BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73316)
(Xem: 62231)
(Xem: 39419)
(Xem: 31165)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Trận Ban Mê Thuột 3/1975 - Khúc quành lịch sử

31 Tháng Mười 201012:00 SA(Xem: 2803)
Trận Ban Mê Thuột 3/1975 - Khúc quành lịch sử
53Vote
41Vote
30Vote
20Vote
10Vote
4.84
Cuộc chiến tranh lớn nào cũng có một mặt trận kết thúc cho toàn bộ:

Ngày 2-2-1943 Quân Đức đầu hàng Nga tại Stalingrad, Hitler mất nguyên lộ quân số 6 trên 300 ngàn người gồm những lực lượng tinh nhuệ nhất, gió đã đổi chiều cho Hitler, Satlingrad là khởi đầu cho sự bại trận của Đức Quốc Xã. Ngày 4-6-1942 ngoài khơi Midway, trận hải chiến kinh hoàng Mỹ- Nhật diễn ra, trong một ngày Nhật bị mất 4 hàng không mẫu hạm, hơn 300 máy bay, khoảng 3000 thủy thủ.. rồi dần dần thua luôn cuộc chiến Thái Bình Dương. Tại Bắc Việt ngày 7-5-1954 Pháp bại trận Điện Biên Phủ, thua luôn cuộc chiến tranh Đông Dương. Ngày 10-3-1975 Bắc Việt tấn công ồ ạt chiếm Ban Mê Thuột, Tổng Thống Thiệu hốt hoảng cho rút quân theo đường số 7B đưa tới cuộc thảm bại lớn nhất trong cuộc chiến tranh tại miền Nam nước Việt và sự sụp đổ Quân đoàn 2, từ đó đưa tới sụp đổ Quân đoàn 1 và rồi đưa tới Sài Gòn thất thủ ngày 30-4-1975, kết thúc cuộc chiến tranh dài nhất của thế kỷ. Ban Mê Thuột được coi như trận đánh quyết định vận mạng của Việt Nam Cộng Hòa.

Từ sau ngày ký Hiệp Định Ba Lê đến tháng 10-1973 tình hình tương đối yên tĩnh. Tháng 6-1973 Quốc hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạït động quân sự tại Đông Dương Việt Miên Lào. Đầu tháng 7-1973 Nixon ký thành đạo luật áp dụng từ giữa tháng 8-1973 cấm hoạt động quân sự trên toàn cõi Đông Dương. Tháng 10-1973 Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh, Tổng Thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến.

Thấy thời cơ đã tới Cộng Sản Bắc Việt bèn thay đổi đường lối đấu tranh từ chính trị sang quân sự bạo lực. Đại Hội 21 của Bộ Chính Trị tại Hà Nội trong tháng 10 quyết định đấu tranh quân sự, trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ tẻ, phát triển tuyến đường xa lộ Đông Trường Sơn, tại Quân khu 1, một số căn cứ của Việt Nam Cộng Hòa bị Bắc Việt tiến chiếm, tháng 9, tháng 10 một số đơn vị thuộc tỉnh Thừa Thiên phải di tản. Năm 1973 Bắc Việt vẫn chưa phục hồi sau trận Mùa Hè 1972, chưa thể tổ chức được cuộc tấn công qui mô lớn.



Sau khi ký Hiệp định Paris, Bắc Việt cho khởi công xây tuyến đường xa lộ Đông Trường Sơn hay hành lang 613, song song với đường mòn Hồ Chí Minh nhưng nằm trong địa phận Việt Nam Cộng Hòa từ Đồng Hới cho tới Lộc Ninh, đến đầu 1975 thì công trình hoàn thành dài 1,200 km. Dọc theo Đông Trường Sơn là hệ thống dẫn dầu Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh. Bắc Việt huy động hàng nghìn xe máy ủi, hàng vạn bộ đội, công nhân, thanh niên xung phong, dân công .. ngày đêm phá núi san đèo, xây cống, lắp đường, dựng cầu.. đường rộng 8 m.. xe vận tải cỡ lớn chạy hai chiều được, ngày đêm chở hàng trăm nghìn tấn đạn dược quân nhu cho chiến trường. Bắc Việt đã xử dụng 16,000 xe vận tải để chuyên chở binh khí, kỹ thuật, đạn dược, lương thực chuẩn bị cho chiến trường miền Nam trong hai năm 1973 và 1974. Chiều dài toàn bộ hệ thống chiến lược Trường Sơn tới 1975 là 16,000 km gồm 5 hệ thống đường trục dài 5,500 km, 21 đường trục ngang dài 1,020 km, một đường hệ thống dẫn dầu dài 5000 km.

Ngày 22-5-1974 Hạ Viện Mỹ phủ quyết đề nghị gia tăng quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa. Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện đề nghị 1 tỷ 4, tới 23-9-1974 Lưỡng Viện Quốc Hội Mỹ đồng thanh chấp thuận Quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa là 700 triệu như vậy từ 1-7-1974 VNCH chỉ nhận được một nửa số quân viện cần thiết, trong số 700 triệu này thì 300 triệu đã được dùng để trả lương cho nhân viên cơ quan tùy viện quân sự DAO.

Tướng Nga Kulikov, Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng tới Hà Nội xúi giục Bắc Việt tấn công xâm chiếm Miền Nam và hứa giúp thêm vũ khí đạn dược. Cuối tháng 10-1974 Bộ Chính Trị Bắc Việt quyết định kế hoạch tác chiến năm 1975.

Quyết tâm chiến lược của Bộ chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976: Năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam

(Văn Tiến Dũng , Đại Thắng Mùa Xuân trang 29).

Trong khi ấy vì tin tức tình báo của ta yếu kém, Tổng Thống Thiệu không có một nhận định nào rõ ràng về lực lượng cũng như kế hoạch sắp tới của địch. Ngày 9 và 10 tháng 12 năm 1974, vài hôm trước khi Việt Cộng tấn công Phước Long, tại dinh Độc Lập trong một phiên họp Hội đồng Tướng lãnh và các vị Tư lệnh quân khu, ông Thiệu cho biết trong năm 1975 Việt Cộng có thể đánh với qui mô lớn nhưng không bằng năm 1968 và 1972, Việt Cộng chưa có đủ khả năng đánh vào các thị xã lớn, dù đánh cũng không giữ được! chỉ đánh các thị xã nhỏ như Phước Long, Gia Nghĩa. Ông Thiệu cho biết sẽ tăng cường phòng thủ đồng bằng sông Cửu Long và không chú trọng vào Cao Nguyên Quân khu 2. Trong phiên họp này Bắc Việt đã gài được gián điệp nằm vùng (Đại Thắng Mùa Xuân) để rồi sau đó chúng tăng cường lực lượng chuẩn bị cho cuộc tấn công Quân khu 2 của ta.

Từ tháng 10 năm 1974 Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt đã trình bày kế hoạch tác chiến lên Bộ Chính Trị và Quân ủy Trung ương, chúng đã chọn chiến trường Cao Nguyên làm chủ yếu.

Khi thảo luận kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1975, một vấn đề rất quan trọng nữa cũng được đặt ra là chọn chiến trường chủ yếu ở đâu? Trên toàn chiến trường miền Nam, địch bố trí lực lượng theo thế ‘mạnh ở hai đầu’. Cụ thể là ở Quân khu 1 tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, địch có năm sư đoàn chủ lực, ở quân khu 3, trong đó có tuyến phòng thủ ngoài bảo vệ Sài Gòn, địch có 3 sư đoàn chủ lực, nhưng chúng còn có thể sẵn sàng cơ động 1-2 sư đoàn chủ lực trong số 3 sư đoàn ở quân khu 4 về. Còn ở quân khu 2, trong đó có Tây Nguyên, địch chỉ có 2 sư đoàn chủ lực, lại phải rải ra vừa giữ các tỉnh Tây Nguyên, vừa phải bảo vệ các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ từ từ Bình Định đến Bình Thuận. Nhưng Tây Nguyên là một chiến trường hết sức cơ động, có nhiều thế lợi để phát triển về phía Nam theo theo đường số 14 hoặc xuống phía Đông theo các đường số 19, 7, 21. Địa hình ở đây là cao nguyên, độ cao chênh lệch không đáng kể, tiện việc làm đường, các binh khí kỹ thuật cơ động thuận tiện, phát huy được hết sức mạnh. Tóm lại, đứng về mặt chiến lược đây là một địa bàn hết sức quan trọng.

Hội nghị nhất trí thông qua phương án của Bộ Tổng tham mưu, chọn chiến trường Tây nguyên làm hướng chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công lớn và rộng khắp năm 1975”

(ĐTMX trang 24)

Đại tá Phạm Bá Hoa nói hồi ông học tại trường Đại Học Quân Sự năm 1960 có được đọc một tài liệu nói “Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm được cao nguyên miền Trung thì người đó sẽ nắm phần chiến thắng”, Cộng Sản cũng nói ai làm chủ Tây Nguyên thì làm chủ chiến trường. Theo Văn Tiến Dũng, ông Thiệu đã bố trí sai lực lượng, mạnh ở hai đầu (tức Quân khu 3 và Quân khu 1) nghĩa là yếu ở Quân khu 2 nên Bắc Việt chủ trương tấn công Quân khu 2 trước, vả lại nơi đây là vị trí yết hầu. Nhưng cũng một phần vì ông ta không chủ trương giữ Quân khu 2, một vùng cao nguyên cẵn cỗi mà trong thâm tâm đã có ý tưởng bỏ vùng núi rừng miền Trung rút quân về vùng đất mầu mỡ Quân khu 3 và 4 nên đã không tăng cường phòng thủ Quân khu 2.

Sau khi lựa chọn chiến trường Tây Nguyên, Bắc Việt lựa chọn địa điểm tấn công, dưới đây là buổi họp của Quân Uỷ Trung Ương Bắc Việt ngày 9-11-1974.Đến cuộc họp của Thường Trực Quân Uỷ, ý định đánh Buôn Ma Thuột mới thật sự rõ nét. Mọi người đều thấy ý nghĩa quan trọng của trận đánh vào thị xã này, nhưng cách đánh để thắng cho nhanh thì còn phải nghiên cứu thực tế tại chỗ mới đi tới quyết định được.

Cuộc họp vừa bắt đầu thì đồng chí Lê Đức Thọ bất ngờ mở cửa vào và ngồi họp với chúng tôi. Sau chúng tôi hiểu rằng Bộ Chính Trị chưa thật sự yên tâm vì thấy ý đánh Buôn Ma Thuột chưa được thể hiện rõ ràng trong kế hoạch tác chiến, cho nên đã cử đồng chí Lê Đức Thọ đến tham gia góp ý kiến với chúng tôi là nhất quyết phải đánh Buôn Ma Thuột. Đồng chí Lê Đức Thọ nói sôi nổi: “Phải đặt vấn đề dứt khoát là giải phóng Buôn Ma Thuột. Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được Buôn Ma Thuột là thế nào?”

Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân Uỷ Trung Ương, kết luận xác định khu vực và mục tiêu tiến công, nhiệm vụ chiến dịch, hướng phát triển, sử dụng lực lượng, gợi ý về cách đánh, nhấn mạnh đến phương châm mạnh bạo, bí mật, bất ngờ, phải nghi binh rất nhiều để làm cho địch tập trung sự chú ý vào bảo vệ phía Bắc Tây nguyên.

Chiến dịch Tây nguyên được mang mật danh chiến dịch 275

”( ĐTMX trang 30, 31)

Như thế Bắc Việt đã chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột từ bốn tháng trước ngày tấn công trong khi ta không có một nhận định hoặc tin tức tình báo nào rõ rệt.

Một tháng sau vào ngày 13-12-1974 Bắc Việt đưa ba sư đoàn tấn công Phước Long, đến ngày 7-1 tỉnh này hoàn toàn lọt vào tay địch. Tổng số 4500 binh sĩ, sĩ quan chỉ còn 850 người sống sót. Tỉnh trưởng Phước Long. Quận trưởng Phước Bình mất tích, 3000 trong số 30,000 dân trốn thoát, một số viên chức hành chánh bị Việt Cộng hành quyết, thất bại tại Phước Long là đương nhiên vì một tiểu đoàn bộ binh và 5 tiểu đoàn địa phương quân không thể chống lại 3 sư đoàn Việt Cộng. Chính phủ VNCH không tăng viện cho Phước Long vì không đủ khả năng thực hiện tiếp tế, cứu viện bằng trực thăng vận từ Biên Hòa. Phước Long nói về kinh tế chính trị kém quan trọng hơn Tây Ninh, Pleiku, Huế… Sự thực chính phủ Thiệu cũng cố tình bỏ rơi Phước Long để chờ Mỹ cứu. Việt Cộng đánh thăm dò Phước Long xem phản ứng Mỹ, khi thấy Mỹ chỉ phản đối suông thì chúng làm tới.

Sau đó ngày 8-1-1975 Lê Duẫn nói “tình hình đã sáng tỏ, chúng ta quyết tâm hoàn thành kế hoặch 2 năm”

Sau trận Phước Long ta biết chắc Cộng Sản sẽ đánh lớn tại Cao Nguyên đầu năm 1975 nhưng chưa biết chắc chỗ nào vì chúng nghi binh tối đa, ta không đoán được ý định của địch, theo Tướng Hoàng Lạc trước khi Văn Tiến Dũng vào Nam, Giáp đã dặn dò Dũng phải nghi binh thật nhiều để đánh lạc hướng ta.

Tình hình chính trị quân sự Việt Nam Cộng Hòa 1975 rất là bi đát. Năm 1967 quân phí tại Việt Nam là 20 tỷ Mỹ Kim, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970, 71 rút xuống còn 12 tỷ mỗi năm Mỹ vì đang rút quân. Khi Mỹ đã rút gần hết chỉ còn 24,200 người trong năm 1972 thì Việt Nam phải một mình gánh vác chiến trường với tiền viện trợ ngày một bị cắt giảm. Năm 1973 viện trợ quân sự là 2,1 tỷ, năm 1974 chỉ còn 1,4 tỷ, năm 1975 tụt xuống còn 700 triệu trong đó 300 triệu để trả lương cho nhân viên DAO của Mỹ. Đảng Dân chủ nắm đa số tại Quốc Hội Mỹ chủ trương rút quân bỏ Việt Nam không cần đếm xỉa gì tới bạn đồng minh cũng như danh dự cho nước Mỹ. Về tiền nong và thực lực Dân Chủ yếu kém so với Cộng Hòa nên họ chỉ tìm sơ hở của Cộng Hòa để phá phách kiếm phiếu, Dân Chủ thường o bế dân nghèo, giới bình dân khố rách áo ôm, đám trốn quân dịch, phản chiến.. để lấy lòng, họ thắng lợi đúng lúc người dân chống đối chiến tranh Việt Nam dữ dội. Đảng nọ phá đảng kia, miền Nam Việt Nam chết oan vì bị nằm giữa cái thế trâu bò húc nhau giữa Cộng Hòa, Dân Chủ.

Hậu quả của của việc cắt giảm quân viện khiến chúng ta lâm vào tình trạng thiếu hụt, năm 1972 một số lớn xăng dầu đạn dược đã được dốc vào mùa hè đỏ lửa 1972. Việc cắt giảm đưa tới tình trạng thê thảm, theo tiết lộ của Bộ Tổng tham mưu hậu quả là không quân đã phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ, huấn luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70% . Hải quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600 tầu chiến thuyền các loại nằm ụ. Đạn dược chỉ còn đủ đánh tới tháng 5, tháng 6 -1975, hỏa lực giảm 60%, năm 1972 ta xử dụng 66 ngàn tấn đạn một tháng từ tháng 7-1974 đến tháng 3-1975 ta chỉ còn xử dụng 18 ngàn tấn một tháng, thiếu thuốc men, số tử thương tăng cao, tinh thần xuống thấp. Ngày 9-8-1974 Nixon từ chức mang theo những lời hứa hẹn với Tướng Thiệu xuống tuyền đài.

Việt Nam Cộng Hòa nay đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, thù trong giặc ngoài. Đồng Minh thì phản bội, lãnh đạo bất tài, tham ô, sợ chết… kẻ thù thừa cơ nước đục thả câu xua đại binh tấn công như vũ bão.

Trước khi vào trận đọ sức quyết liệt chúng tôi xin so sánh lực lượng hai bên.

Quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 có hơn một triệu quân trong đó 40% là chủ lực quân chính qui, 50% là địa phương quân, còn lại là không quân, hải quân, cảnh sát. Lính nhà nghề chỉ có 13 sư đoàn chủ lực và 15 liên đoàn Biệt động quân (tương đương khoảng hơn 2 sư đoàn, trên thực tế một liên đoàn có vào khoảng từ 1000 đến 2000 người). Tổng cộng ta có vào khoảng 15 sư đoàn chính qui (nếu kể cả Biệt động quân). Lực lượng được bố trí toàn quốc như sau.

Quân khu Một: 5 sư đoàn ( 1, 2, 3, Nhẩy Dù, Thuỷ quân lục chiến), 4 liên đoàn Biệt động quân, hơn 400 đại bác, 450 xe tăng thiết giáp, 96 máy bay chiến đấu.

Quân khu Hai: 2 sư đoàn (22, 23), 7 liên đoàn Biệt động quân, 380 đại bác, 470 xe tăng thiết giáp, 138 máy bay chiến đấu.

Quân khu Ba: 3 sư đoàn (5, 18, 25), 4 liên đoàn Biệt động quân, 376 đại bác, 655 xe tăng, 250 máy bay chiến đấu.

Quân khu Bốn: 3 sư đoàn (7, 9, 21) 380 khẩu pháo, 490 xe tăng, 72 máy bay chiến đấu, 580 tầu xuồng các loại.

Tổng cộng ta có 15 sư đoàn chủ lực nếu đem chia cho 44 tỉnh toàn quốc thì trung bình mỗi tỉnh chỉ có một trung đoàn chính qui bảo vệ trong khi địch có khả năng tập trung hằng chục trung đoàn để tấn công một địa điểm vì chúng không phải trải quân giữ đất như ta.

Lực lương chính qui Bắc Việt năm 1975 gồm 4 quân đoàn và đoàn 232 (tương đương một quân đoàn).

Quân đoàn Một: 3 sư đoàn bộ binh 308, 312, 320B, sư đoàn phòng không 327 và các lữ đoàn xe tăng 203, lữ đoàn pháo binh, công binh…

Quân đoàn Hai: 3 sư đoàn bộ binh 304, 324, 325, sư đoàn phòng không 327, và các lữ đoàn xe tăng, pháo binh, công binh…

Quân đoàn Ba:3 sư đoàn bộ binh 10, 316, 320, 2 trung đoàn pháo binh, 2 trung đoàn phòng không, trung đoàn xe tăng, công binh…

Quân đoàn Bốn: 3 sư đoàn bộ binh 6, 7, 341 và các trung đoàn xe tăng, pháo, phòng không…

Đoàn 232 gồm: 3 sư đoàn bộ binh 3, 5, 9 và sư đoàn đặc công 27. Tổng cộng 16 sư đoàn. Ngoài ra Bắc Việt còn có vào khoảng 15 trung đoàn độc lập tương đương với 4, hoặc 5 sư đoàn, toàn bộ chủ lực quân chính qui của địch vào khoảng 20 hoặc 21 sư đoàn bộ binh gần 300 ngàn người chưa kể khoảng 20 trung đoàn pháo binh, thiết giáp và phòng không, công binh. Năm 1974 Bắc Việt có vào khoảng từ 500 ngàn cho tới 570 ngàn quân, Bắc Việt có thể huy động 1 triệu 600 ngàn du kích để phòng thủ bờ biển, phòng không…

Hơn 80% bộ binh chính qui Bắc Việt đã có mặt tại miền Nam đầu năm 1975, chúng để lại 3 sư đoàn của Quân đoàn 1 tại miền Bắc làm lực lượng tổng trừ bị sau khi Quân khu 2 và 1 của ta sụp đổ, Bắc Việt đưa hết cả 3 sư đoàn vào Nam. Năm 1976 báo Quân đội nhân dân Cộng Sản tiết lộ vũ khí đạn dược của địch năm 1975 gấp 3 lần năm 1972, có lẽ Việt Cộng phóng đại lên, chắc chỉ bằng 2 năm 1972 thôi. Về Pháo binh và thiết giáp người ta ước lượng không chính xác Bắc Việt đưa vào Nam khoảng 500 khẩu trọng pháo và 500 xe tăng. Về xe tăng và pháo binh, ta trội hơn địch về số lượng nhưng về mặt phẩm thì ta không bằng, thiết giáp của ta gồm M-113, M-41 và M-48, chỉ có M-48 mới tương đương với chiến xa T 54 của địch. Đại bác 130 ly của Việt Cộng có thầm viễn xạ tối đa 30 cây số trong khi đại bác 105 ly và 155 ly của ta chỉ bắn tối đa được 11 và 15 cây số.

So sánh với tình hình năm 1972 ta thấy năm 1975 quả là bi đát, năm 1972 lực lượng địch chỉ có 10 sư đoàn, ta có đầy đủ tiếp liệu đạn dược, lại được Mỹ yểm trợ B52 trải thảm tối đa, nhưng đến năm 1975 đạn dược nhiên liệu thiếu hụt, lực lượng địch tăng lên gấp đôi khoảng 20 sư đoàn, ta lại không được B52 yểm trợ oanh tạc. Về chiến thuật chiến lược cả hai bên vẫn y như cũ, Cộng quân vẫn là tiền pháo hậu sung, công đồn đả viện, lấy thịt đè người… nói chung không có gì mới lạ, chúng có ưu thế hơn ta trong sự lựa chọn chiến trường, luôn luôn ở thế tấn công đúng theo nguyên tắc quân sự Lenine, chủ động tiến công tiêu diệt địch, phòng ngự là con đường chết của vũ trang khởi nghĩa. Phía ta vẫn là trãi quân giữ đất, vẫn theo chính sách đóng đồn cũ rích có từ thời ông Đờ Lát năm 1950. Từ sau Hiệp Định Paris, chính phủ Nguyễn văn Thiệu không có một kế hoạch nào về chính trị cũng như quân sự, chỉ ngồi chờ địch tới và hy vọng vào sự yểm trợ của không quân Mỹ mà không hề có kế hoạch phá vỡ sự xâm nhập của địch hay truy lùng địch bao giờ.

Quân khu 2 gồm 12 tỉnh, diện tích rộng lớn nhất bằng gần một nửa Việt Nam Cộng Hòa mà chỉ có 2 sư đoàn bộ binh và 7 liên đoàn Biệt động quân, toàn bộ tương đương với hơn ba sư đoàn, khoảng hơn 10 trung đoàn, tính trung bình một tỉnh chưa được một trung đoàn chủ lực bảo vệ, là nơi yếu thế nhất đã được Việt Cộng chiếu cố tấn công. Quân khu 2 dân số trên 3 triệu gồm các tỉnh Cao nguyên Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Lâm Đồng, Quảng Đức, Phú Bổn, Tuyên Đức, phía Đông là các tỉnh duyên hải gồm Bình Định, Khánh Hoà, Bình Thuận… có 3 thành phố chính là Nha Trang, Qui Nhơn, Tuy Hòa, dân số tại đây thưa thớt hơn các quân khu khác.

Tư lệnh quân đoàn Thiếu tướng Phạm văn Phú, Tư lệnh phó Chuẩn tướng Trần văn Cẩm, Chuẩn tướng Lê Văn Thân Tham mưu trưởng. Tại Ban Mê Thuột chủ lực quân của ta gồm 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 53 đóng tại phi trường Phụng Dực, theo một tài liệu Mỹ lực lượng ta tại Ban Mê Thuột gồm 4,000 người nhưng trong đó phần nhiều là địa phương quân, cảnh sát.



Bản đồ Thị xả Ban Mê Thuột

Lực lượng Cộng quân tại Quân khu 2 gồm 3 sư đoàn 10, 320, 968 phụ trách Cao Nguyên, sư đoàn 3 phụ trách Vùng duyên hải, cuối tháng 12 -1974 Bắc Việt cho tăng cường sư đoàn 316 từ Nghệ An vào để đánh Ban Mê Thuột, ngoài ra còn 15 trung đoàn xe tăng, pháo binh, phòng không, công binh. .. tổng cộng từ 75 cho tới 80 ngàn người. Bắc Việt đã được Nga viện trợ cho nhiều vũ khí tối tân, xe tăng T55, T59 bọc thép dầy hơn T54, ngoài ra Việt Cộng còn được trang bị nhiều hỏa tiễn tầm nhiệt hiện đại để chống máy bay. Vì Việt Cộng tập trung lực lượng tại khu vực chủ yếu nên bộ binh địch trội hơn ta gấp 5 lần, xe tăng coi như ngang nhau, pháo binh gấp 2 ta. Tư lệnh mặt trận Trung Tướng Hoàng Minh Thảo, chính ủy Đại tá Nguyễn Hiệp, Tư lệnh phó Thiếu tướng Vũ Lăng.

Ngày 5-2-1975 Văn Tiến Dũng từ phi trường Gia Lâm đáp máy bay xuống Đồng Hới rồi vào Quảng Trị, tới sông Bến Hải, hắn đi xuồng máy tới Bộ chỉ huy chiến dịch tại phía Tây Gio Linh để điều động toàn bộ chiến dịch.

Tại Ban Mê thuột chủ lực quân của Việt Cộng theo một tài liệu Mỹ là 25 ngàn người gấp 6 lần phía ta. Ban Mê Thuột là tỉnh lỵ của Darlac, dân số 250 ngàn người gồm Kinh, thượng, Tầu và các chủ đồn điền Pháp và Ý. Bắc Việt đưa kế hoạch tấn công bất ngờ và đông đảo, nghi binh tối đa, chúng vờ đánh Pleiku để nhử ta lên giải tỏa rồi cắt các đường dẫn đến Ban Mê Thuột, chiếm phi trường sau cùng ba mặt giáp công. Bắc Việt dùng các trung đoàn, sư đoàn cắt các đường giao thông 19, 14, 21 nghi binh thu hút quân đội VNCH về phía Bắc để tấn công Ban mê Thuột. Chúng không để sẵn ở vị trí xuất phát tấn công mà tập kết từ xa vận động đến, bỏ qua vòng ngoài bất ngờ thọc sâu vào thị xã phối hợp với lực lượng đặc công đã có sẵn trong thị xã, rồi từ đó đánh ra ngoài, chúng không đánh theo lối bóc vỏ.

Ngày 1-3-1975 sư đoàn 968 Bắc Việt chiếm đồn bót gần Thanh An, pháo kích phi trường Cù Hanh, Pleiku. Ngày 3-3 trung đoàn 95 Việt Cộng và sư đoàn 3 ngăn chận quốc lộ 19 tại An Khê. Ngày 5-3 trung đoàn 25 Việt Cộng cắt Quốc Lộ 21 giữa Phước An và Khánh Dương, cắt đường Nha Trang - Ban Mê Thuột. Tướng Phú cho tăng cường trung đoàn 45 tại Thanh An và cho 2 tiểu đoàn Biệt động quân và thiết giáp giải tỏa quốc lộ 19. Ngày 7-3 sư đoàn 320 Việt Cộng chiếm Thuần Mẫn, ngày 9-3 sư đoàn 10 tấn công Đức Lập, Quảng Đức, căn cứ núi lửa và 23 bị tràn ngập, như thế Việt Cộng cô lập Ban Mê Thuột cả Bắc và Nam mà Tướng Phú vẫn cho là địch sẽ đánh Pleiku, ông lại nghĩ chúng nghi binh vờ đánh Ban Mê Thuột. Tuy nhiên theo đề nghị của Bộ tư lệnh Quân đoàn ông đã cho trực thăng vận 2 tiểu đoàn Biệt đông quân thuộc liên đoàn 21 từ Kontum đến Buôn Hô cách 30 km ở phía Bắc Ban Mê Thuột.

Sự sai lầm của tướng Phú đã được Việt Cộng khai thác triệt để.

“Từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 9 tháng 3 năm 1975, trước khi tiến công vào Buôn Ma Thuột, ta triển khai thế chiến dịch, thu hút sự chú ý của địch về hướng Công tum, Plây cu, cắt các đường, cô lập mục tiêu chủ yếu. Cho nên đến lúc ta sắp nổ súng đánh vào Buôn Ma Thuột, địch mới biết. Chúng báo động và muốn tăng cường lực lượïng nhưng không kịp nữa rồi, lực lượng đã bị căng giữ ở các nơi khác”

(ĐTMX trang 90)

Hai giờ sáng ngày 10-3 đặc công Việt cộng trong thị xã đột nhập phi trường phá huỷ một máy bay, 3 sư đoàn 316, 10, 320 gồm ba mũi tấn công Ban Mê Thuột phối hợp với đặc công đã nằm trong thị xã. Chúng pháo kích ầm ầm như phong ba bão táp vào các vị trí của ta rồi đưa xe tăng, xe kéo pháo, phòng không, quân xa.. ồ ạt tiến về thị xã từ xa, lần đầu tiên Việt Cộng đánh trận bằng xe hơi. Trong một đêm chúng đã đưa được một lực lượng đông đảo 12 trung đoàn gồm 9 trung đoàn bộ binh và các trung đoàn xe tăng, pháo binh, phòng không..vào trận địa đúng thời gian. Địch bỏ qua các đồn bót dọc đường, tiến về thị xã, bắc phà cho cả đoàn xe vượt sông Sê Rê Pốc, các mũi tiến công đã tiến vào đúng thời gian. Chúng chia làm 3 mũi tấn công, mũi thứ nhất đánh trại Mai Hắc Đế, cánh thứ hai đánh phi trường Phụng Dực (có 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 53), 4 xe tăng bị bắn cháy, 200 Việt Cộng bị hạ, cánh thứ ba đánh phi trường L19, khi tiến vào thị xã 10 xe tăng đã bị địa phương quân bắn cháy.



Vào buổi chiều Việt Cộng chiếm được một nửa thành phố, địa phương quân nghĩa quân cảnh sát vẫn chiến đấu anh dũng tại nhiều nơi. Tướng Phú cho trực thăng vận Liên đoàn 21 Biệt động quân vào Buôn Hô hành quân vào thị xã tiến chiếm tiểu khu Ban Mê Thuột nhưng liên đoàn không đạt được mục tiêu vì sự điều quân vị kỷ của Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh sư đoàn 23, ông điều động Liên đoàn rút về phi trường L19 để bảo vệ gia đình mình đang kẹt tại sân bay để ông đưa trực thăng xuống bốc đi.

Sáng 11-3 không quân oanh tạc lầm vào Bộ Chỉ Huy của Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột, đứt liên lạc với quân đoàn 2. Bắc Việt cho tăng cường sư đoàn 320 tiếp tục tấn công phi trường Phụng Dực, Trung đoàn 53 cầm cự đến ngày 17 -3 thì chấm dứt, Phạm Huấn cho biết họ chiến đấu anh dũng tới người cuối cùng, nhưng cũng có tài liệu cho biết một số ít thoát ra khỏi vòng vây chạy vào rừng thoát thân. Quân đội trú phòng chiến đấu rất anh dũng nhưng không thể nào chống lại lực lượng quá đông đảo của địch.

Ngày 11-3 Bộ Tư Lệnh sư đoàn 23 lập kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột.

- Trung đoàn 45 được trực thăng vận từ đèo Tử Sĩ đến quận Phước An để tiến vào hướng đông thị xã.

- Liên đoàn 7 Biệt động quân được không vận từ Sài Gòn ra thay trung đoàn 44, trung đoàn này sẽ được trực thăng vận tới Phước An.

Ngày 13-3 Trung đoàn 45 tiến về Ban Mê Thuột bị chận đánh cầm chân tại vòng đai thị xã, Liên đoàn 21 Biệt động quân bị đánh bật ra khỏi phi trường L19, cuộc trực thăng vận Trung đoàn 44 bị hủy bỏ, pháo binh chỉ còn hai khẩu 105 ở Phước An, không quân gặp nhiều khó khăn vì Việt Cộng xài hỏa tiễn tầm nhiệt S-7, đến ngày 15-3 Tổng thống Thiệu hủy bỏ kế hoạch tái chiếm và cho lệnh rút khỏi Phước An. Trung đoàn trưởng trung đoàn 44 thất vọng nói “không có một hy vọng nào giải cứu Ban Mê Thuột”. Cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột thất bại vì ta không đủ lực lượng vả lại các đường dẫn vào Ban Mê Thuột đã bị địch cắt hết.

Việt Cộng cho biết đã chiếm được 24 xe tăng, 355 xe cộ các loại, phá huỷ gần 400 xe cộ, chiếm được 3,200 tấn đạn dược, hàng triệu lít nhiên liệu, phá hủy bắn rơi 50 phi cơ, chiếm được 3200 súng các loại, 42 khẩu pháo và súng cối.

Việt Cộng lấy được nhiều chiến lợi phẩm của ta, chúng nói

“Các đơn vị của ta còn sung sức, lực lượng hậu cần tiêu hao rất ít mà lại còn được bổ sung bằng phần lấy của địch”

( ĐTMX trang 80)

Cục trưởng hậu cần Đinh đức Thiện khoe khoang.

“Khi bàn đến tình hình lương thực, đạn dược, đồng chí Đinh Đức Thiện xoè hai bàn tay ra rồi vui vẻ nói.

- Bỏ một vốn không phải bốn lời mà đến 10 lời rồi đó. Ta còn đủ, còn nhiều, không những đủ dùng cho đến mùa mưa mà còn đủ cho cả mùa khô năm sau. Xe của ta, đạn của ta cũng còn nhiều mà xe, đạn của địch trong kho Mai Hắc Đế ở Buôn Ma Thuột cũng lấy được nhiều”

(Đ TMX trang 80)

Hậu quả của trận Ban Mê Thuột không thể lường trước được.

Một ngày sau khi Việt Cộng tấn công Ban Mê Thuột, Tổng Thống Thịêu mở phiên họp tại Dinh Độc Lập ngày 11-3 gồm Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Quang, phụ tá an ninh Quốc Gia. Nội dung nói về kế hoạch di tản Quân khu 1 và 2 về giữ Quân khu 3 và 4 và chỉ giữ một phần duyên hải vùng 2 vì không đủ lực lượng. Ngày 14-3 trong một phiên họp tại Cam Ranh với Hội đồng tướng lãnh (Phạm Huấn gọi là Tập đoàn tướng lãnh) quyết định di tản toàn bộ chủ lực quân quân đoàn 2 về duyên hải qua tỉnh lộ 7B.

Trận Ban Mê thuột mở màn cho giai đoạn chót của cuộc chiến tranh Việt Nam. Việt Cộng có yếu tố bất ngờ, bảo mật. Ban mê Thuột không thuận lợi cho phòng thủ. Từ tháng 2-1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã báo cáo tin tức cho thấy Việt Cộng chuẩn bị đánh Ban Mê thuột do tù binh, hồi chánh viên khai báo kế hoạch của địch. Khi Tổng thống Thiệu đến ăn Tết với Trung đoàn 44, Trung tá trưởng phòng 2 sư đoàn 23 đã trình lên Tổng Thống, ông bèn lệnh cho Tướng Phú điều sư đoàn 23 trở lại Ban Mê Thuột, Tướng Phú tin Việt Cộng đánh Pleiku, chúng giả vờ nghi binh tại Ban Mê Thuột. Nguyễn cao Kỳ sau này cho biết chúng ta không bị bất ngờ khi Việt Cộng tấn công Ban mê Thuột, rằng ông Cao văn Viên đã được thông báo cho biết kế hoạch đánh Ban Mê thuột, theo ông Tướng Viên đã bàn với Tướng Thiệu, Phú về kế hoạch phòng thủ Ban Mê thuột. Tướng Phú cứ nhất quyết ông nắm vững tình hình, địch sẽ đánh Pleiku, sự thực ông đã mắc kế nghi binh của Việt Cộng.

“Địch vẫn chú ý phòng thủ Bắc Tây nguyên hiều hơn. Ta lại tăng cường hoạt động nghi binh: huy động nhân dân vùng giải phóng ở Công tum và Plây cu rầm rập kéo đi làm đường, chữa đường….

Ngày 1 tháng 3, sư đoàn 968 diệt hai đồn trên đường số 19… Địch lại càng khẳng định ta chuẩn bị địa bàn để đánh Plây cu. Chúng vội điều trung đoàn 45 từ Thuần Mẫn lên Thanh An ngày 3 tháng 3. Thấy địch đã ‘mắc câu’, tôi nhắc đồng chí Hoàng Minh Thảo chỉ thị cho sư đoàn 968 đánh mạnh hơn nữa, tăng thêm đạn lớn cho sư đoàn bắn vào sân bay Cù Hanh và dặn đồng chí Thanh Sơn, sư đoàn trưởng, là phải thực hiện ‘đánh một la mười’.

....Phạm văn Phú càng cố sống cố chết tăng cường phòng thủ Bắc Tây nguyên, chủ yếu là Plây cu. Hắn tung các liên đoàn Biệt động quân 4 và 6 thọc ra phía Tây Bắc Công tum và Tây bắc Plây cu để tìm sư đoàn 10 và sư đoàn 320…

( ĐTMX trang 59).

Như thế ta thấy Việt Cộng cười Tướng Phú vì ông mắc mưu kế nghi binh của chúng!

Yếu tố bất ngờ của Ban Mê Thuột cũng như Tết Mậu Thân ở chỗ không ai tiên đoán được tầm mức rộng lớn của nó, Bộ Tư lệnh quân đoàn 2 không thể ngờ được Bắc Việt đã tung vào chiến dịch đến 5 sư đoàn, điều này cũng chứng tỏ tin tức tình báo của ta thật là yếu kém, đã không đánh giá đúng mức lực lượng địch và quá khinh địch. Yếu tố địa hình Ban Mê Thuột không có chướng ngại thiên nhiên như Kontum để trì hoãn sự tiến quân của Việt Cộng, diện tích rộng hơn Kontum Pleiku nhiều, Ban Mê Thuột trên thực tế không có vòng đai phòng thủ liên tục, quá nhiều đồn điền san sát nhau,Việt Cộng có thế lợi dụng ngụy trang. Những cánh rừng già phía Tây Bắc đã được công binh Việt Cộng chuẩn bị sẵn.

Tai Ban mê Thuột tấn công bằng chiến xa rất khó, Pleiku với những đồi thoai thoải dễ hơn nhưng Cộng Sản đã cho công binh dọn đường trước, chúng cưa 2 phần 3 các gốc cây lớn, cây không đổ, máy bay thám thính ở trên cao nhìn xuống không thấy dấu hiệu gì, Việt Cộng có tài ngụy trang rất khéo ngay từ thời chiến tranh Việt Pháp 1947-1954 cũng vậy. Khi mặt trời lặn chiến xa cứ việc ủi sập cây mà tiến vào thị xã dễ dàng. Hai giờ sáng Việt Cộng pháo ầm ầm vào thị xã như vũ bão để che lấp tiếng động cơ xe chạy, đến 7 giờ xe tăng Việt Cộng đã vào trong thành phố.

Tướng Phú mới lên tư lệnh quân đoàn có vài tháng nên không nắm vững tình hình cho lắm, không có uy tín với Bộ Tổng tham mưu. Tướng Phú nhậm chức Tư lệnh quân khu ngày 5-11-1974 do Phó Tổng Thống Trần văn Hương đề nghị thay thế Tướng Nguyễn Văn Toàn bị kết án cáo tham nhũng, ông không do Tổng tham mưu trưởng đề nghị nên trước khi ra đơn vị, lên trình diện Bộ Tổng tham mưu đã không được Tướng Cao văn Viên tiếp. Theo Phạm Huấn Quân đoàn 2 lủng củng nội bộ, nhiều sĩ quan cao cấp tại Quân đoàn vô kỷ luật, bất mãn không hợp tác với tướng Phú, ông mới nhậm chức chưa đủ thời gian nắm vững tình hình. Ngoài ra 2 tháng trước khi xẩy ra trận Ban Mê Thuột, quân số Quân đoàn 2 không tới 70%, thiếu tiểu đội trưởng, Tham mưu trưởng với Bộ tham mưu bất hợp tác, hai tướng phó tư lệnh hữu danh vô thực, các đơn vị chỉ phòng ngự mà không có một cuộc hành quân thăm dò nào để tìm diệt địch.

Nhiều người qui trách nhiệm cho Tướng Phú đã để mất Ban Mê Thuột, Phạm Huấn cho rằng ông không đủ khả năng nắm giữ một quân đoàn. Mặc dù đã có tin tức tình báo cho hay Việt Cộng sẽ đánh Ban Mê Thuột, ngay cả Đại tướng Viên và ông Thiệu đã nhắc nhở Tướng Phú coi chừng Việt Cộng tấn công Ban mê Thuột nhưng ông vẫn nói mình nắm rất vững tình hình, vẫn một mực tin rằng chúng sẽ đánh Pleiku, không ai cản được ông vì đã hoàn toàn mắc lừa kế nghi binh của địch.

Tuy nhiên trách nhiệm của Tướng Phú chỉ có một phần nào thôi, đó cũng chỉ là sai lầm về chiến thuật. Như chúng tôi đã trình bầy ở trên tại Quân khu 2 lực lượng địch quá mạnh, chúng đã tung vào chiến dịch Tây nguyên tới 5 sư đoàn trong khi ta chỉ để 2 sư đoàn chủ lực và 7 liên đoàn Biệt động quân. Dù biết trước Ban mê Thuột bị tấn công mà tăng cường yểm trợ cũng vẫn thua vì ta chỉ có thể tăng cường cho mặt trận tối đa một, hai trung đoàn và một vài liên đoàn biệt động quân, không đủ sức chống lại 12 trung đoàn của địch vả lại chúng có khả năng tung thêm vào mặt trận một sư đoàn nữa nâng tổng số lực lượng lên tới 15 trung đoàn, một lực lượng khủng khiếp.

Văn Tiến Dũng nói

“Nếu địch đã tăng cường thêm được lực lượng và đề phòng rồi thì ta sẽ đánh theo phương án thứ hai. Như vậy, có thể có khó khăn hơn nhưng nhất định cũng phải thắng”

(ĐTMX trang 53)

Bắc Việt tung vào trận địa 3 sư đoàn chủ lực toàn bộ lực lượng vào khoảng 25 ngàn người, gấp 6 lần lực lượng trú phòng (khoảng 4000). Chủ lực quân ta chỉ có hai tiểu đoàn thuộc trung đoàn 53 còn lại là địa phương quân, cảnh sát, lực lượng đã quá chênh lệch địch lại đánh lén, đánh trộm thì chúng phải dành chắc phần thắng trong tay. Sự thất thủ của Ban Mê Thuột là chuyện đương nhiên dù biết trước phòng thủ cũng vẫn thua, nhưng nếu biết trước và tăng cường yểm trợ để gây tổn thất nặng nề cho địch thì có thể giảm bớt áp lực địch tại các mặt trận khác hy vọng không đưa tới tình trạng hốt hoảng hỗn loạn dây chuyền đưa tới sụp đổ tan tành.

Tuy nhiên sai lầm của Tướng Phú chỉ là phương diện chiến thuật, Ban Mê Thuột mất vì tại Quân khu 2 ta không đủ lực lượng chống lại áp lực địch, ta không đủ lực lượng vì cấp lãnh đạo của ta đã sai lầm về chiến lược, đã bố trí sai lực lượng như Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng đã nói ở trên.

“Thế địch đã suy yếu, chúng lại phạm sai lầm lớn về chiến lược trong việc đánh giá ta, dẫn tới những những kế hoạch bố trí lực lượng sai và chủ trương tác chiến sai, báo hiệu một thất bại lớn đang đến với chúng”

(ĐTMX trang 42).

Ta bố trí sai ở chỗ mạnh hai đầu, có nghĩa là để Quân khu 1 và Quân khu 3 mạnh, Quân khu 2 ở giữa yếu là nơi địch chủ trương tấn công toàn diện. Sự bố trí các quân khu đã có từ mấy năm trước cho đến 1975 ta vẫn chưa thay đổi việc bố phòng cho phù hợp với tình hình mới. Quân khu 1 ta để 5 sư đoàn chủ lực, 4 liên đoàn Biệt động quân, hơn 400 đại bác, 450 xe tăng, 96 máy bay chiến đấu, Quân khu 3 ta để 3 sư đoàn chủ lực, 4 liên đoàn Biệt động quân, 370 đại bác, 655 xe tăng và 250 máy bay chiến đấu, trong khi đó Quân khu 2 ta chỉ để 2 sư đoàn bộ binh, 7 liên đoàn Biệt động quân 380 đại bác, 480 xe tăng, 138 máy bay chiến đấu. Người chịu trách nhiệm nhiều nhất là Tổng Tư Lệnh quân đội Nguyễn văn Thiệu và kế đó Tổng tham mưu trưởng Cao văn Viên, vì bố trí sai lực lượng nên quân Khu 2 đã không đủ sức chống lại áp lực địch đưa tới sự thất thủ Ban MêThuột nhanh chóng, chỉ trong một ngày trời địch đã làm chủ tình hình tại một thị xã rộng lớn.

Suốt ba trận Tổng công kích lớn từ Mậu thân 1968, đến mùa hè đỏ lửa 1972 và Trận chiến quyết định 1975, Quân khu 4 là nơi cường độ tấn công của Việt Cộng được coi là nhẹ nhất, lực lượng địch tại đây được ước lượng vào khoảng hơn 6 trung đoàn, so với các Quân khu khác chúng không có nhiều vũ khí tối tân như xe tăng , đại bác, phòng không… tại đây Việt cộng có nhiệm vụ đánh quấy phá cầm chân chủ lực quân của ta để dễ bề tung hoành tại chiến trường miền Trung. Địa phương quân của ta tại Quân khu 4 với tổng số trên 200 ngàn người là lực lượng địa phương đông đảo nhất, chiếm 40% tổng số địa phương quân toàn quốc, đã thế ta lại bố trí thêm 3 sư đoàn chủ lực ( sư đoàn 7, 9, 21), có thể nói đó là một sự phí phạm nhân lực trong khi tại các Quân khu 1 và 2 chiến trường thật sôi động đang rất cần sự tăng cường lực lượng.

Trong khi Quân khu 2 và 1 bị Việt Cộng vây hãm, tấn công tơi bời, binh sĩ chết như rạ mà ta vẫn không chịu rút bớt quân từ Vùng 4 để yểm trợ cho chiến trường sôi động, đúng là “cám treo heo nhịn đói”. Thậm chí cho tới khi Sài Gòn sắp chết đến tận cổ rồi ta vẫn không chịu đưa quân từ Vùng 4 lên tiếp ứng cứu nguy, vẫn “giữ khư khư như từ giữ oản” cả 3 sư đoàn, lúc Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng thì Quân khu 4 với 3 sư đoàn chính qui, 200 ngàn địa phương quân… vẫn còn nguyên vẹn, cho tới nay vẫn không thấy Bộ Tổng tham mưu hoặc giới hữu trách có một lời giải thích nào nghe được.

Ngoài ra, trong phiên họp với các tướng lãnh ngày 9 và 10 tháng 12 -1974 tại dinh Độc lập, ông Thiệu cho biết sẽ tăng cường bảo vệ Quân khu 4 chứ không yểm trợ quân khu 2, Bắc Việt đã gài gián điệp lấy được tin quan trọng này và đã tăng cường cho mặt trận Tây nguyên, một phần Ban Mê Thuột thất thủ vì tình báo gián điệp. Ta phải công nhận tin tình báo của ta yếu kém nên không nhận định rõ lực lượng địch, ông Thiệu đã tỏ ra khinh địch khi cho rằng Bắc Việt không đủ khả năng tấn công vào các thành phố lớn như năm 1972. Trong chiến tranh, tin tình báo là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu, biết địch biết ta trăm trận trăm thắng, ta thiếu tin tình báo nên đã đưa tới đưa tới thảm bại trong cuộc chiến một mất một còn này.



Chúng ta có thể kết luận Ban Mê Thuột thất thủ vì những nguyên nhân chính sau đây.

- Sai lầm về chiến lược, ta bố trí sai lực lượng, người chịu trách nhiệm nhiều nhất là Tổng tư lệnh Nguyễn văn Thiệu và Tổng tham mưu trưởng Cao văn Viên.

- Tin tức tình báo của ta yếu kém, khinh địch và đánh giá sai thực lực đối phương.

- Sự sai lầm của Tướng Phú khi cho rằng Bắc Việt tấn công Pleiku trước, ông đã hoàn toàn mắc lừa kế nghi binh của địch.

Những sai lầm, những yếu kém của ta không phải đã được tạo lên một sớm một chiều mà thực ra lãnh đạo của ta đã không có một kế hoạch nào đáng kể khả dĩ ngăn chặn, đương đầu với âm mưu thâm độc của đối phương từ những năm trước khi xẩy ra trận đọ sức quyết liệt này. Ta đã quá ỷ lại vào sự can thiệp của Mỹ, quá ỷ lại và tin tưởng vào người bạn Đồng Minh để rồi khi họ đã trắng trợn phản bội, phủi tay ra đi, ta đã trở thành người chết đuối không còn một mãnh ván, mảnh thuyền nào để mà bám víu.

Trận Ban Mê Thuột đã đưa tới sụp đổ Quân đoàn 2 và những sụp đổ kế tiếp lớn lao hơn thế, đó là một khúc quành trong cuộc chiến tranh dài nhất của Thế Kỷ.

Trọng Đạt


Tài Liệu tham khảo.

Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.

Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam.

Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.

Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.

Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Toà Bạch Ốc, (Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975) Tiếng Quê Hương 2006.

Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh xuất bản, 2005.

Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HàNội 2005.

Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005.

Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.

Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing.

The Word Almanac Of The Viet Nam War: John S. Bowman - General Editor, A Bison-book 1958.

Stanley Karnow: Viet Nam, A History, A Penguin Books 1991.

Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in documents, Oxford University Press 2002.

Trần Việt Đại Hưng: Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam 1975, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2002.

Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ, Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas số 7-10-2005.

Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam: Người Việt Dallas 21-6-2006 (vô danh)

Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas số 26-4-2006.

Trần Gia Lương: Một Cái Nhìn Về Tướng Phạm Văn Phú, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2004

Tú Gàn: Trở Lại Trận Ban Mê Thuột, Sài Gòn Nhỏ Dallas Tháng 4-2005.

Trung Tướng Lữ Lan: Cuộc Chiến Ba Mươi Năm Nhìn Lại Từ Đầu, Sài Gòn nhỏ Dallas 28-4-2006
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn