàn bà thấy mồ !

Đàn bà Ấn Độ muốn đặt vòng xoắn cai đẻ, quốc hội và chính phủ Ấn Độ thỏa mãn ngay. Cai đẻ, bên Ấn Độ, là quốc sách, y hệt quốc sách chống Cộng của Việt Nam. Đàn bà không thích đặt vòng xoắn, đã có Lyndiol, MénoU thuốc chích (đừng bắt tôi viết rõ tên thuốc). Đàn bà muốn phá thai, đã có Okim... Và, khối đàn ông đốc tờ lo giúp. Nếu đàn bà muốn đàn ông treo chim, đàn ông sẵn sàng. Thưa ngài, đàn bà của tôi mới chỉ muốn biết mùi Lyndiol.

- Chết rồi, anh ạ !

- Cái gì ?

- Tối qua em quên uống thuốc.

- Có một việc uống thuốc mà cũng ưa quên.

- Nhiều người quên chứ bộ mình em quên sao ?

- Quên thì rán chịu.

- Nếu thế, phàn nàn với anh ích gì!

- Đừng uống nữa.

- Nhỡ đẻ ?

- Đẻ thì nuôi. Quên, quên hoài. Đã bảo đề người ta "cắt" cho xong chuyện không đẻ. Lộn xộn quá chừng.

Một cuộc cãi nhau bèn xảy ra. Rồi giận nhau. Rồi lo lắng vì tối qua "nhé" hơi kỹ. Chỉ tại Lyndiol. Đàn bà luôn luôn thắng dù đuối lý hay lỗi lầm trăm phần trăm. Đừng bao giờ ngài ham chiến thắng đàn bà, chiến thắng đàn bà không ăn cái giải gì cả. Nếu ngài thương yêu vợ ngài, ngài nên thua. Thua suốt đời. Khi ngài thắng, hoặc ngài đưa vợ ngài ra tòa ly dị, hoặc ngài đến Tô Bia may cái sơ mi gỗ. Bị vợ át giọng, hãy giả vờ "phẫn" nặng. Để có cớ tiểu ngạo giang hồ hai mươi bốn trên hai mươi bốn hay đi ăn "cơm tiệm" lu bù mà khỏi cần trình lý do vắng nhà.

Tôi biết thân tôi. A-đam đã thua E-vơ một keo nặng giữa vườn Địa Đàng thì sức mấy tôi thắng nổi đàn bà. Thua, thua, thua, thua. Chỉ những thằng vũ phu, những thằng đèo bồng vợ lẽ mới ham thắng vợ chúng nó. Tôi bèn thua nhà tôi, âm thầm ngồi lấy giấy vẽ khẩu hiệu "Tối nay, em nhớ uống Lyndiol. Em đã uống Lyndiol chưa, uống Lyndiol trước khi ngủ..." Tôi viết rất đông. Trên kính bàn phấn, dán một cái. Dán vào "a ba dzua" trên "táp đờ nuy" một cái. Cửa buồng ngủ, cửa tủ quần áo, trong cầu tiêu, tường bếp, nắp bếp ga, máy giặt, tủ lạnh... đều có khẩu hiệu quảng cáo Lyndiol ! Thế mà nhà tôi vẫn cứ quên.

- Việc hệ trọng của em, em không nhớ. Chỉ nhớ chuyện gây gổ với anh. Nói câu nào cay cú trong lúc nóng giận, em nhớ không sót một tiếng. Uống thuốc thì quên. Rất tiếc ta chẳng ở Mỹ.

- Ở Mỹ thì sao ?

- Thì anh mua thứ thuốc cai đẻ thần sầu.

- Quên có sao không ?

- Không thể quên được. Này nhé, vì thuốc nhét vào cái đồng hồ. Cứ sáu giờ sáng, chuông đồng hồ reo inh tai nhức óc. Hai vợ chồng ngủ say cách mấy cũng phải mở mắt. Một viên thuốc rớt ra. Tự động mà. Em sẽ lượm mà nuốt. Rồi ngủ nữa hay "nhé" rồi ngủ. Đồng hồ đặt ngay ở đâu giường.

E-vơ sướng quá :

- Ờ, thích nhỉ ! Nhưng nếu đi xa, đi Vũng Tàu nghỉ mát, chẳng hạn, thì sao ?

A-đam nhún vai :

- Thì mang theo.

- Nhỡ quên ?

- Quên à ? Quên thì.., có chữa. Cũng như cao bồi ấy, "bắn chậm thì chết".

- Làm thế nào mua được thuốc cai đẻ Mỹ ?

- Một là em đi... lấy Mỹ. Hai là anh đi làm bồi Mỹ. Ba là Bộ Ngoại Giao mời anh đi làm đại sứ.

- Anh đểu vừa vừa chứ nhé! Anh dám đặt hàng đại sứ dưới me Mỹ và bồi Mỹ.

- Không, anh chỉ so sánh. Em ơi, ba điều trên chúng ta đều khó thực hiện. Vậy bổn phận anh sẽ giống cái đồng hồ chứa thuốc cai đẻ "made in USA". Anh hứa với em, với nạn nhân mãn khủng khiếp đe dọa quê hương ta, với nền kinh tế kiệm ước và chấn hưng một trăm năm mươi ngày, sẽ không quên vặn dây thiều.

- Nhưng mà...

- Mà sao ?

- Giá có Lyndiol kiều Mỹ!

- Anh đã nói rồi, hoặc anh qua Mỹ làm bồi hoặc anh được ngồi vào chỗ của ông Bùi Diệm.

Thứ thuốc cai đẻ lý tưởng khiến E-vơ phiêu lưu hơi xa nỗi lo ngại "quên" của mình. Nhà tôi ưa quên lắm. Đi bán hàng thì quên chìa khóa. Đi mua hàng thì quên lấy tiền trả lại. Đi du lịch ngoại quốc thì quên đổi đô la chợ đen. Quên, đó là căn bệnh kinh niên của nhà tôi, con mẹ đàn bà phức tạp nhất thế giới. Bây giờ, trí tưởng đã mỏi mệt. Sau cuộc phiêu lưu ngắn, nhà tôi nhăn nhó:

- Tối qua quên uống thuốc, em sợ quá.

- Thì uống trả nợ ngay đi.

- Uống trả nợ nhỡ vẫn "bị" ?

- Thì đẻ.

- Đẻ ra quái thai à ?

- Tôi đã long trọng cảnh cáo, ai bảo không nghe tôi.

E-vơ thộn mặt. Đôi mắt long lanh. Long lanh như lần ngậm trái táo trên vườn Địa Đàng. A-đam đứng nhìn, thèm nhỏ rãi. Và khi E-vơ gạ mớm thì "ấy" liền. "Ấy" hùng hục. Tôi bèn nói :

- Chỉ còn một cách.

Nhà tôi hớn hở :

- Cách nào ?

Tôi đáp :

- Mở cuộc chiến tranh. Em nên nhớ rằng hôm qua anh đuối sức, vừa "nhé" đã "xuất quân" y hệt chưa đến chợ đã hết người. Đám chiến sĩ xây dựng loài người "ở trỏng" yếu lắm. Hôm nay, bây giờ đây, anh hung hăng vô cùng. Ta "nhé" và tung đạo quan lê dương viễn chinh "vô trỏng". Đạo quân này sẽ uýnh đạo quân tối qua. Hai bên uýnh nhau sẽ chết hết. Đứa nào còn sống thì mệt tử cò bợ, hết ham làm chiến sĩ công binh tạo tác!

Nhà tôi nhõng nhẽo :

- "nhé" ban ngày à ? Tôi gật đầu :

- "nhé" ban ngày để lùng địch để diệt địch.

E-vơ lặng lẽ đóng kín cửa, bật đèn ngủ. A-đam xua tay :

- Khoan.

E-vơ hỏi :

- Đợi gì ?

- Phải uống hai lon bia Mỹ cho nó ngấm.

Những thủ tục lỉnh kỉnh xong xuôi, A-đam và E-vơ diễn cảnh cũ rích trên vườn Địa Đàng. A-đam xung phong, giết, giết rất ác liệt. E-vơ muốn chắc đỡ... có bầu, bắt A-đam đánh ba trận liền. Có bao nhiêu quân tung vào hang hùm hết. Chiến sĩ A-đam "nhé" kỹ. Đến nỗi, "nhé" hết nhiệm vụ thì phải bò vào phòng tắm. Rồi bò ra. Nhờ E-vơ đỡ lên giường. Ngủ li bì. Tới bữa cơm, thều thào nói : "Răng mỏi quá, không nhai được" !

- Anh ạ, tháng này "thấy" sớm.

- Tốt.

- Tốt con khỉ, còn một viên thuốc nữa. Mọi tháng, uống hết thuốc, chờ mấy ngày mới "thấy" cơ mà.

- Cái cảm hứng của "thấy" nó dào dạt thì nó ra sớm.

- Tôi không nói chuyện văn nghệ.

- Ăn vạ tôi à ? Ai bảo lấy chồng. Các cụ đã dạy : "Lấy vợ sinh con rồi có cháu, làm chồng làm bố sẽ làm ông". Đàn bà lấy chồng không để đẻ thì làm chi đây ?

- Đẻ đủ rồi.

- Chưa đủ.

- Đủ.

- Chưa.

- Câm miệng lại, chưa đủ.

- Câm miệng lại, đủ rồi.

- Muốn không đẻ thì cắt tóc lên chùa Ấn Quang mà xin làm bà vãi.

- Anh đi tu xem sao.

- Cô bằng lòng cho tôi đi tu, hả ?

- Ở núi Sam cơ.

- Không, tôi tu ở thành phố. Tôi làm sư thành phố.

- Im đi.

- Này, cô át giọng tôi, tôi đăng đàn thuyết pháp là cô chết.

- "Thấy" sớm có sao không anh ?

Con rắn, quả nhiên, nhiều thủ đoạn của rắn. E-vơ thấy A-đam đòi đi tu, bèn sợ quá.

- Có sao không anh ?

Tôi, một đàn ông, thứ đàn ông phản kháng A-đam kịch liệt, có rất nhiều kinh nghiệm về đàn bà. Thú thật, tôi ghét đàn bà cay đắng. Chỉ vì không có đàn bà thì sống không được nên tôi phải ngậm "bồ hòn" mà yêu đàn bà đấy thôi. Tôi thù Giê-hô-va, thù ông Noé. Tại sao đã tạo nạn hồng thủy mà chẳng chịu diệt hết đàn bà ? Tôi sinh ra đời, như linh mục Nguyễn Quang Lãm phán, để bị đàn bà cai trị. Tôi sợ từ hạt bụi. Hạt bụi, bố anh, anh mà bay vào mắt vợ tôi là tôi khốn nạn. Trước hết, tôi phùng mang trợn mắt mà thổi bụi theo lệnh đàn bà. Thổi hoài bụi nó không chịu ra, đàn bà nó bắt tôi banh mắt nó ra truy tầm bụi. Hôm nào vong hồn tổ tiên linh thiêng, ủng hộ tôi một tí, tôi tóm cổ được con nhà bụi liền. Hôm nào tổ tiên tôi quên tôi, con nhà bụi ẩn kỹ, đàn bà cau có. Và tôi cau có. Thế là tôi sì nẹc, đập phá lung tung và ra đi... hẹn về. Than ôi, ai dám ngờ hạt bụt cũng đủ gây sóng gió cho đời tôi.

- Có sao không anh ?

- Có, đến tối có sao.

- Tối có, hả ?

- Tối đầy sao sáng.

- Anh giễu à ?

- Ai thèm giễu. Thực sự tôi chán tất cả. Chán đàn bà, chán Lyndiol, chán "nhé", chán, chán, tôi chán. Tôi sẽ đi tu. Tôi cần tu. Tôi cứ tu. Trước khi đi tu, tôi sẽ đi hỏi đốc tờ cho cô về cái vụ sớm. Tôi sẽ hỏi như đã đi mua bông vệ sinh Bạch Tuyết cho cô. Tôi cóc xấu hổ gì hết trọi. Chao hỡi, song thân, tại sao hai đấng chả chịu sinh con là ái nam ái nữ!

E-vờ cười thích thú :

- Bao giờ anh đi hỏi đốc tờ ?

A-đam thối chí!

- Tôi đi ngay. Tôi đi ngay.

Và lầu bầu chửi thầm :

- Sư anh A-đam, anh ăn táo ngon miệng, anh làm khổ chúng tớ.

Đàn ông, với đàn bà, nhất là đàn bà đẹp, thơm như mít, không thể khá hơn.

Đàn ông, mi chỉ hơn nô lệ ở cái khoản được nằm trên. Sau đó, mi bị hành hạ khổ sở.

- Tháng này mãi không "thấy" gì cả.

- Em muốn thấy gì ? Anh chán em kéo cờ Cộng sản rồi.

- "Thấy" cái "ấy mà"

- Thấy "tội" hả ?

- Sao lại "tội" ?

Giê-hô-va chơi khăm ra phết. Hai hình phạt mà đàn bà phải gánh chịu là mỗi lần đẻ và mỗi cuối tháng kéo cờ đỏ. Trước đây, người ta gọi là kéo cờ Nhật Bản. Nhưng Nhật Bản với Việt Nam đang liên kết mật thiết, gọi thế, e xúc phạm nền bang giao. Thôi đành chống Cộng sản bằng cách gọi cái sự "thấy" mỗi cuối tháng của đàn bà bình thường (không có bầu, không có bệnh) là kéo cờ Cộng sản vậy. Đàn bà mà không phải chịu đựng một trong hai hình phạt của Giê-hô-va, họ sẽ khởi loạn tranh đấu ra rít, tranh đấu ác liệt hơn sư hổ mang.

- "Tội" của đàn bà. Em ngẫm xem, những ngày treo cờ Cộng sản em có khổ không ?

- Khổ quá.

- Đàn ông làm gì bị cái trò đó. Giê-hô-va trung lập thiên đàn ông.

- Này...

- Gì ?

- "Thấy" muộn, em sốt ruột ghê. Quá hạn rồi mà "hồng quân" chưa trở lại!

- Vậy là em muốn đẩy anh đến ông đốc tờ để ông ta kê tủ đứng vào họng anh, hả ? Em đi mà hỏi. Đến mông xừ Nguyễn Duy Tài gấp. Mông xử Tài "ga lăng" số dzách. Coi chừng, ông ta ôm chặt hôn gỡ một phát thì anh... lỗ vốn.

- Em ghét "thằng cha" Tài!

- Cũng dễ thương chứ ?

- Đang khám bệnh "thằng cha" nghe chuông điện thoại reo là chộp lấy đấu hót với thầy chùa cả nửa tiếng.

- Lủy mê thầy chùa, đồng thời, vẫn dành cảm tình cho các bà phước. Chả nên công kích người bạn của... sản phụ.

- Anh đi hỏi giùm em đi.

- Lạ ghê ! "Thấy" sớm tôi cũng khổ, "thấy" muộn tôi cũng khổ. Không "thấy" tôi còn khổ chừng nào ?

Bèn đi hỏi đốc tờ. Tôi, lần nào gặp đốc tờ, hỏi về vụ Lyndiol cũng đều diễn tả E-vơ như một con mẹ đang đau khổ vì bệnh trĩ. Vừa trĩ sa trôn trê vừa ho lao sắp mặc sơ mi Tô Bia. Đàn bà như vậy rất đáng thương. I-pô-cát cho phép môn đệ giúp mụ ta cai đẻ. Đốc tờ bắt mua ống thuốc điều kinh chích vào mông. Và khuyên nên bỏ Lyndiol dùng Ménol. Ménol, thứ thuốc cai đẻ mà tôi sắp diễn tả hình thức và nội dung của nó.

Ménol là dược phẩm của viện bào chế I.S.H. Tôi không biết I.S.H. viết đầy đủ ra sao. I.S.H. ở số 91 phố Vangirard Pa-ris 6è. Cái hộp bằng giấy bên ngoài không lấy chi làm đặc sắc. Nhà Roussel Việt Nam, 6 đại lộ Nguyễn Huệ Sàigòn, được "thầu" lại cách chế của I.S.H. nên Ménol có lời chỉ dẫn bằng "tiếng quốc ngữ, chữ nước ta". Đựng trong hộp giấy là hộp nhựa nhỏ bé, xinh xinh. Nắp hộp nhựa hình tròn. Phần dưới hình bát lăng. Trên hình bát lăng có miếng mê ca trắng xoay tròn. Dưới miếng mê ca trắng là cái mặt trông y hệt mặt đồng hồ. Những con số từ 5 đến 25 đỏ chói. Ngoài mép, đứng hách như cô Ba Tý, là hai mươi mốt viên thuốc trắng. "Đề-pa" thì bật đèn xanh và uống viên thuốc số 5. Số 5 tới số 15, viên thuốc nhỏ, ghi chữ Ma. Mười viên sau lớn hơn, ghi chữ Mb. Uống đến viên thứ 25 thì đèn đỏ bật. "Xì-tốp" chờ treo cờ Cộng sản. Ménol, hình thức vừa tựa hộp phấn Max Pactor. Nếu bán ở tiệm son phấn, nhiều giai nhân Hố Nai, Gia Kiệm có thể mua về uống cho mặt hết sủi tăm, trứng cá được mùa lắm à!... mấy anh Chà-và bán son phấn ưa xỏ lá vô cùng.

Về nội dung của Ménol, tôi xin phép ông Roussel Việt Nam, trích của ông một đoạn văn chương cai đẻ. Ménol chuyên trị :

- Các trường hợp tắt kinh.

- Kinh kỳ không đều hòa.

- Hành kinh đau đớn.

- Các triệu chứng trước mỗi kỳ kinh hoặc giữa hai kỳ kinh.

- Biến chứng khi bể kinh.

Cách dùng như sau : Ngày có kinh kể từ ngày đầu tiên của kinh kỳ, đến ngày thứ năm bắt đầu uống một viên nhỏ, dù còn hay đã hết kinh. Tiếp tục uống mỗi tối một viên nhỏ cho đến ngày thứ 15 (tổng cộng là II viên nhỏ), rồi kể từ ngày thứ 16 mỗi tối uống một viên lớn, như thế trong mười ngày liền. Cần phải uống đều đều mỗi tối và nên uống vào lúc đi ngủ. Nếu tối nào quên uống thì ngày hôm sau phải uống bù một viên vào buổi sáng và buổi tối vẫn uống một viên dành cho ngày hôm đó. Thường thường sẽ có kinh lại hai hay bốn ngày sau khi viên thuốc cuối cùng, nghĩa là vào khoảng ngày thứ 27 cho đến ngày thứ 29 của kinh kỳ. Đến kỳ xuất kinh kế tiếp điều trị theo cách chỉ dẫn ở trên. Nếu đến ngày thứ 8, kể từ khi ngưng uống thuốc mà vẫn chưa có kinh thì ngày hôm đó phải điều trị lại bằng cách uống một viên nhỏ thứ nhất, theo lời dặn của y sĩ điều trị. Trong khi trị liệu lần đầu, có thể xảy ra chứng buồn mửa nhưng hiện tượng này thường nhẹ và sẽ mất hẳn trong những kỳ trị liệu tiếp theo.

Muốn "bắt" Ménol mỗi tối bỏ vô miệng, tay trái cầm phía dưới hộp, tay phải xoay cái nắp mê ca trắng một nấc. Nắp mê ca có lỗ thủng, viên thuốc sẽ rơi ra. Đang xài Ménol mà "đình chiến" với nó, dù chỉ tạm thời, noãn sào sẽ hoạt động trở lại mạnh mẽ. Do đó, trứng lại tiếp tục rụng, hứa hẹn có bầu sau những cuộc "nhé". Nội dung và hình thức của Ménol đã được diễn tả tỉ mỉ. Ménol hay Lyndiol bị phủ nhận là thuốc cai đẻ, mặc dầu, chúng là thuốc cai đẻ của những đàn bà sợ đẻ. Lyndoi và Ménol, tôi không ngờ, chúng lại chung lập trường với các chính khách cỡ lớn. Nói không mà có, có mà không. Thanh minh phải hiểu là xác nhận ngầm. Bố các anh Ménol, Lyndiol, các anh rắc rối quá. Tôi sắp điên đầu với sự rắc rối cuộc đời của các anh đây.

- Anh ạ...

- Cái gì ? Để tôi xem nào. À, cuối tháng, chưa ra tòa án của Giê-hô-va chịu tội, hả ?

- Em buồn mửa quá.

- Ai bảo tiếc của vớ vẩn. Thức ăn tối qua thừa thì đổ đi, không đổ, đem cất vô tủ lạnh, trưa nay hâm lại ăn nên đau bụng, buồn mửa chứ gì ?

- Không phải.

- Thế tại sao buồn mửa ?

- Ai mà biết,

- Có thèm ăn khế chua không ?

- Không.

- Lạ nhỉ ?

- Dạ.

- Cơ sự hãy tôi phải đi Đà Lạt mất.

- Đi làm gì ?

- Coi bói.

Ở Đà Lạt, ngoài thầy bói Chiêm, người rờ mu rùa đã làm rung chuyển chế độ Bắc Việt hôm nay, còn một ông thầy bói sáng ly kỳ lắm. Khách tới nhờ ông coi bói, nếu người từ Sàigòn lên, thầy bói sáng sẽ chạy khỏi cửa, một bàn tay chụm đặt sát vào tai, bàn tay kia chụm đặt sát vào miệng như cái ống nói và nghe. Rồi ông alô, alô... Người ta bảo ông gọi âm binh. "Alô, alô. Đà Lạt gọi Sàigòn, Đà Lạt gọi Sàigòn, nghe thấy không ?" Gọi dây nói... âm hồn chừng một phút mà chẳng ăn thua gì, thầy bói sáng mời khách ra về thơ thới hân hoan. Nhưng gọi được, thấy đoán trúng vanh vách.

Tôi có người bạn làm nghề viết báo. Vợ hắn mắn đẻ vô cùng. Và cũng phải dùng Lyndiol. Mợ dùng Lyndiol không hợp. Bị xúi dại, chưa dùng hết tháng, mợ đòi Ménol cuối tháng trục trặc kỹ thuật, mợ chậm kéo cờ Cộng sản, mợ rầy rà cậu. Cậu ức quá, giá vợ lên Đà Lạt. Cậu đi coi bói ở nhà thầy bói. "Alô, Alô alô, alô, Đà Lạt gọi Sàigòn. Sàigòn nghe rõ chưa ? Alô, alô... Thế à ? Nguy hiểm à ? Không sao chứ. À, bà ấy xài hai thứ thuốc cai đẻ à ? Cám ơn Sàigòn nhé !" Bạn tôi nghe xong, sợ toát mồ hôi, phục thầy bói Alô sát đất.

- Em ạ...

- Gì hở, anh ?

- Đọc lại cách chỉ dẫn dùng Ménol xem sao ? Hì hì, đây rồi "Trong khi trị liệu lần đầu, có thể xảy ra chứng buồn mửa..."

- Hú vía.

Khuôn mặt nhà tôi rạng rỡ. Tôi bắt tội nghiệp đàn bà. ở Chợ Lớn có một đàn bà Việt gốc Hoa rất sợ đẻ. Mụ tới trình bày hoàn cảnh với bác sĩ. Vị bác sĩ nọ hơi khôi hài, ông ta khuyên mụ nên ra hàng thuốc lá mua mười hai cái kẹo sô cô la bọc giấy vàng, mỗi tháng xài một cái. Mụ đàn bà ngu dốt cứ thế mà thi hành. Mỗi tháng mụ nuốt một cái. Mới nuốt đến cái thứ sáu, mụ đã thấy bụng nổi báng. Mụ đến bắt đèn vị bác sĩ nộ. Vị bác sĩ cười bò ra phòng mạch, Cười xong thì khen bộ máy tiêu hóa của mụ rất tốt. Nuốt sáu cái "áo mưa" mà bao tử không bị loét!

Về chuyện cai đẻ, tôi đã gặp lắm cảnh cười ra nước mắt. Có đàn ông sợ đẻ thay cho đàn bà, mỗi tháng mỗi nghiên cứu phương pháp Ogino khiến vợ ông ta phát chán, nhờ luật sư làm thủ tục ly dị. Theo chị đàn bà này, công việc sáng tác là theo hứng chứ không thể áp dụng bằng công thức một cách máy móc. Lại có đàn ông giấu vợ đi thiến. Thiến được một năm thì vợ thủ thì... có bầu. Anh đàn ông trợn trừng mắt, sùi bọt mép, ngất ba hôm. Tỉnh dậy, sờ lên đầu mới hay đầu mình lởm chởm sừng non, sừng già. Đành ngậm nỗi căm hờn, không dám nói, dù chỉ nói với vợ.

Ménol không được chiếu cố tận tình bằng Lyndiol. Vì nó chế "xú lít xăng" của Tây. Đàn bà luôn luôn có lý. Đàn bà nói :

- Việt Nam làm ẩu tả, thuốc thiếu "đô" là thường. Thuốc cai đẻ mà thiếu "đô" thì... chết.

Đàn bà nói là trời nói. Đàn ông cãi :

- Phải có tinh thần "ta về ta tắm ao" Muốn dân mạnh, nước giàu, ta nên dùng đồ nội hóa.

Đàn bà quắc mắt :

- Ao ta là ao tù anh cũng bắt tôi tắm à ? Nhỡ ghẻ thì sao ?

Đàn ông bèn câm miệng. Tôi biết chắc tổ sư A-đam đã nhất định không chịu để tổ sư E-vơ mớm táo. Nhưng E-vơ nhiều đòn vọt. Đòn thứ nhất là tỉ tê giữa đêm khuya thanh vắng khi chỉ còn giun dế đùn lên những giọng sầu. Hàng triệu triệu đàn ông "chết rồi vẫn trỗi dậy dẹp ghế bố" chẳng phải vì uống thuốc bổ thận của nhà thuốc Thảo Nam Sơn. Mà vì điệu tỉ tê gù đạp :

" Đêm khuya thanh vắng để làm chi

Ăn no ngũ kỹ lại nằm khì

Chàng ơi trở dậy chiều em tí

Đi..."

" Đi", ôi tiếng "đi..." nũng nịu làm như trời nồi gió lớn và giục đàn ông dựng cột buồm ra khơi. Đàn ông, chỉ những anh điếc mới không nghe được âm thanh gợi tình của tiếng "đi" từ đôi môi đàn bà êm ái như điệu gió đàn bò vào tai mình. Có thể, bọn đàn ông thô lỗ "lông nách một nạm, trà tàu một hơi, vai u thịt bắp, mồ hôi dầu", lại trót tu bẩy xị đế, ngủ rống như còi xe lửa, răng nghiến răng ken két mới tàn nhẫn đến cái độ không thèm "trở dậy chiều em tí". Những lãng tử, những nhà nghệ sĩ chân chính trên cõi đời, dù đang nằm mơ thấy ngày mai đói rách, thoáng nghe âm thanh "đi" là vội tỉnh như con sáo sậu, "đi" liền. "Đi" mau, "đi" hăng và "đi đến nơi chân trời xa"... Do đó, những nhà nghệ sĩ trót "chiều" nàng tiên Hít Tô Phe thì không kể, còn đều giống bầy cò hương. Vì "chiều em tí" rất nhiều... tí!

Thần tượng A-đam sợ vợ của tôi đã nghe lời u mê của E-vơ vào một đêm khuya thanh vắng, lúc Giê-hô-va đang ngủ say. Đó là giả thuyết đầu. Đòn thứ hai của đàn bà là khấp quyền tức đòn khóc. Đàn bà, nhất là đàn bà đẹp mà khóc thì nó ai oán, não nùng khôn tả. Những thi sĩ trứ danh đều ví nước mắt đàn bà như giọt ngọc. Vua Trụ, vua Châu, vua Ngô đi ô tô bương sự nghiệp là bởi những người đàn bà đẹp Đắc Kỷ, Bao Tự, Tây Thi buồn. Khóc xong sẽ buồn, Đàn bà buồn, đàn ông sợ thấy mẹ. Gần đây, những giọt nước mắt của người đẹp Hạ viện Kiều Mộng Thu đã làm đôi còng còng tay đàn ông Trần Ngọc Châu mềm nhũn ! Vợ tôi mà khóc, tôi có hai cách đối phó. Hoặc năn nỉ "Anh lạy em, em nín đi cho anh nhờ", hoặc kiếm vài cái ly rẻ tiền đập nát, ra cái điều "ông" Tác giăng nổi giận. Cách thứ nhất ngon lành hơn.

A-đam lắc đầu từ chối E-vơ khóc. Rồi buồn. Đàn bà buồn, lạ thay, đẹp và quyến rũ bội phần. A-đam nuốt nước miếng cái ực, gồng người, há miệng đớp miếng táo của E-vơ. Đàn bà mớm tạo, mớm luôn lưỡi và hương tình. Đàn ông gục xuống như một nô lệ hạng bét. A-đam đã thua trận đấu... táo ! Đó là giả thuyết thứ hai. Hai giả thuyết là đủ chứng minh đàn bà nhiều đòn phép. Đời sau, tôi thấy có mỗi bà Đặng Thị Tuyết Mai là không tỉ tê và khóc buồn với ông Nguyễn Cao Kỳ giữa đêm khuya thanh vắng. Vợ một ông tướng nó khác lạ chăng ? Hay ông tướng không có tâm hồn nghệ sĩ để nghe điệu gió đàn "đi" êm ái luồn vào tâm tưởng. Để được trong sạch suốt đời ? Ôi, cuộc đời có nghĩa lý gì mà cần trong sạch với nó. Phù du, phù du cả mà thôi, Lý Bạch chả đã ngâm vang : "Phù sinh nhược mộng vi hoan kỷ hà" đó ru ! Than ôi, ta tiếc đã không được công hầu khanh tướng để mang tiếng vì đàn bà đẹp mà thân bại danh liệt. Phải là đàn bà đẹp. Chứ, đàn bà xấu xí đờ cốc xi cốc, đùi hom hem lại biểu diễn đầm già, hàm răng năm bảy chiếc bọc vàng, mắt toét, lỗ mũi hướng thượng thì xê ra để ta trở thành người quân tử!

Ta chỉ là một nghệ sĩ, một thứ đói rách thất học không biết kiếm cơm áo bằng cách nào, bèn thử thời vận múa bút. Và trở thành nghệ sĩ. Đời không hiểu ta cứ ngỡ ta sinh ra đời là ôm mộng văn chương. Ôi, văn sáng giá hay văn tối giá thì, nói theo bạn ta là Mai Thảo, đều giống tô phở. Kẻ quen miệng ăn phở tiệm này khen ngon, kẻ không quen miệng thì chê dở, khen tiệm nọ. Đứa trót viết văn cứ viết, nào cần viết hay hay viết dở, nào cần nghĩ văn minh được giá hay mất giá. Khi ta còn lêu bêu như chó mất chủ, con gái yêu ta chỉ có vợ ta. Tới lúc ta có sổ gia đình, gặp những tai nạn nghề nghiệp, bị đời dọa "tỏ thái độ", khối kẻ mong muốn "thái độ" vùi dập ta. Lại vẫn chỉ có vợ ta tiếp lửa tranh đấu cho ta. Nên bổn phận của ta là sợ vợ ta. A-đam đã sợ E-vơ.

Con cháu của A-đam thấy con cháu của E-vơ chê Ménol, bèn chê :

- Ừ, phải đấy.

- Phải cái gì ?

- Phải "người về u buồn khắp trời" với Ménol

- Là gì ?

- Biệt ly.

- Biệt ly cái gì ?

- Giã từ ấy mà, giã từ Ménol !

- Anh lộn xộn quá.

- Anh hiểu rằng anh lộn xộn lắm. Bây giờ là thời đại nổi loạn, em biết chứ ? Muốn đề phòng một nổi loại vô duyên cớ, anh lạy em, em cứ để anh xung phong... thiến !

- Lãng nhách.

- Em ơi, thấy em khổ sở vì Lyndiol, Ménol, anh thương em lắm. Thiên hạ chúng nó lạy vợ để ra ứng cử tổng thống, nghị sĩ, dân biểu, nghị viện và xã trưởng, anh không thể hèn hạ thế. Anh hiên ngang hơn chúng nó, nhân danh tình yêu vợ, anh lạy em cho anh đi thiến. Anh sẽ có "chứng chỉ thiến", một chứng chỉ bảo đảm quyết liệt cho sự nghiệp của anh nếu như, vô phúc thiếu âm đức, anh được nhà nước cử làm đại sứ tại một nước trung lập.

Nhà tôi, con rắn của Giê-hô-va, dù khôn ngoan cách mấy, cũng vẫn tưởng tôi tình nguyện thiến đến nơi rồi. Đàn bà tinh nhưng không ranh. Cho nên, cái thành ngữ "khôn ba năm dại một giờ" là cái thành ngữ thương xót đàn bà. Chỉ dùng cho đàn bà. Tôi vốn là kịch-sĩ-hài-hước-không-thèm-lên-sân-khấu. Bạn bè tôi đã nói rằng : thằng Nguyễn Văn Lương mà giễu, Tùng Lâm, Phi Thoàn, Khả Năng, Thanh Việt, Thanh Hoài sẽ thất nghiệp. Tôi cóc thích thiên hạ thất nghiệp. Bởi vì, tôi đã kéo dài nỗi buồn thất nghiệp sáu năm ròng rã.

Nếu hề Minh đã ai oán những câu vọng cổ: "Anh hai ơi, anh hỏi tôi năm nay được bao nhiêu vợ ? Tôi vội vàng lấy sổ ra coi. Từ năm hai mươi cho tới ba mươi, tôi có cả thảy là năm con vợ. Con vợ đầu tiên của tôi ở Cần Được con bà Tư bán mắm ruốc ở bên... ớ... ơ... ờ... ơ... đình... Tôi lấy nó năm mười tám, qua năm sau thì cái bụng nó chình ình..." Tôi có thể ai oán hơn khi diễn tả sáu năm thất nghiệp của tôi. Tôi đã thuộc lòng hàng trăm bài vọng cổ thu đĩa lải nhải tối ngày tại một quán cà phê ba Tầu trong ngõ tôi cư ngụ. Này là "Ngày mai đám cưới người ta, Tại sao san nữ Cà Pha lại ơ ớ ơ ờ ơ... buồn". Nọ là "Thằng Mễ Tây Cơ kia ơi tao là Ringo số dzách mày hãy coi tao rút xéng nổ ơ ớ ơ ờ ơ... đoàng". Về tân nhạc, tôi có hy vọng trở thành nhà... bới lông tìm vết đặc sắc. Tôi đã thưởng thức phước thiện hàng ngàn bản tân nhạc. Chẳng hạn, cái câu ví von "Khoai lùi bếp nóng ngon hơn là vàng" của ông Phạm Duy thì "pô ti nê", ít ra, cũng nửa trang báo lá cải. Nguyễn Du chơi chữ "Nay hoàng hôn lại ngày mai hôn hoàng" tuyệt cú mèo. Nhưng nhạc sĩ mà diễn tả "đường gập ghềnh đoàn xe đi trong ánh hôn hoàng" thì không ai ngửi nổi.

Ngoài cái sự thất nghiệp nghe cải lương, tân nhạc để bới lông tìm vết (Vì vô công rồi nghề. Nhàn cư vi bất thiện mờ lỵ), tôi còn có thể thuộc rất nhiều tên những danh tài "bun" tại vùng ngoại ô Hòa Hưng và biết rõ từng "dzơ" của họ. Công viên cư xá Chí Hòa có bao nhiêu "lối đi dưới lá", bao nhiêu ghế đá, bao nhiêu ngọn đèn, tôi đều biết. Nhà em Hồng Hảo số mấy, tiếng dương cầm buổi chiều khác tiếng dương cầm buổi trưa ra sao, tôi hiểu tường tận. Bà kỹ sư kia thua bạc nặng, phải "nhẩy dù" khiến ông kỹ sư mọc sừng rên siết hay con gái rượu của cụ công chức già, vì ham mê nghệ thuật nên phải ôm đàn ác coóc đê ông, thẩy thẩy, gã thất nghiệp có bổn phận phải biết. Dân thất nghiệp là dân biết rất nhiều, loại James Stewart, "l'homme qui en savait trop". Tôi nghĩ, ngoài khối óc tưởng tượng siêu việt của bậc thầy Vũ Trọng Phụng, những nhà phóng sự trào lộng, những tay viết "potin" hôm nay, phải là những người biết quá nhiều. Ngài đã đọc Hoàng Hải Thủy, Nguyễn Đình Thiều, Dương Hùng Cường, Phan Nghị, Hồng Dương ? Ngài đã hỏi : tại sao họ biết nhiều thế ? Họ có những khối óc tưởng tượng.

Riêng tôi, học hành ngu dốt, đầu óc tối tăm, tôi không có chữ để đọc, không biết tưởng tượng. Bù vào đó, tôi thất nghiệp ròng rã sáu năm, nhờ trí nhớ tốt, tôi phăng phăng kể hiến quý vị những điều tôi đã biết. Thí dụ ngôi chùa Bửu Đà trong hẻm 418 đường Lê Văn Duyệt, Sàigòn. Thưở ấy, dĩ nhiên, chưa có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Tôi kể lại chuyện chùa chiền nhất định, không phải với mục đích gì khác hơn mục đích... thất nghiệp của tôi. Chùa ta do một sư cụ từ Phan Thiết vô, sang lại của một vị sư cụ. Sàigòn có "chế độ" sang nhà rất ngoạn mục. Sang nhà được thì sang chùa cũng được. Trước ngày Giáo Hội Phật Giáo thành hình, quý vị sư Sàigòn chủ trương mỗi chùa một sư và bất động sản không thuộc quyền giáo hội. Gọi là tu tự do. Như làm thơ tự do vậy. Sư cụ nhà ta đang tu ngon lành. Mỗi cuối tháng dư cam táo, hương nến sai chú tiều đem phát mại. Bỗng từ căn nhà ông Tây lai nơi dân đánh "bun" thường tụ tập ngoài sân, biến thành cái chùa. Chùa Hòa Bình. Một sư cụ đã sang căn nhà của ông Tây lại để... mở chùa. Chùa Hòa Bình quyến rũ phật tử hơn chùa Bửu Đà. Thế là hai sư cụ gây chiến tranh lạnh. Kịp khi có đấu tranh chống Diệm, chùa Hòa Bình chống hăng, chùa Bửu Đà im lặng. Bửu Đà hóa ra Cổ Sơn Môn! Chẳng biết đến nay hai chùa đã thống nhất chưa ?

Tôi còn hiên ngang kể thêm thật đông chuyện thất nghiệp của tôi. Đề chứng minh rằng tôi sợ thất nghiệp. Sợ và cóc thích để những ai thất nghiệp trên cõi đời này. E-vơ, vợ tôi, thấy tôi thương vợ đến cái độ xung phong thiến thì cảm động lắm. Nàng quên khuấy mất câu tư tưởng bạc tỷ : "Mỗi thằng đàn ông là một thằng đánh lừa đàn bà, mỗi thằng chồng đều biết nói dối vợ." Báo chí, hàng ngày đăng lai rai Sở Khanh quất ngựa truy phong. Dư luận kết án bọn đàn ông kịch liệt. Đàn bà đá đít đàn ông thì được tha thứ bằng hai câu ca dao :

"Bắc thang lên hỏi ông giời,

Đem tiền cho gái có đòi được chăng ?"

Ôi, đàn bà, đàn bà nhất, "năm bờ oăn", Đàn bà chẳng có gì để mất. Đàn bà sướng nhé ! Thỉnh thoảng, có bị chồng đánh lừa, nói dối, đừng có mè nheo.

- Này anh...

- Gì ?

- Còn nhiều giải pháp... cai đẻ !

- Thí dụ ?

- Lắp cái vòng xoắn !

- Vòng xoắn à ?

- Ừ, vòng xoắn.

- Nhỡ nó xoắn "cái ấy" của anh thì sao !

- Nhảm !

- Ở đâu "gắn" vòng xoắn !

- Bác sĩ.

- Đàn ông hay đàn bà ? Anh cóc thích một thằng bác sĩ nào nhòm "con cua" của anh. Anh độc quyền "con cua" và chỉ bằng lòng công cộng hóa "con cò".

- Anh định.., ngoại tình hả ?

- Không, anh chỉ muốn đại chúng hóa "con cò".

- Vậy tôi độc quyền "con cò".

- Đó chính là giải pháp anh mong muốn. Giải pháp thiến!

- Không ổn.

- Nhưng anh không thích em "gắn" vòng xoắn, phản tự nhiên.

- Lyndiol, Ménol thì sao ?

- À, cái đó coi như đã tiêu hóa. Anh nghe nói nhiều bà đã bị ung thư... tử cung vì vòng xoắn. Không, nước bốn nghìn năm văn hiến không thể noi gương Ấn Độ ăn bốc. Đàn bà nước Nam phi thường. Hãy chứng tỏ cái truyền thống... vú dài của bà Triệu. Anh cương quyết thiến em ạ ! Tưởng tượng em bị ung thư "chỗ ấy", anh đau khổ lắm. Thương em hết chỗ thương, anh vẫn phải đại chúng hóa "con cò".

- Ung thư thật à ?

- Ừ

- Sao anh biết ?

- Đọc báo Y Học.

- Em mong anh được làm đại sứ.

- Thôi, bắt tội ông Bùi Diễm thất nghiệp.

- Thế tính sao bây giờ ?

- Còn một giải pháp.

- Gì ?

- Chích.

- Chích gì ?

- Chích thuốc cai đẻ.

E-vơ-nhà-tôi ôm chầm lấy A-đam-tôi mà đòi mớm táo. Khi đàn bà yêu, đàn bà không toan tính gì cả. Nhất là yêu chồng. Bởi vậy, thỉnh thoảng, con rắn đang ăn lòng heo tại gia, nổi hứng, ôm lấy rắn đực mà hôn thì, thưa ngài, rắn đực phải nhăn nhó như khi để nhận đón hương vị của mắm tôm trong hương vị tình yêu! Đàn ông tính toán kỹ hơn. Thưở tôi còn lêu bêu, chưa được lấy vợ, tôi đã làm hàng chục em gái thất vọng. Anh đến thăm em một chiều mưa, thấy em sầu mộng ngồi chồm hổm nhổ lông nách hay nặn trứng cá là anh nhớ đường, anh về liền. Anh muốn trời mưa mãi, Anh cóc ước mơ một chiều thêu nắng đâu. Lâu lâu mới gặp em, ôm em toan hôn gỡ một cái, thấy răng em dính sợi rau xanh lè, anh vội vàng đẩy em ngã ngửa. Và anh chạy như thể trốn lính mà gặp cảnh sắt đón đường xét giấy. Anh tưởng tượng đôi mắt nhung huyền, nhưng khi anh thấy đôi mắt nhung huyền của em có cục ghèn, anh phú lỉnh gấp. Mời em đi ăn, ra khỏi tiệm, thấy em vẫn ngậm tăm, anh lên xe dọt lẹ, mặc em ngẩn ngơ chẳng hiểu vì sao tình đang mặn hơn muối bỗng nhạt quá nước ốc. Vân vân...

Tôi chưa hề bị E-vơ nổi tình trong lúc đang say sưa ngốn lòng heo chấm mắm tôm. Thời gian nhà tôi và tôi bàn luận về thuốc chích cai đẻ, nàng đương thưởng thức sầu riêng, thứ trái cây tuyệt vời của miền Nam yêu dấu. Mười lăm năm rồi, tôi mới chỉ cảm nổi hương sầu riêng. Chưa lần nào tôi dám thử ăn. Nhà tôi, như tôi đã diễn tả, ôm chầm lấy tôi đòi mớm táo. Tôi quên béng mất rằng sầu riêng tô đầy môi nàng. Và tôi ói cả ra mật vàng. Than ôi, đàn ông, cái số kiếp của mi vất vả. Giê-hô-va đã bảo mi phải đồ máu mắt mới có cơm ăn. Mi lại còn mửa mật vàng chịu đựng vợ... yêu nữa ! Mi là cát bụi, mi sẽ trở về với cát bụi. Lạy Giê-hô-va vạn lạy, ngài cho con về cùng cát bụi ngay lập tức đi. Con khổ sở, khốn nạn vì chuyện đẻ của đàn bà. Giê-hô-va Chúa Trời cũ, ngài biết không ?

- Thuốc ấy ra sao hở, anh ?

- Ra... cai đẻ.

- Biết rồi.

- Biết rồi thì thôi.

- Thôi mà cưng, em xin lỗi.

- Cái sự kinh kệ sớm muộn của em đã làm anh mất ăn mất ngủ. Thổi hạt bụi vướng trong mắt em, anh cũng phải cầu khẩn tổ tiên phù hộ anh. Lấy cái mẩu thuỷ tinh li ti xuyên qua gót chân em, anh cũng phải lạy trời, cho anh thành công. Đi lấy áo dài cho em, anh cũng phải vái Phật để tiệm may đúng hẹn. Rồi hôn em, anh bị... đầu độc bởi sầu riêng!

- Anh...

- Cô muốn gì ?

- À, anh dở chứng, anh sinh sự đấy nhé !

- Đâu dám, em ơi !

- Tôi yêu cầu anh nói về thuốc chích cai đẻ.

- Anh nói liền.

- Nói lẹ đi.

- Nói đây : Chích vào mông, ba tháng một mũi.

- Vào lúc nào ?

- Sau ngày hạ cờ Cộng sản.

- Bảo đảm chứ ?

- Trăm phần trăm.

- Tên thuốc ?

- Anh viết ra đây cho em. Đọc xong đốt liền kẻo mang tội tuyên truyền... tội lỗi.

- Cai đẻ đâu phải là tội lỗi.

- Ờ, vậy mà các cụ cố đạo hội thảo chống cai đẻ ầm ỹ.

- Các cụ ấy có đẻ đâu mà biết nỗi đau đẻ. Chúa không cấm cai đẻ. Mười điều giới răn có nói gì về cai đẻ bao giờ ?

- Đồng ý. Nhưng anh nói thầm tên thuốc chích với em là đủ.

Nhà tôi, E-vơ, con rắn độc của Giê-hô-va Chúa trời cũ, sau khi phiêu lưu trên bước đường Lyndiol, Ménol, chê bỏ vòng xoắn, đã phiêu lưu thêm... thuốc chích cai đẻ. Lạy Chúa, lạy Phật, xin phù hộ con, phù hộ cái số kiếp hẩm hiu của đàn ông.

- Anh ạ!

- Gì đó em ?

- Mới chích mười ngày mà nó đã ra...

- Thế à ?

- Dạ.

- Chắc thuốc lạ đấy. Rồi nó sẽ chơi thân với trứng. Và nó tìm cách hạ bất cứ kẻ nào dám đòi trung lập mí ly... của anh.

Tôi an ủi nhà tôi. Mà chính là để trấn an mình. Tôi đã nhìn rõ nỗi... sầu riêng của mình. Bèn âm thầm đi hỏi đốc tờ. Anh đốc quen thuộc bảo đảm không sao cả. Chích thuốc đỡ tai nạn quên, song, thỉnh thoảng, cờ Cộng sản phấp phới bay. Bay nửa ngày. Để cổ võ chủ nghĩa xã hội, đôi khi, cờ bay trong quần hai ba ngày. Không xác định rõ thời gian kéo cờ. Tôi về nói tường tận cho nhà tôi hay. Nàng cằn nhằn :

- Tốn "xẹc vi ét" thấy mồ !

- Mà đỡ bị đẻ.

- Em sẽ mất hết máu. Đề yên người ta đặt vòng xoắn cho xong.

- Tại sao em can ngăn anh thiến ?

Hai vợ chồng nhìn nhau. Tôi nghĩ, trong đời nếu có phút cảm động thì phút cảm động đó, nhất định phải là phút thương yêu mà không nói nổi những lời thương yêu. Nhà tôi chớp mắt. Một nỗi xót xa gặm nhắm linh hồn tôi. Chưa từng có thời đại nào con người lo sợ đủ thứ như thời đại này. Lo sợ chiến tranh. Lo sợ đói khát. Lo sợ tình yêu. Lo sợ đẻ.

Cái hạnh phúc có truyền thống của bất cứ một gia đình Việt Nam nào cũng là hạnh phúc con cháu đầy đàn. Hạnh phúc đó bị đe dọa. Rồi mất đi kề tự thưở bom đạn nhập cảng cùng với đói rách, bệnh tật. Tìm đâu ra một sớm cuối năm, bố mẹ già ngồi đoán con dâu, con rễ, cháu nội, cháu ngoại, con đẻ, con nuôi về quê ăn tết vào đúng mấy giờ ? Tìm đâu ra một cụ già chưa quá sáu mươi, mừng tuổi cho hàng trăm cháu nội, ngoại ngày đầu năm ? Tương lai của chính mình, mình nhìn rõ nó đen tối, bấp bênh, ai thiết nghĩ tương lai con cháu. Nhà tôi, như mọi người mẹ quê hương, đã mong đông con trai, gái. Nhưng sự mong ước tàn lụi vì hoàn cảnh. Không dám đẻ song lại sợ không có con nữa thì nguy. Nên nàng ngăn tôi thiến. Tôi buồn rầu nói :

- Chích một lần thôi. Sẽ không dùng Lyndiol, Ménol, vòng xoắn. Ngay cả thứ "phó mát" cai đẻ tối tân của Nhật cũng chẳng thèm biết đến. Em sẽ tiếp tục đẻ. Đừng sợ, anh đã kiếm được một giải pháp thần sầu. Em ngại đẻ con không người nuôi chứ gì ? Chúng mình sẽ có, ít nhất hai em ma-ri-sến thường trực trong thời buổi "nhất sến, nhì xi, tam sư, tứ cố" này. Em bằng lòng chứ ?

- Tùy anh. Em sợ cai đẻ rồi. Thuốc cai đẻ làm em héo hon.

- Vậy cần đẻ. Nếu cai đẻ là chống Cộng thì đẻ sẽ là... đón gió trung lập. Lập trường của vợ chồng mình đã thay đổi

Nhà tôi ôm ghì tôi. Như thường lệ, ngọn đèn trong phòng tắt ngóm. Chúng tôi đã "nhé" thật kỹ. "Nhé" và không sợ có con. "Nhé" với tinh thần dân tộc, với cảm hứng thật của con người.

2. đàn bà, ma-ri-sến, phi líp nhỏ, cải lương, tân nhạc

MỘT NHÀ TƯ TƯỞNG ĐÃ NÓI : "Kiếm được một em ma-ri-sến hoàn toàn nhất, ở Việt Nam thời buổi bây giờ, khó khăn hơn cả kiếm một vị lãnh tụ anh minh của dân tộc". Thật là lời vàng ý ngọc, đáng được Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục chọn làm đề thi tú tài. Chế độ "Cơm thầy cơm cô" mà văn hào Vũ Trọng Phụng từng diễn tả đã chấm dứt. Đã chấm dứt tại bên này và cả bên kia dòng Bến Hải. Tôi xin lưu ý quý vị cách mạng xã hội rằng, quý vị nên quên giai cấp ma-ri-sến, phi líp nhỏ đi. Họ cóc cần quý vị làm cách mạng cho họ nữa.


Ngoài Bắc, con sen, thằng nhỏ nào xuất sắc đều lần lượt trở thành chiến sĩ trung kiên của giai cấp vô sản, lãnh tụ tiên phong của xã hội chủ nghĩa, nay sang Tầu, mai sang Nga rối rít. Những con sen, thành nhỏ kém xuất sắc thì cũng trở thành cán bộ cần vụ, phục dịch các đồng chí đặc táo rất nhiều công tác chống Mỹ cứu nước như đánh giầy, chùi cầu tiêu, lau nhà, rửa xe, đi mua thuốc lá vân vân... Những con sen, thằng nhỏ tối tăm, nhờ ơn Bác và Đảng, bị đẩy đi lao công công trường hay được xua về Nam làm dân công bằng thích. Họ là chiến sĩ dân công. Xã hội chủ nghĩa, quả nhiên, tiến vọt. Cách mạng ở xã hội chủ nghĩa chỉ đổi thay tí hình thức, ngụy tạo bằng danh từ thơm tho. Còn nội dung thì, con sen và thằng nhỏ vẫn là con sen và thằng nhỏ. Đói rách hơn xưa. Phục vụ kỹ hơn xưa. Không có thì giờ tỏ tình ở máy nước nữa !

Trong Nam, người ta trọng khoa bảng và lính khố xanh, khố đỏ. Nên chỉ thấy ông Vũ Văn Mẫu, ông Vương Quang Trường làm bộ trưởng và ông Đỗ Mậu làm cách mạng chống tổng thống Ngô Đình Diệm ! Nhờ Mỹ quốc truyền bá tư tưởng dân chủ thật lực, nước ta có mấy kỳ bầu cử. Khá đông thằng nhỏ đã vùng lên, tranh cử tận tình và đều đắc cử vinh quang. Mãn nhiệm kỳ, chúng đã giầu sụ, bèn đối lập hoặc lập hội ái hữu, nhí nhố ngôn ngữ phi líp nhỏ. Cũng nhờ Mỹ quốc, ma-ri-sến tạo nổi một thế đứng huy hoàng, cóc cần cách mạng vô sản, xã hội chủ nghĩa của ông Mác, ông Lê, ông Mao, ông Hồ. Mỗi chiến sĩ bảo vệ tự do, dân chủ Mỹ là một chiến sĩ cách mạng của ma-ri-sến Việt Nam, giai cấp thiệt thòi nhất, chưa kịp hưởng chính sách Thanh Niên Cộng Hòa của lãnh tụ Ngô Đình Nhu, Cao Xuân Vỹ.

Từ ngày thủ tướng nhà nghề Phan Huy Quát đặt bút ký lia lịa và lính Mỹ lên bờ Đà Nẵng, Vũng Tàu, Nha Trang, Mỹ Khê.... ma-ri-sến khởi sắc rất ư ngoạn mục. Gái quê ra tỉnh là biến thành gái bán ba hay me Mỹ. Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng thua xa kỹ nghệ lấy Mỹ hôm nay. Tiếc rằng hôm nay không có Vũ Trọng Phụng. Các em ma-ri-sến lần lượt giã từ chủ hay trốn chủ, đi theo tiếng gọi cách mạng của đồn đỏ, đồn xanh. Trí thức khoa bảng đánh đĩ với đồn xanh, ma-ri-sến đánh đĩ với đồn đỏ. Cùng đánh đĩ nhưng ma-ri-sến có liêm sỉ hơn trí thức. Các em ma-ri-sến sạch sẽ, lành lặn đã kết duyên với quan Mỹ, lính Mỹ. Khối em may mắn được chồng dìu về quê hương Hiệp Chủng Quốc để làm mẹ Mỹ tương lai. Các em dưới điểm trung bình thì cặp bồ với lính Đại Hàn và đám dân sự dơ dáy Phi Luật Tân. Chỉ còn một số ít các em quê, thột, chột, rỗ huê, sứt môi, méo miệng là bất hạnh, bị cách mạng đôn đỏ bỏ rơi tàn nhẫn.

Tôi không phải là nhà xã hội học nên chẳng cần tìm hiểu ngọn ngành nguyên nhân "diệt vong" của nên ma-ri-sến. Người ta đang chống Mỹ, bên ngoài phòng viết của tôi. Chống Mỹ đủ kiều, đủ lối. Sự mỉa mai là họ khoác đầy mình đồ Mỹ để đòi Mỹ "go home"! Một bọn phún Giao Chỉ của những con mẹ chuyên bắt nạt chồng vừa biểu dương tinh thần... phún Giao Chỉ. Khi tứ sắc, xì dzách hết hấp dẫn, những con mẹ có nhan sắc của "chị Doãn" của Vũ Trọng Phụng, thứ "nhan sắc của người đàn ông không đẹp trai" bèn la lối nhân phẩm phún Giao Chỉ ! Họ đổ vạ Mỹ (lại Mỹ, tụi Mỹ bất hạnh thật) biến phún Giao Chỉ thành đĩ hết trọi. Dĩ nhiên, Mỹ cần rút khỏi Việt Nam. Để có hòa bình và phụ nữ... hoàn lương, dùng nước vỏ lựu, hoa mào gà chữa bệnh đĩ! Nhân phẩm phụ nữ Giao Chỉ là hình thức. Hòa bình lập tức mới là nội dung của những con mẹ được liệt vào hạng bà già lông vịt, bà già giết giặc! Trí thức yếm thắm, trí thức đội gạo, trí thức thỏ đế, trí thức chồn cáo, trí thức thông cảm đã biết khai thác thêm lá đa của vợ con. Nền hòa bình, tôi đoán chắc, theo kiểu phún đòi hỏi, nó sẽ hăm lắm đây.

Phải chi, những con mẹ vô công rồi nghề không đòi hỏi hòa bình lập tức, tôi, có thể, nghĩ rằng họ cay cú cuộc cách mạng giải phóng ma-ri-sến bằng đô la xanh của Mỹ. Cuộc cách mạng made in USA đã làm giai cấp trưởng giả bối rối vì thiếu... ma-ri-sến. Cái "chợ người" họp ở bùng binh Bến Thành sau cuộc cách mạng nhân vị, cuộc đảo chính hụt 1960, cuộc cách mạng thành công 1963, cuộc chỉnh lý 1964 vẫn còn nguyên. Hàng ngày, chúng ta gặp ở đó, những người đàn bà đủ cỡ tuổi, ngồi xếp hàng như nô lệ Châu Phi, chờ bọn nhà giàu đến mặc cả, dắt về làm những công việc rửa cầu tiêu, lau nhà, giặt quần áo, nấu bếp để ăn cơm thừa canh cặn và bị mắng chửi tối tăm mặt mũi. Từ ngày lính Mỹ đổ bộ lên những bờ biển Việt Nam, "chợ người" bị dẹp. Bây giờ, dưới chân liệt nữ Quách Thị Trang, không hề có cảnh tượng chửi bố cách mạng nữa. Chưa một lãnh tụ anh minh nào đem vinh quang, hạnh phúc cho ma-ri-sến nước tôi, trừ lính Mỹ. "Chính phủ của dân nghèo" Nguyễn Cao Kỳ cũng cóc đủ khả năng giải phóng ma-ri-sến. Trước 1-11-63, cố đạo nhất. Sau 1-11-63, sư mô nhất. Qua năm 1965, sến nhất, tắc xi nhì, Thời huy hoàng "not for rent" Giao Chỉ của tắc xi chấm dứt mau lẹ. Bây giờ, nhất sến nhì cha tam sư tứ tướng. Tướng càng ngày càng mất giá khi hòa bình càng ngày càng ló dạng. Sư thì tự xuống thang. Cha khôn ngoan nên giá trị chỉ tụt từng nấc. Nhưng sến vô địch. Tìm sến khó hơn tìm sư. Ngài có thể kiếm một ông sư lý tưởng cỡ ông Hộ Giác chứ khó kiếm ra một em sến lý tưởng của tiền cách mệnh 1963. Ai dám ngờ ma-ri-sến Việt Nam biến thành me Mỹ và từ me Mỹ biến thành những phật tử, những con chiên ngoan đạo thất thế giới !

Lịch sử me Tây chỉ có một "cô tư Hồng" nàng me Tây mà cụ Yên Đồ Nguyễn Khuyến "chơi" một phát ca ngợi "Ngàn năm công đức của bà to". Lịch sử me Phi, me Đại Hàn, me Thái Lan, me Nhật, me Úc-đại-ly, me Tân-tây-lan chẳng đáng nói. Riêng lịch sử me Mỹ, thưa ngài, cô Mai Lan, trang nữ lưu dạy Mỹ nói tiếng Việt và làm mối gái Việt cho Mỹ, có thể kể cho ngài nghe tên tuổi những me Mỹ phi thường, con nhà lành, học thức số dzách. Ngay lãnh tụ Đại Việt chống Cộng ra rít Đinh Xuân Cầu mà cũng gã con gái cho Mỹ nữa là... Tôi đã đánh vật với tự điển Lê Bá Kông, đọc cuốn tiểu thuyết của văn sĩ phún Mỹ. Cuốn tiểu thuyết cóc có chi ghê gớm, lại đọc từ hơn mười năm rồi, nên quên béng tên của phún văn sĩ này. Nhưng tôi nhớ một câu : "Thượng đế sinh ra loài người như một vườn hoa.. Có hoa trắng, hoa đen, hoa cứt lợn..." Diễn tư tưởng thật lớn, thật nặng thì loài hoa là mũi lõ mắt xanh, da vàng mũi tẹt, tóc quăn da nhọ nồi. Tình không biên giới là thứ tình của mũi lõ mắt xanh với hím mũi tẹt lòng heo mắm tôm ! Đấy, Mỹ nó chả thực hiện cuốn phim "Sayonara" thối cóc chịu nổi để ca ngợi tình không biên giới đó ư ?

Ma-ri-sến Việt Nam đâu có làm đĩ. Các em làm me Mỹ tức là mẹ Mỹ. Đàn bà Việt Nam là mẹ của thế giới. Mẹ Tầu, mẹ Tây, mẹ Ấn Độ, mẹ Nhật, mẹ Mỹ vân vân... Tôi chống bọn đàn bà răng vàng giết giặc xúc phạm danh dự của me Mỹ. Nhân phẩm của me Mỹ còn nguyên, cóc cần đứa nào bảo vệ sốt cả. Nếu ngài sống chung ngõ với cặp vợ chồng Mỹ-Việt, ngài sẽ bằng lòng lắm khi thấy các em sến, nhân danh cách cử xử tồi tệ của Mỹ với Việt Nam, chửi chồng Mỹ như chó, vác guốc đập lên đầu chồng Mỹ tóe máu. Các em sến yêu nước vô cùng- Khi ở Mỹ, bọn thượng nghị sĩ ngoác miệng chửi Việt Nam, các em sến trả đũa bằng cách bắt chồng Mỹ lau nhà, chùi cầu tiêu. Tận mắt tôi, tôi đã chứng kiến một em sến vác gậy đập vỡ tan kính xe hơi của chồng Mỹ. Thằng chồng Mỹ khốn nạn bị đuổi ra khỏi nhà. Em sến khóa cửa lại. Nó ngồi khóc như bố nó chết. Tội nghiệp ghê đi ! Đại khái, chính phủ tôi không thể bắt Mỹ ngừng lối chơi cha đểu cáng trên mọi lãnh vực, trên quê hương tôi. Thì đã có me Mỹ trả thù cho dân tộc. Phải chi ma-ri-sến Việt Nam kết duyên với các lãnh tụ Nga, Mỹ, Tầu cộng, Anh, Pháp, nước tôi đã có hòa bình công chính từ khuya. "Gái nước Nam làm gì ?" Tôi xin trả lời người xì cút quá cố Hoàng Đạo Thúy : Gái nước Nam mệnh phụ phu nhân thì mãi làm áp phe, bắt ghen, cờ bịch và trình diễn thăm dân cho biết sự tình, gái nước Nam vợ chính khách thỏ đế thì nhốt chống trong phòng ngủ, đi đòi hòa bình lập tức; gái nước Nam ma-ri-sến thì trở thành me Mỹ, vừa bắt nạt Mỹ trả thù cho dân tộc vừa bắt đôn đỏ, đôn xanh mà giúp các tay tổ Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Hữu Hanh chấn hưng kinh tế.

Tôi không ngụy biện. Bởi vì, riêng 500.000 lính Mỹ sống trên đất nước tôi khoảng thời gian 5 năm, chính phủ tôi đã thắt túi tiền giùm họ bằng cách đóng cửa nhà nhảy đầm, chê mở sòng bài, chê lập khu giải trí, chê khuyến khích các hãng du lịch tổ chức mánh khóe móc bạc Mỹ, để họ phải sang Hồng kông, Thái lan, Tân gia ba, Phi luật tân, Nhật bản mà vung đô la, nếu thiếu ma-ri-sến, điếm, ma cô là mất toi một khoản ngoại tệ nhỏ. Tôi tính sơ cho ngài coi. Trung bình, một lính Mỹ tiêu bủn sỉn nhất cũng 50 đô la một tháng. Như vậy, 500.000 lính x 50 đôla = 25.000.000 đôla. 5 năm có 60 tháng. Tính ra, nước tôi đã mất 25.000.000 đôla x 60 tháng = 1.500,000,000 đôla. Con số vĩ đại này, chính phủ tôi chê. Để ngửa tay chờ Mỹ nó nhỏ giọt ngoại tệ! Nước tôi có ông giám đốc Nha Du Lịch chỉ lo ăn cắp đĩa, chén và nước ngọt ở nhà hàng Majestic thì mỏi tiền Mỹ thế quái nào nổi. Tôi thiết tưởng, một khoản nhỏ ngoại tệ do kỹ nghệ me Mỹ gỡ gạc cũng đã là một chiến công của gái ma-ri-sến nước Nam. Và tôi long trọng yêu cầu Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia nên dành một phút ghi ơn các em ma rí sến. Trong khi các mệnh phụ phu nhân, các nghị sĩ, dân biểu và vợ, con gái họ đem ngoại tệ qua nước người vung phí thì me Mỹ lại bòn ngoại tệ cho tổ quốc. Chẳng đáng chép vào sử sách truyền cho muôn đời hay sao ? Nhà chép sử Phạm Văn Sơn nên ghi nhớ nếu như kinh tế sử bỏ quên các em me Mỹ.

Ma-ri-sến, tôi phục "quý vị" lắm, Thời đại đấu hót cải lương, tân nhạc của "quý vị" với các công tử phi líp nhỏ tại công trường "La Fontaine des amours" đã chấm dứt. Thời đại vàng son của những thành chuyện bắt "người tình không chân dung" ở máy nước để thực thi chính sách vừa lành vừa bổ đã chấm dứt. Thời đại thơ mộng dưới ánh đèn khuya hát đối những ca khúc "thời trang nhạc tuyến" với nam đồng nghiệp, đã chấm dứt. Đâu rồi, tiếng Liêu Trai lúc điện đường tắt ngóm "Buồn luồn vào phông ten, gánh nước nữa đêm" ? Đâu rồi, tiếng khí phách lúc chờ nước chảy vô thùng "Giã từ nhà mẹ hai bàn tay trắng. Đi vào nhà chủ trắng hai bàn tay" ? Đâu rồi, cảnh nên thơ nàng gánh đôi thùng chạy trước, chàng gánh đôi thùng chạy sau, ti tỉ điệu ái tình vi vút "Đi trên đường một chiều. Anh đi trước em sau" ? Đâu rồi, đâu rồi lâu đài âm thanh ca cộng đồng điệp khúc "Gánh nước về, gánh về, gánh nước về, gánh về" mà nhịp đòn gánh kĩu kịt thay nhạc đệm, để lại quang cảnh buồn tênh cho cái máy nước chảy tồ tồ không ai tắt ?

Tôi đã đi trong giờ giới nghiêm, trên những con đường nhiều máy nước công cộng. Đèn vẫn là đèn năm xưa. Sáng hơn một chút. Những cái máy nước hoen rỉ, tương tư ma-ri-sến, phi líp nhỏ tưởng thê lương hơn chinh phụ chờ chồng. Không phải Sàigòn Thủy Cục cấp cơ man điện kế đâu. Không phải gì cả, trừ cuộc cách mạng do lính Mỹ chủ trương. Tự nhiên, tôi nghĩ tới cảnh đổi đời như chuyện con sông kỷ niệm bị lập phẳng của Trần Tế Xương. Tôi khe khẽ ngâm :

"Sông kia rầy đã lên đồng

Nơi thì nhà cửa nơi trồng ngô khoai

Đêm nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò"

Tôi rất tiếc không có tài nhại thơ của Hoàng Hải Thụy. Cuộc dâu biển đã làm tôi cảm khái, vung vít tài mọn :

"Sến kia rầy đã lên bà

Đứa thì me Méo đứa là me Phi

Đêm nghe nó đấu To Be

Giật mình cứ tưởng con ki sủa nhằng"

Hỡi các em ma-ri-sến trên cuộc đời! Các em đã tạo nên những khoảng trống buồn tênh cho mỗi gia đình đông con. Tôi thương các em, tiếc các em (cuộc cách mạng nào mà chẳng đem lại những nối tiếc muôn vàn sau khi thành công rực rỡ) và sắp khốn khổ khốn nạn vì các em đây.

- Thưa cậu...

- Gì ?

- Tôi nghỉ việc từ hôm nay.

- Chị đuổi sở à ?

- Không, tôi nghỉ việc.

- Tại sao đang làm tốt, giữa chủ và công nhân đồng lao cộng tác trong thời buổi kiệm ước huy hoàng này, chị lại xin về ?

- Thưa cậu, tối qua cháu coi ti vi...

- Thằng ca sĩ nào khiến chị buồn, chị giận vợ chồng tôi, hả ? "Đừng bỏ tôi một mình chị Ba !"

- Dạ, thưa cậu, tôi xin về hoan hô "Luật Người Cầy có Ruộng". Tôi sắp trở thành điền chủ. Tôi sẽ được làm chủ ba mẫu ruộng.

- À ra thế...

Người đàn bà từ quê ra tỉnh vừa tị nạn Cộng sản vừa kiếm cơm áo đã tìm được lối thoát cho cuộc đời mình. Tôi chớp mắt. Hình dung một cánh đồng lúa chín. Hình dung một bần cố nông biết chắc chắn cánh đồng lúa chín thuộc về mình. Hình dung một ước mơ ngàn kiếp đã ửng vàng. Tôi muốn suy tôn những kẻ soạn thảo "Luật Người Cầy có Ruộng" một phát. Và tôi bèn đả đảo ông già vợ tôi. Ông này kỳ thấy mồ. Ông đương kiện nhà nước cái tội vi hiến. Cứ theo bài ca "Toàn dân hân hoan Luật Người Cầy Có Ruộng" thì ông già vợ tôi và "bọn địa chủ ngoan cố" thật là... ngoan cố. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lái cái máy cầy veo veo. Dân miền Tây chiêm ngưỡng như một kẻ ban phát hạnh phúc cho đám bần cố nông. Thế mà ông già vợ tôi cứ chống niềm hân hoan của tổng thống. Mai mốt lúa vàng đầy đồng, xuất cảng gạo lúa nhất thế giới, ông già vợ sẽ biết tay... "Luật Người Cầy có Ruộng". Bây giờ, chúng ta chịu khó ăn gạo Mỹ để làm cuộc cái cách ruộng đất vĩ đại.

- Thưa cậu...

- Chị Ba thân mến, tôi cũng đã coi những vở kịch của chương trình Người Cầy Có Ruộng. Tương lai của chị sẽ rực rỡ như đoạn kết của bất cứ vở kịch nào của chương trình Người Cầy Có Ruộng. Vâng, chị nên về đồng.

- Cám ơn cậu.

"Luật Người Cầy có Ruộng" quyến rũ mất một ma-ri-sến lý tưởng nhất của gia đình tôi. Luật ấy đã "cướp" của vợ chồng con cái tôi năm trăm mẫu ruộng. Tôi cóc cần ruộng miễn nhà nước bồi thường tiền truất hữu thật lẹ. Nhưng phải đợi đến tết Ma rốc, chừng râu tôi dài quá rốn, mới có tiền. Tôi cũng cóc cần. Tôi là điền chủ sáng suốt. Tôi kết duyên mí lỵ con gái ông đại điền chủ Trần Thất Thời năm 1963. ông đại điền chủ đã thất thời từ năm 1946. Ruộng của ông, "cậu" Hai Hoán tức anh ba tàu Lâm Thành Nguyên, hoàng tử Cái Dầu, Châu Đốc đã truất hữu khuya rồi. Sau "cậu" Hai Hoán là các "cậu" Vẹm. Tôi không hiểu nước non gì nữa mà ông già vợ tôi cứ chống "Luật Người Cầy có Ruộng" ? Nhờ ông tí. Nông dân miền Nam khá đến đít rồi. Tôi rất ghét những thằng kỳ thị Nam Bắc nhưng, ông Nguyễn Bảo Trị, ông Nguyên Đức Thắng rồi ông Nguyễn Văn Chức mà lo lắng chuyện ruộng đất miền Nam thì buồn cười quá. Ông Nguyễn Văn Chức, có thể hiểu rõ ruộng đất ở Bùi Chu. Tôi cam đoan ông ta không hiểu ruộng đất Cà Mau, Đồng Tháp và không thể hiểu sự bình đẳng gần như coi nhau thân thích giữa tá điền và điền chủ. "Luật Người Cầy có Ruộng" chỉ dở ở mỗi chỗ biến điền chủ miền Nam thành "địa chủ gian ác", và tá điền là đám dân bị bóc lột tận xương tủy!

Tôi đã nói tôi cóc cần ruộng đất. Tôi chỉ cần ma-ri-sến. Những nàng ma-ri-sến bất hạnh của nước tôi chưa kịp mang ân cách mạng đô la đó bèn được "Luật Người Cầy có Ruộng" an ủi, nâng đỡ. Tôi muốn nói với cái nhà chị Ngô Bá Thành một điều : Những nhà lãnh đạo miền Nam đã đòi quyền sống, đã bảo vệ nhân phẩm cho phụ nữ trước chị quá lâu. Chỉ cần thành phố trở về nông thôn. Là "về nguồn gốc cũ". Chị nên về nông thôn, đòi quyền sống cho phụ nữ bằng cách tốc váy chửi đứa nào phá rối an ninh, đào cha bới ông đứa nào cướp lúa của nông dân chở vào mật khu, tôi nghĩ chị mới ái quốc thật lực. Những người đòi hòa bình lập tức cũng nên về nông thôn xa lắc mà yêu cầu cái sự buông súng. Hòa Bình kiểu thành phố, chán bỏ mẹ.

Với tôi, hòa bình tức khắc hay hòa bình từ từ, tôi không quan tâm bằng thiếu ma-ri-sến. Thiếu ma-ri-sến kể như thiếu hạnh phúc trên cõi đời này. Hình dung một nhà văn, một chủ nhiệm báo, một giáo sư đầu tắt mặt tối tại "sở", về nhà phải rửa bát, lau phòng, tắm cho nhi đồng. Hình dung một trang nữ lưu cỡ Trần Kim Thoa, Nguyễn Phước Đại, đòi tự do ra rít mà về nhà rửa đít cho con. Hình dung một tổng trưởng, một nghị sĩ, một dân biểu xách gà mèn lấy cơm tháng. Đó, tôi không cần độc lập, tự do hòa bình, dân chủ. Chỉ cần ma-ri-sến. Những em sến ưa son phấn đã đi lấy Mỹ. "Hỡi em liên tử đô thành nội, Ai điểm trang mà em phấn son" ? Những em sến có tâm hồn nghệ sĩ đều lần lượt giã từ tôi. Bằng những câu ca não nuột : "Cậu ơi, quan hà xin cạn chén ly bôi. Ngày mai con đã đã đã đã đi xa rồi" hoặc "Đời một ma-ri-sến, ước mơ đã nhiều, chủ không cho còn mắng, đến khi cáu sườn, chỉ còn ẵm đồ mang theo..." Những em sến liêm sỉ, gồng mình chống bão tố cách mạng đô la đỏ thì hát khúc thời trang nhạc tuyển "Toàn dân hân hoan Luật Người Cầy Có Ruộng", về quê với mộng ước bình thường "chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa" hay "người ta đi cấy lấy công, tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề".

Ôi, các em ma-ri-sến, các em bỏ tôi một mình. "Đừng bỏ anh một mình, đừng bỏ anh một mình". Bỏ tôi bơ vơ với chồng bát đĩa nhớp mỡ, với cái nhà đầy rác rưởi, sao đành, hỡi các em ma-ri-sến ! "Con quỳ lạy Chúa trên trời, Sao cho con mướn được người sến yêu. Đời con đau khổ đã nhiều. Lau nhà rửa bát đủ điều đắng cay. Chúa ơi, Chúa ơi, Chúa ơi ! Sến nường lại bỏ con rồi Chúa ơi, Chúa ơi ! Thương con. A men..." Buồn ghê gớm, tôi nhại thơ Nguyễn Khuyến :

"Sến nương, thôi, đã thôi rồi

Em đi man mác ngậm ngùi lòng ta

Nhớ từ thưở lân la kết nghĩa

Ta phát tiền em rửa đĩa dơ

Đồng lao cộng tác hay ho

Tự do dân chủ bao giờ lãng quên

Hiềm vì nỗi đồng tiền khan hiếm

Em bỏ ta chạy kiếm bạc vàng

Me Phi me Mẽo giàu sang

Đuổi theo cách mạng phũ phàng thân ta

Thật cảm khái ô voa ông chủ

Nhưng não nề dưa khú cà thâm

Bữa cơm ta phải bưng mâm

Ăn xong rửa bát tay dầm nước dơ

Con đi ỉa, hê lô bố, gấp

Rửa đít giùm đậy nắp "bô" ngay

Làm xong nào đã ngơi tay

Vò chồng quần áo chất đầy trong thau

Lưng đã mỏi còn lau nhà nữa

Chổi lông gà quét cửa bụi đen..."

Mới than thân trách phận được hai mươi câu thì E-vơ, con rắn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũ, tức là vợ tôi, đi chợ về, đập cửa :

- Chị Ba ơi!

Tôi lê tấm thân ra mở cửa. Nhà tôi hỏi :

- Chị Ba đâu ?

Tôi thều thào đáp ?

- Về rồi, về với... "Luật Người Cầy có Ruộng" rồi...

Nhà tôi gắt :

- Anh nói cái gì ?

Tôi thở dài :

- Chị Ba về quê nhận bằng khoán ruộng đất.

Nhà tôi buông cái giỏ thức ăn rơi cái bịch, nghẹn ngào :

- Chị Ba đã đi rồi ?

Tôi gật đầu :

- Ừ, "sến đã đi rồi, nàng đi về đâu hay vẫn u hoài, sến ơi sến ơi, sến đã đi rồi"... Em đừng buồn. Chị Ba trở thành tân chủ điền, ta nên mừng chị ấy. Em hãy cùng anh hô to khẩu hiệu "Hoan hô Luật Người Cầy Có Ruộng". Hoan hô đi em... Anh tình nguyện thế chỗ chị Ba tới khi mình bắt được em sến khác.

Nhà tôi thất vọng :

- Đang định... đẻ. May quá, vừa mới "thấy".

Tôi nói :

- Không sao, rồi em sẽ đẻ. Hòa bình sắp về quê hương khổ sở của ta. Sẽ khối chính khách thời cơ thất nghiệp. Và vợ, con gái họ sẽ mở một kỷ nguyên mới cho nên ma-ri-sến. Me Mỹ, me Phi phải về nguồn, hùng hục tạo lại nhân phẩm bằng "Luật Người Cầy có Ruộng"

Nhà tôi lủi thủi bước vào, để nguyên quần áo đẹp, lăn ra giường khóc, thương tiếc chị Ba. Đấy, một người giúp việc ta sẽ được ta thương lại. Phải chi chị Ba chờ ra ứng cử dân biểu, vợ chồng tôi sẽ vận động giùm chị thành công.

Nhưng chị Ba, người ma-ri-sến lý tưởng cuối cùng của đất nước Việt Nam thân yêu, đã cóc cần gì hết. Nàng chỉ cần "Luật Người Cầy có Ruộng" thứ luật cách mạng xã hội (!) mà liên danh ứng cử thượng viện Kỳ Lân cứ đòi thi hành gấp. Chị Ba "về nguồn", chị Ba đáp theo tiếng gọi "về làng ta". Buồn ghê đi mất. Hai vợ chồng tôi đã bỏ nấu nướng nửa tháng liền. Mấy đứa con phải ăn bánh mì. Để nhìn thấy bánh mì, chúng nó bèn dậy trong tâm hồn cái tư tưởng "buồn nôn".

- Làm thế nào đề bắt được một ma-ri-sến ?

- Làm thế nào ?

- Anh có cảm tưởng khó hơn làm thế nào để giết một tổng thống hay làm thế nào để trở thành một tổng thống.

- Thiếu sến là thiếu mọi lạc thú trên cõi đời. Không còn gì khổ sở bằng ăn cơm xong phải rửa bát.

- Phải tìm đủ cách bắt ma-ri-sến. Đưa anh một tờ giấy trắng. Vài tờ đi!

- Tính chi đây ?

- Viết bố cáo tìn sến dán vung vít.

Tôi đã cong lưng nắn nót viết những cái "bố cáo tìm sến" hấp dẫn như những cái bích chương quảng cáo của một đại nhật báo rùng rợn nhất. Nguyên văn như vậy :

CẦN NGƯỜI HỢP TÁC

Nhà có hai vợ chồng ba đứa con. Đứa nhỏ nhất đã đi học. Có công tơ nước. Có la dô, ti vi. Muốn hợp tác trên tinh thần lao tư lưỡng lợi với bất cứ một em sến độc lập hay trong nghiệp đoàn sến nào. Hỏi số nhà 215D/17 Chi Lăng, Phú Nhuận. Lương trả đúng ngày hạn định bằng giấy bạc mới.

Những cái "bố cáo tìm sến" được dán ngay vào cánh cửa nhà tôi và ngoài tường, trên cổng cư xá. Chờ bốn hôm liền, chẳng có em ma-ri-sến nào tới. Nhà tôi càu nhàu :

- Đã bảo đừng "chơi" văn chương với sến, anh cứ sử dụng văn chương... bác học!

- Em lầm to. Bây giờ, ma-ri-sến tiến vọt rồi. Đấy, nền điện ảnh Việt Nan là do ma-ri-sến nuôi dưỡng. Phim "Chiều kỷ niệm" của Thẩm Thúy Hằng sến đóng góp hàng hai chục triệu bạc. Các tuần báo phụ nữ ở nước ta, bán cả trăn ngàn số mỗi kỳ phát hành, cũng nhờ độc giả ma-ri-sến ủng hộ nhiệt liệt. Các viện uốn tóc mở ra như nấm, đều trông chờ khách ma-ri-sến.

- Anh cứ viết lại đi !

- Viết ra sao ?

- Như văn chương tuần báo phụ nữ ấy.

Đàn bà muốn là trời muốn. Tôi đành chiều vợ mà viết cái bố cáo thứ hai :

TÌM SẾN

Nhà ít con, có công tơ nước khỏi cần gánh nước ở phông ten về. Có bếp ga nữa. Có ra đi ô, ti vi để coi kịch và cải lương. Cần mướn sến giúp việc. Lương hậu. Hỏi số nhà 215D/17 Chi Lăng, Phú Nhuận.

Bố cáo dán lên, chưa ráo hồ thì vợ chồng tôi được hân hạnh tiếp một ma-ri-sến. Em sến trông không có gì "đặc sắc". Nhưng em gõ cửa rất hùng hồn và bình tĩnh đối thoại. Câu mở đầu của em :

- Tôi đã đọc tờ giấy kiếm người làm của cậu.

- Dạ, vạn hạnh, vạn hạnh... Chữ nghĩa có sơ sót, xin chị bỏ qua.

- Khu này điện bình thường chứ ?

- Điện tốt.

- Nhà cậu có xài "xuyệch von tơ" không ?

- Không.

- Ồ, nhỡ nhầm hôm thứ sáu, điện yếu, coi cải lương ti vi hết thú.

- Tôi sẽ mua cái "xuyệch von tơ".

- Có ti vi chạy "bin" không ?

- Không.

- Cậu phải mua ngay đấy nhé! Đề phòng thứ sáu cúp điện tôi vẫn được coi cải lương.

- Tôi sẽ mua.

- Lương cậu trả bao nhiêu ?

- Tùy chị,

- Năm ngàn, chưa kể tiền ăn sáng.

- Được.

- Tôi ngủ trưa hai tiếng, chiều chủ nhật xin phép đi chơi với bồ của tôi.

- Được lắm. Tôi rất ca ngợi ái tình. Trong khi chờ đợi tôi đủ khả năng mua ti vi chạy pin, chị chịu khó kiếm chỗ khác mà giúp việc.

Mức khôi hài của tôi chỉ đến đó là xẹp. Tôi bèn đóng cửa đánh rầm. Tự nhiên, tôi đâm ra thân nhà nước, nhà nước chịu đựng những đòi hỏi dân chủ của một đoàn thể nào đó, chắc cũng đau đớn như tôi. Tôi thở dài, bảo nhà tôi :

- Mình đành tự túc, tự cường, em ạ ! Trông nhờ ở sự viện trợ lao động của ma-ri-sến dễ bị át giọng quá.

- Cũng tùy đứa chớ, bộ giống nhau cả sao ?

- Không tùy gì cả. Sến kia rầy đã nên bà hết trọi. Tác phong của họ là tác phong năm bờ oăn trong đẳng cấp giá trị của xã hội. Cuộc đời rứt cảnh lầm than, mình nên mừng.

- Này anh...

- Gì em ?

- Tại sao anh không làm tướng ? Hay đại tá ? Hay trung tá thôi ?

- Anh sướng gấp mười lần tướng tá ham sao sáng và mai bạc mà chi. Em tưởng tướng tá vinh hoa phú quý lắm ư ? Tướng thành phố nghèo mướp. Tá thì khỏi nói. Thời buổi kiệm ước, anh đã não lòng thấy các ông trung tá, đại tá bà cả đọi, cay đắng bắt lính lái Jeep ngồi chờ để riêng mình vô quán đớp tô phở thường. Vì túi các ông tá chỉ có một bớp! Tướng như ông Thắng, ông Chinh, ông Thanh, ông Đạm, ông Vỹ để đói rách à ? Đấy ông tướng Lam Sơn ủng hộ gia đình Huỳnh Thái mười xín, móc ví hoài vẫn chỉ còn hai xín, đành khất chờ cuối tháng lĩnh lương trả nợ... ủng hộ.

- Nhưng...

- Sao ?

- Em lại thấy mấy ông tướng hồi hưu có đông lính hầu quá xá. Lính mua quà sáng, lính lau nhà, lính lái xe, lính đi chợ, lính đưa con tướng đến trường, lính... bếp và cả lính vú em...

- Đó là tướng tam cúc. Cuộc đời đã loại dần họ. Nay mai, họ tháo tỏng nốt kỳ tái tranh cử vào thượng viện, hết mẹ nó quyền bất khả xâm phạm, nhà nước sẽ mời lính phục vụ riêng họ về phục nhân dân. Rồi chính vợ con họ sẽ làm công việc của ma-ri-sến ! Em dốt nát, kiến thức kém, theo bà nguyên tổng trưởng Trần Ngọc Oanh, nhỡ anh làm tướng, em xúi anh làm bậy thì bỏ mẹ. Em ơi, làm tướng khó vô cùng, lại cầm chắc cái nghèo. Đấy bà trung tướng nọ vừa bị truy tố ra tòa về tội ký chi phiếu cả bảy triệu không tiền bảo chứng. Còn bà cựu thiếu tướng nọ thì bị người ta đăng bố cáo việc riêng trên báo coi như đồ bỏ !

Nhà tôi mắt sáng lên :

- A, Mình đăng báo tìm sến đi anh. Đăng báo Chính Luận, anh ạ! cả nước đọc mục Rao Vặt của Chính Luận,

Tôi gật đầu :

- Ý kiến tốt.

Vậy là tôi có bổn phận đóng góp cho chính khách Đặng Văn Sung vài quả rao vặt. Bèn phóng xe lên ngay Sàigòn.

Hai hôm sau, mẫu rao vặt của tôi xuất hiện trên báo Chính Luận :

TÌM NGƯỜI GIÚP VIỆC

Cần đàn bà, con gái giúp việc lặt vặt trong nhà. Lương cao. Hỏi ông Lương. Số nhà 215D/17 Chi Lăng, Phú Nhuận. Điện thoại 40.060. Có quyền gọi bất cứ lúc nào. Chủ nhà hoan hỉ tiếp đón.

Báo ra tối trước, sáng tinh mơ bữa sau, chuông điện thoại đã reo ầm ĩ. Tôi tung mền vùng dậy, chạy ra, chụp lấy.

- Alô...

- Tôi nghe đây.

- Phải nhà ông Lương không ?

- Dạ.

- Ông đăng báo tìm người giúp việc, hả ?

- Dạ.

- Tôi làm được không ?

- Được quá.

- Nè, ông Lương Khoán.

- Dạ,

- Tôi giúp việc ông, ông dạy tôi viết văn cơ.

- Cô ở thi văn đoàn nào đó ?

- Thi văn đoàn Áo Thung!

- Vậy tiếp tục nền văn nghệ Áo Thung đi đừng có giỡn một người đang đau khổ vì ma-ri-sến y hệt đau khổ vì bịnh trĩ như tôi.

Tiếng cười giòn giã ở đầu dây bên kia. Và máy cúp. Cuộc đời nhục mạ tôi, cuộc đời văn nghệ tạp lục trên nỗi niềm cay đắng của vợ chồng, con cái tôi. Chuông lại kêu.

- Alô, alô...

- Này, giỡn thế đủ rồi. Giỡn nữa tôi chửi thề đấy.

- A...

- Ơ cái con khỉ. Muốn văn nghệ Áo Thung thì lại đây giặt áo thung sẽ có văn nghệ.

- Ai ở đầu dây đó ?

- Tôi.

- Tôi là ai ?

- Là tôi.

- Có phải anh Lương không ?

- Chính tôi.

- Hoa đây này. Anh điên hay dại mà nói năng tầm bậy tầm bạ vậy ?

- À, chị Hoa, xin lỗi chị nhé !

- Thấy anh đăng báo...

- Ấy, vì đăng cả số điện thoại mà vừa bảnh mắt tôi đã bị trêu chọc. Mình mướn sến họ lại đòi rủ mình vào thi văn đoàn Áo Thung!

- Tôi dư một em sến. Để tôi "pát xê" xuống,

- "Thơm" không ?

- Đi chợ, nấu bếp, giặt ủi tốt lắm.

- Nàng có đòi hỏi quyền sống kỹ không ?

- Không.

- Vậy chị làm ơn "pát xê" ngay xuống đi.

Trưa hôm ấy, tôi được tiếp đón một em sến... méo mồm. Tôi buồn mười lăm phút. Rồi tự an ủi : thôi, những em sến nhan sắc mặn mà "đã bỏ ta ra đi như những dòng sông nhỏ", như những "lần vẫy tay chào, thôi dòng đời đó, cuốn mình theo"; những em sến từ quê lên tỉnh thì để ta cô đơn mà hát "Toàn dân hân hoan Luật Người Cầy Có Ruộng" chỉ còn lại những em sến méo mồm, què chân chắc sẽ chẳng nỡ bỏ rơi ta. Nhưng em sến méo mồm này làm ta bàng hoàng :

- Nhà thầy không phải vi la à ?

Ta đáp :

- Nghèo tiền, chưa mua nổi vi la.

Nàng sến méo mồm dội vào lòng ta gáo nước lạnh buốt.

- Không phải vi la thì không có phòng riêng cho bồi bếp. Tôi ngủ ở đâu ?

- Ở bếp.

- Rỡn.

- Vậy mời chị đi ra cho nó được việc. Đứng lâu thêm chị dám đuổi tôi lắm à!

Nàng sến méo mồm phú lỉnh một cách sung sướng. Tôi trách chị Hoa đã không diễn tả căn nhà ngoại ô của tôi. Ôi, "căn nhà ngoại ô", tên một bản nhạc máy nước, nguồn cảm hứng của một nhạc sĩ tài ba, ai biết đâu, ma-ri-sến méo mồm đã chê bai kịch liệt.

Tôi buồn riêng trong nỗi vui chung của dân tộc. Nếu cách mạng tháng tám, cách mạng nhân vị, cách mạng tháng mười một, cách mạng xe đạp và cách mạng... mõm chưa thực sự đem lại hạnh phúc cho đồng bào nghèo khổ của tôi thì, ít ra, những cuộc cách mạng anh đúng đó đã móc một giai cấp thiệt thòi nhất lên nấc thang giá trị tột đỉnh của xã hội Việt Nam hôm nay. Nghị sĩ Bùi Văn Giai vừa làm một cú trắc nghiệm... đàn bà lớn. Ông nghị đói rách của tôi đã bất chấp lời cảnh cáo của bà Hồ Xuân Hương, ông ta phóng tay - như lần phóng tay thử vú cô Tuyết của Xuân tóc đỏ - mó hang hùm mệnh phụ phu nhân. Tôi không biết nghị Giải có phân chất mùi hương... hang hùm bà lớn ? Chỉ thấy bà lớn Trần Ngọc Oành oành oạch lý luận rằng mùi hương thơm lắm. Nhưng thơm ngát hay dậy mùi thơm phó mát Joséphine mà Napoleon nghiện nặng, tôi chả cần tìm hiểu. Cứ trắc nghiệm của ông nghị Giải đã chứng tỏ hùng hồn rằng, ma-ri-sến sáng giá hơn mệnh phụ phu nhân. Vì người ta dám lôi mệnh phụ phu nhận ra giễu cợt mà lại nói về ma-ri-sến một cách vừa não nùng vừa nghiêm túc.

Vợ chồng tôi nhìn nhau. Bốn con mắt vẫn mây sầu. Tôi, một giây phút bàng hoàng, bỗng thù oán cách mạng. Sau mỗi cuộc cách mạng là một trống rỗng. Đất nước tôi đã có đến cả Trần Ngọc Liêng, Ngô Bá Thành phu nhân làm cách mạng thì sến phải mất hết. Ma-ri-sến trở thành cách mạng cái hoặc đi theo cách mạng rồi ! Ôi, ma-ri-sến, ta "hoài" các em như nho sĩ triều Nguyễn hoài Lê, như cần Lao giẻ rách hoài Ngô Đình, Ta đã đọc bài thơ của Tố Hữu. Thưở ấy Tố Hữu mới chỉ là nhà thơ xã hội, chưa biến hóa kiếp văn nô của chế độ mắc xít. Bài thơ diễn tả một chị vú em bỏ con thơ sau lũy tre xanh để chồng sắm vai trò gà trống lên tỉnh chìa hai vú sữa cho con chủ bú. Những đêm đen ra cổng, nhìn về phía quê nhà, nhớ con, nhớ chồng, chị vú em ứa lệ. Nghèo khổ đến bị bóc lột cả sữa nuôi con thì quả là cần thiết cách mạng. Ta đã yêu thơ Tố Hữu. Đến bài thơ anh cu ly xe tay "tư gia" tiễn đưa một mầm non phi líp nhỏ, ta đọc xong, phát khóc. "Thế là hết, chiều ni em đi mãi, Còn mong chi ngày trở lại Phước ơi" ? Anh cu ly xe tay "tư gia" đau xót "a đi ơ" chú nhỏ :

...Ừ, đói khổ phải đâu là tội lỗi

Anh cứ nghĩ mà càng thêm hổ tủi

Cảnh cơ hàn khốn nạn của chúng ta

Nuôi đi em cho đến lớn đến già

Mầm hận ấy trong lòng xương ống máu

Để mai mốt thêm hăng hồn chiến đấu

Mà hôm nay em đã nhóm trong hồn."

Những chị vú, con sen; những anh cu ly xe tay, thằng nhỏ vội tưởng bở. "Ừ, đói khổ phải đâu là tội lỗi". Tội lỗi gì nhỉ ? Vậy mà cuộc cách mạng vô sản lại dẫn dắt họ đến công trường tập thể, đến những con đường dân công đói khổ; khốn nạn hơn. Và, đứng trên nỗi đọa đầy ấy, anh cán bộ Vẹm Tố Hữu khuyến khích :

Hì hà hì hục

Lục cục lào cào

Anh cuốc em cuốc

Đá từ đất nhào

Nào anh bên trai

Nào em bên nữ

Thi sức thi tài

Xem ai nào hơn ai

Anh tài thì em cũng tài

Đường dài ta xẻ sức giai ngại gì.

Rốt cục, những phẫn nộ trong tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, trong thơ Tố Hữu được xóa bỏ để "cộng sản" thành một phẫn nộ vĩ đại và mù mịt gấp bội. Bây giờ, chị vú, con sen được đổi danh xưng. Vì danh xưng mới, mà phải thi đua tăng năng xuất cho "cách mạng chống Mỹ cứu nước"! Vô sản, người xấu số ở quê hương tôi, chế độ nào thì người cũng vẫn xấu số, dù người được các lãnh tụ cách mạng cắn gấu quần để nói phét "ở dân nghèo, vì dân nghèo, cho dân nghèo". Người vô sản miền Bắc, hẳn phải hoài... phong kiến ghê gớm. Nhớ lại cảnh chợ người. Những khuôn mặt hắt hiu ngồi chờ đợi. Những cái vú căng sữa chờ những bàn tay nhà giàu bóp. Dòng sữa phọt ra. Sữa vàng. Chê. Vì có bệnh. Sữa trắng. Lại trắng xanh. Tốt. Lôi về tắm rửa sạch sẽ, thay đổi áo quần thơm tho. Cho ăn ngon bổ. Để sữa tốt nuôi cậu ấm, cô chiêu. Và cậu ấm, cô chiêu, nhờ sữa vô sản khôn lớn, xuất dương du học thành tài hay lưu lạc quê người làm cách mạng để hồi hương nắm gọn quyền hành lại tiếp tục điểm mặt vô sản, bóp vú thử sữa.

Thống khổ đến thế là cùng. Nhưng còn hy vọng chồng con trả nợ lúa non ở quê nhà, biết mong ngày tết đoàn tụ trong nước mắt. Chứ, giữa đường gặp gềnh dân công, ngày về tăm tối như ngày đi. Hỡi người vô sản, đồng bào tôi bên kia giới tuyến, các vú căng đầy sữa hy vọng của người chắc hẳn đã bị bóp lép xẹp, bởi những bàn tay của bọn chủ nhân ông Mác xít! Ở bên này, miền Nam tự do, dư dả sữa bò đặc, sữa bò tươi, nạn vắt sữa đã chấm rứt. Cách mạng đô la giải phóng chị vú, con sen trăm phần trăm rồi. Chỉ còn một số nhỏ, số phận hẩm hiu, đi lính bảo vệ quê hương nhưng lại được anh dũng chiến đấu tại tư thất các ông tướng hồi hưu có mác nghị sĩ. Họ được lau nhà, rửa bát, lái xe cho vợ tướng vườn đi chợ, đi bắt ghen, đi đánh tứ sắc, lái xe đưa rước con tướng vườn đi học, lái xe đưa nhân tình của tướng vườn đi sửa móng tay, lái xe đi mua quà sáng cho toàn gia đình tướng vườn ăn uống. Đặc biệt nhất, họ ghếch xế trước cổng một vi la nào đó, chờ tướng vườn xì phé. Hôm nào, tướng vườn ăn, tướng vui phát cho ít địa thì mừng rơn. Tướng mà thua, nghe chửi thề long ráy. Nhà của tướng vườn rộng, vợ con lính đến ở được. Vợ đặc trách phục vụ tướng bà. Dư thì biệt phái tới phục vụ bà con thân thích. Con lính tư thất sắm vai hầu hạ tướng con. Để bị bắt nạt ! Huynh đệ chi binh thế là nhất rồi. Thỉnh thoảng, yêu lính tận tình, tướng vườn bợp tai đá đít lính. Lính đứng chịu đòn, xưng "con" bằng thích.

Về cái sự ma-ri-sến oai hơn mệnh phụ phu nhân ra sao, cứ đọc truyện của tôi sẽ rõ. Tôi đang oán chị Hoa, bạn của nhà tôi, đã không chịu trả "căn nhà ngoại ô" cho nàng sến méo mồm thì một em sến khác đến... nhận việc. Em này bị rỗ huê. Có thể, Mao Trạch Đông đã phát động chiến dịch trăm hoa đua nở trên mặt chị. Chị rỗ huê hỏi tôi :

- Thầy cần người giúp việc lắm, hả ?

- Dạ, cần lắm.

- Tôi muốn coi cái bếp nhà thầy trước !

- Làm gì ? Hãy nói tiền nong đã.

- Không, tôi muốn coi bếp.

- Làm gì ?

- Xem nhà thấy xài bếp ga hay bếp than !

- Bếp ga đàng hoàng. Bếp nhãn hiệu Ý đại ly, có bốn lò, lại có cả chỗ làm bánh, nướng thịt.

- Có máy giặt không ?

- Có.

- Tốt.

- Vâng, rất tốt.

- Nhà thầy mỗi ngày đi chợ bao nhiêu tiền ?

- Tùy à...

- Trung bình bao nhiêu ?

- Đề tôi hỏi vợ tôi.

Nhà tôi được mời ra làm một cuộc đối thoại ly kỳ, hấp dẫn. Tôi giới thiệu :

- Đây là vợ tôi.

Chị rỗ huê hơi cúi đầu :

- Chào cô.

Chị tấn công ngay.

- Cô chi tiền chợ mỗi ngày bao nhiêu ?

Nhà tôi có vẻ khó chịu, Tôi vội giải thích :

- Để chị ấy biết tình hình bếp núc đó.

Nhà tôi đau khổ nói :

- Năm trăm một ngày.

- Cô tính luôn tiền gạo, nước mắm, muối hả ?

- Chỉ tính tiền mua thức ăn.

- Hơi ít nhưng cũng được. Tôi làm ở Sàigòn đi chợ hai ngàn mỗi ngày quen rồi. Giờ mang năm trăm đi chợ kẹt đấy nhé ! Giá cả tăng trăm phần trăm mà cái thằng cha Ngọc nó bảo tăng sơ sơ. Nói xạo quá. Tôi lãnh tiền của cô đi chợ chứ không bằng lòng để cô tự đi chợ.

Nhà tôi bỏ vào nhà. Tôi cười cầu tài :

- Chị tính rất sát. Ông Tồng Ngọc có nói giá sinh hoạt tăng trăm phần trăm vẫn sai. Phải tăng ba trăm phần trăm mới đúng. Trước tôi làm công cho hãng nọ, đặc trách đi mua hàng, chính tôi đã tự tăng lên ít phần trăm.

Chị rỗ huê khoái chí :

- Thầy thông cảm lẹ. Một tô bún xào vịt giờ năm mươi đồng. Tôi lãnh tiền của chủ đi chợ mới hy vọng được ăn xào vịt chứ.

Tôi nói :

- Bây giờ mời chị ra chợ ăn bún xào vịt cho nóng kẻo nguội tanh chết. Và gia đình tôi không có vinh hạnh được chị cộng tác.

Chị sến rỗ huê nhún vai cứ như minh tinh Thẩm Thúy Hằng trong phim "Chiều kỷ niệm" và xách đồ nghề ra đi. Chị ta chê gỡ một câu :

- Thầy xí giai hơn Thanh Tú nhiều !

Vâng, tôi xí giai. Lại cần cái yếu tố đẹp giai giống kép hát cải lương mới mượn được ma-ri-sến! Mẹ kiếp, mình nên đi tập hát vọng cổ. Tôi buồn thêm mười lăm phút. Vừa dứt cơn buồn thì có tiếng gõ cửa. A, một ma-ri-sến. Báo Chính Luận thật "ép phê" về món rao vặt.

- Thưa ông, em muốn hỏi đây có phải là nhà của văn sĩ Lương Khoán ?

- Dạ đúng. Mà sao cô biết tôi là Lương Khoán ?

- Thưa ông, em hằng theo rồi nhật báo Mùn Sầu, thấy ông ghi rõ địa chỉ nhà ông.

- Cô em đây muốn xin tôi chữ ký chăng ?

- Dạ, em xin... giúp việc cho gia đình ông.

- Ủa !

- Hoàn cảnh em đau khổ vô cùng, xin ông đừng từ chối.

Tôi ngạc nhiên đến rụng rời :

- Em thơm thế này, đừng làm sến, phí mất. Ôi, giá em...

Nàng sến "hoàn cảnh đang khổ" của tôi hỏi :

- Giá em sao ạ ?

Tôi muốn nói giá vợ tôi cho phép tôi kết duyên Tấn Tần với em thì tôi a la xô ngay. Vì em đẹp ra phết. Áp dụng chính sách tối làm vợ, sáng làm sến của Mẽo. Người Mỹ vô cùng thực tế. Ngài tưởng lính Mỹ nó ngu dại lắm đấy à ? Nó gá nghĩa vợ chồng mí các em xấu xí là đề vừa đỡ phải chi tiền cho gái giang hồ, vừa hầu hạ nó. Làm giường, giặt quần áo mờ người đề vênh vang vài hộp nước Coca Cola hay cái tủ lạnh mua ở PX. Rốt cuộc, cách mạnh đô la cũng chó má như cách mạng vô sản.

- Giá em sao ạ ?

- À, à, giá em đừng có hoàn cảnh đau khổ. Chắc em đau khổ vì văn nghệ ?

Đôi mắt em sến văn nghệ - tạm gọi thế - sáng rực. Em thú thật :

- Thưa anh (anh rồi, sướng chưa) em ở lục tỉnh, thuộc thi văn đoàn Tỉnh Lỵ. "Đường lối lấy căn bản tư tưởng làm manh chiếu nghệ thuật, không bè phái, không địa phương, không đàn anh đàn em, tất cả mọi người đều bình đẳng, trước khi đi đến đỉnh danh vọng của văn nghệ".

Tôi tròn xoe mắt :

- Em "chế" ra câu này đấy à ?

Em văn nghệ tỉnh lỵ (xin đổi danh xưng) đáp :

- Không, thưa anh, đây là vấn đề văn nghệ tỉnh lỵ.

Tôi nói :

- Em ạ, văn nghệ thủ đô các anh chỉ trải báo mà ngủ đầu đường chứ cóc có chiếu văn nghệ. Làm thế nào đi đến đỉnh danh vọng của văn nghệ đây, em ơi !

Em muốn anh tặng cái chiếu trải giường dệt bằng cói hay bằng ni lông, anh sẽ mua tặng em. Chứ, mười năm mắn "dzăng nghệ", anh chả biết chiếu nghệ thuật trải ở chỗ mô. Anh cần sến. Tôi đang cần sến, cô biết không ? Muốn làm thơ hãy đi tìm thi hào Phổ Đức. Muốn viết văn thì mua cuốn "Nghệ thuật viết văn" của ông Pen Club Phạm Việt Tuyền.

- Ông nhất định không giúp nên văn nghệ tỉnh lỵ ?

- Tôi cóc có tài. Sáng bảnh mắt đã thi văn đoàn Áo Thung, giờ lại thi văn đoàn Chiếu Rách, ôi, cái thân tôi, kiếm sến chẳng xong, nói gì thì văn đoàn Áo Thung, Bí Tất, Quần Xà lỏn !

Em gái văn nghệ tưởng tôi điên, phú lỉnh gấp. Cả ngày hôm ấy, tôi thường trực tại gia tĩếp những em sến tài tử. Chọn ba chục ông nghị sĩ mà bỏ phiếu, ngon ơ. Chỉ cần nhắm mắt, xé ba lá phiếu, giúi vào thùng phiếu. Thế là dân tộc có ba mươi anh chị ái quốc nặng nề. Nhưng chờ sến, luôn luôn, vất vả hơn chọn nghị sĩ. Tôi thất vọng, bảo nhà tôi :

- Thôi ta áp dụng chính sách tự lực, tự cường.

Tự nhiên, tôi học được một bồ kinh nghiệm sến. Tổng kết tình hình ma-ri-sến như sau : Các em khoái chủ nhân dành cho một căn nhà nhỏ. Nghĩa là, chủ nhân phải có vi la. Lý do giản dị nhưng đầy tính cách tình yêu : thỉnh thoảng, bồ tèo từ phương trời cát bụi trở về, ngủ lại một đêm, trao đổi văn hóa đề sớm mai lên đường. Hoặc kép ghé thăm em chiều mưa được im lặng "ước mơ một chiều thêu nắng, anh đến "chơi" quên niềm cay đắng và quên đường về". Các em thích bếp ga, máy nước nóng, mang tiền đi chợ. Đặc biệt, các em ghét trẻ con ồn ào, ưa quấy khóc. Thỉnh thoảng, gặp một em ưa văn nghệ thì rất phiền. Cái yếu tố quan trọng quyến rũ sến là phải hao hao giống thần tượng nam ca sĩ vọng cổ. Tôi đã hân hạnh tiếp đón một ma-ri-sến độc giả tiểu thuyết của tôi. Thời buổi bây giờ, chủ nhà đừng hòng dở cái trò khám xét "hành lý'" của sến. Em sến đã xách rương vào nhà tôi, lừng lững như một bạn đường xa. Em làm việc ngoan ngoãn, chăm chỉ. Một ngày âm u, nhà tôi nói nhỏ :

- Này anh...

- Gì ?

- Em đã bảo anh đừng viết tiểu thuyết đường xưa lối cũ, anh cứ viết.

- Thú thật, anh không thể khều mặt trời hay vừa viết vừa khuân tảng đá. Văn chương của anh nó chảy ào ào, ầm ầm róc rách...

- Do đó, con sến nhà mình đã say mê đọc anh,

- Nó đọc anh à ?

- Ừa, nó gối đầu giường cuốn "Tình đẫm lệ yêu" của anh.

Vạn hạnh. Vạn hạnh. Em sến chỉ biết tên ông chủ là Lương chứ không biết ông là "nhà văn" Lương Khoán, giải thưởng truyện ngắn Tiếng Chuông. Tôi tưởng nhà tôi xỏ ngọt tôi. Bèn mở cuộc điều tra. Buổi trưa nóng nực, tôi giả vờ lên gác. Thấy em sến cắm bàn là chờ ủi quần áo, nằm ngửa coi cuốn "Tình đẫm lệ yêu" tiểu thuyết "bét xeo lơ" của tôi. Tôi cảm động quá, hỏi :

- Nè, Ba...

- Dạ.

- Mày mê tiểu thuyết của thằng cha nào vậy ?

- Thằng Lương Khoán thầy à... Nó viết số dzách! "Giả" viết mấy bức thư tình mùi vô cùng. Con đâm yêu thằng cha Lương Khoán!

- Mày mua hay may mướn ?

- Con mua từ lâu, hồi con còn mần ở nhà hàng trên Sàigòn lận. Sư bố thằng Lương Khoán, đọc nó con khóc hoài à...

- Ừ, sư bố nhà nó chứ, nó viết lạ quá. Nè...

- Dạ.

- Chưa hết tháng nhưng thầy vẫn trả lương tháng rưỡi, mày sửa soạn dời đây đi.

- Tại sao ?

- Tại vì mày vừa chửi thầy!

- Đâu có.

- Hề hề, tao là Lương Khoán.

- Thầy "dziết dzăng", hả ?

- Ừa.

- Thầy cho "em" ở lại, thầy ơi ! Em thể trọn đời sẽ chung tình và không ăn lương.

- Không được.

- Ủa !

- Ủa cái nỗi gì ? Thầy đang nói phét với cô là thầy sắp chiếm giải Văn học Tổng thống 1970, gửi bản thảo dự thi đàng hoàng. Thầy đã nhờ các ông Mai Thảo, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Khắc Khoan cho điểm tốt, chắc ẵm cái bằng văn chương về trang trí nhà cửa và cuộc đời thì mày phá đám.

- "Em" phá đám cái chi ?

- Mày mê tiểu thuyết của thầy, tức nhiên, mày đã xếp hạng thầy là văn sĩ của ma-ri-sến. Thầy lạy mày vạn lạy, mày đi đi cho thầy kiếm tí công danh. Nếu phúc nhà thầy to, thầy sẽ trúng giải và đêm lãnh giải tại Phủ Tổng Thống, thầy mời mày đi... vỗ tay.

- Thầy có đọc diễn văn không ?

- Có chứ.

- Thầy định nói gì ?

- Về văn học thời đệ Nhị Cộng Hòa và ma-ri-sến ! Thầy lấy sến "làm căn bản tư tưởng" đề ngồi lên "manh chiếu nghệ thuật". Quả thật, Ba thân mến, nhà văn nghệ như thầy mà thiếu sến đọc kể như đói. Trí thức hôm nay mãi đeo yếm thắm lên chùa, chế độ thì lo mần vẻ ngớ ngẫn, viết khẩu hiệu kệch cỡm, văn hóa mãi "đố vui nóng máy" và khích lệ "va dơ lin" những người làm cho văn học nghệ thuật sống lay lắt, rau cháo qua thời, ấy là sến. Hỡi sến, các em cần thiết vô cùng. Thiếu các em đời sống tẻ nhạt và báo bổ phụ nữ ngày mai, phụ nữ mới, phụ nữ cũ, phụ nữ tân tiến, phụ nữ diễn đàn vân vân sẽ ngỏm. Những kép hát Hùng Cường, Thành Được khó trở thành thần tượng. Và phim "Chiều kỷ niệm" của tiền sĩ Nguyễn Xuân Oánh ai thèm coi ? Và sư thành phố thuyết pháp, đào đâu nổi phật tử tham dự ?

Em sến văn nghệ, độc giả ái mộ tiểu thuyết "Tình đẫm lệ yêu" của tôi cảm xúc nặng. Em đành rưng rức nước mắt, xê ra để tôi hy vọng ẵm giải văn học tổng thống. Từ đó, tôi viết về sến rất... có chiều sâu. Vì đau khổ bởi sến, tương tư sến, thèm muốn sến, văn chương tôi sáng giá vô cùng. Tôi dự định viết hai trường thiên tiểu thuyết. Cái thứ nhất tôi tặng anh thợ vẽ Hĩm, nhan đề "Ai đau khổ và bệnh trĩ". Cái thứ hai tôi tặng quý bà thành phố, nhan đề "Ai đau khổ vì thiếu sến". Hai bộ trường thiên này nhất định sẽ đưa tôi vào văn học sử. Và, người bê tôi vào văn học sử không ai ngoài phê bình gia Nguyễn Đình Tuyến.

Nhưng cái số vợ chồng tôi là số khổ vì sến. Rất nhiều bạn bè thương tôi, mất công tìm sến cho vợ chồng tôi. Tôi xin gửi nơi đây lòng biết ơn quý bạn. Một hôm, chị Tiến đích thân dắt tới một em sến. Vào buổi sáng, em sến ra buổi chiều. Em chống đối "hiến pháp" của chủ. Em pha sữa cho con tôi, đổ nửa bình, sữay nữa bình nước nóng. Tôi nhẹ nhàng giải thích rằng, pha thế ngọt quá, uống khô cổ và không thích hợp kiệm ước. Em sến nổi sùng, tốc quần chửi đứa nào chế ra danh từ kiệm ước mà nguyền rủa. Rồi em cút. Sáng sau, chị Hoa lại gởi đến một em sến. Em này làm trọn ngày. Ngủ thẳng cẳng suốt đêm. Mãi tám giờ em mới dậy. Em vi phạm điều lệ lần thứ nhất, vợ chồng tôi đồng ý bỏ qua. Em cười :

- Tôi ngủ mê mệt à... Thầy phải mua cho tôi cái đồng hồ rẽ !

Đồng hồ rẽ chưa kịp mua, em đã bỏ lại cái giỏ ni lông, chuồn vội. Hỏi ra thì em giận chồng lấy vợ bé, chống đối tiêu cực bằng cách đi... ở đợ, Đêm nằm ngủ cô đơn, nhớ chồng quá, em bèn trở về mái nhà xưa.

Và mái nhà tôi trở nên hiu quạnh. Ông già vợ tôi, tuy mãi lo kiện "Luật Người Cầy có Ruộng" lâu lâu, vẫn nhớ dắt lên vài em sến. Những em sến này đều chê đời sống văn minh kỹ thuật, lần lượt về lục tỉnh cày sâu cuốc bẫm. Tôi nhớ, có lần ông dẫn từ Trà Vinh lên một em sến Việt gốc Miên. Con bé làm việc chăm chỉ, ngoan ngoãn. Nó lãnh lương của bà ngoại... ghẻ tôi hai tháng tại Trà Vinh rồi. Đến tháng thứ ba, nó dở chứng. Đau ốm lu bù. Đưa thuốc không chịu uống. Dẫn đi bác sĩ thì chê. Nó viết sẵn một cái thư bỏ vào phong bì, đại ý, mượn lời ông anh nó làm thiếu úy, dọa vợ chồng tôi phải cho nó về, nếu không, anh nó sẽ xách súng hỏi tội. Thư này kèm theo bức thư gửi cho bạn nó, nhờ gửi tới địa chỉ nhà tôi. Bất đồ, tôi vớ được. Và tôi cho nó... giải nhiệm ngay. Giữ nó, một ngày đẹp trời nào đó, nó viết thư tố cáo cảnh sát nhà mình oa trữ truyền đơn Cộng sản thì bỏ bố !

Đã hơn một lần, vợ chồng tôi phải ra bót cảnh sát để đối chứng vụ ma-ri-sến thưa vợ chồng tôi hành hung em. Chuyện thế này : Em sến thuộc dân Duy Xuyên, Quảng Nam, ngớ ngẫn hơn tổng trưởng Trần Văn Lắm. Mới đến nhận công tác buổi chiều, buổi tối em sến ngớ ngẫn đã ngồi ì trước máy truyền hình. Gia đình tôi đi ngủ sớm. Kệ em sến coi. Chừng chán mắt hay hết chương trình em sẽ tắt máy đi ngủ. Đang thiu thiu, có tiếng đập cửa phòng. Tôi vùng dậy, mở cửa :

- Gì thế ?

- Thưa thầy...

- Sao ? Hai giờ sáng rồi còn chưa ngủ !

- Thưa thầy, tôi chờ hoài mà không có diễn tuồng.

- Chị ngồi xem máy... trắng à ?

- Dạ.

- Bỏ mẹ tôi rồi. Sao không tắt máy ?

- Tắt mô ?

- Thôi cút đi !

Sáng sau, sến ngớ ngẫn lau nhà, cứ núi giẻ dơ mà miết cái đàn piano, nước nhễu cả xuống phím. Cái đàn của con gái tôi, hiệu Yamaha, mới mua gần nữa triệu bạc ! Tôi đau ruột quá, bợp nhẹ một cái cảnh cáo. Nếu là con tôi, chắc tôi sẽ cho ăn no đòn. Nhưng nhân vị của sến bự lắm, bợp nhẹ nhàng thôi. Bợp mạnh em sến giả lăn đùng, cảnh sát tới lập biên bản, y sĩ nhà nước chứng thương, báo chí khai thác, đăng tít "Thời dân chủ mà còn diễn trò ác ôn" thì thân bại danh liệt. Tôi có người bạn bị báo đã kích tơi bời vì ma-ri-sến vu oan giá họa. Giai cấp vô sản luôn luôn được bảo vệ, dù cô ỉa đái lên sự thật. Thí dụ : vĩa hè Lê Lợi biến thành các sạp hàng, ai mở miệng nói gì mỹ quan của thành phố, đòi dẹp bỏ; ai mỉa mai thủ đô và e người ngoại quốc chê cười, lập tức "dân nghèo" dâng kiến nghị và sẵn sàng có nghị sĩ, dân biểu, nghị viên mị dân rẻ tiền tranh đấu quyết liệt. Do đó, cạnh nền văn học vĩa hè là... cầu tiêu. Cụ Mai Thọ Truyền hẳn đau lòng con quốc quốc !

Nàng sến ngớ ngẫn thù cái bợp tai nhẹ, đã bỏ buổi chợ, đi cớ bót. Tôi và vợ tôi ra bót. Ông thẩm vấn bóp ngánh (chả biết có phải trưởng chi) dở giọng cách mạng :

- Tôi cho ông hay, ông đầm đìa lỗi. Một người đàn bà khổ sở, lặn lội từ miền T rung, miền đất cày lên sỏi đá, vô đây ở đợ mà tại sao ông nỡ hành hung người ta ? Tôi sẽ chở người ta đến chẫn y viện lấy giấy chứng thương. À, ông dám cầm cục sắt đập vào gáy chị này à ?

- Vâng, tùy ông, ông muốn làm gì thì làm.

- Tôi sẽ dẫn ông về ty.

- Ông dẫn tôi về âm ty càng tốt.

- Ông chê dân chủ, ông là...

- Là gì ?

- Quân phiệt.

- Ông cảnh sát ví von hay đấy. Thưa ông, các ông "quại" tụi lỏi sinh viên, học sinh bằng thích một cách công khai, nên ví sao đây ?

- Ông là gì ?

- Tôi là chủ nhiệm một tờ báo xoàng, quen miệng gọi là báo Đối Lập.

- Thưa ông bà chủ nhiệm, từ nãy, tôi đóng kịch để diễn vở "Cảnh sát bạn dân" trên ti vi đấy ạ! Báo Đối Lập rất ác liệt, coi tổng thống như pha. Chị kia,

Em sến ngớ ngẩn giật mình :

- Ông chủ nhiệm đây đâu thèm đánh chị cho đau tay.

Tôi đỡ lời :

- Thưa ông, tôi có bợp nhẹ chị ấy. Tôi hối hận lắm, ông để tôi bồi thường chị ta.

Ông thẩm vấn cười, xoa tay :

- Ông đừng gỡ tội cho nó. Dân nghèo nó ngu dốt, coi chừng nó là Việt Cộng toan hạ uy tín của ông chủ nhiệm quốc gia chống Cộng.

Tôi nghiêm giọng :

- Thưa ông tính tôi dĩ hòa vi quý. Chuyện này xin ông cho tôi giải quyết ngay tại đây. Tôi trả chị ta tuần lễ lương, tặng thêm một ngàn. Thưa ông thưở tôi hàn vi, xuýt có bận tôi đi ở đợ. Tôi đã từng gánh nước về hòa với nước tiều tưới rau ở Trảng Lớn, Tây Ninh, tôi rất thông cảm... ma-ri-sến.

Ông thẩm vấn giận dỗi :

- Không được đâu, ông chủ nhiệm, dân ngu mình cần nạt nộ nó. Nó bị ông chủ nhiệm bợp tai chứ ông đánh què nó, tôi cũng vẫn bỏ tù nó như thường.

Tôi phải lạy lục mãi ông thẩm vấn mới tha chị sến ngớ ngẫn. Có lẽ, ông thấy hổ vì... tôi là đại chủ nhiệm Đối Lập. Triết lý trong bài tập đọc "Cái lưỡi" thật hay ho. Cái lưỡi trên cuộc đời nó đều nhìn chỗ mạnh mà uốn và hót. Tôi không dám tin những cái lưỡi, kể cả lưỡi... cách mạng. Ma-ri-sến đưa tôi ra phú lít làm tôi thất vọng. Tôi thề sẽ mua một cái vi la. Tôi cóc khoái ở vi la song chỉ có vi la, ma-ri-sến mới chịu dừng gót giang hồ. Tôi lại đăng rao vặt tìm sến. Báo Chính Luận có mục vui cười hay nhất thế giới, ấy là mục rao vặt tìm sến.

Vợ chồng tôi thành công lớn. Ma-ri-sến mười phương đổ về. Mỗi ngày tôi ghi số căn cước, ít nhất là nữa trang giấy. Tôi trở thành Tổng đại lý sến. Em nào xin việc tôi cũng nhận. Nhận rồi, tôi phân phối cho bạn bè, những người đau khổ vì thiếu sến. Tôi cóc cần giữ sến. Em nào xin ra, cho ra ngay. Luôn luôn, có một vài em thường trực. Nhưng một buổi u ám, các em xin thôi tập thể. Và cái rao vặt thường xuyên trên Chính Luận hết hiệu nghiệm. Lối mướn sến công nhật chấm dứt. Vợ chồng tôi lại đau khổ vì thiếu sến.

Và tôi, trang nam nhi tri kỷ bộ râu, lại thực thi công tác lau nhà, rửa bát. Chỉ vì đàn bà. Ôi, đàn bà, sinh mi mà chi cho đời ta vất vả. Tại sao đàn bà không giống đồ hộp ? Ăn xong rồi liệng lon đi là tuyệt. Giê-hô-va Chúa Trời cũ ơi! tôi giận ngài quá xá !

3. đàn bà mệnh phụ phu nhân và đàn bà bình dân... học vụ

BỖNG MỘT HÔM, NẰM GIỮA LÒNG ngõ hẹp, cảm thấy đời mình lạnh lùng trôi theo dòng kiệm ước, tôi đã ngáp được con ruồi tham chính. Người ta mời tôi làm tổng trưởng trong nội các cải tổ, ngài ạ! ối giời ơi, tôi mà được mời nắm chức tổng trưởng thì tương lai xứ này quả là hết thuốc chữa. Y hệt Lưu Bị "tam cố thảo lư" vồ Khổng Minh, người ta đã đến kiếm tôi ba lần cả thảy. Lần thứ nhất, tôi bận đi chợ mua rau cỏ, thịt cá, Phi líp nhỏ mà... Nhà thiếu sến, vợ ốm, chống là bếp, con cái là bồi. Lần thứ hai, đang rửa bát thì người ta gõ cửa. Người ta hỏi trúng tên tôi. Tôi đành lễ phép thưa : "Bẩm, ông Lương Khoán, chủ nhiệm nhật báo Đối Lập bữa nay vô dinh Độc Lập ăn cơm với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tôi là phi líp nhỏ. Ngài cần dặn gì, xin cứ dặn, tôi sẽ trình ông chủ". Người ta giúi vào tay tôi tấm danh thiếp. A, một chánh đảng nước Việt Nam độc lập với nền cố vấn và viện trợ Mỹ! ông chánh đảng của đảng Tuyệt Cốc, tức là đảng chuyên tuyệt thực để dọa làm cách mạng, ghi giờ hẹn lại gặp tôi. Và, lần thứ ba, tôi gặp chánh đảng Tuyệt Cốc.


- Thưa ông chủ nhiệm, nội các cải tổ do tôi làm chủ tướng, ông đừng ngạc nhiên. Cái quá khứ bán mực nướng của tôi chính là lớp son của một chính phủ của dân nghèo do tôi lãnh đạo mai này. Tôi muốn làm khàc những ông thủ tướng tiền nhiệm. Và tôi long trọng mời ông.

- Tôi có biết cái con mẹ gì!

- Ông chớ quá khiêm tốn. Lúc này, me Mỹ, me Phi, me Thái, me Đại Hàn đang là một lực lượng đáng kể của cách mạng xã hội. Ta không thể để con mẹ Ngô Bá Thành đòi quyền sống cho họ. Do đó, tôi muốn có thêm Bộ Phụ Nữ, đặc trách mọi vấn đề phún Giao Chỉ. Tôi thấy ông có khiếu... phún.

- Bộ Phụ Nữ phải do thị phún làm thông trưởng. Tại sao ông không mời bà dân biểu Trần Kim Thoa ?

- Đàn bà vốn ghét đàn bà. Thưa ông, cái triết lý sống trên cõi đời này nó ly kỳ lắm. Cứ cùng làm một nghề là y rằng đố kỵ, kèn cựa. Đàn bà ưa ngồi lên cọc. Vậy cần đàn ông. Vì đàn ông mới có cọc !

- Thú thật với... thủ tướng, tôi chỉ giỏi ngón võ miệng. Tài năng đói kém vô cùng,

Ông chánh đảng Tuyệt Cốc vỗ vai tôi :

- Nhân tài bây giờ hiếm như lá mùa thu. Quanh đi, quẫn lại, vẫn bằng ấy khuôn mặt. Chê ông Phan Quang Đán tổng trưởng chiêu hồi rồi cứ xài ông Phan Quang Đán quốc vụ khanh. Nếu phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ phán rằng ông quốc vụ Khanh không xứng đáng lĩnh lương năm ngàn một tháng, thưa nhà văn Lương Khoán, tài năng của ngài tôi ấn định mười ngàn. Không cần hơn ai, chỉ cần hơn quốc vụ khanh Phan Quang Đán là ngài hãnh diện chán.

Tôi hỏi :

- Tại sao "thủ tướng" không mời tôi thay thế quốc vụ khanh Mai Thọ Truyền ?

Chánh đảng Tuyệt Cốc cười :

- Ậy, tương lai văn hóa Việt Nam trông mong vào cải lương, hát bội và diễn thuyết về dao cấu thuyền tán. Nghề ấy, ngoài Mai Văn Hóa tiên sinh, không ai đủ khả năng. Do đó, ta nên dành độc quyền cho Mai tiên sinh. Thôi, ngài nên nhận cái Bộ Phụ Nữ đi.

Tôi lắc đầu :

- Thưa "thủ tướng" tôi đề nghị ngài mời ông nghị Bùi Văn Giải !

- Nghị Giải !

- Bẩm vâng, ông ta sắp giải nghệ và sẵn tài giật dải rút các bà lớn... Võ lưỡi của ông ta cao cường đến cái độ tướng ông Pháo Binh phải chào thua.

- Tôi đã chấm ngài.

- Tôi cóc có nghề tổng trưởng.

- Ông phải làm tổng trưởng.

- Tôi đếch thèm !

Đang găng họng từ chối thì con rắn của Giê-hô-va Chúa Trời cũ bò ra.

- Nhận đi, làm tàng hoài.

Tôi ấp úng :

- Mình ít học,

Con rắn của Giê-hô-va nói :

- Anh quên lời dạy của cụ Víp KK rồi à ? Làm nghị sĩ, dân biểu thì không cần học hành gì cả,

Tôi cãi :

- Nhưng "thủ tướng" đây mời anh làm tổng trưởng ?

Con rắn cười ngạo mạn :

- Làm tổng trưởng lại càng không cần học hành.

Cháng đảng Tuyệt Cốc xoa tay :

- Bà "tổng trưởng" thật tuyệt diệu. Ngay tôi đây này, tôi học hành ra cái gì đâu. Chẳng qua là "ngáp". Ngớ ngẫn như ông Trần Văn Lắm mà cũng nghị sĩ kiêm tổng trưởng ngoại giao đó...

Con rắn lườm tôi một cái. Tôi thở dài :

- Vậy thì cám ơn "thủ tướng" tôi xin nhận ghế Phụ Nữ trong nội các...

Chánh đảng, Tuyệt Cốc nói tiếp :

- ... Nội các Nguyễn Văn Ngáp !

Tôi trở thành một vị tổng trưởng ấm ớ nhất trong nội các Nguyễn Văn Ngáp. Thói thường, một thằng chồng làm lớn là con vợ cũng đòi làm lớn. Đó là sự "vô ý thức", theo lời buộc tội của bà lớn Trần Ngọc Oành, Nhà tôi đã thủ thì bên tai tôi, tuần lễ, sau đêm tấn phong nội các Nguyễn Văn Ngáp :

- Này anh, mình nên dọn nhà gấp về đường Trần Tế Xương đi!

- Thôi, ở đây cho tiện.

- Sao lại tiện ? Chính phủ dành ưu ái cho tổng trưởng, ta nên hưởng sự ưu ái đó. Làm tổng trưởng mà cứ ở ỳ một chỗ, nơi ta đã từng ăn chịu bánh cuốn, cãi nhau với anh hàng phở thì dân nó coi ta ra gì ? Em khoái "tư thất" mình có cái vọng gác ngoài cổng phất phơ chú cảnh sát làm cảnh.

- Phú quý trên đời như trận lá vàng cuối thu. Vèo bay chốc lát. Vừa dọn tới nhà chính phủ, nó thay đổi nội các thì ê mặt,

- Hừ, mưa lúc nào mát mặt lúc ấy. Anh định sung sướng như Bá Lý Hề để tôi làm thợ giặt đồ chăng ?

- Đâu nỡ.

- Vậy phải dọn nhà gấp. Có nhà cao cửa rộng tôi mới hoạt động xã hội được.

- Hoạt động xã hội!

- Chứ sao! Các bà lớn đã kết nạp tôi vào Hội Phụ Nữ Chống Ly Dị. Chương trình hoạt động của Hội rất rộng rãi. Thăm thương bệnh binh, ủy lạo cô nhi, quả phụ và lập tòa án hỏi thăm sức khỏe những thằng chồng vũ phu.

Bỏ mẹ, bầy rắn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũ đã họp thành một hàng ngũ... rắn hổ mang.

- Anh nghe lời tôi không ?

Con rắn "phì" một tiếng, lè lưỡi ra. Tôi sợ quá.

- Dạ dạ, sẽ dọn lên cái vi la ở đường Trần Tế Xương.

- Anh ạ !

- Gì ?

- Em "quê" thấy mồ, chưa có dáng dấp của một mệnh phụ phu nhân. Phải tạo cho em có dáng dấp sang trọng như bà Ngô Đình Nhu, anh nhé !

- Em ngu quá.

- Ngu.

- Ừ, ngu. Người ta sang trọng từ bụng mẹ sang trọng ra. Mình chó ngáp phải ruồi, đòi có dáng dấp sang trọng sao được. Bộ muốn làm hề cái à ?

- Thế anh chưa nghe chuyện bà cựu tổng trấn Bắc Hà Nghiêm Xuân Thiện ư ?

Bà Nghiêm Xuân Thiện, người ta kể thế, trước ngày lấy ông Nghiêm Xuân Thiện, rất quê mùa. Vì bà vốn là con gái đồng nội. Lấy ông Thiện rồi, bà Thiện vẫn quê mười cục. Bạn bè ông Thiện chế giễu. Một người khoa bảng đầy mình, tương lai chính trị tràn đầy như ông Nghiêm Xuân Thiện, không thể để vợ quê mùa. Trong các cuộc tiếp tân lớn, vợ một chính khách đóng vai trò tối quan trọng. Vậy ông Thiện đã quyết chí đào tạo bà Thiện trở thành một mệnh phụ phu nhân lý tưởng. Ông thuê các chuyện viên về huấn luyện bà nhà. Từ cầu thang bước xuống, dáng điệu ra sao. Đến đâu thì dừng lại mỉm cười. Tay phải làm gì, tay trái làm gì. Lúc ngồi, ngồi thế nào. Lúc đứng, đứng thế nào. Mời khách ly rượu thì thân thể uyển chuyển ra sao. Khi nào nhún vai. Khi nào vung tay. Khi nào nhăn mặt, vân vân và vân vân. Ông Thiện đã đóng cửa huấn luyện bà Thiện nửa năm. Ông là đạo diễn khó tính. Nhờ đó, bà Thiện trở thành một mệnh phụ phu nhân lý tưởng. Trừ trường hợp bà cáu tiết như lần bà cáu tiết đứng giữa Bộ Thông Tin chửi bới bộ trưởng Đinh Trình Chính đã "chèn ép" nhật báo Thời Luận của bà. Con gái bà Thiện, cô nào cô ấy đẹp như mẹ thưở ấu thời và sang thì khỏi kể.

- Em muốn huấn luyện để trở thành sang trọng ?

- Ừa.

- Vậy, trước hết, nên đến nha sĩ thay bốn cái răng vàng đi. Mệnh phụ phu nhân cười duyên mà chìa răng cửa vàng khè nó le lói dễ mất cảm tình !

- Anh xỏ tôi, hả ?

- Người đàn bà sang trọng không bao giờ trồng răng vàng trong phạm vi đôi môi khép, mở.

- Gì nữa ?

- Không nên tóp tép nhai trầu. Phải tập hút thuốc lá.

- Gì nữa ?

- À, để mướn thật nhiều chuyên viên về huấn luyện. Hình như, người đàn bà sang trọng, lúc ngồi trên cầu, dù táo bón, cũng không nên... rặn !

Cái khoản đầu tiên mà đàn bà hành hạ đàn ông làm lớn, đại khái "như vậy đó". Chuyên viên huấn luyện có bổn phận giới thiệu những tiệm thợ may trứ danh. Chẳng hạn, bà Nguyễn Cao Kỳ năng may áo ở hiệu Dung bên Đakao, các bà lớn khoái sang trọng, phải đến Dung để Dung lãnh bạc gửi ngân hàng.

Này anh !

- Gì ?

- Mình xin gia nhập Xẹc đi.

- Nhà Xẹc, hả ?

- Ừa,

- Nhà Xẹc bây giờ rất bệ rạc. Phần đông là me Mỹ. Cứ trung úy Mỹ là có quyền vô hội. Cái thời nhà Xẹc, nơi thể thao trình diễn của ông Tây bà Đầm và trí thức Mít đã chấm rứt. Vô làm quái gì ?

- Nhiều bà dân biểu, nghị sĩ đã vô, đã bơi lội, quần vợt...

- Ôi đã, đem cả con nít lẫn bình sữa lẫn ma-ri-sến vào đó làm trò cười cho người ngoại quốc ư ?

- Kệ.

- Cái rốn của em nó lồi ra bằng trái quýt. Em mặc "bikini" đề biểu diễn rốn à ? Rốn lồi không... sang trọng.

- Người ta thì sao !

- Thì em xin vô đi.

- Có anh đi bơi nữa chứ ?

- Tôi còn làm... việc nước.

Chiều thứ bảy anh đi rút phé, việc nước khỉ mốc gì.

- Thì đi... nhà Xẹc !

Thưa ngài, tôi đã vô nhà Xẹc. Tôi phải uống ba ly Marteli cho tâm hồn xa thực tại mới dám nhìn bọn phu nhân "lỏi" quẫy lộn cái trò thời thượng. Đùi các bà dân biểu, nghĩ sĩ - chồng là dân biểu, nghị sĩ, vợ là dân biểu, nghị sĩ luôn như đùi voi mà mặc quần áo "xì bo", cầm cái vợt, chạy lạch bạch trên sân xi măng thì Giê-hô-va, xét ra, cần tạo nạn hồng thủy gấp ! Tôi đã nhìn vô số đùi sẹo, đùi ghẻ tàu và rốn lồi quanh hồ bơi. Đàn bà thời thượng ! Mẹ kiếp, hễ thằng đàn ông làm lớn hay nhờ trúng mối đông bạc là y rằng con đàn bà dở trò thối. Một trong những trò thối, đang diễn ra, hàng ngày, tại nhà Xẹc đường Hồng Thập Tự Sàigòn.

Đàn bà, như văn hào Fénelon của Pháp đã anh dũng đi một đường phán xét : "Toutes les femmes sont détestables, même ma mère !" Thưa quý bà, câu nói "mất dậy" trên đây là của tác giả "Tê lê mạc phiêu lưu ký", ông ta đã ra người thiên cổ từ khuya. Vậy quý bà có cầu sườn, nơi gương trang nữ lưu Ngô Bá Thành xuống đường đòi quyền sống và nhân phẩm phụ nữ cũng vô ích. Chúng ta nên tìm hiểu cái nguyên nhân nào khiến văn hào Penelon để cho đàn ông một câu thuộc loại "hoa thơm cỏ lạ". Theo ý tôi, văn hào Pénelon đã vất vả, chân lấm tay bùn, khổ sở khốn nạn vì đàn bà mà một trong số đàn bà hành hạ văn hào phải là... vợ của người. Tôi đoán chắc, ít ra, chừng hai trăm ba mươi bảy lần, vợ văn hào Pénelon đã đánh thức văn hào dậy giữa lúc văn hào đang say sưa ngủ để lải nhải những chuyện vớ vẩn chẳng hạn : cơm tối nay có món bíp tếch ngon thế, tại sao ông nhấm nhá chút đỉnh rồi chê ? ông đã đi ăn bíp tếch với "con đĩ" nào chứ gì ! Chẳng hạn : Con sến bữa sáng dở chứng, ông tính "phút a la poóc" nó hay giữ nó lại. Vân vân... Thân mẫu của văn hào Fénelon, nhất định về hùa với con dâu vì trót xúc động bởi những giọt nước mắt đàn bà. Do đó, văn hào của lòng tôi mới nổi giận, tuyên bố "Đàn bà đáng ghét hết trọi, kể cả bà cụ thân sinh ra tôi !"

Đàn bà "thông thường" đã đáng ghét. Đàn bà mệnh phụ phu nhân, đàn bà chính khách và đàn bà tranh đấu còn đáng ghét đến cái độ nào đây ? Nếu đàn ông bằng lòng cái "triết lý" :

Lấy vợ sinh con rồi có cháu

Làm chồng làm bố sẽ làm ông

thì không cần ghét đàn bà. Bởi vì tội nhân đã chấp thuận cuộc đời nô lệ, coi cái nhẫn cưới như cái khóa của ngục tù. Nhưng nếu muốn giẫm lên cái "triết lý" kể trên, nghĩa là, muốn hung hăng tranh đấu thì, hoặc là đừng lấy vợ, hoặc là ném cái tinh thần đấu tranh xuống nước cho nó "xèo" một tiếng dài. Đôi khi không lấy vợ mà vẫn bị đàn bà làm điên cái đầu, làm thân bại danh liệt. Thí dụ trường hợp cố tổng thống Ngô Đình Diệm. Chết vinh quang mà còn bị đàn bà quấy hôi bôi nhọ. Thí dụ trường hợp cố tổng thống Kennedy. Đàn bà càng đẹp càng nguy hiểm. Ngoại sử Trung Hoa tiết lộ rằng cái bệnh giang mai có từ sau cái chết của đàn bà Dương Quí Phi. Chả là Dương Quí Phị đẹp mê hồn, đẹp đến nổi thi hào Lý Bạch, trong cơn say, tưởng Dương Quí Phi là trăng nằm thổn thển trên mặt nước, bèn nổi hứng nổi si tình, cởi quần áo lông nhông xuống... tỏ tình. Và đành mặc áo gỗ ! Diễn tả sắc đẹp của Dương Quý Phi, nên mượn thơ Nguyễn Gia Thiều : "Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn, Ngẩng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa" hay "Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa". Ôi, cái sắc đẹp của một đàn bà mà cỏ cây đang ngủ gục, rũ xuống, bèn cứng đơ muốn nói "ngủ hộ tí" thì dân tộc Trung Hoa rất xứng đáng là dân tộc truyền bệnh giang mai cho loài người.

Dương Quý Phi chết, Đường Minh Hoàng tiếc lắm. Mới "nhé" gỡ người đẹp một lần chót. Tức là "nhé" xác chết, "nhé" ma. Bồ Tùng Linh viết "Liêu trai chí dị" lấy cảm hứng ở sự "nhé" gỡ xác chết của Đường Minh Hoàng chăng ? "nhé" xong, người bị bệnh. Nhưng bệnh chưa phát. Người cứ thế "nhé" các cung tần mỹ nữ. Người truyền bệnh tơi bời. Khi người băng hà, các cung tần mỹ nữ được giải phóng vì tân vương đâu có thèm "tráng chảo" và thích đàn bà đờ cốc xi cốc. Các cung tần mỹ nữ ra về thơ thới hân hoan, bắt kép dân giả. Truyền bệnh cho dân giả. Cứ thế, bệnh lan rộng. Lan mãi khắp Á châu. Nòi Di tức là dân Cao Ly bị nặng nhất. Kế đến một chi nòi Bách Việt là anh em Phi Luật Tân của chúng ta. Hán tộc đã cấy sinh tử phù cho hai nòi giống thù hận truyền kiếp là dân tộc Di ( Nhật Bản, Cao Ly) và dân tộc Bách Việt (Việt, Thái, Mèo, Mên, Mã Lai, Pa, Pu, Chàm, Lào, Mường, Ngái Lây, Phi líp pin- theo sử Duy Dân-) Cho đến hôm nay, Cao Ly và Phi luật tân vẫn mang bệnh khủng khiếp và đã gieo oan nghiệt cho dân Đại Việt!

Đấy, đàn bà đáng sợ chưa ? Chỉ tại mông xừ A-đam và Giê-hô-va Đức chúa Trời cũ giáng họa cho đàn ông. Nhất là đàn ông Á Châu. Nhưng Á châu nên hãnh diện vì đã truyền được thứ bệnh ghê gớm! Đàn bà còn có khả năng giết chết một kiện tướng trên lưng ngựa bằng ngón tối độc : Thượng mã phong ! Tướng quan họ Hồ của nền đệ nhất Cộng Hòa Đại Ngu đã "về quê" bằng nước phi thượng mã phong vậy.

Ôi, đàn bà, tai họa của nhân loại. Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũ, nếu ngài định tạo thêm một nạn hồng thủy, xin ngài đừng chọn mông xừ Noé đóng tàu tị nạn. Ngài hãy chọn con, ngài nhé ! Con sẽ đóng tàu dành riêng cho những người ái nam ái nữ. Bởi vì, không cần diệt dục, dân ái nam ái nữ cũng chẳng làm ăn gì nổi. Dục không có, tham sân si sẽ chết. Nhân loại tương lai tốt đẹp, chính là do những người ái nam ái nữ. Ngài chọn một đàn ông khỏe mạnh, bình thường, bắt buộc nó sẽ chở đàn bà đi tị nạn. Và loài người vẫn tiếp tục chịu họa.

Cuộc phiêu lưu của đàn bà không biết đến thế nào là cùng. Do lẽ đó, tôi tạm chấm dứt nơi đây.

Duyên Anh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn