- CSVN đã âm thầm gầy dựng cơ sỡ nhân lực và kế hoạch đánh phá, gây chia rẽ trong cộng đồng người Việt tự do hãi ngoại trên 30 năm qua chứ không phải chỉ qua nghị quyết 36
- Nghị quyết 36 chỉ là mặt trận nổi, là mặt tiền của kế hoạch tấn công của CSVN. Nó ví như mặt nỗi của một tảng băng hà. Dưới tang băng nhô lên mang tên nghị quyết 36 ấy, CSVN đã, đang và sẽ tấn công CĐNVTN bằng nhiều chiến dịch, hình thức và phương cách khác quan trọng hơn nữa. Nói một cách khác, cộng sản sẽ không từ một thủ đoạn hay hình thức nào để đánh phá cộng đồng của chúng ta.
- CS cũng không từ bất cứ một mục tiêu nào hay một phần tử nào trong cộng đồng người Việt tỵ nạn, bất kể già trẻ lớn bé và bất kể giới nào: thương gia, học sinh sinh viên, bác sĩ, kỷ sư công nhân, nội trợ. Nói một cách khác là họ nhắm đến toàn bộ và mọi người không trừ ai.
CS đã và đang xây dựng hạ tầng và thượng tầng cơ sỡ của chúng tại hải ngoại ngay từ lúc làn sóng người Việt tỵ nạn bỏ nước ra đi cho đến nay. Chúng đã lợi dụng mọi cơ hội, mọi kẽ hở, mọi hình thức, mọi tiêu chuẩn thành phẩn mà luật di trú Úc cho phép để đưa người của chúng ra hải ngoại hoạt động phá hoại và kinh tài cho chế độ.
Các toà lãnh sự và đại sứ của CSVN (kể cã Hàng Không VN) là những cơ sỡ đìều hợp và bộ chỉ huy của những hoạt động đánh phá cộng đồng người Việt tỵ nạn hãi ngoại cũng như là nơi phân phối, rữa tiền, phân phối bạch phiến, kinh tài và điều hành các hệ thống chi bộ, đảng, đoàn của CSVN tại các tiểu bang và lãnh thổ Úc châu.
Cũng chính từ những toà đại sứ, sứ quán này, đảng CSVN đã điều hành và thành lập những ủy ban đặc trách người Việt nước ngoài của chúng. Mọi việc mọi đường hướng nhất nhất đều nhận chỉ thị và kiểm soát chặc chẽ từ trong nước.
Rất ít người trong chúng ta biết được rằng CSVN vẫn thường xuyên họp đảng hàng tuần hàng tháng và hệ thống đảng của chúng tại Úc châu đầy đủ như ở VN. Nói một cách khác là mọi việc chúng làm tại hải ngoại đều có tính toán và có kế hoạch kỷ lưỡng và mọi chỉ thị đều có phối hợp chặc chẽ với đảng CSVN tại VN, chỉ khác một điều là chúng làm một cách lén lút và chưa dám chính thức công khai ra mặt mà thôi.
Trong số những thành phần đảng viên và cảm tình viên/ tay sai tình nguyện hay bị ép buộc theo chúng không thiếu những phần tử như: sinh viên du học trước 1975, du học sinh từ VN, những thương gia đang có thương vụ tại VN, đảng viên tỵ nạn trá hình và những tên Việt gian trở cờ trong cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Úc châu.
- Về hình thức đối với người Việt không cộng sản trong cộng đồng hải ngoại, cs dùng mọi thủ đoạn từ ngọt bùi đến chua cay như; dụ dỗ, mua chuộc, đe doạ, blackmailing, khủng bố tinh thần, nói xấu, dèm pha, bôi bẩn, bới móc đời tư, mạ lỵ v.v để biến họ thành công cụ cho chúng: nghe theo thì được lợi, không nghe theo thì sẽ bị tấn công, bôi bẩn và đánh phá một cách tàn bạo, bất kể hình thức hay thủ đoạn đê hèn nào.
Chúng đặc biệt lưu ý và nhắm vào những thành phần gặp khó khăn về tài chánh, mê gái, thích ăn chơi, ghiền cờ bạc, nghiện ngập ma tuý, hám danh, tham tiền, muốn làm ăn tại VN, đã hoặc đang có chức vụ hay sinh hoạt trong cộng đồng người Việt hải ngoại đi về VN lần đầu tiên hay thường xuyên về VN và các chủ nhân của các cơ sỡ truyền thông, báo chì Việt ngữ để móc nối và mua chuộc làm việc cho chúng. Bên cạnh đấy chúng cũng làm áp lực và đặt điều kiện trên những tổ chức hay cá nhân muốn hay đang thực hiện những chương trình từ thiện tại VN buộc họ phải im lặng, tuyệt đối không được chỉ trích chế độ và phải xữ dụng chiêu bài “chúng tôi làm từ thiện chứ không làm chính trị” để biện minh cho việc im lặng và “do nothing on the cause of poverty and injustice” của mình. Tệ hơn nữa, có những người còn ca ngợi Đảng và Tà quyền CSVN là nhơn đạo, là một chánh quyền tốt khi cho họ về làm việc từ thiện tại VN và lý luận rằng phải hợp tác với tà quyền CSVN thì mới làm từ thiện được.
Chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy CSVN lấy những sòng bài Casino tại Úc làm tụ điểm và xữ dụng những doanh nghiệp chuyển tiền và các dịch vụ du lịch, di trú do chúng kiểm soát để tuyển mộ tay sai, rửa tiền, buôn bán ma tuý, đưa người ra nước ngoài và kinh tài cho đảng cướp của chúng. Lý do chúng đặc biệt nhắm vào các casino của Úc là vì tiền thắng sổ xố và casino của Úc không phải đóng thuế khiến cho chúng có thể rửa được trọn gói. Vô số những cuộc bố ráp và khám phá của cảnh sát liên bang Úc về ma tuý, rửa tiền và tội phạm trong cộng đồng VN “cách biệt” những năm gần đây cho thấy hệ thống tổ chức và số lượng tiền mà CSVN đã và đang làm ăn tại Úc châu có hệ thống, quy mô và to lớn đến chứng nào.
Tôi dùng chử “cách biệt” ở đây vì đa số những phần tử VN bị cảnh sát bắt giử và đang bị giam trong những nhà tù trên nước Úc về những tội danh này là những thành phần thân Cộng, đến từ miền Bắc sau năm 1975, đội lốp tỵ nạn và không tham gia hoặc coi họ là một thành viên của cộng đồng người Việt Tự Do của tiểu bang hoặc lãnh thổ mà họ cư ngụ.
Đây chính là một hình thức “Một ná bắn hai chim” của CSVN tại Úc châu. Vừa tạo tiếng xấu, phá hoại danh nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn, vừa kiếm đưọc lợi lộc từ hình sự và lôi kéo được những phần tử bất hảo về làm tay sai cho chúng. Điều này rất phù hợp với tinh thần của nghị quyết 36 mà không phải bị chống đối một cách ồn ào bỡi cộng đồng người Việt hải ngoại. Thật là “nhất cử, lưỡng tiện”
- “Nhất cử lưỡng tiện hơn nữa” là khi CSVN chuyễn và rữa tiền được ra nước ngoài một cách hợp pháp để mua và thành lập cơ sỡ thương mại có tầm vóc lớn thì chính những cơ sỡ kinh tài này trở thành những trung tâm, địa điểm hội họp và tổ chức sinh hoạt ngấm ngầm (với hy vọng một ngày nào đó sẽ công khai hoá) của Đảng tại Úc, tránh đưọc việc CĐ yêu cầu chủ nhân huỷ bỏ booking.
- Chúng ta cũng không quên nghị quyết 36 và tôn giáo. Về phương diện này, CS đã và đang bành trướng một cách báo động và công khai núp dưới chiêu bài tôn giáo mà chúng biết rằng rất có lợi cho chúng về cả tiền lẫn quyền ảnh hưởng trên tuyệt đại đa số quần chúng VN tại hải ngoại vốn dĩ sùng đạo và rộng tay đối với chù chiền, nhà thờ hay thánh thất.
Ai trong chúng ta cũng đã biết vai trò và sách lược của cái gọi là “Mặt Trận Tổ Quốc” của CSVN từ bao thập niên qua trong việc đánh, phá thối, bôi bẩn và băng hoại các tôn giáo tại VN. Nay chúng đã chính thức cho gia nhập vào mặt trận này những tay sai trở cờ trong cộng đồng người Việt hải ngoại để làm công cụ cho chúng.
Riêng về Phật giáo, trong thời gian gần đây, số lượng tăng ni Phật giáo trong nước được bảo lãnh ra hải ngoại để tu học rồi ở lại luôn theo diện tu sĩ đang gia tăng đến mức báo động vì con số những tự viện, chùa, am đủ cỡ, đủ loại và đủ khắp mọi nơi trên toàn nước Úc cũng tiệm tiến gia tăng với mức độ lạm phát với một vài nơi có đến 3 ngôi chùa VN trên cùng một con đường. Bình thường thì cộng đồng chúng ta có thể hãnh diện và vui mừng về sự phát triển mạnh mẽ này, nhưng với sự ký kết Chương Trình Phối Hợp Công Tác ngày 16/7/2009 vừa qua giửa giáo hội Phật giáo quốc doanh do Thích Thanh Từ đại diện và Chủ nhiệm ủy ban Nhà Nước về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài Nguyễn Thanh Sơn, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao thì cộng đồng ngưòi Việt tỵ nạn của chúng ta có quyền đặt dấu hỏi về sự hiện diện và gia tăng của các tăng ni này và vai trò của họ trong việc thi hành nghị quyết 36 tại hải ngoại của CSVN.
Nguyễn Thanh Sơn tuyên bố “Theo chương trình phối hợp công tác, Ủy Ban sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho GH thực hiện công tác Phật sự đối với người Việt Nam ở nước ngoài, mỡ rộng quan hệ, hoạt động của GH sang các nước có đông kiều bào sinh sống, góp phần xây dưng hình ảnh và uy tín của Gh trên thế giới. Về phần mình, Gh sẽ tích cực và chủ động phối hợp, tham gia vào các hoạt động vận động Người VN ở Nước Ngoài do Ủy ban chủ trì”
Phát biểu tại buổi ký kết, Thích Thanh Từ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (Quốc Doanh) cho biết phương châm hành động của GHPGVN luôn là “Đạo Pháp, Dân Tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội”.
Công giáo cũng không tránh khỏi bị nghị quyết 36 này chi phối và lợi dụng qua những linh mục tu sĩ quốc doanh, tuy không lập được nhà thờ tu viện như Phật giáo ở nước ngoài vì hệ thống khác biệt và chặc chẽ hơn của GHCG, nhưng CSVN đã tạo mọi điều kiện dễ dãi cho những linh mục, tu sĩ và thậm chí đến Hồng Y Phạm Minh Mẫn đi ra hãi ngoại để đánh bóng cho chế độ và khuyên giáo dân và các hàng giáo phẩm tại hãi ngoại nên tập trung vào tôn giáo và không nên làm chánh trị.
Các tôn giáo khác như Cao Đài, Hoà Hảo và Tin Lành cũng bị CS gài người vào trong nội bộ để gây chia rẽ, hiềm khích và nghi kỵ lẫn nhau. Nói chung, CS coi đây là một trong những mục tiêu và mặt trận chính chúng ở hải ngoại.
- Một trong những chiến lược chính và kế tiếp của CSVN là tận dụng cơ sỡ hạ tầng mà chúng đã kiên nhẫn gài vào cộng đồng người Việt Úc Châu trong hơn 3 thập niên qua để bắt đầu bước sang giai đoạn: “tạo rắn 2 đầu” hay “tổ chức song phương” mà chúng đã manh nha thí nghiệm khá thành công tại Hoa Kỳ. Chúng tin rằng với con số hơn 40 ngàn du sinh (mà chúng nghỉ rằng chúng kiểm soát và sai khiến được) và hàng ngàn cán bộ và Việt gian trở cờ tại Úc, chúng có thể bắt đầu giai đoan cho công khai thành lập và ra mắt những tổ chức có danh xưng ngang hàng hay trùng hợp với những tổ chức của CĐNVTD tại Úc. Điển hình là sự ra đời của cái gọi là: “Hội Doanh Nhân Việt Nam Úc Châu” dưới sự chứng kiến và tham dự của Toà Đại sứ CSVN tại Melbourne .
- Những hình thức mà chúng ta đã biết qua nhiều trước đây như sự du nhập các sản phẩm văn hoá như: băng nhạc, sách báo, một vài ca sĩ lẻ tẻ trong nước ra hải ngoại trình diễn nay đã bước qua một giai đoạn mới quy mô hơn, có tổ chức hơn, trực diện, trắn trợn và rầm rộ hơn, xữ dụng tối đa những thành phần hạ tầng cơ sở và Việt gian mà chúng đã có được ở trong cộng đồng chúng ta. Khi chúng bị thất bại trong việc thử nghiệm ở cấp chính phủ như: VTV4 và Duyên Dáng VN, thì cộng sản đổi chiến lưọc đúng như chúng đã từng làm: “cứu cánh biện minh cho phượng tiện” nói như Đặng Tiểu Bình “mèo nào cũng là mèo, miễn là bắt được chuột” chúng chuyễn sang hình thức nguyên đoàn gồm đủ cã MC, ban nhạc và công an trá hình bảo vệ đi kèm, nói một cách khác chúng là: Duyên Dáng VN nhưng theo hình thức tư nhân hoặc pha trộn với những ca sĩ hải ngoại.
Chúng xữ dụng tối đa lực lượng du sinh tại địa phương để làm công cụ tuyên truyền cho những đoàn văn công lưu diễn này qua hình thức cho vé xem miễn phí hay giá đặc biệt. Chúng cũng phân phối vé với hình thức này qua hệ thống Casino để rửa tiền và để cho Casino dụ khách hàng VN của họ theo chiến lược “Nhất cữ lưỡng tiện – Đôi bên cùng có lợi” Casino bao mua vé và trả thù lao thì ca sĩ từ VN sang sẽ không phải rắc rối với sở thuế vụ. Với những hành vi hình sự và những số tiền khổng lồ mà bọn tội phạm và tay sai của CSVN đã và đang rữa tại các casino ở Úc, đời sống và sinh hoạt của cộng đồng người Úc gốc Việt tự do và tỵ nạn của chúng ta sẽ phải đối đầu với nhiều tấn công và thủ đoạn của những thế lực đen tối do CSVN giựt dây và chủ mưu trong những ngày tháng sắp tới.
Theo thiển ý của tôi thì những đoàn văn công chỉ là mặt trận nổi của CSVN trong kế hoạch đánh phá và chiêu dụ CĐNVQG tại hải ngoại. Mặt trận chính vẫn là: làm vô hiệu hoá và tạo cho đồng bào hải ngoại mất niềm tin hay chán nản đối với các nhà lãnh đạo tôn giáo, tổ chức hay cộng đồng, các cơ chế cộng đồng, các tổ chức đấu tranh chánh trị và các tôn giáo có uy tín qua hình thức: gây chia rẽ, tạo mâu thuẩn nội bộ, khuyến khích tách biệt, tạo ra hay tung tin đồn thất thiệt, ném đá giấu tay (đặt biệt là trên các mạng điện tử), đồn hay tạo ra những scandals, bôi nhọ, kích động, biến những hiềm khích nhõ giửa cá nhân trong cộng đồng hay tôn giáo thành chuyện lớn, lôi kéo thêm nhiều người khác vào cuộc.
- Một trong những chiến thuật gần đây nhất mà CSVN bắt đầu dùng đến để mong đánh gục ý chí, khả năng và nhất tâm chống Cộng của CĐ chúng ta đó là xữ dụng và lợi dụng những kẻ hỡ của luật kiện tụng tại các quốc gia có người Việt cư ngụ. Các nơi từ Đức, Mỹ, Úc đều bị kiện hay doạ kiện khi cộng đồng đứng ra tổ chức biểu tình chống CS. Với những thành phần sẳn hám danh hám lợi sẳn có ở hải ngoại và tài lực khổng lồ trong tay, CSVN đã và sẽ xữ dụng hình thức hù doạ và kiện tụng pháp luật nhiều hơn nữa nhằm làm nản lòng, bịt miệng, tạo sự rụt rè và lo ngại, giảm thiểu tiềm năng chống Cộng, ước muốn tham gia vào các ban chấp hành cộng đồng và làm thiệt hại về tài chánh, thì giờ và công sức của cã cộng đồng qua các vụ kiện để cộng đồng dù có thắng cũng bị kiệt quệ, nản lòng và lo lắng.
Đứng trước những kế hoạch và thủ đoạn đa dạng, nổi chìm, ngày càng gia tăng cộng với khả năng tài chánh dồi dào của CSVN tại hải ngoại, cộng đồng người Việt tỵ nạn của chúng ta có thể làm được gì để đối phó với nghị quyết 36 và những đánh phá chủ yếu khác của CSVN và tay sai?
Tôi tin chắc rằng với sự khôn ngoan và trí tuệ của toàn thể đại hội chúng ta sẽ có được những biện pháp và đường hướng cụ thể để vô hiệu hoá, ngăn chặn hay giảm thiểu tối đa sự tác hại của nghị quyết 36 trên cộng đồng của chúng ta. Tôi chỉ xin liệt kê một số ý kiến và suy nghĩ thô thiển của cá nhân tôi sau đây như là một chất xúc tác góp vào cho cuộc hội luận và điều nghiên của đại hội. Nếu có điều chi không đúng, kinh xin qu ý vị niệm tình bỏ qua hoặc góp ý thêm cho.
Theo thiển ý của riêng tôi, chúng ta cần phải:
- Lên tiếng báo động đến chánh phủ Úc và chánh phủ các nơi có người Việt chúng ta cư ngụ về hành động vi phạm chủ quyền, mặc nhiên cho mình có quyền kiểm soát, theo dõi, hù dọa, dạy dỗ, thưởng phạt, tuyên truyền chánh sách đối với những công dân Úc gốc Việt bất kể luật pháp độc quốc tịch của Úc Đại Lợi.
- Cho các vị dân biểu, chính phủ và cảnh sát Úc biết rằng chúng ta bị cộng sản nằm vùng theo dõi, quyền hạn và các sinh hoạt dân chủ của chúng ta tại Úc qua các cuộc biểu tình, hội thảo lên án chống nhà cầm quyền CSVN vi phạm nhân quyền bị đe dọa và trấn áp khi phải có việc về lại VN. Chúng ta cảm thấy bị đe doạ và không an toàn khi về VN vì nghị quyết 36 này của CSVN.
- Yêu cầu chính quyền và Bộ Ngoại Giao của Úc lên tiếng phản đối về ảnh hưởng của nghị quyết 36 này trên cuộc sống của người dân Úc gốc Việt và yêu cầu CSVN phải huỷ bỏ nghị quyết này hay loại bỏ những ngôn từ ám chỉ sự kiểm soát hay đe doạ đến chủ quyền và tư cách công dân độc lập của người dân Úc gốc Việt của nghị quyết này.
- Tích cực hợp tác cùng với cộng đồng người Việt tự do để cung cấp tin tức, giúp đỡ cho các cơ quan công quyền Úc châu như sỡ di trú, sỡ thuế, các cơ quan bài trừ tội phạm như cãnh sát, crime stopper để phá vỡ những đường dây buôn lậu người, ma tuý, cần sa, nhà thổ và rửa tiền bất hợp pháp của CSVN và tay sai tại Úc.
- Chống lại mọi hình thức rỉ tai chia rẽ của cs bằng cách luôn luôn gặp gỡ, liên lạc, kiểm chứng và hỏi tận gốc những người liên hệ, không nên cã tin ngay những tin tức loan truyền qua người khác, đặc biệt là khi những tin tức ấy được chuyễn qua qua hệ thống internet.
- Tránh tham gia tranh luận hoặc góp ý trên các diễn đàn về những người chống Cộng hoặc các vị lãnh đạo cộng đồng hay các hội đoàn đoàn thể chống Cộng trong khi cá nhân mình chưa biết tường tận, chưa kiểm chứng hay chưa có thấy những chứng cớ hiển nhiên.
- Khoan dung và cảm thông cho những nhà tranh đấu dân chủ và chống Cộng, có cái nhìn toàn diện hơn là chi li, bắt bẻ đủ điều. Đặt quan điểm và lập trường quốc gia của cá nhân hay hội đoàn ấy lên trên những lổi lầm hay thiếu sót không quan trọng
- Nên tìm hiểu về tư cách, lập trường và quá khứ sinh hoạt của những người đưa tin hay đưa ra ý kiến, đặc biệt là khi những ý kiến của người ấy không mang tính cách xây dựng mà chỉ muốn đả phá và chia rẽ.
- Những tin tức liên quan đến cộng đồng, nên liên lạc trực tiếp với vị chủ tịch cộng đồng đương nhiệm để kiểm chứng. Những thắc mắc hay vấn đề khúc mắc nên tham dự và trình bày một cách công khai tại các phiên họp của cộng đồng và không nên phỏng đoán hay cho rằng những tin tức hành lang hay rỉ tai là có l ý.
- Nếu không giúp được để cho chánh nghĩa quốc gia và cộng đồng chống Cộng thăng tiến thì cũng tuyệt đối không đánh phá hay làm bất lợi cho công cuộc chiến đấu chung cho TỔ Quốc và Đồng Bào
- Trân quý, ủng hộ những lập trường, sinh hoạt và quan điểm chống Cộng đứng đắn và xây dựng của mọi cá nhân và đoàn thể dựa trên nguyên tắc căn bản là: bao lâu cá nhân hoặc tổ chức ấy còn tiếp tục nói đúng và làm đúng đường, có lợi cho công cuộc chống Cộng thì chúng ta “welcome”. Cẩn trọng nhưng không vì thế mà nghi ngờ tất cả hay nhìn đâu cũng thấy CS. Ủng hộ quan điểm và hành vi chống Cộng của cá nhân hay đoàn thể, tổ chức nhưng không nhất thiết phải ủng hộ riêng cá nhân hay đoàn thể ấy..
- Hiểu rỏ định nghĩa chính xác và đúng đắn của 2 chử “chánh trị” và làm chánh trị để không rơi vào bẫy của những lập luận tuyên truyền “phi chánh trị” để rồi đứng bên lề, thờ ơ với vận mệnh của dân tộc, đồng bào, đất nước và để yên cho CSVN tiếp tục tồn tại, cai trị v à bán nước.
- Xác định được rằng làm chánh trị là bổn phận và nghĩa vụ phải có của một con người, bất kể người ấy là tu sĩ hay giáo dân, có học hay không có học, giàu hay nghèo, có chức hay không có chức, già hay trẻ, nam hay nữ, tu hay không tu vì làm chánh trị đúng theo định nghĩa của 2 chử “Chánh Trị” thì chử “Chánh” có nghĩa là có nghĩa là “Đúng” và chử “Trị” có nghĩa là “làm” hay “sửa” do đó Chánh Trị có nghĩa là: “làm hay sửa lại cho đúng’ thế thôi. Thế thì việc làm chánh trị có gì xấu đâu, ngược lại nó phải là bổn phận cao quý và trách nhiệm cao cã mà mọi người có bổn phận phải làm.
- Có thái độ truởng thành hơn về vai trò của chuà chiền, nhà thờ, thánh thất và hàng giáo sĩ, tu sĩ. Đặc biệt là khi họ giảng dạy rằng: “Giáo hội không làm hay muốn dính líu đến chánh trị, hoặc khuyên giáo dân chỉ nên tập trung vào việc giử đạo của mình không nên đem việc tranh đấu chống Cộng vào tôn giáo, chùa hay nhà thờ vì đó là chánh trị. Đây là những lý luận vô trách nhiệm và nguỵ biện để cốt bảo vệ quyền lợi riêng tư của giáo hội thay vì bảo vệ cho đồng bào, giáo dân và dân tộc. Nếu cần, đồng bào hải ngoại có thể giử đạo tại gia để không ủng hộ hay làm lợi cho những cơ sỡ hay vị lãnh đạo của giáo hội nào có lập trường hay hành động làm lợi cho tà quyền cộng sản đánh phá đạo pháp và gây thêm quốc nạn cho dân tộc.
- Riêng về việc cộng sản xữ dụng thế lực của đồng tiền và tay sai để dùng luật pháp đe doạ và ngăn chận những sinh hoạt hay biểu tình dân chủ chống cộng, chống Việt gian c ủa CĐNV hải ngoại. Quyền biểu tình và phản đối một cá nhân, một thương vụ hay một tổ chức là một quyền hạn được luật pháp cho phép và bảo vệ tại hầu hết các quốc gia dân chủ Tây phương: “Freedom of speech” là một trong những trụ cột của quyền tự do căn bản của người dân trong các quốc gia này, miễn là sự chống đối hay biểu tình xãy ra trong ôn hoà và người tổ chức có được những bằng chứng cụ thể để làm căn bản cho sự phản đối chánh đáng của mình.
Đã đến lúc cộng đồng người Việt hải ngoại phải trở thành một khối toàn cầu v ề nhân lực (Tổng Luật Sư Đoàn Liên Quốc của người Việt tỵ nạn) và tài lực (Quỹ Pháp Lý Liên Quốc của người Việt tỵ nạn) để bảo vệ nhau và tạo nên một thế lực đối trọng với mọi cuộc tấn công về tài lực của CSVN. Điều này có thể được đưa ra làm một trong những đề tài nghị sự của Nghị Hội Người Việt Hải Ngoại nếu chúng ta triệu tập được.
- Đối với những du sinh, trong đó có cã những các bộ cs trà trộn để ra hải ngoại hoạt động và một số khá đông con cháu của các bộ CS cao cấp, một hiện tượng rỏ ràng nhất đã và đang xãy ra: đó là hầu như tuyệt đại đa số du sinh VN và ngay cã cán bộ CS đều tìm đủ mọi cách để ở lại ngoại quốc chứ không ai muốn chui đầu về trở lại VN cã. Điều này chính tà quyền CSVN cũng phải thú nhận là chỉ có khoảng 10%-13% tổng số du sinh trở về lại nước sau khi ra trường trong số hàng trăm ngàn đi du học.
Điều này đã nói lên hiện thực của vấn đề. Đó là du sinh và gia đình của họ nữa đã “vote with their f eet” v ì chán ghét hoặc sợ chế độ CS tại VN. Một cách nào đó họ cũng đã chọn ở lại với tự do thay vì trở về phục vụ cho chế độ CS. Cộng đồng của chúng ta nên có những thông điệp nhắn gởi đến những du sinh này mời goị họ hãy tham gia và đứng hẳn về phía cộng đồng tỵ nạn của chúng ta, chấp nhận đứng dưới lá cờ vàng tự do, lên tiếng chống lại chế độ độc tài độc đảng CSVN một cách rỏ ràng và dứt khoát hầu cứu nước cứu dân và đưa xứ sỡ trở lại phú cường, tự do, dân chủ và độc lập thật sự.
Nói tóm lại, để chống lại nghị quyết 36 và những hành vi và chiến lược đánh phá người Việt tỵ nạn của chúng ta, chúng ta trước hết phải nhận thức một cách rỏ ràng và tóm gọn mục tiêu chính của CSVN là: chia rẽ, gây nghi kỵ, dùng tội phạm để đe doạ, gây tiếng xấu, kinh tài, tạo thái độ và khuyến khích những lý luận tiêu cực, chán nản, buông xuôi và dùng chiêu bài “phi chánh trị”để vô hiệu hoá tôn giáo và các cơ quan, tổ chức hay cá nhân làm từ thiện phi chính phủ (NGO) hãi ngoại trong việc chỉ trích hay lên án chế độ gây ra nghèo đói và bất công do CSVN gây ra.
Để hoá giải hoặc giảm thiểu sự tác hại của nghị quyết 36 và những sự tấn công khác của CSVN, chúng ta phải làm và có thái độ NGƯỢC LẠI với tất cã những điều này, đó là:
- Đoàn kết, kiện toàn cơ chế của Cộng Đồng chống Cộng và kiến tạo tiềm năng tài chánh tổng hợp của khối người Việt chống Cộng Sản tại hải ngoại
- Tham khảo, tìm hiểu tận nơi tận gối, tuyệt đối không cả tin những kẻ rỉ tai hay tin tức trên báo chí hay mạng lưới toàn cầu
- Hợp tác với các cơ quan bài trừ tội phạm và chính phủ các cấp
- Luôn luôn chú ý và đặt trong tâm vào những điều tích cực và quan điểm và hành động đứng đắn của các cá nhân, cộng đồng, tôn giáo, tổ chức chống Cộng có uy tín thay vì chỉ chú tâm vào những lổi lầm hay khuyết điểm nhỏ nhặt.
- Hiểu rỏ về hai chữ “chánh trị” và ý nghĩa đích thực của nó để rồi tích cực lên tiếng, tham gia và đấu tranh cho việc “chánh”
- Không để cho tiền bạc và cá nhân của mình bị lợi dụng bỡi bất kỳ cá nhân, tôn giáo hay, hội đoàn từ thiện nào có quan điểm rằng “chúng tôi chỉ làm từ thiện, tôn giáo chứ không làm chánh trị”. Phải đòi hỏi hoặc đặt điều kiện với nhũng tổ chức hay cá nhân này rằng họ đã, đang hoặc sẽ làm gì để góp phần GIẢI QUYẾT hoặc GIẢM THIỂU nguyên nhân và tà quyền đã và đang gây ra sự nghèo đói, tham nhũng và bất công cho nạn nhân trước khi quyết định ủng hộ hay đóng góp.
Nguyễn Thế Phong
(Bài tham luận tại Đại Hội lần thứ 20 của cộng đồng người Việt tự do Liên Bang Úc Châu tại Melbourne ngày 17, 18, 19 tháng 9 năm 2010)
Gửi ý kiến của bạn