Lời người viết: Nhân tưởng niệm 43 năm ngày Miền Nam Tự Do mất vào tay Cộng Sản Quốc Tế, xin được tôn vinh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, những người anh hùng cuối cùng của dân tộc Việt Nam. Kể tứ khi thiếu vắng các anh, tổ quốc Việt Nam đã không còn nơi nương tựa, và Mẹ Việt Nam rồi cũng sẽ phải lên đường đi sống lưu vong khi đất nước Việt Nam, chẳng chóng thì chầy, sẽ bị Trung Cộng thôn tính, bởi vì nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam tại Hà Nội ngày nay chỉ chăm lo làm giàu riêng mà không hề cố gắng cùng toàn dân chung sức giữ gìn dải giang sơn gấm vóc mà tổ tiên đã để lại.
Bốn mươi ba năm sau cái ngày định mệnh 30 Tháng Tư năm 1975, ngày Sài Gòn sụp đổ và toàn bộ đất nước Việt Nam từ Nam chí Bắc rơi vào vòng nô lệ của chế độ độc tài, đảng trị Cộng Sản Việt Nam, thời gian tưởng cũng đã đủ để gần 100 triệu người Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại cảm nhận được tất cả những nỗi đắng cay, đau đớn về thân phận của một dân tộc lúc nào cũng nơm nớp lo sợ rằng mình sắp sửa bị Trung Quốc thôn tính, nhưng đành bất lực nhìn định mệnh tàn ác ra tay, chầm chậm mà dứt khoát đến độ tàn nhẫn.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thành lũy cuối cùng chống ngoại xâm để bảo vệ tự do và cũng là những người anh hùng cuối cùng của dân tộc Việt Nam, đã không còn nữa, nay chẳng biết lấy ai để chống đỡ những ngón đòn tối hậu của đội quân chinh phục Trung Hoa từ phương Bắc, chầm chậm mà vô cùng mãnh liệt, khiến con mồi Việt Nam bị thấm nọc độc, tê liệt dần và lăn đùng ra chết. Không ai phủ nhận sức mạnh và khả năng chiến đấu dũng mãnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến mà những người cộng sản Việt Nam ưa gọi là “chống Thực Dân Pháp” và “chống Mỹ, cứu nước” trước năm 1975 cũng như trong hai cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc tại 6 tỉnh biên giới phía Bắc hồi năm 1979 và núi Lão Sơn tại Hà Giang ở biên giới Việt-Hoa hồi năm 1984. Tuy nhiên, cái sức mạnh và khả năng chiến đấu dũng mãnh đó, rất tiếc, đã không được sử dụng để tiếp nối truyền thống bảo vệ đất nước của con cháu các Vua Hùng trong suốt dòng lịch sử trên 4,000 năm chống ngoại xâm, đơn giản là vì trong hai cuộc chiến tranh trước năm 1975, quân đội đó chỉ là cánh tay nối dài của Cộng Sản Quốc Tế trong sách lược bành trướng của họ, và trong hai cuộc chiến tranh sau năm 1975, quân đội đó đã không thể chiến thắng kẻ thù Trung Quốc để giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đó là không kể đến lần chiến bại nhục nhã của Hải Quân Nhân Dân Việt Nam trước Hải Quân Trung Quốc trong trận chiến bảo vệ các Đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao tại Quần Đảo Trường Sa hồi năm 1988, khi các thủy thủ Cộng Sản Việt Nam đã mau lẹ buông súng chứ không chịu anh dũng chiến đấu chống kẻ cường địch như Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa từng thể hiện khí phách khi Hải Quân Trung Quốc tiến chiếm Quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam hồi năm 1974.
Việt Nam đang ở trong vị thế hết sức bất lợi trước quân Trung Quốc xâm lược
Dẫu sao, ngày nay, thế trận giữa Trung Quốc và Việt Nam – cả hai đều tự nhận là anh em “môi hở, răng lạnh” vì cùng chung lý tưởng Cộng Sản – đã hoàn toàn khác biệt so với trận đọ sức sau cùng hồi cuối thế kỷ 18 giữa 200,000 quân nhà Thanh của Hoàng Đế Càn Long từ Trung Hoa tiến sang Việt Nam và chưa đầy 100,000 quân của Hoàng Đế Quang Trung từ Phú Xuân và Nghệ An tiến ra Bắc Hà để đánh đuổi quân xâm lược, với kết quả là quân Đại Việt đã đánh tan quân nhà Thanh, nhờ thế mà giữ vững được nền độc lập của nước Đại Việt trong hơn 1 thế kỷ trước khi Việt Nam bị Thực Dân Pháp chinh phục và đặt ách đô hộ lên cả ba miền Trung, Nam, Bắc.
Một sự thật phũ phàng là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam bây giờ rất yếu, nhất là về phương diện kinh tế, trong khi đa số các nước trên thế giới ngày nay vẫn dựa vào sức mạnh kinh tế để giữ vững an ninh đất nước, theo đúng sách lược “hạ tầng kinh tế quyết định thượng tầng chính trị.” Điều kỳ lạ là chỉ tại Cộng Sản Việt Nam ngày nay mới có cảnh “dân giàu, nước yếu” khi tiền bạc thu gom từ việc bán hết các tài nguyên đất nước cùng với các món tiền khổng lồ vay mượn của ngoại quốc để phát triển kinh tế đều chui tọt vào túi riêng của đám quan tham và dân mánh, chứ nhà nước lại chẳng thu vào được bao nhiêu nếu so với trường hợp của nước cộng sản đàn anh Trung Quốc. Nhìn những người Việt hải ngoại phất lên nhờ về nước ca hát hoặc làm ăn, buôn bán, ai cũng tưởng chính phủ và dân thường Việt Nam chắc giàu lắm, nhưng sự thật thì chỉ có các đảng viên thế lực và tư nhân mánh mung là giàu có mà thôi, do bởi nạn tham nhũng và lũng đoạn kinh tế đang hoành hành dữ dội khắp nơi trên đất nước, khiến người người, nhà nhà đều hè nhau lấy của công mà bỏ túi riêng bất kể trời đất để thủ thân, chờ khi có dịp thì chạy ra sang sinh sống tại các quốc gia tự do, dân chủ Tây phương, mà nơi được muôn đời ưa chuộng vẫn là Đế Quốc Mỹ, “kẻ xâm lược đất nước ta và là kẻ thù của nhân dân ta” theo như sách vở còn ghi lại.
Các chiến lược gia quốc tế tin rằng, hiện nay, Trung Quốc có 2 cách để chiếm Việt Nam: một là mở cuộc chiến tranh xâm lược thẳng vào Việt Nam với quy mô lớn hơn cuộc chiến năm 1979; và hai là dùng áp lực chính trị và kinh tế để dần dà đưa Việt Nam vào thế phải quỳ gối chấp nhận sự đô hộ của Trung Quốc, coi như lần Bắc thuộc thứ 5 và sau cùng của Việt Nam. Với phương thức thứ nhất, Trung Cộng có thể giành chiến thắng dễ dàng bởi vì Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc bây giờ mạnh hơn gấp bội phần Quân Đội Nhân Dân Việt Nam và lực lượng Công An Nhân Dân Việt Nam, vừa trang bị yếu kém hơn mà tinh thần lại bạc nhược hơn vì còn mải lo thụ hưởng những đặc quyền, đặc lợi do Đảng Cộng Sản Việt Nam ban cho để đổi lấy lòng trung thành tuyệt đối của họ, đến nỗi chỉ biết say mê làm giàu riêng cho phe nhóm mình mà quên đi sứ mạng bảo vệ dân tộc trước hiểm họa thôn tính của Cộng Sản Trung Hoa. Với phương thức thứ nhì, Trung Quốc cũng sẽ dễ dàng chiến thắng, và họ sẽ thấy Việt Nam nhẹ nhàng rơi rụng trước áp lực chính trị và kinh tế liên tục của mình mà không phải lo sợ bị quốc tế lên án là kẻ gây chiến tranh cướp đất, bởi vì, dẫu sao, Việt Nam cũng là một thành viên chính thức của Liên Hiệp Quốc. Mặc dù tiến trình thứ nhì này sẽ đưa đến kết quả chậm hơn là một cuộc xung đột võ trang, nhưng thời gian luôn đứng về phía Trung Cộng, nghĩa là Việt Nam sẽ tắt thở trước, đơn giản chỉ là vì Trung Quốc dài hơi hơn trong trường hợp hai bên không bắn nhau mà xáp lại bóp cổ nhau. Các dấu hiệu mới đây nhất, từ việc Đảng Cộng Sản Việt Nam đành phải đặt bút ký vào Thỏa Hiệp Thành Đô tại Tứ Xuyên hồi năm 1990 để tự nguyện sát nhập vào Trung Quốc cho tới tình trạng người Trung Quốc đang tràn ngập nhiều thành phố và tỉnh lỵ của Việt Nam (qua các đợt phát triển mậu dịch song phương, di dân kinh tế, mở cửa biên giới, và du lịch Việt Nam từ sau phong trào Đổi Mới năm 1986 đến nay), đều cho thấy Trung Quốc đang áp dụng phương thức thứ nhì, tức là sử dụng áp lực chính trị và kinh tế tối đa để dần dà khuất phục Việt Nam, và từ đó tiếp tục tiến trình đồng hóa Việt Nam mà họ đã thất bại không thực hiện được sau hơn 1,000 năm đô hộ Việt Nam trong các thế kỷ trước.
Nơi đây, hãy thử điểm qua các biến cố và sự kiện cho thấy, khi mập mờ, lúc lộ liễu, Trung Quốc đang từ từ lấn chiếm Việt Nam rồi cuối cùng sát nhập đất nước này vào Trung Quốc để Việt Nam trở thành chủng tộc thứ 6 trong số 6 chủng tộc của một nước Trung Quốc thống nhất còn vĩ đại hơn thời Tần Thỉ Hoàng (246-221 Trước Tây Lịch) nữa, là Mãn (Mãn Châu), Mông (Mông Cổ), Hồi (Tân Cương), Tạng (Tây Tạng), Hán, và Việt.
Âm mưu của Trung Quốc nô lệ hóa dân tộc Việt Nam
Dưới đây là những hành động được coi là nằm trong âm mưu của Trung Quốc nhằm biến Việt Nam không phải thành chư hầu như xưa nữa mà thành nô lệ của họ:
– Các công ty Trung Quốc luôn chiếm đa số những khế ước thầu xây dựng hạ tầng cơ sở và nhà máy, xí nghiệp tại Việt Nam nhờ thủ đoạn hối lộ các quan chức cao cấp của Đảng Cộng Sản Việt Nam và mánh lới cung ứng giá thầu thật thấp trước để rồi sau đó tăng giá sau, trường hợp mới nhất là công trình xây dựng đường cao tốc Bắc-Nam phía Đông chạy qua Hà Nội, khởi công từ năm 2014 đến nay vẫn chưa xong sau 4 lần tăng giá. Nhờ các khế ước đó, Trung Quốc đã công khai đưa người sang Việt Nam để mai phục qua chương trình đem thợ di dân vào làm việc tại các công trình đã trúng thầu.
– Trung Quốc tha hồ mở các đô thị riêng và đặc khu kinh tế trong lòng các đô thị Việt Nam, theo kiểu các Phố Tàu tại Việt Nam hồi trước năm 1975 nhưng với quy mô lớn hơn và được phòng thủ kiên cố hơn, từ Hải Phòng cho tới Bình Dương và từ Đà Nẵng cho tới Cần Thơ. Đó là chưa kể tới việc cư dân Trung Quốc đang ra sức Hán hóa các khu du lịch từ Hạ Long và Sơn Trà cho tới Nha Trang và Phú Quốc, để rồi đâu đâu du khách cũng chỉ ngó thấy các bảng hiệu viết bằng tiếng Hoa, tức chữ Tàu, thay vì tiếng Việt.
– Qua hệ thống địa phương phân quyền, các tỉnh ủy và thành ủy Việt Nam tha hồ ký các hợp đồng bán hoặc cho người Trung Quốc thuê một phần các đô thị Việt Nam từ 50 năm trở lên, một hình thức bán nước từng phần. Với kế hoạch này, doanh nhân và thợ thuyền Trung Quốc tha hồ di dân qua làm ăn và lấy vợ Việt Nam để tiếp tay đồng hóa dân tộc Việt Nam cho nhanh. Nhiều “nhượng địa” kiểu này lại là những phần đất có vị thế chiến lược trọng yếu, như bán đảo Sơn Trà tại tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng hoặc khu vực phía Bắc Đèo Hải Vân thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế.
– Các công ty Trung Quốc cũng thắng thế trong các dự án công, kỹ nghệ lớn, từ công trường khai thác bô-xít ở Đắk-Nông và Lâm Đồng tại Tây Nguyên cho đến các công trình xây dựng cầu, đường trên khắp nước, vừa có dụng ý đưa di dân sang Việt Nam làm ăn một cách hợp pháp vừa thực hiện kế hoạch chuyển những thứ máy móc kỹ thuật đã lỗi thời từ Trung Quốc sang Việt Nam thay vì phải đem bán đi như phế liệu, tạo cơ hội cho người Trung Quốc đem thải chất độc hóa học vào Việt Nam.
– Lợi dụng các chương trình hợp tác du lịch mới đây với Việt Nam, Trung Quốc đang ồ ạt đưa người sang Việt Nam xuyên qua các “cửa khẩu” biên giới mở toang, mà khởi đầu là tại Quảng Ninh, để âm thầm mở cuộc Nam tiến như tổ tiên người Việt Nam từng làm, một tiến trình đã dẫn tới hậu quả là triệt hạ các dân tộc Chăm (Chàm) và Khmer (Miên) tại các vùng đất Việt Nam mới xâm chiếm. Đồng thời, hàng trăm nghìn du khách Trung Quốc cũng nhân dịp này mà đổ bộ vào Việt Nam để bóp nghẹt ngành du lịch của nước này, bởi vì du khách Âu-Mỹ-Úc khi thấy du khách Trung Quốc đến thì đều bỏ Việt Nam để qua Thái Lan, Căm Bốt, Mã Lai Á, Indonesia, và Phi Luật Tân du lịch, rồi dần dà quên luôn chuyện trở lại thăm Việt Nam.
– Bằng những ngón đòn hăm dọa các công ty khai thác dầu khí của Tây Ban Nha, Ấn Độ, và luôn cả Mỹ nữa đang hoạt động thăm dò dầu khí tại thềm lục địa Việt Nam, Trung Quốc đang dần dà chiếm đoạt và khai thác các mỏ dầu khí ngoài khơi Việt Nam, nơi Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố chủ quyền vì nằm bên trong “Đường 9 Đoạn” – hay còn gọi là “Đường Lưỡi Bò” – do Trung Quốc tự ý vẽ ra, căn cứ vào một bản đồ do Thống Chế Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc hứng chí vẽ nên hồi năm 1948 trước khi họ Tưởng bị quân Cộng Sản của Mao Trạch Đông rượt đuổi, phải bỏ Hoa Lục mà chạy qua Đài Loan tử thủ cho tới bây giờ.
– Chính người Trung Quốc, hoặc qua tay các Hoa kiều tại Thái Lan, đang từng bước mua lại các ngân hàng bị phá sản của Việt Nam cũng như các cơ sở kinh doanh lớn trong nước, như công ty Metro Cash & Carry Việt Nam và hãng rượu bia Sabeco (Tổng Công Ty Cổ Phần Bia Rượu Nước Giải Khát Sài Gòn) chẳng hạn, để nắm độc quyền kinh tế tại Việt Nam nhằm phục vụ mưu đồ dùng áp lực kinh tài mà khuynh đảo chính phủ Cộng Sản Việt Nam.
– Trung Quốc thường xuyên tìm cách phá hoại nền kinh tế Việt Nam với ý đồ bắt Việt Nam phải quỳ gối xin viện trợ và tùy thuộc, y như hành động của bọn đế quốc mà cộng sản Trung Quốc từng lu loa tố cáo trước đây. Những hành động có mục đích phá hoại nền kinh tế Việt Nam bao gồm việc chặn nguồn Sông Mê Kông (mà Việt Nam gọi là Sông Cửu Long và Trung Quốc gọi là Sông Lan Thương) bằng cách xây nhiều đập thủy điện tại thượng nguồn bên Vân Nam của Trung Quốc để vựa lúa miền Đồng Bằng Sông Cửu Long của Việt Nam tại hạ nguồn bị thiếu nước mà phải thu hẹp lại. Mặc khác, thương lái Trung Quốc, lợi dụng tình trạng nghèo khó của người nông dân Việt Nam, chủ trương độc quyền thu mua một số nông phẩm hay hoa trái nào đó rồi thình lình ngưng mua, làm nhiều nông dân và chủ vườn Việt Nam phải điêu đứng, và có người phải phá sản vì mất hết vốn liếng. Cũng vậy, việc phá hủy môi trường biển của Việt Nam qua các hoạt động liên tục đổ chất thải kỹ nghệ xuống các sông ngòi và kênh lạch của Việt Nam đã diễn ra từ mấy chục năm trước khi xảy ra vụ công ty sản xuất thép Formosa của Đài Loan thải chất độc suốt dọc duyên hải các tình phía Bắc Trung Phần Việt Nam hồi năm, gây thiệt hại hết sức nặng nề cho ngành ngư nghiệp Việt Nam. Cũng nằm trong âm mưu bóp nghẹt nền kinh tế Việt Nam là chuyện các ngư dân Việt Nam lúc ra khơi đánh bắt cá vẫn thường hay bị các tàu Trung Quốc chận đánh và cướp bóc tài sản, những tàu mà nhà cầm quyền Việt Nam ưa gọi “tàu lạ” để che chở cho hành vi bạo ngược của Trung Quốc.
– Trung Quốc còn thường xuyên tìm cách đầu độc dân chúng Việt Nam bằng những chế tạo phẩm độc hại hoặc những loại thực phẩm hư thối để dân chúng Việt Nam, vì quá nghèo đói nên phải ăn vào, mắc những bệnh nan y không chữa được, như ung thư và các chứng bệnh lạ khác mà y khoa hiện tại chưa thể xác định, với dụng ý hủy diệt hoặc làm suy yếu não bộ của thế hệ trẻ Việt Nam vốn là rường cột của đất nước trong tương lai, giả dụ rằng đất nước nảy còn tồn tại. Các công ty với máy móc cổ lỗ sỉ mà Trung Quốc đưa sang Việt Nam để sản xuất luôn là nguồn cung cấp các chất thải độc hại vào sông ngòi, kênh lạch, đất hoang, và bờ biển của Việt Nam, khiến số người Việt Nam mắc các chứng bệnh hiểm nghèo ngày càng gia tăng.
Nhiều người Việt Nam trong nước chỉ biết ăn chơi và hưởng thụ trong khi chờ đợi cơ hội bỏ nước ra đi
Giữa lúc dân chúng Việt Nam đang ngỡ ngàng vì phố xá, xóm làng của mình ngày càng bị Hán hóa, và đâu đâu trong nước cũng thấy người Tàu sinh sống (Việt Khang: “Mà giặc Tàu ngang dọc trên quê hương ta…”) thì chính quyền cộng sản tại Hà Nội lại bất chấp những kêu ca, phản đối của cộng đồng quốc tế từ Hoa Kỳ tới Liên Hiệp Âu Châu mà gia tăng đàn áp, bắt bớ các phần tử đối lập yêu nước biểu tình chống việc Trung Quốc tiến hành đồng hóa Việt Nam, từ các linh mục chống đối Formosa hủy diệt môi trường sống của ngư dân Việt Nam cho tới những nhà tranh đấu chống chính quyền Hà Nội “hèn với giặc, ác với dân” trên khắp nước. Lợi dụng tình trạng bế tắc trong các cuộc đấu tranh chống Trung Quốc của người dân trong nước, chính quyền Hà Nội đã ráo riết khuyến khích nhà cầm quyền địa phương các cấp mở thêm các tụ điểm ăn chơi và hưởng lạc trên khắp nước, đồng thời ngầm khuyến khích phong trào hát “nhạc vàng” và nhạc boléro từng bị cấm đoán sau khi cộng sản chiếm Sài Gòn hồi năm 1975 tới nay, tạo nên một trào lưu thi đua văn nghệ rầm rộ và ca hát véo von với các giải thưởng lớn bằng hiện kim trên khắp nước, đặc biệt là tại các thành thị Miền Nam, lấy đài truyền hình Vĩnh Long làm đơn vị xung kích hàng đầu.
Phong trào hát nhạc boléro và nhạc vàng thả cửa lúc đầu chỉ có ở miền Nam Việt Nam, nay đã lan ra miền Trung và tới tận miền Bắc Việt Nam, với hằng hà sa số các phòng trà ca nhạc và tụ điểm văn nghệ hoạt động suốt ngày đêm để ru ngủ dân chúng Việt Nam khỏi xuống đường tranh đấu chống nhà cầm quyền Hà Nội cướp đất của dân oan và quân Trung Quốc lấn chiếm biển đảo của Việt Nam ngoài Biển Đông. Nhiều người Việt Nam hiện vẫn chưa quên các phong trào khuyến khích các hoạt động ca nhạc và thể thao, trong đó có cuộc Đua Xe Đạp Vòng Đông Dương do Toàn Quyền Jean Decoux của Pháp khởi xướng hồi trước Thế Chiến Thứ Hai, nhằm ru ngủ thanh niên Việt Nam, để họ khỏi nghe theo lời hô hào các nhà cách mạng như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh mà nổi lên chống lại quyền cai trị của Thực Dân Pháp.
Nhớ lại thời Đệ Nhất Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam, nhạc phẩm “Chiều Mưa Biên Giới” bất hủ của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, chỉ vì lời nhạc có những câu như “Kìa rừng chiều âm u rét mướt/chờ người về vui trong giá buốt, người về bơ vơ…” hoặc “Lòng trần còn tơ vương khanh tướng/ thì đường trần mưa bay gió cuốn còn nhiều anh ơi…” mà đã bị Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa lúc đó ra lệnh cấm phố biến vì sợ gieo tính ủy mị mà làm nản lòng chiến sĩ đang chiến đấu chống giặc cộng ngoài biên cương. Nhạc boléro và nhạc vàng thường có âm điệu và lời nhạc buồn da diết, có thể khiến người nghe đâm ra thẫn thờ và không còn hăng hái dấn thân vào công việc nữa. Thử nghe mấy câu sau đây trong ca khúc “Mưa Nửa Đêm” của nhạc sĩ Trúc Phương: “Ngoài hiên mưa tuôn mưa lạnh xuyên qua áo ai/canh dài nghe bùi ngùi/Mưa lên phố nhỏ có một người vừa ra đi đêm nay/để bao nhiêu luyến thương lại lòng tôi.” Hay nhạc phẩm “Nửa Đêm Biên Giới” của Anh Bằng: “Đêm nay quê nhà/ mẹ hiền còn thương đứa con đi chốn xa mờ/Không than, không sầu/ đầu non cuối ghềnh ôm cây súng canh rừng sâu…” Hoặc lời nhạc trong ca khúc “Dấu Chân Kỷ Niệm” của Thúc Đăng: “Một mình lê bước anh đến công viên ngày xưa/ nghe làn gió buồn xao xác/Ngỡ linh hồn em tựa theo ngàn cơn gió/ oán than khóc duyên ban đầu…” Và mấy câu này trong nhạc phẩm “Giọt Lệ Sầu” của Lam Phương: “Còn buồn nào hơn phút chia tay/Tìm nụ hôn cho nhau lần cuối/Em bùi ngùi, anh lo sợ nhiều/Trên đường về đêm vắng đìu hiu…”
Phải nói rằng loại nhạc boléro và nhạc ủy mị của miền Nam Tự Do thời đó, ngoài điểm lợi là giúp giải trí và khích lệ tinh thần các chiến sĩ đang gian lao chiến đấu chống giặc thù nơi tiền tuyến, vẫn có cái hại là gieo rắc tình cảm yếu đuối, cầu an lên những người ở hậu phương, khiến một số thành phần dân chúng thời bấy giờ cứ kêu gào, đòi hỏi các chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ phải chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình bằng mọi giá, bất chấp sự thể Cộng Sản Bắc Việt mới là kẻ có trách nhiệm phải chấm dứt cuộc đổ máu để đem lại hòa bình, bởi vì họ chính là kẻ đã gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam Việt Nam, gieo rắc biết bao chết chóc, tang thương cho dân tộc Việt Nam.
Thay lời kết
Trước sự thể ngày nay chủ nghĩa vật chất (materialism) đang hoành hành trên khắp thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng, đã hết rồi thời đất nước và dân tộc Việt Nam sản sinh ra những vị anh hùng dân tộc bất khuất và hết lòng yêu nước, thương nòi, cỡ Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và Quang Trung Nguyễn Huệ. Xin đừng quá tự hào về quá khứ oai hùng của dân tộc thời đối kháng Trung Hoa xa xưa để cứ tiếp tục tin rằng Việt Nam nhất định sẽ thành công bảo vệ được đất nước khỏi họa Bắc thuộc lần thứ 5 – và cũng là lần Bắc thuộc cuối cùng – khi Việt Nam hoàn toàn rơi vào vòng nô lệ của Trung Quốc. Phải hiểu rằng, khác với thời oanh liệt xưa khi con người Việt Nam còn coi trọng đạo đức và coi thường tiền tài, danh vọng (như Trần Bình Trọng: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”), người Việt Nam ngày nay, ở đâu cũng thế, chỉ biết chạy theo tiền bạc và đua nhau hưởng thụ khoái lạc vật chất, khiến sĩ khí đã không còn mà tình yêu quê hương, dân tộc cũng mất đi rồi. Ngoài một số ít kẻ sĩ ngày nay, đặc biệt là những nhà tranh đấu vì tự do, dân chủ cho Việt Nam mà đã bị chính quyền cộng sản Hà Nội bắt nhốt hết cả rồi, đa số dân chúng còn lại tại Việt Nam đều là những kẻ cầu an, nếu không nói là hèn nhát, sẵn sàng làm thinh hoặc đồng lõa với chính quyền cộng sản để mưu cầu danh, lợi, mặc cho sự thể Việt Nam đang sắp sửa sa vào vòng nô lệ nghìn đời của Trung Quốc, điều mà Hán tộc không hề làm được lúc Việt Nam chưa nằm dưới ách cai trị của những người cộng sản cùng mang dòng máu Việt Nam. Xu hướng nổi bật trong xã hội Việt Nam ngày nay là, từ quan tới dân, ai cũng chúi mũi lo làm giàu và tom góp tài sản kếch xù để chờ cơ hội vượt thoát khỏi đất nước nghèo nàn, lạc hậu và không có tương lai của mình mà sang sinh sống tại Hoa Kỳ hoặc tại các quốc gia tự do, dân chủ Tây phương khác, bỏ mặc đất nước đau thương lại cho Cộng Sản Trung Hoa xơi tái.
Phải biết rằng nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay là một tập thể cai trị rất vô trách nhiệm với đất nước, nghĩa là không có một cá nhân nào đứng ra chịu trách nhiệm về tội bán nước cho quân Tàu, bởi vì họ là một đảng độc tài chứ không phải là một cá nhân độc tài. Các nhà cai trị tại Bắc Bộ Phủ sẽ thản nhiên phủi tay một khi Việt Nam bị mất vào tay Trung Cộng, bởi vì không có một cá nhân nào của đảng cầm quyền, ngoại trừ Hồ Chí Minh là kẻ đã chết tự mấy mươi đời rồi, bị coi là phải chịu trách nhiệm trước lịch sử, nhưng lịch sử đâu còn nghĩa lý gì khi nước đã mất rồi. Lúc Việt Nam Cộng Hòa mất vào tay cộng sản hồi năm 1975, người ta đã không ngần ngại quy trách nhiệm cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, bởi vì ông là nhà lãnh đạo Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, mặc dù lịch sử cho thấy việc Miền Nam Tự Do bị thôn tính là do bị Đồng Minh Mỹ phản bội, bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa vào tay cộng sản quốc tế, trong đó Nga và Tàu là hai nước đầu sỏ. Nhưng ngày nay, khi Việt Nam bị Trung Quốc thôn tính, trong bốn nhân vật cầm quyền chủ chốt tại Việt Nam hiện tại, là Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch Nước Trần Đại Quang, Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc, và Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân, dân tộc Việt Nam và cả thế giới sẽ không biết chọn ai để quy trách nhiệm đã bán nước cho Trung Quốc, bởi vì họ có cả một đảng để cai trị đất nước chứ không phải là một cá nhân như trong các chế độ vua chúa hay tổng thống hoặc thủ tướng tại các nước khác, và tiến trình bán nước cho Trung Quốc đã xảy ra từ thời Hồ Chí Minh tới Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, và dài dài sau này chứ không phải mới đây. Cái đảng này, khi tham nhũng thì hè nhau tham nhũng chung từ trên xuống dưới, nhưng khi mất nước thì chẳng có ai phải chịu trách nhiệm một mình cả. Vì ngạn ngữ Việt Nam có câu “Cha chung không ai khóc” nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi hiện nay và trong tương lai sẽ không có một cá nhân lãnh tụ nào trong Đảng Cộng Sản Việt Nam chịu đứng ra cứu vớt Việt Nam khỏi đại họa bị Trung Quốc thôn tính, mặc dù các đảng viên chóp bu có ăn, có học trong Đảng Cộng Sản thế nào cũng có người ý thức được cái thế suy vong hiện giờ của tổ quốc Việt Nam trước nanh vuốt của kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa.
Mặc dù các ca sĩ, diễn viên, và người mẫu tại Việt Nam đang ăn nên, làm ra, với nhiều người trong số họ tậu được nhà cửa, xe cộ hàng triệu đô-la ở cả hai bên bờ Thái Bình Dương, khiến nhiều người Việt hải ngoại đâm ra thèm thuồng, nhưng ngân khố nhà nước Việt Nam vẫn trống rỗng khi tiền bạc chạy hết vào tay quan tham và dân mánh, bởi vì chính quyền các cấp tại Việt Nam được tổ chức theo kiểu “thập nhị sứ quân,” tức là mỗi tỉnh ủy hùng cứ một phương, chứ không theo kiểu trung ương tập quyền như Trung Quốc. Dù được các nhà kinh tế thuộc Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) đánh giá là một trong các quốc gia có chỉ số tăng trưởng kinh tế cao nhất Đông Nam Á (khoảng 6.83 trong năm 2018), tình hình kinh tế-tài chánh của đất nước Việt Nam lại đang lâm cảnh bế tắc, một phần là do Trung Quốc cấm không cho Việt Nam khai thác dầu khí ngoài khơi nữa để thu lợi, đến nỗi chính quyền Hà Nội phải tính đến chuyện đánh thuế đường bộ, đường thủy, ruộng đất, và nhà ở của dân để lấy tiền độ nhật trong khi Việt Nam đang mắc nợ ngoại quốc ngập đầu, hậu quả của tình trạng giới lãnh đạo cứ vay tiền cố mạng để thực hiện các công trình vĩ đại khắp nơi đặng khoe thành tích xây dựng đất nước vượt trội hơn thời Việt Nam Cộng Hòa bị chiến tranh tàn phá và để có dịp ăn chặn mà làm giàu cho cá nhân, khiến cho “kiếp này” Việt Nam chỉ đủ sức trả tiền lời, chứ tiền vốn các món nợ đó thì đành hẹn lại “kiếp sau” để các thế hệ con, cháu trả tiếp. Trước tình thế đó, chẳng chóng thì chầy, Việt Nam sẽ phải rơi vào tay Trung Quốc khi ngân khố quốc gia cạn kiệt, khiến chính phủ không biết lấy đâu ra tiền để trả lương, trước hết là cho các lực lượng quân đội và công an bảo vệ cho Đảng Cộng Sản và sau đó là cho hằng chục triệu công nhân, viên chức trong hệ thống chính quyền cồng kềnh, đảng và nhà nước cứ trùng lắp nhau hoài dưới chế độ cộng sản tại Việt Nam. Rồi ngay vào lúc đó, Đảng Cộng Sản Trung Quốc anh em sẽ “ra tay nghĩa hiệp,” đứng ra đảm nhiệm việc trả lương cho đảng và nhà nước Việt Nam, tự động biến các quan chức Việt Nam thành tôi tớ của những nhà cai trị tại Trung Nam Hải. Bước kế tới sẽ là Việt Nam tự nguyện xin đổi tên thành An Nam như ngày xưa, bên trong một nước Trung Quốc vĩ đại.
Người viết bài này không hề quá bi quan khi nói về vận mệnh đất nước Việt Nam đen tối như thế trong những ngày tới, lúc đất nước Việt Nam từ Lạng Sơn cho tới Cà Mau – Ải Nam Quan thì Trung Quốc đã lấy đâu mất tiêu rồi – bị Trung Quốc chiếm đoạt, mà chỉ nói lên sự thật cay đắng chứ không dựa vào lòng tự hào dân tộc hão huyền khi, từ giới lãnh đạo đất nước cho đến đám dân đen Việt Nam hiện nay, chẳng thấy ai có ý chí chống Trung Quốc để bảo vệ nền độc lập của tổ quốc mà chỉ lo gom góp tiền bạc để tìm cách trốn chạy sang Mỹ hoặc các nước khác.
Bốn mươi ba năm sau ngày Việt Nam Cộng Hòa mất vào tay Cộng Sản Bắc Việt, viễn tượng một đất nước thống nhất dưới quyền cai trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam bị Trung Cộng thôn tính sắp sửa trở thành hiện thực, bởi vì đây là chuyện không thể nào tránh khỏi, kể cả sau các ước tính của những con người lạc quan nhất.
Vann Phan
Nguồn Người Việt