BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73230)
(Xem: 62212)
(Xem: 39390)
(Xem: 31148)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Điều tra đời sống cư dân đô thị Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975

28 Tháng Năm 199912:00 SA(Xem: 3133)
Điều tra đời sống cư dân đô thị Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975
510Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
510

Phần II



II. Giai đoạn 1961-1965: Khúc dạo đầu cho một mô hình kinh tế

1. Bãi cỏ xén bằng và những chuẩn giá trị

“Bãi cỏ xén bằng” là hình tượng do một người bạn Pháp của nhà văn Nga I. Ehrenburg đưa ra tại một quán cà phê nghèo ở ngoại ô Paris khi nhận xét về mô hình kinh tế Stalin. Nó thoạt trông thì gọn mắt nhưng lại trái quy luật. Một bãi cỏ ở nước Nga chỉ đẹp khi trên đó mọc lên một cây sồi, vài bụi cây phúc bồn tử. Ở vào thời điểm xuân Tân Sửu (1961), một số thành công về kinh tế ở giai đoạn 1954-1960 đã khiến không chỉ các nhà lãnh đạo mà đại bộ phận dân cư miền Bắc, nhất là ở nông thôn, cũng ngây thơ đặt cược số phận dân tộc cho mô hình này. Câu thơ “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng” của Tố Hữu có lẽ phản ánh tâm trạng ông thật lòng tin theo, hy vọng ở mô hình kinh tế Stalin.

Để hiểu rõ tâm thế người dân đô thị và những thay đổi về chuẩn giá trị, thứ bậc trong xã hội giai đoạn 1961-1965, cần xét qua tình hình chung của cả miền Bắc. Năm 1959 chỉ có 45% hộ nông nghiệp vào hợp tác xã. Đến năm 1960 đã có 2.404.800 (85,83% hộ nông dân) làm việc trong 40.200 hợp tác xã cấp xóm, cấp thôn. Bước sang năm 1961, các hợp tác xã trên nhanh chóng sáp nhập lại để thành hợp tác xã quy mô cấp xã. Nhiều nơi như ở Đa Tốn, huyện Gia Lâm - Hà Nội, có 5 làng cổ, tên làng và cảnh sắc rất đẹp (Đào Xuyên, Khoan Tế, Thuận Tốn, Ngọc Động, Lê Xá) đều bị xóa mờ, thay bằng 18 xóm, cũng là 18 đội sản xuất… Khí thế hừng hực này đã tràn về các đô thị. Cuối năm 1960 đầu 1961, ở các thành phố, thị xã, thị trấn đã có 263.600 hộ thủ công (81%) vào hợp tác xã thủ công, 102.000 hộ tiểu thương (45,1%) vào hợp tác xã mua bán. Cả miền Bắc có 1.014 xí nghiệp quốc doanh và 889 xí nghiệp công tư hợp doanh. Như vậy, kể từ tết Tân Sửu (1961), kết cấu xã hội trong cộng đồng dân cư đã thay đổi tận gốc. Một xã hội đa tầng được thu gọn trong kết cấu đóng, hai mặt, hoặc là quốc doanh hoặc tập thể. Những hộ làm ăn cá thể ở đô thị chỉ còn ước độ 17%. Chuẩn giá trị trong xã hội đô thị lúc này cao nhất là người trong biên chế nhà nước, thứ đến xã viên hợp tác xã. Người làm ăn cá thể chẳng có vị thế gì, con cái lấy vợ, gả chồng hay học lên cao rất khó. Ngay cả người nhà quê, khát vọng lớn nhất cũng là được “thoát ly” thành người biên chế nhà nước, cho dù chỉ là đi làm công nhân ăn đói, mặc rách ở các công-nông-lâm trường. Có khách đến chơi nhà, họ không còn khoe vườn rau, ao cá mà khoe điều hãnh diện nhất là có người “thoát ly”. Ở thành thị, thân phận người làm ăn cá thể sao giống như trong bài thơ “Khúc hát người da đen” của Chế Lan Viên: “Bánh mì hạng ba, nhân phẩm hạng ba, thiên đường hạng bét và nghĩa trang hạng bét”. Bức tranh xã hội đô thị thoạt nhìn ngỡ như là bãi cỏ xén bằng, nhưng thực ra vẫn có tảng băng ngầm phân chia thứ hạng, đẳng cấp. Ngay cả những người trong biên chế nhà nước, sự phân hóa giàu nghèo đôi khi không phải do chức vụ, học vấn, tay nghề…

2. Mức sống và chất lượng sống

Ở giai đoạn này, ngành thống kê của Nhà nước đã hình thành đội ngũ khá đông các cán bộ có trình độ nghiệp vụ. Mặt khác, kết cấu xã hội sau tết Tân Sửu đã trở nên đơn giản, chỉ có hai khối người: cán bộ công nhân viên chức trong biên chế nhà nước và các xã viên hợp tác xã, nên bài toán thống kê về mức sống cá nhân cũng không mấy phức tạp. Vì vậy, kể từ giai đoạn này, chúng tôi sẽ tận dụng khai thác tối đa những chỉ báo thống kê, trước khi đi vào mô tả hay phỏng vấn.

  • Thu nhập bình quân đầu người trong khối cán bộ công nhân viên năm 1961: 22,13 đồng; 1963: 21,95 đồng; 1965: 21,70 đồng.

  • Trong cơ cấu thu nhập năm 1961, thu từ lương và phụ cấp: 18,85 đồng, thu từ nguồn khác ngoài lương: 3,28 đồng. Tương ứng, năm 1963 là 18,48 và 3,47 đồng, năm 1965 là 18,79 và 2,91 đồng.


Như vậy thu nhập của họ còn thấp hơn giai đoạn 1954-1960 vì có thể do con cái đông lên. Theo cơ cấu thu nhập, họ chủ yếu sống bằng lương và phụ cấp. Họ không có cơ hội kiếm thêm nhiều vì định kiến xã hội lúc đó coi mọi biểu hiện làm thêm hoặc chạy chợ là phục hồi chủ nghĩa tư bản, là cá nhân chủ nghĩa… Lấy trường hợp một công chức bậc trung ở Hà Nội, thu nhập bình quân đầu người/ tháng là 22,18 đồng. Tổng các khoản chi 21,46 đồng (ăn 15,24 đồng, mua sắm 2,67 đồng, chi khác 1,74 đồng) thì tích lũy chỉ có 0,72 đồng/người-tháng, gần như bằng không.

Tiếp tục đi sâu vào phân tích khẩu phần ăn của khối cán bộ, công nhân, viên chức, tài liệu thống kê qua các văn liệu chính thống cho biết như sau (tính theo tháng):

  • Năm 1961: Lương thực quy ra gạo là 10,20 kg, các thực phẩm chính: thịt: 0,55 kg, cá: 0,54 kg, trứng: 1,70 quả, đường: 0,19 kg, nước chấm: 0,50 lít.

  • Năm 1963: Lương thực quy ra gạo là 11,39 kg, các thực phẩm chính: thịt: 0,55 kg, cá: 0,70 kg, trứng: 1,28 quả, đường: 0,18 kg, nước chấm: 0,45 lít.

  • Năm 1965: Lương thực quy ra gạo 11,40 kg, các thực phẩm chính: thịt: 0,54 kg, cá: 0,71 kg, trứng: 1,00 quả, đường: 0,24 kg, nước chấm: 0,50 lít.


Lại một lần nữa ta thấy được mô hình kinh tế của Stalin vận dụng vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đem lại khẩu phần ăn đạm bạc, hầu như không tăng lên, thậm chí có cái suy giảm do nguồn cung cấp từ nông thôn cũng suy giảm theo mô hình hợp tác xã cấp cao.

Ông LVT, sinh năm 1923, viên chức sở tài chính, sống ở phố Bà Triệu – Hà Nội kể lại:

“Gia đình tôi, cả 2 vợ chồng đều đi theo kháng chiến lên chiến khu Việt Bắc, nên từ năm 1954 đều đã có biên chế nhà nước. Giai đoạn 1954-1960 còn thị trường tự do nên sống dễ thở hơn. Bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Nhà nước có khẩu hiệu “thắt lưng buộc bụng xây dựng CNXH”, vật phẩm khan hiểm, lương tăng ít không đủ bù giá, con cái đông thêm nên khá vất vả. Cả nhà 8 miệng ăn (hai vợ chồng, mẹ già và 5 đứa con), lương tôi 85 đồng/tháng, lương vợ 45 đồng/tháng cộng thêm phụ cấp của 2 vợ chồng cỡ 30 đồng/tháng. Tổng thu nhập từ lương là 160 đồng/tháng, bình quân đầu người 20 đồng/tháng. Muốn làm thêm để có thu nhập phải theo tổ chức, nếu để vợ chạy chợ sẽ là việc động trời, tôi không dám. Cơ quan tôi nhận thêm lạc vỏ về cho mọi người bóc, mỗi tháng tôi nhận thêm 1,5-2,0 tạ lạc. Cả nhà, từ già đến trẻ ngồi bóc cũng kiếm thêm được 22-25 đồng/tháng. Vợ tôi liên hệ với bà Q, tổ trưởng đan len ở phố Hàng Gai để nhận len về đan áo xuất khẩu sang Liên Xô, mỗi tháng cũng kiếm thêm được 10 đồng. Hai khoản thu nhập thêm này đủ để đong thêm gạo tự do 0,80 đồng/1kg của người nhà quê có ruộng 5% mang ra bán “chui” cho các bà buôn ở chợ Hàng Bè. Mỗi tháng nhà tôi đong thêm 20 kg gạo hết 16 đồng. Còn lại khoảng 20 đồng làm thêm dùng để mua sách vở cho trẻ con đi học và thỉnh thoảng đi xem phim ở rạp là hết nhẵn.”

Cụ bà THT, sinh năm 1920, ở phố Hàng Thiếc – Hà Nội, thành phần tư sản vì có cổ phần ở nhà máy da Thụy Khuê, khi hợp doanh với Nhà nước, cụ ông thành công nhân kỹ thuật, đã kể lại:

“Vợ chồng tôi thuộc diện tư sản cải tạo, đang làm chủ mà khi hợp doanh biến thành người làm công. Chồng làm việc ở phân xưởng thuộc da, vợ làm nhân viên quèn ở phòng kế hoạch. Tổng thu nhập các khoản của 2 vợ chồng được 174 đồng/tháng, nuôi 9 đứa con và 1 mẹ chồng nên cũng eo hẹp lắm. Lẽ ra vàng, bạc, kim cương đều bị Nhà nước trưng thu từ năm 1959, song tôi còn chôn giấu được vài chục cây, đem ra ăn dè, mỗi tháng bán đi 1-2 chỉ cỡ 55 đồng/chỉ, đủ phụ thêm vào miếng ăn thường nhật. Mẹ chồng tôi hay đi thăm con cháu, dâu rể, tối về thường ngồi nước mắt lưng tròng. Cụ than thở: ‘Đến chơi nhà nào cũng thấy bữa cơm đầy một rổ rau cải bắp hay rau muống luộc. Ăn thế khác nào độn rau, đến xanh ruột mất thôi. Nhà nào khá hơn thì có thêm vài bữa đậu kho với thịt mỡ mỏng tang, nổi lều bều, nuốt sao được’. Tôi biết ý cụ nhắc khéo mình bớt vài cây vàng chia cho họ, nhưng nghĩ cho cùng miệng ăn núi lở, chẳng bõ bèn gì, tôi lại nhắm mắt làm ngơ.”

Khu vực hợp tác xã thủ công và hộ làm ăn cá thể, rất tiếc, các văn liệu chính thống đều không có các chỉ báo thống kê, nhưng thiết nghĩ, mô hình hợp tác xã thủ công cũng na ná như mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Vì vậy, ta có thể tham khảo các chỉ báo thống kê ở nông thôn.

Thu nhập bình quân đầu người ở các hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp có sự bất bình thường về cơ cấu. Trong tổng thu nhập của họ thì khoản thu nhập trong hợp tác xã nhỏ hơn thu nhập ngoài hợp tác xã, trong khi 95% ruộng đất và toàn bộ công cụ sản xuất (trâu, bò, cày, bừa…) đều nhập vào tập thể. Phần 5% ruộng đất chia về các hộ chỉ nhằm tạo thêm thu nhập phụ, mà thường là những thửa ruộng đầu thừa đuôi thẹo. Cụ thể:

Năm 1961: Tổng thu nhập bình quân đầu người là 11,50 đồng/tháng, trong đó thu nhập trong hợp tác xã là 4,5 đồng, còn thu nhập ngoài hợp tác xã là 7,0 đồng.

Tương ứng các năm sau cũng như vậy. Năm 1963 là 12,56 đồng – 4,8 đồng – 7,76 đồng/tháng.

Nguyên nhân của sự bất hợp lý trên được ông Nguyễn Văn Cược, 72 tuổi, sống ở thôn Đình Tổ, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành – Bắc Ninh giải thích:

“Thôn Đình Tổ nằm dọc bờ đê sông Đuống. Dân số vào năm Tân Sửu (1961) khoảng 2.500 suất đinh. Thôn tôi có 456 mẫu ruộng canh tác, sức kéo có 200 con trâu, bò, thuộc loại giàu của huyện. Năm 1959 lập quy mô hợp tác xã cấp xóm nên có 4 hợp tác xã (xóm Sông, xóm Nghè, xóm Đình, xóm Chùa). Năm 1960 lập hợp tác xã cấp thôn, sáp nhập 4 hợp tác xã cấp xóm. Cuối năm 1961 lập hợp tác xã cấp cao quy mô toàn xã thì thôn tôi chỉ có 2 đội sản xuất (1 đội xóm Nghè và 1 đội gồm 3 xóm còn lại). Thực tế cho thấy hợp tác xã cấp xóm (1959) là đủ tầm quản lý của ban chủ nhiệm. Lên đến cấp thôn, nhất là cấp xã thì bộ máy quản lý cứ phình to ra, năng suất và sản lượng teo dần. Bản tính nông dân là tư hữu và vụ lợi từ cái rất nhỏ nên thu nhập ở ruộng 5% lại cao hơn ở hợp tác xã (95% ruộng!) là điều dễ hiểu, không hiểu sao các vị lãnh đạo không sớm nhận ra điều tất yếu này. Mặt khác thôn tôi có 456 mẫu thì 280 mẫu đất bãi trồng mía và đay. Các ông cán bộ thu mua lợi dụng chính sách ’thắt lưng buộc bụng’, đặt giá mua thấp như đi ăn cướp về cho nhà máy, hỏi làm sao người nông dân chịu làm việc cho hợp tác xã.”

Tình hình diễn ra ở các hợp tác xã thủ công nghiệp ngoài đô thị cũng giống như những gì ông Cược đã nói. Ta hãy nghe trả lời phỏng vấn của một vài nhân chứng.

Ông NTL sinh năm 1942, cựu chiến binh thành cổ Quảng Trị, hiện sống ở phường Cống Vị, quận Ba Đình Hà Nội, có cha là ông NTH, chủ nhiệm hợp tác xã mây tre 1960-1970:

“Hợp tác xã của cha tôi thuộc loại lớn, có khoảng 300 lao động, chuyên sản xuất mành tre mỹ nghệ và bàn ghế bằng mây. Trước năm 1960 nó gồm nhiều tổ sản xuất thủ công độc lập nên quản lý tốt, nguyên liệu sẵn, thu nhập khá. Từ khi lên hợp tác xã cấp cao quản lý cồng kềnh, đặc biệt là khâu thu mua nguyên liệu thất thoát nhiều, đẩy giá đầu vào lên cao. Trong khi đó, đầu ra thời tổ hợp tác rất phong phú thì nay chỉ có một đầu ra độc quyền là Tổng Công ty Tocotap của Nhà nước trên đường Bà Triệu thu mua để đổi hàng cho Liên Xô nên họ định giá mua thấp, nhất là khi nào không ký được hợp đồng xuất khẩu thì họ bỏ mặc cho hợp tác xã tồn kho hàng đống để rồi bị mối mọt xông hoặc bị mốc. Lương của xã viên hồi ấy rất thấp, chỉ khoảng 40-50 đồng/người-tháng. Cha tôi và ban chủ nhiệm khá hơn cũng chỉ 60-65 đồng/tháng. Tổng thu nhập của gia đình tôi, gồm 3 lao động xã viên (cha, mẹ và chị gái) đạt khoảng 150 đồng/tháng, chia cho 11 miệng ăn là rất thấp. Các gia đình xã viên còn thấp hơn nữa. Đó là chưa kể có những đợt 3-4 tháng liền không có lương. Đói thì đầu gối phải bò, xã viên tìm thu nhập thêm; nhà nào có đất rộng thì nuôi gà, lợn; nhà chật thì chạy chợ, thực chất là đi buôn bán tem phiếu hoặc các đồ nhu yếu phẩm do mậu dịch viên tuồn hàng ra ngoài. Thu nhập thêm thường gấp đôi, có khi gấp ba lương hợp tác xã.”

Cụ THB, sinh năm 1917, ở phố Lò Rèn – Hà Nội, xã viên hợp tác xã cơ khí, có trụ sở ở phố Mã Mây:

“Năm 1961, theo chủ trương của Đảng và Chính phủ, tôi vào hợp tác xã cơ khí, đóng góp hết công cụ sản xuất và nguyên liệu cho tập thể. Hai vợ chồng lao động cật lực, nhưng bộ máy quản lý thì cồng kềnh, nhiêu khê nên năng suất kém lắm. Tổng thu nhập của 2 vợ chồng chỉ cỡ trên dưới 100 đồng/tháng, trong khi lãnh đạo thì suốt ngày tiệc tùng mà lương lại cao hơn người lao động nên chẳng ai muốn làm, bây giờ ta gọi là lãn công. Gia đình tôi có 9 miệng ăn, nghề cơ khí vất vả mà gạo bông của Nhà nước bán cho chỉ đủ ăn khoảng 10-12 ngày. Bí quá, tôi đành mua sắm công cụ để làm thêm ở nhà. Mặt hàng chủ yếu là đinh các loại làm từ dây thép gai cũ của quân đội Pháp còn sót lại, do các bà đồng nát thu gom về, bán lại cho tôi và nhiều hộ xã viên khác. Mặt hàng thứ 2 là các loại thép lá tiết kiệm từ các “đề-xê” do nhà máy thải ra, dùng để gia công thành bản lề cửa các loại. Nơi tiêu thụ là phố Thuốc Bắc chuyên bán đồ kim khí và các sạp hàng ở chợ quanh Hà Nội. Tính ra mỗi ngày vợ chồng con cái làm thêm cũng kiếm được 12-15 đồng. Trung bình mỗi tháng thu nhập ngoài hợp tác xã được 340 đồng, gấp hơn 3 lần lương của 2 vợ chồng. Nhờ khoản thu nhập thêm này, cả nhà ăn đủ no, thỉnh thoảng có thịt làm nem hay bún chả để cải thiện, có tháng tích lũy đuợc 5-10 đồng.”

Ông VTĐ, kỹ sư cơ khí chế tạo máy, sĩ quan thuộc Tổng cục chính trị quân đội, hiện sống ở Tây Hồ - Hà Nội:

“Gia đình tôi năm 1961 có 8 anh em, hơn kém nhau 1 hoặc 2 tuổi, tôi là con cả 17 tuổi, cô em gái út 8 tuổi. Cha tôi làm thợ nhuộm ở hợp tác xã nhuộm tận đường Trần Nhật Duật, cách nhà gần chục cây số. Mẹ tôi làm nhân viên thu mua giấy phế liệu cho Liên hiệp thủ công ngành giấy, thường là vỏ bao xi măng ở các công trường hay giấy vụn ở các cơ sở xén kẻ giấy làm vở học trò. Mẹ tôi thường vắng nhà, còn cha tôi vốn dòng dõi thế gia, phải đi làm thợ nhuộm đã là nỗi khổ tâm lắm rồi, đâu có nghĩ đến việc làm thêm. Thu nhập của 2 cụ mỗi tháng khoảng 100-120 đồng, mỗi tháng chỉ dám bán đi 1 chỉ vàng cỡ khoảng 50-55 đồng để phụ thêm vào bữa ăn cho cả nhà. Bữa cơm nào anh em tôi cũng cạo cháy cành cạch, vét đến hạt cơm cuối cùng. Thức ăn mùa hè là rau muống luộc, đựng đầy 4 đĩa tây (đường kính 20 cm), mùa đông là một nồi cải bắp ninh nhừ với loại khoai tây chạy nước, bé bằng hòn bi ve, không thể gọt vỏ mà chỉ rửa qua cho sạch đất. Thức ăn kiểu ấy thực chất là ăn độn với cơm cho đầy bụng. Họa hoằn lắm, mẹ tôi cho anh em cải thiện bữa bún chả thì cả nhà chỉ có 8 lạng thịt, nhưng đem gạo đổi lấy 10 kg bún (1 kg gạo đổi 2,5 kg bún), giờ nghĩ lại thì bữa cải thiện ấy cũng chỉ là bún chan nước mắm là chính. Nhà đông con, lại đang tuổi ăn tuổi ngủ nên bữa nào tráng trứng thì chỉ có 3 quả, trộn ít bột mì rồi đánh đều lên, láng qua chảo gang cho to và mỏng như chiếc bánh đa, để cắt làm 8 phần đều nhau. Tôi và thằng em thứ 2 lúc đó 15 tuổi, đã biết nghĩ, thường giấu phần của mình dưới đáy bát, rồi lén gắp cho 2 đứa bé nhất vào cuối bữa.”

Mức sống cư dân đô thị chỉ có 80% là được cào bằng như nhau, qua các nhân chứng được phỏng vấn. Thật ra sự phân tầng, phân cực giàu nghèo ở khu vực đô thị vẫn diễn ra âm thầm, đa dạng và rõ nét ngay trong chế độ tem phiếu. Nhìn vào thang lương người gác cổng ở Bộ Công nghiệp so với ông Bộ trưởng, người ta có cảm giác sự đãi ngộ là không có chênh lệch bao nhiêu. Nhưng ngoài chế độ về nhà ở, xe ô tô, phương tiện sinh hoạt và làm việc ra, thì ngay trong miếng ăn thường nhật cũng có sự phân cấp công khai, trên phạm vi toàn xã hội:

  • Bìa A cho cấp Bộ trưởng trở lên;

  • Bìa B cho cấp Thứ trưởng và chánh phó chủ tịch tỉnh;

  • Bìa C cho cấp vụ - viện, chuyên viên cao cấp, kỹ sư bậc 3/7 trở lên;

  • Bìa D cho cấp cán bộ trung, sơ cấp;

  • Bìa E cho công nhân, viên chức hành chính, sinh viên…


Người ngoài biên chế nhà nước (xã viên hợp tác xã, hộ làm ăn cá thể ở thành thị) chỉ được cấp một số mặt hàng trong bìa mua hàng nhân dân. Ngay trong đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức, một số mặt hàng phân phối ngoài định lượng (tem phiếu), dưới hình thức “căng tin” cũng được phân ra các chế độ ưu tiên khác nhau. Dân gian thời đó có bài vè truyền khẩu về sự phân chia đẳng cấp này: “Hai trăm ngồi phán – Trăm tám ngồi nghe – Tranh nhà, tranh xe là anh trăm rưởi – Tất ta tất tưởi là chị chín mươi – Dở khóc dở cười là anh sáu chục – Tối ngày lục đục là chị bốn lăm – Khóc đứng khóc nằm là anh ba sáu”. (Hai trăm đồng là lương Bộ trưởng, ba sáu đồng là lương tổi thiểu năm 1964). Tréo ngoe còn ở chỗ, chính chế độ tem phiếu đã tạo thành trong xã hội một nhóm người giàu không phải do cấp bậc, học vấn, tay nghề. Họ khá đông đảo, hiện diện ở khắp nơi, làm việc ở những chỗ nắm hàng nhu yếu phẩm và phương tiện vận chuyển hàng hóa. Lớp người này có thể điều khiển cả cán bộ trung cao cấp thông qua vợ con họ. Lớp người này cũng là đầu mối cung cấp cho một thứ thị trường ngầm tự do, còn gọi là “chợ đen”. Quá trình hình thành, vận động và phát triển các chợ đen đã tạo nên một nhóm cư dân đô thị (10-15%) sống no nhàn, thừa tiền nhiều của gồm: nhân viên các cửa hàng bách hóa, lương thực, thực phẩm, chất đốt; cán bộ cấp tem phiếu, phụ trách “căng tin” cơ quan; các lái xe và các thương nhân hoạt động trong chợ đen mà hồi ấy gọi là “con phe”. Bề ngoài các “con phe” bị dư luận xã hội khinh rẻ, lên án, nhưng chính họ lại là tác nhân điều hòa nhu yếu phẩm từ người thừa sang người thiếu, thậm chí từ địa phương này sang địa phương khác. Đội ngũ “con phe” đã làm hư hỏng một số lớn nhân viên ngành thương nghiệp vốn được khoác cho mỹ từ “người nội trợ của xã hội”. Đôi khi các “con phe” còn móc ngoặc với vợ con các cán bộ cao cấp để tuồn nhu yếu phẩm từ các cửa hàng đặc biệt (Tôn Đản, Nhà Thờ, Quốc Tế ở Hà Nội) ra chợ đen.

Trong quá trình điều tra, tiếp xúc với nhiều loại “con phe” thời đó, tôi đã có nhiều tư liệu và đã viết thành truyện vừa Mỹ Linh của tôi. Đó là nguyên mẫu cuộc đời của nữ tướng cướp Thu trọc hay Thu bít ở ngõ Mai Hương, phố Bạch Mai, Hà Nội. Đoạn trích dưới đây là 100% lời kể của Thu trọc dưới cái tên Mỹ Linh về tuổi thơ của chị ta:

“Thấm thoát đã 10 năm trôi đi. Bố mẹ tôi đã quen dần với cảnh sống đạm bạc. Bố tôi xin dịch tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp cho một cơ quan nghiên cứu, lấy tiền uống cà phê và hút thuốc Bông Lúa hạng bét. Mẹ tôi muốn có tiền nuôi tôi ăn học phải ra chợ Bắc Qua, Đồng Xuân buôn bán trao tay các loại tem phiếu và nhu yếu phẩm. Hồi đó mẹ tôi bị liệt vào hạng “con phe”, tức thành phần bất hảo. Nghề này khá phức tạp, vốn dĩ hiền lành nên mẹ tôi hay bị chèn ép. Tôi thỉnh thoảng phải ra chợ giúp mẹ nên sớm thành con bé đanh đá, chua ngoa, nhất là lúc tôi bênh vực mẹ, chửi nhau với người khác. Điều này bố tôi cấm kỵ, nhưng thương mẹ, tôi vẫn lén lút làm. Vì học ca chiều, sáng tôi dậy từ 3-4 giờ, cắp rổ ra chợ. Quầy thịt, cá, đậu phụ, nước mắm nào cũng có vài hòn gạch của tôi dấm chỗ. Tôi len lỏi giữa đám người hôi hám xếp hàng rồng rắn, chen lấn, chửi bới nhau để mua được thực phẩm. Tính ra mỗi sáng, lúc chợ Đồng Xuân, khi chợ Hàng Bè, con bé 10 tuổi cũng kiểm được 1 đồng rưỡi đến 2 đồng, hơn cả tiền dịch sách của bố một đêm. Đó là chưa kể có người không dùng đến phiếu đậu phụ, cá biển hay nước mắm thối, tôi có thể mua hoặc xin lại để mua hàng giá cung cấp, bán giá cao ăn chênh lệch. Thiếu gì những “mẹ mướp” đi chợ mà cá biển đồng tiền tanh lòm hay nước mắm thối vẫn là của quý với họ. Nếu gặp mấy ông bà thợ móc cống có phiếu thịt loại nghề độc hại, mua được cân rưỡi một tháng, đem bán để mua quần áo, sách vở cho con, thậm chí để đánh bạc là tôi hôm ấy trúng to…”.

Trong cuộc điều tra, tôi còn gặp một loại người buôn bán trên lưng các “con phe”, sạch sẽ, nhẹ nhàng, không mất một xu thuế, giàu nhanh đến chóng mặt. [Họ cho tôi tư liệu viết tác phẩm ký “Câu lạc bộ các tỷ phú”, dự cuộc thi do báo Văn nghệ và Hội Nhà văn tổ chức (1996-1997), nhận được giải thưởng.] Loại người này, vào đầu những năm 90, họ sẵn có vốn tích lũy và mánh lới làm ăn nên đều phất lên thành tỷ phú. Dưới đây trích đoạn sử dụng 100% lời kể của nhân chứng:

“Ở cửa chợ Đồng Xuân có một chị bán bánh giò, bánh dày, chả quế. Hành trang chỉ có một chiếc thúng đại và dăm cái ghế thấp như ngồi bệt. Ai cũng gọi chị là Vân Tây Thi vì chị đẹp, có duyên, nói lời ngọt như mía lùi. 6 giờ sáng, Vân chỉ cần ngồi vỉa hè cửa chợ, đợi chừng 15 phút sẽ có người chở hàng từ Tôn Đản đến giao theo lời dặn trước và chiều tối anh ta lại đến chở hàng còn thừa ế về nơi nó xuất phát, để sớm hôm sau lại giao hàng mới, nóng hổi. Chỉ có Vân Tây Thi mới biết rõ các ông lớn bìa A, bìa B có thể sẽ ăn hàng thừa ế của mình. Thời ấy, ai cắn giò chả ngập răng đều là dân phe có máu mặt ngoài chợ. Giò chả ăn vào thì lời ra. Họ tâm sự với Vân độ này hàng gì lên, hàng gì xuống hay bán chậm. Ai hôm đó “trúng quả đậm” muốn mua vài chỉ vàng cất giấu, ai gặp xui xẻo cần bán đều qua tay Vân vì thời đó mua bán vàng là việc quốc cấm. Mỗi ngày Vân kiếm hơn trăm đồng nhẹ như phẩy tay, bằng cả tháng lương ông Vụ trưởng.”

Một khi sự phân hóa giàu-nghèo, sang-hèn nảy sinh từ chế độ tem phiếu, chợ đen thì xã hội cũng có một thứ chuẩn giá trị mới, rất dị mọ. Một cô bán hàng ở cửa hàng thịt có thể dễ lấy đuợc chồng có học vị tiến sĩ hơn cô sinh viên y khoa hay sư phạm. Một anh lái xe chinh phục người đẹp qua bà mẹ thực dụng lại dễ hơn anh giảng viên một trường đại học. Đó là sự thật hiển nhiên, đã được cô đúc trong bộ phim hài Kén rể do Xưởng phim Hà Nội sản xuất năm 1964. Dẫu sao chế độ tem phiếu vẫn có những mặt ưu việt nhất định, rõ nhất là sự bình ổn giá cả sinh hoạt. Biểu đồ biến động giá cả sinh hoạt 1961-1965 cho thấy rõ điều này:

Giá sinh hoạt của năm 1961, 1963, 1965 so với năm 1957 là 119,2% - 131,5% và 133,0%; so với năm 1960 là 111,9% - 123,5% và 125,2% . Nó đảm bảo cho những gia đình công nhân viên chức bậc lương thấp nhất có thể tồn tại bằng gạo và nhu yếu phẩm tối thiểu. Nó giúp cho dân cư đô thị ở Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định dù ở khu vực kinh tế tập thể hay lao động tự do, nhưng có hộ khẩu thường trú sẽ có gạo ăn và cái mặc ở mức cầm chừng.

Điều không thể phủ nhận, cuốn sổ gạo của mỗi gia đình ở đô thị là cái bảo bối cho nhà hành pháp giữ gìn an ninh, trật tự và hạn chế gia tăng dân số cơ học (vì vậy hồi đó trong dân gian có câu ví von “trông như mất sổ gạo” chỉ người có bộ mặt đau khổ, thiểu não). Các mô hình kinh tế khác khó có thể làm việc này tốt hơn chế độ tem phiếu!...

Giai đoạn 1961-1965 có lẽ là thời kỳ thành công ngoạn mục nhất của miền Bắc về y tế, giáo dục và phúc lợi công cộng. Đành rằng chính sách “thắt lưng buộc bụng” xây dựng chủ nghĩa xã hội có sự chia đều mức sống nghèo khó trong đại bộ phận dân cư, nhưng nó cũng giúp cho nguồn thu ngân sách tăng nhanh, nhờ đó, chính phủ có điều kiện đầu tư vào giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội nhiều hơn so với giai đoạn 1954-1960.

Trong lĩnh vực y tế, các số liệu thống kê cho thấy rõ sự tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 1960 chỉ có 65 bệnh viện và 180 bệnh xá, đến năm 1965 có 252 bệnh viện và 350 bệnh xá. Chất lượng phục vụ, độ chuẩn xác của các phác đồ điều trị là rất cao, thuốc men khá đầy đủ. Năm 1960 toàn miền Bắc có 600 bác sĩ, 2.446 y sĩ, 231 dược sĩ cao cấp, 293 dược sĩ trung cấp. Năm 1961 những con số tương ứng là 1.525 - 8.043 - 428 và 703. Nhà nước thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho cán bộ, công nhân, viên chức.

Trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dưới sự chỉ đạo của 2 vị Bộ trưởng cũng là hai trí thức tài năng và tâm huyết (ông Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và ông Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp), từng bước đi của ngành đều đảm bảo tính khoa học và thực tiễn, bám sát nhu cầu và hiện trạng của nền kinh tế đất nước. Lấy số liệu thống kê niên học 1955-1956 làm điểm xuất phát để so sánh, ta sẽ thấy rõ sự tăng trưởng có tính đột biến cả về lượng và chất.

Niên học 1955-1956: 716.100 học sinh phổ thông, 2.800 học sinh trung học chuyên nghiệp, 1.200 sinh viên đại học. Số liệu tương ứng của các niên học sau là 1960-1961: 1.794.700 - 30.700 và 16.700; 1964-1965: 2.673.900 - 42.600 và 29.300.

Đứng ở thời điểm lịch sử 1961-1965 mà xét, thành công trong lĩnh vực y tế - giáo dục đã đưa miền Bắc xếp vào hàng các quốc gia tiên tiến ở khu vực châu Á và ASEAN về lĩnh vực này.

Đời sống văn hóa nghệ thuật của cư dân đô thị những năm 1961-1965 có bước cải thiện khá rõ rệt. Sách ngoại văn năm 1957 chỉ có 15 cuốn với 39.000 bản, tăng lên 39 cuốn và 210.000 bản (1960); 74 cuốn và 494.000 bản (1965). Đặc biệt số lượng tác phẩm văn học nghệ thuật trong 2 năm 1960-1961 đạt con số kỷ lục: 736 đầu sách với hơn 8 triệu bản in. Rất nhiều tác phẩm ưu tú của văn học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt, in với số lượng lớn và về mặt dịch thuật đã đạt tới trình độ cao nhất so với bất cứ giai đoạn nào suốt 50 năm qua (1945-1995). Nếu so với sách dịch ở miền Nam, có thể nó không phong phú, đa dạng về các trường phái nghệ thuật, khuynh hướng sáng tác của văn học thế giới cận – hiện đại, nhưng với 1 tác phẩm cổ điển cụ thể thì sách dịch của miền Bắc đạt trình độ cao hơn. Nhiều cuốn sách dịch đáng làm mẫu mực cho các thế hệ dịch giả sau này. Có thể nêu một số dịch giả nổi tiếng: Phan Đăng Tài, Đào Anh Kha, Đoàn Phú Tứ (tiếng Anh, tiếng Pháp); Đặng Thai Mai, Trương Chính (tiếng Trung); Vũ Thư Hiên, Cao Xuân Hạo (tiếng Nga). Về thư viện, năm 1957 có 33 thư viện, 208.300 lượt người đọc; năm 1965 có 105 thư viện, 410.800 lượt người đọc. Nghệ thuật điện ảnh khá phát triển, do các nghệ sĩ quay phim, đạo diễn, diễn viên được đào tạo ở nước ngoài về khá đông. Từ năm 1961-1965 đã sản xuất được 13 bộ phim truyện nhựa (đen trắng) và hàng trăm bộ phim tài liệu có giá trị nghệ thuật khá cao. Ở lĩnh vực nghệ thuật sân khấu, trình độ thẩm mỹ của công chúng đô thị đã phát triển ở mức khá cao, đa dạng. Số lượng khán giả xem kịch nói, ca nhạc tạp kỹ, opera, ba lê và nhạc giao hưởng ngày một đông lên. Hai năm 1961-1962 có lẽ là thời hoàng kim của nghệ thuật opera với các nghệ sĩ nổi tiếng Quý Dương, Trần Hiếu, Quang Hưng, Mỹ Bình, Bích Liên, Bích Thủy… Các bản giao hưởng 4 chương của các nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, Hoàng Việt, Đỗ Nhuận… đã đánh dấu mốc phát triển huy hoàng của âm nhạc hàn lâm Việt Nam.

Nói đến đời sống văn hóa của cư dân đô thị, có lẽ nên điểm qua “mốt thời trang” của giai đoạn này, vì nó không phản ánh trình độ hay cá tính thẩm mỹ của người dân, mà bị chi phối bởi các yếu tố ngoài văn hóa. Hà Nội, Hải Phòng mất hẳn những tà áo dài của thiếu nữ và các bà nội trợ trên đường phố vào những ngày thường. Áo dài chỉ thấy trong các ngày lễ tết, nhưng cũng ít dần. Trang phục mùa hè ra đường của các bà nội trợ là quần lụa đen, áo cánh trắng khuy bấm, còn của các cô gái là quần lụa đen, áo sơ mi trắng cổ bẻ hoặc áo vải phin hoa cổ lá sen tròn. Mùa đông họ mặc áo bông màu tối, một số mặc áo vét kiểu “cán bộ”, bên trong là áo len màu tím than hoặc màu đỏ. Nam giới đơn giản hơn, mùa hè quần kaki, áo sơ mi trắng, còn mùa đông họ mặc áo bông kiểu Trung Quốc, một số mặc áo đại cán kiểu Tôn Trung Sơn. Nhưng đó là những mốt lịch sự, còn đa số dân, nhất là người trong biên chế nhà nước thường có cách ăn mặc cố ý tuyềnh toàng, vì như vậy mới đúng là “thắt lưng buộc bụng” xây dựng chủ nghĩa xã hội: ra đường thường mặc quần áo cũ hoặc cọc cạch quần mới áo cũ và ngược lại. Cán bộ lãnh đạo trong cơ quan thường nhìn cách ăn mặc của nhân viên để đánh giá lập trường chính trị!

Ông MTT là GS.TSKH, dạy ở một trường đại học ở Hà Nội, sinh năm 1944, quê Hà Tĩnh, theo cha mẹ ra Hà Nội từ nhỏ, kể lại:

“Năm 1962, tôi tốt nghiệp cấp 3 ở Hà Nội, đang chờ giấy gọi vào đại học. Nhóm bạn chúng tôi thảy đều rất mơ mộng, thích phiêu lưu mạo hiểm. Bọn tôi đọc các tiểu thuyết trong bộ Tấn trò đời của Balzac, bàn nhau tìm cách thâm nhập vào tận “hậu cung” các nhà danh giá, nghĩa là cái bếp, để xem họ sống ra sao. Cuối cùng, chúng tôi đã tìm ra một phương án tối ưu. Học sinh đi lao động hè để tu dưỡng lập trường cách mạng thì ai nỡ từ chối. Thế là chúng tôi, mấy đứa rủ nhau đi kéo xe bò than quả bàng. Thời ấy, dân Hà Nội chưa có tập quán đun nấu bằng bếp dầu hay bếp điện, mỗi nhà đều dùng lò đun bằng than quả bàng. Đó là loại than cám 6 ở Quảng Ninh trộn với bùn, rồi đem vào bàn ép có khuôn lỗ hình quả bàng. Nhóm bạn của tôi đã thuyết phục được bác Đính là tổ trưởng, phụ trách hơn chục chiếc xe kéo chở than quả bàng đựng vào mỗi thùng gỗ thông chừng 20 kg than, để bác cho vào làm. Nơi giao than, chúng tôi chọn các phố Quán Thánh, Phan Đình Phùng, Bà Triệu… là những phố có nhiều gia đình danh giá ở. Nhóm tôi gồm 3 đứa con trai, một người kéo, 2 người đẩy và một đứa bạn gái chạy lên trước quan sát, hễ thấy bố mẹ hoặc người quen đi ngược chiều thì báo động cho lũ con trai đi trốn. Cứ thế, trong 2 tuần kéo xe và đội than vào tận bếp các nhà danh giá, bọn trẻ chúng tôi phát hiện ra một sự thật: Nhà công chức lưu dung, học giả hay kỹ sư thời Pháp, tuy sống ở những ngôi nhà đẹp, ra đường ăn mặc lịch sự, nhưng về nhà họ mặc áo vá chằng vá đụp, bếp ăn toàn thấy rau với muối, chai nước mắm chẳng nhà nào đầy. Họ cư xử với chúng tôi rất nhã nhặn, chân tình chứ không cau có, chỏng lỏn. Vào đến các nhà cán bộ cỡ kha khá, bọn tôi lại thấy khi ra đường họ ăn mặc lôi thôi, nhếch nhác nhưng về nhà đóng bộ pijama bằng lụa màu mỡ gà, mâm cơm khá thịnh soạn, thỉnh thoảng còn ăn cơm Tây đổi bữa. Chỉ có điều cách bài trí trong nhà luộm thuộm, kém văn hóa. Thường thì một biệt thự có hai hoặc ba hộ cán bộ nên khu vực sân và công trình phụ rất bẩn, khác với nhà ở của công chức lưu dung, chỗ nào cũng thơm tho, gọn mắt. Sau này, người bạn gái trong nhóm chúng tôi thành nhà thơ khá nổi tiếng, luôn bị ám ảnh bởi câu chuyện kéo xe than thời xa xưa ấy.”

3. Các sự kiện chính trị ảnh hưởng đến đời sống đô thị

Cuối năm 1960 đầu 1961, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam phát động chiến tranh du kích. Ở ngoài Bắc, Nhà nước có chủ trương đưa khoảng 6.000 người đã đi lính cho Pháp (ngụy quân) hay làm ở các cấp chính quyền (ngụy quyền) đang sống ở thành thị đi tập trung lao động cải tạo. Họ đi không có thời hạn và gia đình cũng không được biết địa điểm tập trung cải tạo. Chính sách đặt ra là chỉ tập trung những người có nợ máu với cách mạng, nhưng các cấp chính quyền ở cơ sở lại lợi dụng để đe dọa, chèn ép những người có nhà cửa rộng hoặc có tiền, vàng cất giấu được. Tình hình trở nên căng thẳng ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, không kém gì ở nông thôn thời cải cách ruộng đất.

Cụ VDH, sinh năm 1921, ở phố Hàng Buồm, Hà Nội, là xã viên hợp tác xã nhuộm Hợp Tiến trên đường Trần Nhật Duật:

“Năm 1950, tôi bị bắt lính, nhưng mẹ và vợ tôi chạy tiền lo lót nhiều nên tôi chỉ mất 3 tháng thổi kèn Tây ở vườn hoa Canh Nông cho lính lê dương. Ngôi nhà 2 tầng ở Hàng Buồm là do mẹ tôi mua của người Tàu, rất rộng, cỡ 200 m2, nhưng tầng 1 cấu trúc theo kiểu nhà kho, thông thống từ ngoài vào trong, tầng 2 mới là chỗ ở và nơi thờ tự. Sau ngày giải phóng thủ đô (10/10/1954), tôi cho một người em họ xa từ chiến khu về, làm phóng viên báo Thời Mới (nay là Hà Nội mới) ở nhờ một nửa tầng 1, phía ngoài. Người ta chuyển chú ấy đi nơi khác, không hỏi ý kiến tôi, giành diện tích 100 m2 này cho hợp tác xã đóng giày sử dụng. Cuối năm 1960, Nhà nước có chính sách cải tạo ngụy quân, ngụy quyền, tôi không thuộc diện đó, nhưng mấy ông cán bộ tiểu khu Hàng Buồm – Mã Mây vẫn đến đe dọa tôi, sau đó buộc tôi giao nốt nửa tầng 1 phía trong, chia cho 5 hộ là bà con của họ dưới quê lên ở. Vì là cấu trúc nhà kho, nên năm hộ này chỉ ngăn vách bằng gỗ hoặc cót, chừa lại một lối đi lên cầu thang cho gia đình tôi và một lối đi ra khu nhà xí. Thật lòng tôi ái ngại thay cho họ vì nơi họ ở tối như hũ nút, ẩm thấp, hôi hám lắm! Nhưng quỹ nhà ở Hà Nội rất hiếm hoi, người bà con cán bộ ở quê, nhất là vùng Thanh-Nghệ ra rất đông, họ phải chịu thôi. Đến năm 1962, có đợt tập trung cải tạo thứ 2, chính quyền lại đến đe dọa tôi một lần nữa. Sau đó họ chiếm luôn nửa tầng 2, có giếng trời đẹp nhất để phân cho ông bí thư Đảng ủy bệnh viện Bạch Mai, là cán bộ miền Nam tập kết đến ở. Cả nhà tôi gần hai chục người, gồm 5 thế hệ phải chui rúc trong không gian chật hẹp còn lại vẫn đành ngậm bồ hòn làm ngọt, chứ biết kêu ai!”

Cuộc vận động đi khai hoang lập nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới ở miền núi thuộc Tây Bắc, Việt Bắc, Quảng Ninh diễn ra rầm rộ tại các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định những năm 1962-1964. Đối tượng thứ nhất được vận động đi khai hoang là các gia đình có thành phần “bất hảo” về lý lịch. Loại này đi cả gia đình để Nhà nước giãn dân đô thị, thay vào đó là các gia đình họ mạc của cán bộ cách mạng từ các miền quê về, đông nhất là vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh. Người Hà Nội gốc thời đó bảo nhau rằng, Nhà nước tìm cách nhuộm đỏ các cụm dân cư đất Thăng Long ngàn năm văn hiến. (Sau này, vào thập kỷ 80-90, các nhà Hà Nội học đặt ra tiêu chuẩn người Hà Nội gốc phải có 3 đời sinh sống ở Thủ đô trước năm 1954 thì khi thống kê chỉ còn 17-21% dân số, còn người Thanh–Nghệ-Tĩnh đến sau 1954 chiếm 40%.) Đối tượng thứ hai là các thanh niên học sinh được học tập chính trị, khuyến khích viết đơn tình nguyện đi khai hoang ở các nông – lâm trường. Số này có khoảng 1 vạn người, trong đó có 2/3 là những con em gia đình trí thức cũ, bị ám ảnh bởi lý lịch dòng dõi quan lại, địa chủ phong kiến, không có khả năng thi đỗ vào đại học. Họ tình nguyện tham gia phong trào “Thanh niên tháng Tám” đi khai hoang lập nghiệp ở quê hương mới, hy vọng sau vài năm sẽ được tiếp tục theo học lên đại học. Họ ra đi trống dong cờ mở, tiễn đưa náo nức, nhưng khi đến nơi ở mới liền bị phân tán ra các đội sản xuất và bị đối xử như kẻ đi lao động cải tạo. Ai muốn trốn về cũng không được nữa vì không còn tên trong sổ gạo của gia đình. Thân phận của gần 1 vạn con người này được lột tả khá chân thực trong tiểu thuyết Ngoại tình của Nguyễn Mạnh Tuấn (NXB Văn học, 1993).

Một sự kiện khác, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại năm 1963 cũng tác động mạnh đến đời sống tinh thần các tầng lớp cư dân đô thị. Lúc đầu, nó đơn thuần mang màu sắc chính trị, sau lan dần sang địa hạt kinh tế, văn hóa, nghệ thuật. Ở Viện Kinh tế, ông Bùi Công Trừng và một số người khác bị coi là phần tử xét lại. Giới văn nghệ sĩ có một số người bị dính đòn nặng như Hà Minh Tuân với tiểu thuyết Vào đời, nhạc sĩ Hoàng Vân với ca khúc “Tâm tình người thủy thủ”. Có lẽ căng thẳng nhất là giới nghiên cứu ở Viện Triết học và giới báo chí ở tòa soạn báo Quân đội nhân dân.

Ông Trần Thư, sinh năm 1923, hồi đó là thiếu tá, trưởng phòng biên tập báo Quân đội Nhân dân, hiện sống tại khu tập thể văn công Mai Dịch, Hà Nội:

“Lúc ấy, Hoàng Linh là tổng biên tập thay Văn Doãn. Anh gần như trở thành cái bóng thầm lặng. Một lần gặp anh ở hành lang tòa soạn, tôi giữ anh lại và nói với anh một vài suy nghĩ về tình hình. Anh lẳng lặng nghe, mỉm cười buồn rầu, rồi lảng đi không đáp một câu.


Ít lâu sau, tôi nhận được tin sét đánh ngang tai: anh Hoàng Thế Dũng, phó tổng biên tập cũ của báo Quân Đội Nhân Dân; anh Phạm Viết, phó tổng biên tập báo Thời Mới; anh Trần Châu biên tập viên báo Nhân Dân; anh Hoàng Minh Chính, Viện trưởng Viện Triết học đã bị bắt.”

(Nguồn: Trần Thư – Hồi ký- Chuyện một tên tù nội bộ)

Ông Trần Thư sau đó cũng bị bắt cùng đợt với nhà báo Kiên Giang và 15 người khác. Năm 1970 ông được tha về, nhưng vẫn bị quản thúc ở quê nhà Hưng Yên. Khi tôi gặp và phỏng vấn tại nhà riêng (7/1998), ông trao cuốn hồi ký dày 107 trang giấy đánh máy vi tính khổ A4 và nói: “Vụ việc của tôi với Kiên Giang và 15 anh em khác ngỡ không dính gì đến mô hình kinh tế mà hóa ra có đấy. Hãy thử hình dung, nếu không có chiến tranh, mô hình kinh tế Stalin sẽ rất nhanh bộc lộ các ung nhọt, sưng tấy lên như các năm 1978-1980 sau chiến tranh, thì không biết khủng hoảng kinh tế và mâu thuẫn nội bộ sẽ dẫn đất nước đi đến đâu!”.

Lời ông Trần Thư thay cho câu kết, khép lại một giai đoạn đời sống cư dân đô thị 1961-1965.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn