BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73310)
(Xem: 62227)
(Xem: 39416)
(Xem: 31160)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Những đứa trẻ Thái Bình – Chu Kỳ Rực Rỡ (75 – 78)

09 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 1460)
Những đứa trẻ Thái Bình – Chu Kỳ Rực Rỡ (75 – 78)
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00

PHẦN BỐN


CHU KỲ RỰC RỠ


75

Hai đứa đi gần nhau. Trăng cuối năm sáng tỏ. Trăng mãi mãi sáng tỏ, ỡ-đồng nội. Mưa dầm gió bấc đã qua rồi. Năm nay, mưa sớm, mưa nhiều,-nên gần tết, trời tạnh ráo. Sáng sớm còn lạnh, nhưng cái lạnh dễ chịu, cái-lạnh không nỡ xoáy buốt vào da thịt. Buổi trưa nắng. Nắng vàng đẹp, như rơm vụ-mùa. Nắng cho cải trổ ngồng, để hoa cải vàng đua cùng nắng. Nắng cho-lá cải héo, cho nải dưa nén hành thơm mùi tết. Nắng cho ấm một sửa soạn-đón xuân. Ban đêm, lạnh hơn đôi chút. Lạnh cho bếp lửa gần người, cho ổ-rơm ý nghĩa. Cho những người đi bên nhau nhìn rõ hơi thở của nhau. Trăng-trải ánh bạc. Cũng lạnh. Khoa, mơ hồ, thấy ánh trăng bốc khói. Không-phải trăng đượm hơi sương đâu. Chỉ biết trăng bốc khói. Khói gì, Khoa-chẳng biết. Khoa đưa cho Liên gói lạc rang:

- Liên có lạnh hông?

Liên cầm gói lạc, bỏ vào túi áo len. Rồi, đôi bàn tay Liên không-muốn rời túi áo.

- Lạnh chứ.

Khoa, thản nhiên, quàng tay bá vai Liên, như nó vẫn quàng tay bá vai-Đường, những đêm tập kịch, về chung một lối. Khi Khoa kéo Liên sát-bên nó, Khoa mới ngỡ ngàng. Bàn tay lạnh rượi của nó nóng ran. Trái tim-nó ồn ào, cơ hồ tiếng trống đồng đại hội. Khoa không dám buông tay mình-khỏi vai Liên. Không thể buông được. Vai Liên là thỏi nam châm, mà tay-Khoa chỉ là miếng sắt mỏng. Thỏi nam châm im lặng cuốn hút. Miếng sắt đổ-mồ hôi lo lắng.

- Khoa có lạnh không?

- Không.

- Mình lên cầu Chờ một chút, nhé!

- Làm gì?

- Ngồi chơi.

- Không lạnh nữa à?

Liên lặng thinh, để mặc cánh tay Khoa quàng qua cổ mình, bàn tay Khoa-đặt lên vai mình, dìu mình đi. Chẳng ai thấy hai đứa đi, ngoài con-đường, ánh trăng, và cỏ lá. Quãng đường rộng dần và, từ đây tới cầu-Chờ, thẳng tắp. Đêm yên tĩnh. Khoa không hiểu nó đang đi vào một cuộc đời-khác cuộc đời bình thường, tẻ nhạt. Đoạn đầu của một đời người, là cuộc-đời xa lạ với cuộc đời nối tiếp. Khi bước chân niên thiếu bước nhẹ trên-đường thơm hoa mộng, mấy ai biết mình đang sống cuộc đời có thật, mà trời-đất dành riêng cho mình. Cuộc đời ấy qua đi rất nhanh . Nếu-mình không hưởng vội, mình sẽ hối tiếc. Và rồi, đến một tuổi nào, cuộc đời-ấy chỉ còn sống dậy bằng hồi tưởng phản phúc, bằng chiêm bao thiếu mầu-sắc, âm thanh. Bất hạnh cho một người, cho những người chối bỏ ân huệ-của trời đất ban phát cho tuổi niên thiếu của mình, hay không biết hưởng-ân huệ tuyệt diệu đó. Họ là những người mà cuộc đời bị cắt mất đoạn đầu-đời. Họ không có kỷ niệm để hồi tưởng, để chơi những trò chơi bằng trí nhớ.-Con đường đất chỉ là con đường đất. Ánh trăng chỉ là ánh trăng. Lá cây, ngọn-cỏ chỉ là lá cây, ngọn cỏ. Tiếng gió luồn qua bụi tre, khóm lá chẳng-mang thêm một ý nghĩa nào. Nếu ở đoạn đầu đời, ta được hưởng ân huệ của-trời đất, được khoác vai người con gái bé nhỏ, đi trên con đường đất tắm-ướt ánh trăng, nghe tiếng gió luồn qua bụi tre, khóm lá, ngửi mùi hoa bưởi-về khuya, thì ngay ngọn cỏ cũng ngậm sương mơ, thì ngay cánh hoa cũng-dậy mùi hương mộng.

- Khoa ạ!

- Gì?

- Mai, đừng cho Liên lạc rang nữa.

- Tại sao thế? Liên không thích ăn lạc rang của Khoa à?

- Thích lắm.

- Vậy Khoa cứ đem cho Liên. Mẹ Khoa rang đấy. Mẹ Khoa bảo tết này rủ-Liên sang nhà Khoa, mẹ Khoa sẽ mừng tuổi Liên.

Đã đến cầu Chờ. Những chiếc cầu bắc ngang những khúc ngòi ở quê nhà Khoa,-luôn luôn, là những phiến đá dầy, và lớn. Và, ngay cả những cây cột cao-chống đỡ những phiến đá mặt cầu cũng bằng đá. Mặt cầu, qua nhiều năm-tháng, phẳng lì, nhẵn bóng như mặt bàn gụ. Những bàn chân dính đất cát-của người quê hương là thuốc đánh bóng mặt cầu đá. Buổi trưa có thể-thấy rõ mặt mình trên cầu. Các cô thôn nữ thường dùng mặt cầu làm gương,-sửa sang mớ tóc mai, chiếc khăn mỏ quạ, nếu quãng đường trước mặt đang-đi tới mấy anh chàng xinh trai. Ngồi ở cầu, buông thõng hai chân, nhìn-xuống con ngòi, để mộng mơ đôi chút. Tiếng sáo diều lơ lửng trời xanh.-Những chiếc lá trang xanh non. Lũ gọng vó cứ thích bơi ngược dòng. Và,-lá trang là chỗ nghỉ chân của những chú gọng vó dừng bước giang hồ. Đêm-đêm, bất kể mùa xuân, hay mùa hạ, mùa thu, hay mùa đông, đều có một-người ngồi trên cầu chờ đợi một gnười. Cầu, do đó, mang tên cầu Chờ. Cái-tên thật lãng mạn. Lãng mạn như người quê hương, như người đã đặt tên-cho chiếc cầu. Hẳn người này là thi sĩ, là tác giả những vần ca dao bồng bế,-óng ả.

- Mình ngồi giữa cầu, Khoa nhé!

- Lạnh chết.

- Đã có lạc rang.

Khoa không muốn ngồi. Nó muốn đi mãi, đi suốt đêm, đi hết những con đường-làng. Để, bàn tay nó nóng ran trên vai Liên.

- Khoa thích đi.

- Ngồi nghỉ chân một lát, rồi đi.

Khoa đành chiều Liên. Hai đứa ngồi giữa cầu, ngồi giữa một nơi mộng ảo,-ngồi trên phiến đá thần, mà cả hai đều không biết. Hoạ chăng, là hồi-tưởng mai sau. Cảnh tượng nào khác cảnh tượng trong chuyện thần tiên.-Chiếc cầu. Dòng nước. Ánh trăng. Cơn gió. Cây cỏ. Sương khuya. Nhạc đêm.-Sự im lặng, và hơi thở của hai tâm hồn. Ảo cảnh nào hơn ảo cảnh này?-Ở ngay đây, trên chiếc cầu đá tầm thường của quê nhà, đã có. Hạnh phúc-vốn đơn sơ. Không cần làm những chuyến đi xa, tìm kiếm, để trở về rã rời,-mệt mỏi.

- Khoa ạ!

- Hở?

- Quê Khoa có nhiều tên hay ghê. Cầu Chờ, quán Nghỉ, hồ Mơ.

- Còn bến Đợi nữa.

- Ở đâu?

- Miễu Vang đi lên đê Trà Lý. Bến đò sang Tiên Hưng đó. Lâu lâu, mới có-người qua sông, phải gọi đò bên kia sang. Đợi hàng giờ.

- Bến Đợi là bến đứng đợi đò. Ai đặt tên lạ nhỉ?

Bỗng Liên hỏi:

- Khoa lạnh không?

Khoa ngước mắt nhìn trăng:

- Không.

- Sao, lúc nãy, sợ lạnh chết?

- Giờ hết rồi.

Liên bốc cho Khoa một dúm lạc rang:

- Ăn đi.

Khoa đỡ lấy. Hai đứa vê vỏ thổi phù, rồi bỏ vào miệng nhai ròn. Đêm im-lặng. Khoa nghe rõ tiếng súng đại bác từ Nam Định vọng sang. Tiếng súng,-mấy hôm rầy, Khoa đã nghe nói. Đến nay, mới nghe thấy. Từ ngày thị xã-Thái Bình tiêu thổ kháng chiến, giặc Pháp mới lướt qua một đêm, không-bắn chết ai, rồi cút ngay về Nam Định. Giặc sợ hãi dân Thái Bình.-Thái Bình là mồ chôn thực dân Pháp, cơ mà. Giặc sang ở lâu, sẽ bị tiêu-diệt. Bọn Pháp giỏi cắn trộm thôi. Chưa chi đã rút vội. Tiếng súng-vọng sang không làm ai nao núng. Đã quen rồi. Với lại, Thái Bình cách-Nam Định mấy chục cây số, và con sông Hồng. Khoa tin chắc, giặc Pháp-không thể chiếm Thái Bình. Hơn hai năm đóng quân, ở Nam Định,-Pháp vẫn chẳng dám dòm ngó Thái Bình. Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Kiến An,-Hưng Yên, Hà Nam,…, Pháp đã chiếm gọn. Thế mà, Pháp chỉ dám cho-máy bay Bà Già bay cao tít tắp, trên vùng trời Thái Bình. Thỉnh thoảng,-giặc thả truyền đơn, nói phét: Quỳnh Côi, Phụ Dực ra tro. Đống Năm,-Trực Nội ăn no đạn đồng, để dọa dẫm dân Thái Bình.

Khoa nhớ, hôm trốn nhà theo bộ đội làm liên lạc viên, Vũ kéo Khoa ra vườn-sau:

- Đêm nay anh đi.

- Đi đâu?

- Đánh nhau với tụi Pháp. Đại đội 4 đóng ở Thư Trì, đêm nào cũng-vượt sông Hồng, qua Nam Định, đột kích đồn giặc. Bộ đội ta quấy phá-giặc, ở Nam Định, bắt nó bỏ mộng chiếm Thái Bình. Anh phải bảo vệ thị xã.

- Em trốn với.

- Đại đội 4 nhận một mình anh thôi. Hai năm nữa, anh đủ tuổi vào bộ đội.-Nhất định giữ Thái Nình. Anh sợ bố và dì biết, ngăn cấm. Khoa-giúp anh bỏ hai bộ quần áo vào cái bị; đến tối, lẻn vất ở gốc cây bòng. Anh-đã hứa đi chiến đấu.

- Với ai?

- Lớn lên em sẽ hiểu.

- Chắc chắn giữ được Thái Bình chứ, anh?

- Chắc chắn. Anh không còn phiêu lưu cống Đậu nữa. Anh không thích bị bố-bắt về.

Khoa tin anh. Với Khoa, mãi mãi, Vũ là thần tượng. Vũ trốn nhà đi hai năm-rồi. Hai năm, giặc Pháp chưa chiếm nổi Thái bình. Có lẽ, Vũ đã trở thành-bộ đội, đêm đêm, vượt sông khuấy phá đồn giặc, để Khoa ngồi trên cầu Chờ-với Liên.

- Liên có nghe thấy tiếng súng không?

- Không.

- Đạn đại bác đấy.

- Thế à? Liên chỉ nghe tiếng lạc rang nhai ròn. Ai rang lạc khéo quá? Vỏ-tróc ngon ơ…

- Mẹ Khoa rang đó. Rang lạc chung với cát. Mẹ Khoa đổ cả lạc lẫn cát nóng-bỏng vào miếng vải, bảo Khoa đem ủ vào chăn bông. Lúc nào muốn ăn, lấy-cái sàng đãi cát.

Liên cầm tay Khoa, kéo Khoa đứng dậy:

- Đi lên cầu đình.

Khoa ngoan ngoãn theo ý của Liên. Hai đứa song song bước. Khoa không bá vai-Liên, như ban nãy. Tự nhiên, Khoa ngượng ngập, sợ hãi. Nó thọc cả hai-tay vào túi quần. Và, cho sự ngượng ngập có chỗ trốn thoát, Khoa huýt-sáo khúc hát hoài hương:

Nghiêng nghiêng dòng Đào tuôn về sông Cấm

Đưa bao buồm thuyền về nơi xa xăm

Thành Tô, thành Tô

Nhịp sống tưng bừng

Em nhớ bến đò quen

Nhớ bờ sông Lấp

Có bao nhiêu là thuyền

Liên hỏi:

- Bài gì buồn thế hở, Khoa?

Khoa rút tay khỏi túi, đưa lên kéo cổ áo, trùm kín gáy:

- Nhớ thành Tô (1)

- Khoa thuộc hết không?

- Hết.

- Hát cho Liên nghe.

Khoa hát nhỏ, đủ để giọng mình lọt vào tai con bé đi cạnh mình:

Nhớ quê hương nhớ quê hương…

Quê hương ngàn đời lòng ta thương nhớ

Muôn chim lạc loài thành xưa khôn quên

Thành Tô, thành Tô

Thành Tô u huyền

Chiều thu rơi cùng lá vàng rơi

Làn mây thu theo gió chơi vơi

Nhà anh xa khói lam mờ vương

Cùng chiều thu khiến xui lòng người sầu thương



Ngồi đăm nhìn bóng chiều êm

Dần đi trong tiếng lá rơi đầy thềm

Này em bé ơi cớ sao em buồn

Hay em chạnh lòng nhớ tới quê hương

Tiếng hát của Khoa tưởng chỉ một mình Liên nghe rõ, ai ngờ, nó theo gió-lan tỏa trên mặt nước, lướt trên mặt cỏ, luồn qua bụi cây.

- Thành Tô ở đâu hở, Khoa?

- Hải Phòng.

- Làm Liên nhớ Hà Nội. Khoa hát hay ba chê.

- Có anh Vũ thổi ác mô ni ca, Liên sẽ khóc.

- Anh Vũ nào?

- Anh của Khoa. Anh ấy theo bộ đội rồi. Anh Vũ đã lên Hà Nội học.

Liên thôi hỏi. Con bé quàng tay đặt lên vai Khoa:

- Lạnh quá. Về đi.

Vai Khoa, bây giờ, là thỏi sắt lạnh được ấm lên bởi thỏi nam châm Liên. Và,-Khoa để mặc Liên dẫn mình trở lại khúc đường mình vừa đi qua. Đến con ngõ-chia đôi hai lối, hai đứa dừng lại. Liên nói:

- Tối mai, hết dạy học đấy, nhé! Mãn khóa rồi. Khoa thắng giải thi đua-rồi.

Khoa ngó Liên:

- Khoa vẫn đem lạc rang cho Liên.

Hai đứa chia tay. Liên mới bước vài bước, Khoa chợt nhớ:

- Để Khoa dẫn Liên về, kẻo gặp ma!

Liên cười:

- ừ nhỉ, suýt quên.

Liên đẩy nhẹ cánh cổng, lách vào. Khoa đứng bâng khuâng trước ngõ nhà-Đường. Nó ngẩng đầu ngắm trăng qua khóm lá. Bắt đầu một nỗi nhớ nhung.-Bưởi đã kết trái, mà sao còn phảng phất mùi hoa. Hoa bưởi thơm. Đêm đã-khuya lắm rồi.

(1) Trích trường ca Nhớ thành Tô, của Tô Vũ

76

Anh Lý đã sang Đống Năm mua bộ trống đồng. Hôm giao bộ trống đồng cho-nhi đồng thôn dưới, anh giao luôn cả quyền chỉ huy nhi đồng Tường An-cho Khoa. Thằng Huệ không phản đối. Khoa đề nghị, thôn dưới giữ trống-đồng nửa tháng, thôn trên nửa tháng, và Huệ được đánh trống cái, mỗi lần-dự đại hội xã, huyện. Huệ bèn thích Khoa ngay. Hai đứa trở thành bạn-thân. Anh Lý lên Phú Thọ họp hành gì đó, vài tháng sau mới về. Nhi đồng-Tường An ăn tết bằng bộ trống đồng. Tiếng trống nô nức của một thời trẻ-dại, của một thời không có hai lần trong lịch sử. Suốt ngày, suốt đêm,-nhi đồng tập họp tại sân đình đánh trống, nghe trống. Tiếng trống thay-tiếng pháo mừng xuân. Làng xóm rộn ràng lây với nỗi vui của trẻ nhỏ.-Khoa dạy bạn bè tập trống. Nó hứa sẽ rủ bọn Đại Đồng đá bóng thi, và-đuổi bọn này khỏi ngôi chùa cũ của Tường An.

- Chúng mình phải tập trống, ở chùa cũ, làng mình.

Nhi đồng Tường An phấn khởi lắm. Chúng nó phục Khoa sát đất. Khoa-hát hay, đàn hay, trống hay, kịch hay, trận giả hay, chiếm giải thi đua-liên miên. Nhờ Khoa khuyến khích kiếm tiền gây quỹ, nên Tường An đã-sắm nổi bộ trống đồng.

Khoa hãnh diện vừa vừa thôi. Điều làm nó hãnh diện-nhất, là những bà thím, bá bác, bà cô, bà dì của nó đã thoát nạn mù-chữ, từ các lớp học đáng nhớ đời đời, ở từ đường họ Vũ. Học trò của Khoa-biết đánh vần cả rồi. Nghỉ tết xong, ra giêng, học thêm vài tháng, họ sẽ-đọc được các truyện Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, và các tờ-thông cáo. Họ hết bị lội bùn. Khoa không biết tương lai họ ra sao.-Chắc chắn, một mai kháng chiến thành công, Khoa về thị xã, Liên về Hà Nội,-Khoa và Liên viết thư thăm họ, họ sẽ đọc rành rẽ, sẽ cầm bút trả lời-thầy giáo, cô giáo của họ, năm xưa.

Niềm vui mới của Khoa rộn rã hơn tiếng trống đồng, là tình bạn-thắm thiết giữa nó và Liên. Con Liên lạ ghê. Nó tản cư về Tường An sớm-hơn Khoa, mà nó chỉ chơi với cu Đường. Gần đây, nó chơi thân với-Khoa. Cu Đường mải mê tập kịch, đánh trống, Khoa phải thay nó, đưa-Liên về nhà, mỗi tối Liên đi coi lịch. Có Liên, có lớp học, có bộ-trống đồng, Khoa bỗng quên thị xã êm đềm. Đôi khi, Khoa quên cả Vũ.-Khoa muốn sống mãi, ở quê nhà, muốn suốt đời làm nhi đồng, muốn đêm-nào cũng khoác vai Liên, đi trên con đường đất tắm ướt ánh trăng,-nghe tiếng thầm tình tự của gió và lá. Cuộc đời không gợn một chút ưu-phiền. Cuộc đời bằng phẳng, cho nhũng giấc mơ lướt êm. Cuộc đời của-những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi tiếng hát câu ca và mộng anh hùng.

Cuộc đời quê nhà Khoa, tưởng không còn nơi nào bằng. Có cầu Chờ. Có bến-Đợi. Cầu Chờ, Liên đã ngồi, Khoa đã ngồi bên nhau. Bến Đợi, Khoa đã đến,-Liên chưa đến. Ngày nào đó, Khoa sẽ đứng một mình, ở cầu Chờ, chờ Liên; sẽ-đứng một mình, ở bến Đợi, đợi Liên. Bấy giờ, hai đứa đã lớn. Lớn thì phải xa-nhà như Vũ. Và, nếu Khoa hiểu, lớn thì còn phải buồn, phải khóc như Vũ, Khoa-sẽ không thích lớn, sẽ thù ghét sự lớn khôn. Không có bấy giờ, không bao-giờ có bấy giờ. Chỉ có bây giờ. Bây giờ, muốn là được, hẹn là gặp. Bây giờ, là-trời xanh, mây trắng, nắng hiền, gió ngoan. Bây giờ, chẳng cái gì đe-dọa nổi cuộc sống thần tiên, làm tan loãng mùi hoa bưởi, hoa cau, hoa lý,-kể cả những tiếng súng đại bác, từ Nam Định, đêm đêm, vọng sang.

Hôm mồng hai tết, Liên qua nhà Khoa chơi. Mẹ Khoa nắm tay Liên, kéo-Liên vào lòng, vuốt ve tóc Liên. Mẹ Khoa bảo Liên cười. Rồi, mẹ khen:

- Cháu giầu quá, có những hai đồng tiền, bác không thèm mừng tuổi cháu-nữa.

Mẹ Khoa ấn ngón tay lên hai má Liên:

- Đồng tiền bên phải, để dành nuôi con. Đồng tiền bên trái, để dành trả-nợ cho chồng.

Liên xấu hổ. Con bé cúi mặt, cắn móng tay. Mẹ Khoa gọi Khoa lại gần. Mẹ-nói:

- Cháu thấy chưa, thằng Khoa mặt vuông chữ điền, đồng tiền không có.

Liên ngước ngó Khoa. Hai đứa mỉm cười. Cả buổi sáng, Liên ở nhà Khoa.-Đến chiều, cô giáo Liên và thầy giáo Khoa đi thăm học trò. Mùa xuân-đẹp quá. Tháng giêng ngon, ngon tuyệt vời. Khoa ngỡ cuộc đời thôn ổ sẽ-ngon mãi như tháng giêng. Tháng giêng qua cho tháng hai tới.

Và, tháng-hai, tiếng súng đại bác vọng sang nhiều hơn, lớn hơn. Chính phủ ban-hành lệnh tiêu diệt chó. Nạn nhân đầu tiên của cuộc trường kỳ kháng-chiến chống Pháp, là chó. Cũng là nạn nhân của cách mạng nữa. Giết chó-là yêu nước. Du kích làng xung phong giết chó chạy rông, làm thịt đánh-chén. Nhi đồng phải học tập, thi đua giết chó. Chủ tịch Tường An-giải thích:

- Quân ta len lỏi đêm tối, rình giặc Pháp, chó nó sủa ầm ỹ, giặc Pháp-sẽ biết chỗ quân ta nấp, sát hại quân ta.

Nhi đồng chất vấn:

- Thưa ông chủ tịch, làng ta còn yên ổn.

Ông chủ tịch vung tay:

- Chuẩn bị. Hậu phương luôn luôn chuẩn bị. Giặc Pháp thính tai vô cùng.-Nghe chó làng ta sủa, bên kia Nam Định, nó câu đại bác sang chết hết. Hồ-chủ tịch dạy thế.

Hồ chủ tịch đã dạy thì khó sai. Loài chó, kẻ thù của kháng chiến, gặp-đại họa. Chó lớn, chó nhỏ, chó con, chó mới đẻ đều bị mã tấu du kích chặt-ngang thây. Không có nhà nào được nuôi chó. Chó chết đã có chính phủ-thay chó, canh gác trộm cướp. Nếu nhà nào cố tình nuôi chó, du kích sẽ-khám xét, và giết ngay tại chỗ. Một tháng liền, ở làng Tường An, người ta-hạ chó đánh chén ồn ào. Ai không nỡ giết con vật trung thành với chủ,-đành an ủi chó nhà mình vài câu, rồi đánh đuổi nó đi. Du kích rượt-theo, xung phong giết. Du kích ăn thịt chó mãi đâm ra chán, chó bị giết-chết ngổn ngang, thối om. Du kích căm thù chó cực độ. Mã tấu vung lên, cả đàn-chó sơ sinh, mắt vừa kịp mở nhìn du kích căm thù, bị chặt mỗi con thành-hai khúc.

Tiền tuyến, bộ đội anh dũng giết giặc Pháp. Hậu phương, du kích anh-dũng giết giặc chó. Dân làng thương chó, chứ không thương giặc, dễ-chừng, thương chó hơn thương du kích. Chó dâng hiến trọn vẹn đời sống của-nó cho dân quê. Mỗi nhà một con chó. Nuôi chó tới ngày chó già, chó chết, đem-chôn. Phải bán chó, để bọn lái chó đến tận nhà, tìm cách luồn cái tròng-tre xiết chặt cổ chó, nghe chó ấm ứ không thành tiếng, nhìn mắt chó đầy-căm hờn, người ta bùi ngùi, xúc động. ít ai đang tay giết chó nhà mình-ăn thịt. Lý do bán chó cho hàng thịt chó, hay giết có ăn thịt, thường là vì-nhà nghèo, hay chó ốm. Nay, chẳng có lý do gì, chó vô tội bị coi như-giặc thù, nên dân làng ngấm ngầm oán trách cụ Hồ và kháng chiến. Giặc-Pháp còn ở mãi Nam Định, sao vội ban lệnh tiêu diệt chó? Tự thuở khai-thiên lập địa, chưa ai biết, chưa ai được nghe kể chuyện, trước khi-đánh giặc, phải giết hết chó.

Thành ra, cuộc thi đua giết chó đã không hào hứng bằng các cuộc thi đua diệt-chuột, diệt dốt… Du kích chiếm giải thi đua giết chó. Những con chó-thoát chết sống đời lẩn trốn, hễ thấy bóng dáng du kích, sủa một thôi, rồi-cúp đuôi chạy. Thuở thanh bình ngày xưa, hễ tết đến, là chó gặp nạn vài-hôm. Pháo nổ vang trời, chó sợ chạy văng mạng ra đồng. Bọn trộm chó rình sẵn,-đập chết, đem về làm thịt đón xuân. Chó chết chẳng đáng bao nhiêu. Bây-giờ, chó chết mới thê thảm. Máu chó đọng từng vũng trên đường làng, ngõ xóm.-Chó chết cả họ hàng, gia quyến. Chó làng Tường An đã chết hết, trong cuộc-trường kỳ kháng chiến. Chó chết cho cách mạng thành công.

Những con chó sống đời lẩn trốn, dần dà, hiểu số phận mình. Chúng không-dám sủa, dù chỉ nhìn trăng sủa vu vơ. Thoạt đầu, chúng mò về nhà chủ, kiếm-thức ăn. Chủ thương, dành phần cơm để sẵn, ở góc vườn. Chủ khuyên-chúng đừng lai vãng gần, bị du kích rình giết chết. Chúng lầm lũi-bước, và không bao giờ trở về ăn phần cơm để sẵn cho mình nữa. Đêm bỗng-trở nên cô quạnh. Làng xóm thiếu tiếng chó sủa, y hệt, bãi tha ma.

Nhò có tiếng trống đồng, đêm bớt ghê rợn. Tiếng trống đồng, những đêm kịch,-những lớp Bình dân học vụ, những bài hát làm dân làng nguôi ngoai-chuyện giết chó là yêu nưóc. Sang hạ, đạn đại bác của giặc đã câu tới bên-đây sông Hồng, tức là câu tới huyện Thư Trì. Chính phủ ban lệnh rào làng-kháng chiến. Nhi đồng hát vang bài Khúc ca giữ làng (1), mới được học-tập:

Về đây canh gác giữ yên mùa màng

Về đây kháng chiến chúng ta rào làng

Tiếng đàn banjo của Khoa lại vê ròn rã bài hát mới toanh:

Làng tôi xanh bóng tre

Chiều lắng tiếng chuông ngân

Tiếng chuông chùa làng rung

Đời đang vui đồng quê yêu dấu

Vấn vương tiếng sáo diều trên bờ đê

Nhưng thôi rồi còn đâu quê nhà

Ngày giặc Pháp phá làng diệt thôn

Từ ra đi ôm mối căm hờn

Lòng tôi còn thấy buồn thương

Từ khi quân Pháp qua

Chiều vắng tiếng chuông ngân

Phá tan đình chùa xưa

Làng tôi theo đoàn quân du kích

Cướp ngay súng quân thù trả thù xưa… (2)

Bài hát khiến dân làng bớt ghét du kích, trong cuộc xung phong tiêu diệt chó-hồi tháng hai. Lòng thù ghét dồn hết cho quân thù xâm lăng.

… Bắc Sơn không bóng người dưới thôn

Giặc Pháp tàn ác dầy xéo

Từng xác lụt đất máu xương

Nhà đốt cầm dáo cầm súng

Dân quân vùng ra sa trường… (3)

Trẻ thơ chưa biết nói cũng đưọc ru ngủ bằng thù hận:

Mấy đời bánh đúc có xương

Mấy đời giặc Pháp có thương dân mình (4)

Làng thôn lại sôi động thi đua rào làng kháng chiến. Những bất bình nhỏ mọn-bị quên vội vàng. Mỗi nhà đóng góp một cây tre già. Nhà nào đóng góp nhiều-hơ, thì chiếm giải thi đua. Chỉ mất nửa tháng, làng được rào kín,-bằng những cây tre già. Hai chiếc cổng làng vững chắc tua tủa chông nhọn.-Dưới hàng rào, là giao thông hào. Hàng rào dầy, chó chui không lọt. Giặc-Pháp khó lòng vào làng. Dân quân, du kích tập tành ráo riết. Lựu-đạn đeo lủng lẳng. Thỉnh thoảng, rơi xuống đường mà không nổ! Mã tấu-sáng ngời. Dây mìn đeo trên vai. Quan trọng lắm. Du kích tập gài mìn. Câu-chuyện du kích Chỉ Bồ và Ba Ra, kể trên sân khấu, kích thích ý chí chiến-đấu. Quân Pháp đến làng Chỉ Bồ, ở miền bể. Anh du kích ngồi canh ngủ-gật. Pháp nó xí xa xí xố, lay cột chòi, anh ta mới vụt tỉnh. Mắt nhắm, mắt-mở, anh du kích Chỉ Bồ ném lựu đạn xuống, quên rút kíp. Giặc Pháp cười-vang, tung lên trả. Anh du kích lại ném. Ném ba lần, mà lựu đạn không nổ,-để giặc qua làng Ba Ra. Tầu giặc bị khê giữa dóng sông, giặc bắt trọn ổ du-kích Ba Ra đẩy tầu ra bể. Đẩy tầu xong, mới chạy báo bộ đội. Bộ đội tới,-giặc đã rút mất. Cáu sườn, bộ đội viết thơ chế nhạo du kich Chỉ Bồ:

Hoan hô du kích Chỉ Bồ

Ném ba lựu đạn Tây vồ cả ba

Và, du kích Ba Ra:

Hoan hô du kích Ba Ra

Giặc đến chẳng đánh lại ra đun tầu

Thơ chê bai du kích Chỉ Bồ, Ba Ra đầy tường đình, miễu. Du kích Chỉ-Bồ, Ba Ra xấu hổ. Lần sau, giặc quen mùi mò tới, du kích Chỉ Bồ và Ba-Ra đánh tan giặc, đốt cháy tầu, và xóa hết những câu thơ mỉa mai.-Du kích làng Tường An quyết noi gương đánh giặc, đốt tầu. Các người anh em-hùng hồn vô cùng. Nhi đồng dẫn đầu, trống đánh nhịp hai bốn, du kích hát-bài quen thuộc:

Anh em trong đoàn quân du kích

Cùng vác súng lên đường…

Tháng trước, du kích tàn sát chó anh dũng quá, có người nhại mấy câu,-xui thằng nhi đồng Khởi hát láo:

Anh em trong đoàn quân Phúc Khánh (5)

Cùng vác gánh lên đường

Gắp đi, gắp đi

Băng qua đường qua bãi

Gắp bao giờ đầy gánh

Rồi xuống chợ liền…

Thằng Khởi bị khai trừ khỏi nhi đồng. Người xúi nó là con ông tiên chỉ,-sợ bị bắt lên xã cảnh cáo, bỏ làng lên tận Giai, Lạng kiếm ăn. Đời sống,-hình như, không còn buông thả nữa. Nó khép dần, khép dần. Khép không-tiếng động. Đến nỗi, chẳng ai rõ bóng tối khởi sự từ hàng rào, đánh đai-cuộc đời thôn ổ. Những con cá vẫn nhởn nhơ, không biết rằng, mình nhởn-nhơ trong chiếc chậu. Đêm khuya, cổng làng đóng chặt. Nội bất xuất, ngoại bất-nhập, đề phòng Việt gian lợi dụng cơ hội lẻn vào làng. Du kích canh gác cẩn-mật. Qua cổng làng đêm khuya, dù cầm đèn cũng bị mời về. Sinh hoạt làng-nào, làng ấy hay. Những đêm kịch làng bên, bộ đội diễn, thèm xem lắm, mà-đành ở nhà. Sợ quá nửa đêm, du kích không mở cổng.

Khoa chưa đủ khôn, để nhìn thấy lớp khói buồn lãng đãng bay, trên con đường-đất ngập ánh trăng của nó. Khẩu hiệu chuẩn bị tổng phản công giải thích rõ-ràng công việc tiêu diệt chó, rào làng kháng chiến. Chuẩn bị đuổi giặc-Pháp ra khỏi bờ cõi thân yêu. Giặc Pháp bị tiêu diệt, đời sống lại buông thả-như cũ. Người tản cư về thôn quê hồi cư về thành phố, từ giã đời áo-nâu. Cuộc đời sẽ muôn mầu, muôn vẻ. Cuộc đời ấy bớt kham khổ, và-rất đáng sống. Người thôn quê ở lại với luống cầy. Vùng trời êm ả không còn-tiếng máy bay, tiếng đạn đại bác quấy phá. Diều no gió, nuốt dây, lên-cao. Sáo diều vi vu thơ mộng. Và, tiếng trống chèo mủa xuân quyến rũ hơn-cả bao giờ. Cổng làng thôi đóng kín mỗi đêm. Dình hết-là sân khấu diễn kịch chống Pháp. Tam cúc điếm, tổ tôm điếm, tưởng đã chết,-sẽ sống dậy. Sẽ sống dậy cả những ngọn trung bình tiên, những keo vật-tranh giải một mảnh lụa đào. Sẽ sống dậy tất cả, một mai, khi kháng-chiến thành công.

Dân làng tin thế. Niềm tin thật đôn hậu và ngây thơ. Không-ai buồn cả. Khoa cũng chẳng buồn. Vì, Liên có buồn đâu? Và, Khoa biết gì-mà buồn! Khoa hồn nhiên, để lịch sử dẫn vào mơ ước.

(1) Khúc ca giữ làng, nhạc và lời của Canh Thân, sáng tác ngoài kháng-chiến, và đổi lời mới khi tác giả về tề, thành Khúc ca mùa hè

(2) Trích Làng tôi, của Văn Cao

(3) Trích Bắc Sơn, của Văn Cao

(4) Trích nhạc Phạm Duy. Về tề đổi thành Mấy đời bánh đúc có xương,-Mấy đời TRọC PHÚ có thương dân mình…

(5) Làng Phúc Khánh có hai thôn: Phúc Khánh thượng và Phúc Khánh hạ.-Phúc Khánh thượng nhiều người làm quan. Phúc Khánh hạ thì chuyên nghề gắp-phân. Thời kháng chiến, du kích bắng nhắng nên bị ghét và bị ví như-dân cặp kè. Bài này nhại bài Du kích quân.

77

Máy bay khu trục Pháp đã xuất hiện trên vùng trời Thái Bình, và đã bỏ bom,-bắn đạn đum đum xuống chợ huyện Tiền Hải, Quỳnh Côi, Phụ Dực. Nhiều-người chết cháy, chết văng đầu một nơi, chân tay một nẻo. Lòng căm-thù giặc lại được đốt cháy ngùn ngụt. Chợ búa họp từ năm giờ sáng, đến-chín giờ phải tan, vì sợ máy bay giặc oanh tạc. Dân chúng khắp tỉnh học-tập đào hầm hố, các hầm núp máy bay. Làng Tường An phát động phong trào thi-đua, mỗi người một hố cá nhân. Hố cá nhân đào giống cái hang ếch, miệng-nhỏ, dưới rộng, vì đạn đum đum ghê lắm. Nổ những hai lần! Máy bay giặc,-có thể, bỏ bom cả ban ngày lẫn ban đêm. Sân đình, sân chùa, và chung-quanh các trụ sở đều nhan nhản hầm hố. Học trò nhà quê thử chạy máy-bay, mỗi hôm một lần, như hồi xưa ở thị xã người ta tập phòng thủ thụ-động. Vườn tược nhà nào, nhà nấy đầy hố chữ chi, hố cá nhân. Dân làng chưa-hề bị chạy trốn máy bay thật. Chuẩn bị. Trong kháng chiến, mọi việc-thường xuyên chuẩn bị. Chuẩn bị, những con đường vắng vẻ nhất cũng-nhằng nhịt hầm hố. Đi đêm, vô ý, ngã xuống hố như bỡn. Con đường ngập ánh-trăng của Khoa không còn nguyên vẹn nữa. Khoa khó mà khoác vai Liên-bước song song.

Mùa mưa tới rồi. Máy bay Pháp chỉ oanh tạc Tiên Hưng, Thái Ninh, Duyên-Hà, những phủ, huyện bên kia sông Trà Lý. Sự lo ngại máy bay của dân-làng Tường An, dần dần, tan biến. Bây giờ, hố cá nhân đầy nước, là cái-bẫy ếch. ếch nhẩy xuống hố, không thể lên được. Nhiều hố cá nhân lềnh-bềnh phân của nhi đồng nghịch tinh. Ngồi trên miệng hố mà đi đồng, thì-sướng nhất trần đời. Nếu bị du kích bắt gặp, chắc chắn sẽ bị khép tội-phản động.

Du kích và dân quân, dạo này, canh gác ráo riết. Người làng bên-cạnh, dù quen mặt, vào hay ra khỏi-Tường An đều bị hỏi chứng minh thư. Du kích bắng nhắng lắm, cứ tưởng-chính mình làm cách mạng mùa thu.

Khoa vẫn đi học, và, đêm đêm, vẫn-sinh hoạt nhi đồng. Lớp Bình dân học vụ của Khoa tạm nghỉ. Học trò-bận việc mùa lúa chiêm. Mình được nghỉ hè, Liên đã nói với Khoa thế.-Nghỉ hè không sung sướng chút nào. Khoa không còn gặp Liên, mỗi tối. Khoa-phải thay anh Lý, chỉ huy nhi đồng Tường An. Họp liên miên. Nhiều hôm,-Khoa bỏ cả học, để lên xã họp. Học không quan hệ bằng họp. Tự nhiên, Khoa-xa Liên, dù rất gần Liên.

Tối nay, Khoa chủ tọa buổi họp nhi đồng toàn thôn, để phổ biến tin-tức mật thiết, liên quan tới đời sống của từng ngưòi. Đó là tin giặc Pháp-sẽ nhẩy dù xuống Thái Bình. Các đồng chí nhi đồng chất vấn hăng đì.

- Đồng chí chủ tọa cho biết giặc Pháp nó nhẩy dù ra sao?

- Nó từ máy bay nhẩy xuống.

- Nó ôm cái dù à?

- Đúng.

- Có đứa nào cầm cái ô hay cái lọng không?

Khoa chưa biết nhẩy dù thế nào. Nó đã xem xi nê, toàn phim cao bồi,-Tác Dăng, Dô Rô. Xã nói giặc sắp nhẩy dù, thì nó về phổ biến lại. Khoa-là con vẹt. Có lẽ xã cũng là con vẹt.

- Tôi không rõ.

- Đồng chí đã họp cấp xã mà?

- Xã chỉ nói giặc nhẩy từ máy bay xuống bằng dù. Chúng ta phải học tập-giết quân nhẩy dù của giặc.

Khoa rút ở túi quần ra tấm giấy năm đồng, mầu hồng nhạt. Cán bộ xã nói-sao, Khoa nói lại y hệt:

- Các đồng chí có hiểu tại sao tờ giấy bạc này in hình người đàn bà-cấy lúa và đứa bé con không?

- Không.

- Hai mẹ con bà này là chiến sĩ giết quân nhẩy dù Pháp. Giặc từ máy bay-nhẩy dù xuống, chết ngất hàng mười phút mới tỉnh dậy. Một hôm, giặc-nhẩy dù xuống thửa ruộng hai mẹ con bà này đương cấy lúa. Đã được học-tập, hai mẹ con bà này dùng dao đâm chết quân nhẩy dù Pháp, khi nó còn-ngất. Chính phủ ghi công hai mẹ con bà, in ảnh vào giấy bạc, để mọi-người hoan hô.

Nhi đồng quên mình đang họp, giơ tay hô khẩu hiệu: Hoan hô hai mẹ con-giết giặc, loạn xà ngầu. Chủ tọa Khoa yêu cầu trật tự, rồi nói tiếp: p:

- Chúng ta không sợ giặc nhẩy dù. Nó rơi xuống đất chết ngất những-mười phút, là ta thừa sức tiêu diệt nó.

- Thật chứ?

- Thật. Bác Hồ dạy hẳn hoi mà.

- Đả đảo giặc Pháp! Hồ chủ tịch muôn năm!

Khẩu hiệu hô toáng. Chủ tọa Khoa đành chờ đợi.

- Muốn tiêu diệt quân nhẩy dù Pháp, toàn dân phải chuẩn bị khí giới sẵn-sàng. Mọi người phải mang theo khí giới, bất cứ đi đâu.

- Đi chợ có mang khí giới không?

- Có.

- Đi tắm?

- Có.

- Còn đi ỉa?

- Cũng phải mang. Khí giới giết quân nhẩy dù Pháp là dao găm.

- Bà già cần mang dao găm không?

- Cần.

- Bà già mà giết giặc ở cái khổ nào?

Buổi họp chấm dứt, không có mục linh tinh, phê bình. Khoa thẫn thờ về.-Con đường quen thuộc, con đường Khoa thường đi bên cạnh Liên, nhiều hố cá-nhân quá. Khoa dừng, ở cầu Chờ, nghỉ chân, và suy nghĩ. Nó muốn theo Đường-về nhà, đánh thức Liên dậy, rủ Liên ra cổng, hít hà hương thơm của hoa-đêm. Đã quá khuya. Khoa nằm dài trên phiến đá nhẵn bóng, tưởng tượng-Liên ngồi đâu đây, đang nghe Khoa kể tích cầu Chờ. Một lát, Khoa vụt-dậy, vùng chạy ngay về nhà mình.

Mấy hôm sau, Tường An nhộn nhịp chuyện giết giặc nhẩy dù. Anh thợ rèn đầu-làng làm ngày làm đêm, không hết việc. Dân làng phải xuống chợ Mễ, lên chợ-Giai đánh dao găm. Chừng nửa tháng, du kích hỏi khí giới dân chúng. Đi-chợ quên mang theo dao găm, phải trở về lấy, đề phòng giặc nhẩy dù. Đi-học, đi chơi, đi đánh dậm, đi gắp phân cũng phải giắt dao găm. Đội-gạo, dao găm để trên thúng gạo. Đi xe đạp, dao găm giắt dưới yên xe. Ai-không có dao găm là Việt gian, phản động. Nuốn được tổ quốc ghi ơn,-hãy noi gương mẹ con người cấy lúa, ở tấm giấy năm đồng. Dân chúng-bình tĩnh chờ đợi giặc nhẩy dù, để giết giặc lập công. Không sợ máy bay-giặc, vì đã sẵn hầm hố. Không sợ giặc nhẩy dù, vì đã sẵn dao găm. Giặc-nhẩy dù, chết ngất mười phút, một khúc cây đã thừa đủ giết giặc, như-giết ngóe. Tiếng súng đại bác của giặc, đêm đêm vọng sang, đã trở thành-trò đùa. Dân làng vui vẻ thi đua, tăng gia sản xuất. Những đêm họp-thưa dần. Đời sống có lẽ bình yên mãi, cho tới ngày kháng chiến thành-công. Khoa sung sướng được rảnh rang gặp Liên.

Trưa nay, Khoa hẹn Liên đi câu. Nó đã làm mồi, rang cám, lo hai chiếc-cần cây. Khoa ngồi vắt vẻo trên cành sung cao nhất. Nhờ đám lá dầy, Liên-sẽ không thấy Khoa. Nó đã vặt sung chín bỏ đầy túi, chờ Liên đến, là ném-trêu Liên. Bây giờ, cu cậu bửa một quả sung, ném xuống ao, nhử đán cá-rói. Mùi sung chín thơm, bắt thèm ăn. Nhưng đừng ăn. Ăn chán lắm.-Mầu sung chín đẹp mắt lạ lùng. Buổi trưa, quê hương êm ả. Đã sang hạ-rồi. Tiếng võng đưa kẽo kẹt. Tiếng khóc nhè của trẻ thơ. Tiếng ru hạ-hơi hơi, hạ hời hời. Tất cả đã quyện lấy nhau, lan toả, và kéo dài một-nỗi niềm thiết tha muôn thuở. Từ ngày tản cư về làng, hôm nay Khoa mới-biết nghe và cảm tiếng quê hương. Tại Khoa vừa biết hẹn hò đứa con-gái.

Khoa mơ mộng vẩn vơ, quên mình đang ngồi trên cành sung cao, quên cả-Liên đã tới. Khoa tiếp tục đùa với cá rói. Liên không hay Khoa ngồi vắt-vẻo trên cao. Con bé nói một mình:

- Nhiều cá ghê!

Khoa giật mình. Liên chưa biết chỗ Khoa núp, con bé chẳng ngờ Khoa-ngồi trên cành sung. Liên đứng nhìn đàn cá rói nhỏ tranh nhau mẩu sung-chín. Khoa ngắm Liên. Nó móc một trái sung ném xuống. Trái sung trúng-người Liên. Khoa ném trái thứ hai. Liên ngờ ngợ. Con bé biết rồi. Nó giả-vờ cúi lượm một viên đất. Ném lên:

- Liên mà có súng cao su, Khoa chết.

Khoa phá ra cười:

- May quá, con gái không bắn súng cao su.

Liên hỏi:

- Chờ lâu không?

Khoa đáp:

- Ăn gần hết sung ở cây này rồi.

Liên bĩu môi:

- Cá ăn, chứ Khoa ăn bao giờ?

Khoa vừa trèo xuống, vừa nói:

- Cả cá lẫn Khoa cùng ăn.

Hai đứa vào vườn ông đồ Nhị. Cây ngâu đầy hoa vàng. Hoa ngâu tròn và to-hơn trứng cá. Khoa chụp bàn tay, vuốt một vốc hoa ngâu, rắc đầy đầu-Liên.

- Hoa ngâu thơm ngát.

Liên nhìn Khoa:

- Rắc công phét ti lên tóc Liên, đấy hở?

Khoa quay đi chỗ khác:

- Giá có cái gương nhỉ!

- Làm gì?

- Để Liên soi. Đẹp lắm.

- Như thế nào?

- Tóc đen lấm tấm hoa vàng, đẹp không chịu được. Liên đừng gội đầu, nhé!-Để tóc thơm mùi hoa ngâu.

- Hoa ngâu. Liên sẽ nhớ tên nó.

- Liên phải nhớ tên một thứ hoa nữa.

- Hoa gì đấy?

Khoa dẫn Liên tới cây mẫu đơn. Những chùm hoa đỏ nhạt trông quyến rũ lạ-lùng. Khoa nhón hai ngón tay, rút một cái nhụy hoa. Nhụy hoa mẫu-đơn, giống hệt cái hoa tai. Cánh dài, rỗng, và trong chứa mật ngọt. Khoa-đưa cho Liên:

- Cắn cái cuống đi.

- Làm gì?

- Làm con ong hút mật.

Liên làm theo lời Khoa. Con bé khẽ mút. Rồi bảo:

- Chả ngọt gì.

Khoa cười:

- Tại Liên tới chậm hơn ong đó. Muốn ngọt, sáng mai đến thật sớm. Khoa-đuổi ong, để Liên hút hết mật hoa.

- ừ nhé! Mà tên hoa này là gì?

- Mẫu đơn. Có cả mầu vàng, mầu hồng nữa. À, hồi nhỏ, mẹ Liên có xỏ lỗ tai-cho Liên không?

- Có.

- Thế thì Liên để Khoa lấy nhụy hoa mẫu đơn làm hoa, đeo giùm Liên.

- Để mai.

- Mai, nhớ đem theo sợi chỉ dài. Khoa xâu cho Liên vài xâu nhụy hoa-mẫu đơn, Liên quàng cổ mới đẹp. Một xâu đỏ, một xâu vàng, một xâu hồng. Bây-giờ, mình đi câu nhé!

Hai đứa trở ra ngõ. Đi một lát, Liên hỏi:

- Khoa có học bài Câu cá trong cuốn Quốc văn giáo khoa thư không?

Khoa thong thả đọc:

- Những ngày chủ nhật, tôi thưòng theo anh tôi di câu cá. Anh tôi vác-cần đi trước. Tôi cầm mồi và xách giỏ theo sau…

Liên khen:

- Khoa nhớ ghê. Có chắc câu cá đầy giỏ, đem về kho ăn ba bốn bữa-không hết không?

Khoa nói:

- Cần gì câu đầy giỏ…

Chỉ cần ngồi cạnh Liên. Khoa muốn nói tiếp thế. Mà Khoa đã chẳng nói được.-Tại sao Khoa ngập ngừng? Khoa đã làm chủ tọa nhiều cuộc họp quan trọng-của thiếu nhi xã. Và, Khoa nói như con vẹt, với các đồng chí nhô con. Khoa-không thể nói như con vẹt với Liên.

- Đồng chí Khoa!

Liên cười khúc khích. Khoa hơi khó chịu. Nó không muốn trở thành đồng-chí của Liên. Chỉ muốn là bạn. Bạn suốt đời. Khoa nhăn mặt:

- Đừng gọi Khoa là đồng chí. Nếu Liên thích, Liên cứ gọi Khoa là cu-Khoa.

Liên lắc mạnh cái giỏ:

- Cu đồng chí Khoa, nhé!

Khoa dậm chân:

- Khổ lắm, cu Khoa thôi.

Liên trêu thêm:

- Cu đồng chí mới hay. Như đồng chí cu Đường ấy. Nó đã gọi Liên là-đồng chí Liên.

Khoa tức quá, nói liều:

- Liên còn gọi Khoa là đồng chí, Khoa không thèm đi câu nữa.

Liên nài nỉ:

- Thì thôi, cu Khoa.

Khoa mỉm cười. Nụ cười ấy, Liên không hề biết. Con chim liếu tiếu, từ-đâu bay tới, đậu trong bụi ruối, tíu tít một hồi. Tiếng chim liếu tiếu-náo động một xóm quê. Như tiếng lòng Khoa, đang náo động một khoảng-đời. Hai đứa trẻ chơi trò anh tôi vác cần đi trước, tồi cầm mồi và xách-giỏ theo sau… Chúng đi câu. Đi câu trăng, câu sao. Chúng đi câu mộng-ước.

78

Chuyện giặc Pháp nhẩy dù rồi cũng bị quên đi, như bao nhiêu chuyện khác.-Mỗi gia đình đã có, ít nhất, hai con dao găm. Dao găm, thứ dao mới lạ,-bỗng trở thành quen thuộc với đời sống của mọi người. Cùng với sự quên-lãng đề phòng giặc nhẩy dù, du kích cũng quên công tác tiêu diệt chó là-yêu nước. Những con chó trốn thoát cuộc tàn sát tập thể đã lần mò về-nhà chủ, tiếp tục sủa bâng quơ, và sinh đẻ. Làng thôn bớt ghê rợn đêm-khuya. Bây giờ, khẩu hiệu mới: Chuẩn bị tổng phản công, Tích cực-chuẩn bị tổng phản công… Quân Pháp sắp thua đến nơi. Tích cực-chuẩn bị tổng phản công, đàn bà, con gái phải khuyến khích chồng con tòng-quân. Tòng quân là yêu nước. Câu thơ mới viết khắp tường đình, tường-miễu:

Đêm nay anh đi đánh Tây

Cửa nhà cậy có bu mày trông coi

Làm chi khóc lóc lôi thôi

Có vợ ai tồi như thế hay không

Chuẩn bị tổng phản công, thanh niên phải lên đường hàng tháng xa gia đình,-đắp ụ, đào đường. Bài thơ Phá đường, ai nấy đều thuộc:

… Hì hà hì hục

Lục cục lào cào

Anh cuốc em cuốc

Đá lở đất nhào

Nào anh bên trai

Nào em bên nữ

Ta cùng thi sức ai tài hơn ai

Anh tài thì em cũng tài

Đường dài ta xẻ sức giai ngại gì



Đêm nay gió rét trăng lu

Rộn nghe tiếng cuốc chiến khu phá đường (1)

Làng Tường An bắt đầu phát động cuộc thi đua mới: Thi đua tòng quân. Nhiều-anh du kích quẳng mã tấu, xung phong tòng quân. Nhiều chị phụ nữ vất súng gỗ,-xung phong đi làm nữ cứu thương, đi đào đường đắp ụ. Những người ở-lại xung phong góp lúa nuôi bộ đội. Nhi đồng xung phong tới các chợ gắn-huy hiệu, lấy tiền nuôi thương binh. Phụ lão xung phong làm mẹ nuôi bộ-đội. Thương binh được mô tả là những ngừi hy sinh cho tổ quốc, dân-tộc nhiều nhất:

Anh em thương binh mang nặng lòng bao nhiêu đau thương

Anh em thương binh quên mình từng phơi trong phong sương

Chí vẫn không quên lửa hận ôi căm hờn

Vì bọn thực dân nên dân chúng bị tàn sát

Xông pha gian lao song lòng anh nao nung chí

Hoa xuân đang tươi tưng bừng hy sinh anh ra đi

Hiến tấm thân cho tổ quốc anh tươi cười

Nặng lòng hy sinh đem xương máu hiến cho đời

Đạn reo khiến chí anh càng hăng hái

Vùng lên như anh muốn quyết xông pha…

Khoa đã hướng dẫn nhi đồng đi quyên tiền, ủng hộ anh em thương binh.-Trong kháng chiến, không ai là không có trách nhiệm. Khoa say sưa thi hành-mọi công tác. Không bao giờ quên Liên. Dường như, Khoa có hai cuộc đời.-Cuộc đời của tập thể, và cuộc đời của riêng Liên. Nó muốn, mãi mãi, được-sống như thế.

Mùa hạ qua. Mùa thu sang. Mùa đông tới. Mùa xuân về. Làng-xóm vẫn bình yên. Máy bay khu trục đen thui chỉ bay thật cao, trên-vùng trời Tường An. Bay qua. Giặc sợ hãi không dám nhẩy dù. Khoa-cũng chẳng biết giặc đã nhẩy dù ở Việt Bắc, đã đuổi giạt bộ đội và chính-phủ ta vào tận rừng sâu, nước độc. Làng Tường An chưa ăn bom-đạn giặc, là bộ đội đang chiến thắng. Gần ba năm sống đời kháng chiến xa-nhà nhịp theo đời sống mới, biệt ly thành phố rực rỡ ánh đèn điện, Khoa-yêu đời sống áo nâu vô cùng. Thôn ổ dạy Khoa nhiều thứ, cho Khoa-nhiều thứ. Khoa lớn vội, và Khoa cảm xúc nhanh. Tâm hồn Khoa mở rộng.-Hương đồng gió nội ùa ngập, cùng với mộng ước êm đềm. Mộng ước đó, mỗi-ngày, một thắm đặm, tưởng không bao giờ tàn phai. Nếu kháng chiến thành-công, nếu giặc Pháp đừng bén mảng sang Thái Bình, mộng ước sẽ no tròn. Bàn-tay Khoa sẽ nắm gọn mộng ước đó. Mộng ước làm người dân của một nước độc-lập. Mộng ước được sống hoài với kỷ niệm tuyệt với, trên mảnh đất quê-hương mình.

Khoa chợt nhớ tới anh. Nó chỉ biết Vũ đi kháng chiến, vì căm thù giặc Pháp.-Khoa chưa hiểu tâm sự của Vũ. Cũng chưa lần nào, Vũ nói cho Khoa nghe-tâm sự mình. Vũ không căm thù gì cả. Vũ đi chiến đấu, với mộng ước đơn giản,-là được trở về thị xã, cùng với mọi người, xây lại căn nhà đã bị tiêu-thổ, trồng lại những hàng cây hồi bị chết, và gần gũi Thúy, yêu Thúy,-yêu suốt đời.

Những ngày đầu tiên rời bỏ thị xã, Khoa buồn lắm. Vũ thì-khỏi nói. Vũ trốn nhà theo bộ đội. Khoa bị quyến rũ bởi nguồn vui mới, mỗi-lúc mỗi dâng trào. Khoa yêu cuộc đời hậu phương kháng chiến. Ở cuộc đời-này, cái gì cũng đẹp, cũng mộng mơ. Sự phiền muộn thoáng qua, rồi chìm vội.-Nếu Khoa lớn hơn, đủ tuổi vào bộ đội, chẳng hạn, Khoa sẽ thấy chuỗi ngày-hậu phương kháng chiến là chuỗi ngày đẹp nhất, rực rỡ nhất, hào hùng nhất-của lịch sử tranh đấu của dân tộc. Đây thời chinh chiến ngập ngừng lá-nhớ hoa. Chưa có cuộc chiến đấu nào lãng mạn đến thế. Tiếc rằng, Khoa còn-bé, nên Khoa mới cảm nổi con đường đêm ngập ánh trăng, Khoa và Liên đã-sóng đôi bước chậm, nghe gió luồn qua lá những tiếng thầm thì.

- Khoa ơi!

Tiếng cu Đường gọi. Khoa phớt tỉnh, vẫn ngồi ở cầu ao xem đàn cá mương-tranh nhau cái phổi gà. Đường léo nhéo:

- Tụi Đại Đồng đang phơi nắng chờ mày đó, Khoa ơi!

Đường đã chạy vào sân nhà Khoa:

- Mày đâu?

- Tao đây, đồng chí cu Đường!

Đường nhìn xuống cầu ao, toe toét:

- Không đồng chí, đồng chóe gì xất. Ngoài cuộc họp, đồng chí cái dồng-điếu! Chúng nó đợi mày, mắt viền vải tây điều hết rồi. Này không đến ngay,-tụi Đại Đồng bỏ về, là, tự nhiên, Tường An thua bét tĩ.

Khoa chợt nhớ đã hẹn thiếu nhi Đại Đồng đá bóng tại bãi tha ma, chiều-nay. Cái bãi tha ma, kể từ hôm thanh niên Tường An xuống Ô Mễ xem trận thư-hùng giữa hai đội Vũ Tiên và Thư Trì, đã biến thành sân vận động, có-thể tập trung hết dân làng biểu tình đả đảo thực dân Pháp. Phong trào thể-thao bình dân rất thịnh hành. Ruộng khô còn đầy gốc rạ, cũng là bãi bóng-chuyền hay bóng tròn. Thanh niên Tường An san bằng bãi tha ma, đem-trục đá kéo lúa tới, lăn phẳng mặt bãi, đẵn cau, trồng cột gôn. Chỉ cần-một trái bóng da, mỗi bên đủ mười một người. Đá văng mạng. Đá không luật-lệ. Chạy hàng tiếng. Đá bóng chán chê, về ao đình bơi lội. Thân thể khỏe-mạnh, dẻo dai, để trường kỳ kháng chiến. Sợ gì đại bác tầu bay, Bền gan-kháng chiến là Tây phải hàng. Bãi tha ma, một dạo, đã vắng hoe, vì dân-làng bận lo học tập chống quân nhẩy dù Pháp, bây giờ, lại bắt đầu nhộn nhịp.-Cùng với sự nhộn nhịp đó, dân làng tổ chức nhiều cuộc vui khác,-tưởng chừng giặc Pháp sắp thua, chẳng còn hy vọng gì chiếm Thái Bình.

Khoa muốn hạ tụi thiếu nhi Đại Đồng, chiếm lại ngôi chùa của làng Tường-An. Khoa muốn làm ông tiên, ông tiên đá bóng chiến như Vọng, như Vũ,-như Côn, như Luyến… Và, Khoa viết thư mời tụi Đại Đồng, giao hẹn hễ-Đại Đồng thua thì phải nhường ngôi chùa cho thiếu nhi Tường An, đêm đêm,-tới họp hành, và tập kịch, tập trống. Thư mời không nói đến chuyện nếu-Tường An thua, mà chỉ có một câu khích bác, là Đại Đồng sẽ đem rổ đựng-trứng thối. Khoa tưởng tụi Đại Đồng không nhận lời.

- Nhanh lên mày!

Cu Đường giục nhắng. Khoa hỏi:

- Có bóng chưa?

Đường đáp:

- Rồi. Năm quả bòng, nướng mềm nhũn, còn nóng sốt sồn sột…

Khoa đưa tay vuốt tóc:

- Mình sẽ chiếm lại chùa.

Nó bước lên, và cùng đồng chí cu Đường thân mến co cẳng chạy. Tới cầu-Chờ, Khoa phanh chân. Đường ngơ ngác:

- Mày đứng lại làm gì đây?

- Có con Liên ngoài bãi không?

Đường dậm chân, vò đầu:

- Liên, Liên, Liên cái…

Khoa bịt mồm Đường:

- Yêu cầu đồng chí đừng nói nhảm.

Đường toét mệng:

- Nó chờ mày cháy bố nó hết tóc rồi.

Khoa đẩy nhẹ Đường. Khuôn mặt nó tươi như ngọn cỏ ngậm sương. Nó lại co-cẳng chạy. Chẳng mấy chốc, hai đứa đã tới bãi tha ma. Nhi đồng Tường An-hoan hô Khoa vang lừng. Khoa tỉnh bơ, đảo mắt đây đó tìm kiếm, xem Liên-đứng chỗ nào. Không thấy Liên đâu. Không hề thấy một đứa con gái. Nó chộp-cánh tay Đường:

- Mày dám nói dối tao.

Đường cười xòa:

- Nó bảo nó sẽ tới coi mày sút thủng côn Đại Đồng. Thế-nào nó cũng tới.

Khoa buông tay Đường ra, dọa dẫm:

- Nó không tới, mày biết tay tao.

Như là Vọng năm xưa, Khoa đang đóng vai trò của Vọng. Như là đội-bóng của Vũ năm xưa, Tường An đang cổ võ, hối thúc, và tin tưởng Khoa-sẽ đè bẹp Đại Đồng. Khoa cởi áo vất xuống bãi. Đường trịnh trọng nhặt-lên. Khoa chạy vào sân bóng. Những đôi mắt long lanh theo rõi nó. Cuộc-giao đấu bắt đầu. Không trọng tài. Tiếng hoan hô gà nhà, đả đảo gà người-lấn át cả tiếng bịch bịch của chân cẳng đá nhau, đá ban bòng nướng. Khoa-vừa tranh đấu, vừa ngó xem con Liên đã tới chưa. Đại Đồng xuýt làm bàn-đôi ba lần. Tường An hò hét Khoa, thúc giục Khoa. Nó chả nghe thấy gì.-Khoa không thiết đá bóng, không say mê chiến thắng. Nó đón hụt bóng liên-miên, và toàn sút ra ngoài. Bỗng, đồng chí cu Đường hét lớn:

- Con Liên đã tới.

Khoa nhẩy cỡn lên. Quả bóng nướng, vô tình, rót vào tầm chân nó.-Khoa đá được trái song phi tuyệt cú mèo. Mắt sáng rực, Khoa ngó Liên đương-vẫy tay chào nó. Khoa phấn khởi vô cùng. Nó xung phong đá bóng. Xung-phong như bộ đội xung phong giết giặc Pháp. Và, Tường An cho Đại Đồng-nhặt trứng thối. Tiếng hoan hô vang dậy. Đại Đồng tiu nghỉu rút lui.

Ngay buổi tối hôm ấy, nhi đồng Tường An đã vác trống đồng sang ngôi-chùa làng mình bị ông tiên hạng bét đánh cờ thua, mà khua ầm ỹ. Một ông-tiên cừ khôi đã lấy lại chùa cũ. Ông tiên đó là Khoa, là Kim Đồng, là-tuổi thơ lồng lộng và thần thánh của Việt Nam kháng chiến chống-xâm lăng. Ông tiên mê gái. Ông tiên chiến thắng nhờ gái. Ông tiên chẳng-hề biết điều ấy.

(1) Một đoạn thơ, của Tố Hữu

(Còn tiếp)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn