BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 72808)
(Xem: 62101)
(Xem: 39196)
(Xem: 31054)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Bộ mặt thật của Hà Nội qua chứng nhân Vũ Thư Hiên

04 Tháng Mười 200612:00 SA(Xem: 1752)
Bộ mặt thật của Hà Nội qua chứng nhân Vũ Thư Hiên
51Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
51
Tôi đọc hồi ký của Vũ Thư Hiên (VTH) và bật cười thích thú.VTH là nhà báo. Cha của VTH là cơ sở cách mạng, là nơi qua lại của các ông Trường Chinh, Xuân Thủy, Vũ Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trần Huy Liệu, Văn Tiến Dũng, v.v… Gia đình ông có quan hệ rất thân tình với một số lãnh đạo cấp cao VN, vì gia đình ông nuôi giấu họ khi còn trong thời kỳ hoạt động bí mật. Dưới mắt ông, qua tiếp xúc cá nhân, ông biết những chuyện đời tư, những bí mật của họ, chứ họ không phải là những nhà cách mạng nghiêm nghị ta thấy CS đưa lên sách báo. Và những câu chuyện như vậy sinh động, thực tế, có bằng chứng xác thực, có khi đến lố bịch, buồn cười.

Một chuyện như vậy là ông Hồ Chí Minh có nói một câu nổi tiếng về tình hữu nghị Việt – Trung: “Việt Nam với Trung Quốc như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh”. Thời chống Pháp, khi gửi cố vấn sang Việt Nam, Mao nói: ”tổ tiên ta mắc nợ với họ. Các anh sang mà trả nợ”. Khoảng 1956, thủ tướng Chu Ân Lai sang VN có thăm đền Hai Bà Trưng. Người dân VN tin rằng chỉ có anh em mới hành động như vậy. Nhưng kể từ ngày Hồng Quân Trung Quốc theo lệnh Đặng Tiểu Bình vượt biên giới VN để “dạy cho VN một bài học” thì nghành truyền thông VN quay ngoắc 1800 chửi bới chủ nghĩa Mao và những người sau Mao hết lời. VTH đọc cuốn Chủ Nghĩa Mao không có Mao của NXB Thông Tin Lý Luận 1982 và rùng mình trước sự tráo trở, cứ như trước đây họ chưa từng nuốt chửng từng lời Bác Mao vĩ đại !



Và ông Mao “vĩ đại” ấy đối xử với CS đàn em VN như một nước man di, bất bình đẳng. Trần Huy Liệu điên tiết vì bức ảnh đăng trên Nhân Dân Nhật báo Bắc Kinh với dòng chú thích: ” Đồng chí Trần Huy Liệu, trưởng đoàn đại biểu VN đã được hân hạnh Mao Chủ Tịch cho bắt tay” nhân forum Bắc Kinh 1965. Hồ Chí Minh an ủi ông Liệu: ”Người ta ai mà chả rứa, thiên triều mà!”. Một hôm VTH đến chơi thấy ảnh Mao Trạch Đông vẫn thường treo, không còn chỗ cũ. Ông Liệu nói: ”Tao cũng như Bác Hồ, tao ỉa vào thiên triều. Tao là thằng dân tộc chủ nghĩa”.

Và nhà thơ Chế Lan Viên, tuy là Đảng viên, nhưng cũng có tiếng nói của lương tâm, không bị người khác xỏ mũi. Ông nhận xét đích đáng về Mao. Một hôm VTH hỏi Chế Lan Viên:

- Này anh Chế, theo anh, thơ và từ của Mao Trạch Đông có gì hay lắm không mà thiên hạ tán tụng om xòm đến thế ?

Chế Lan Viên cười hức hức:

- Thơ phú gì cái thằng cha ấy ?! VTH thấy hay à ?

- Thơ phú là chuyện tôi mù tịt, mới phải hỏi anh.

Chế hạ một câu xanh rờn:

- Làm đến hoàng đế nước Tàu như hắn rồi thì cục cứt của hắn thiên hạ cũng khen tuốt.

VTH ngẩng người. Chẳng lẽ đó là tác giả câu thơ ca ngợi hai lãnh tụ vĩ đại: “Bác Hồ ta chính là Bác Mao” ?

VTH còn thấy những bí mật khác, những nguyên nhân khác mà người ta ủng hộ Đảng CS. VTH không loại trừ tình cảm kính yêu thật sự đối với Đảng, nỗi bất bình thấy Đảng bị xúc phạm, nhưng sau này VTH được biết trong đa số trường hợp, đó là sự bảo vệ nồi cơm.

Một trường hợp như vậy là Hoài Thanh. Văn Cao đặt cho Hoài Thanh biệt hiệu Chef des claqueurs (trưởng ban vỗ tay). Mỗi lần lãnh tụ nói chuyện, Hoài Thanh ngồi ở hàng đầu, chực sẵn để khi lãnh tụ xuống giọng chấm câu hoặc hết đoạn thì đứng lên vỗ tay làm gương cho cử toạ vỗ theo. VTH không hiểu tác giả Thi Nhân VN. Ông hiển nhiên có một chỗ trên chiếu danh cho bậc lão làng văn chương, ông còn muốn gì nữa? Trường hợp này cũng giống với Xuân Diệu. Ông này thì nói:”Tôi cho việc không chơi với Nhân Văn- Giai Phẩm là nguyên tắc”.Câu này, nhà thơ Lê Đạt, người thuộc nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm thuật lại. “Nguyên tắc” nào đây hả ông hoàng thơ tình tiền chiến ? Sau này, thời tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Nhân Văn – Giai phẩm được phục hồi danh dự. Vậy, Nhân Văn – Giai Phẩm là đúng, và “nguyên tắc” của Xuân Diệu là giọng điệu của nịnh thần, bồi bút.

Một bí mật khác của chế độ CS VN là thông tin tuyên truyền như kiểu Đức Quốc Xã: Cái không có thực, nhưng nói mãi, tuyên truyền mãi, người ta cũng sẽ tin là có thực. Và đi cùng với kiểu làm việc này, kiểu phóng đại cái tốt của chế độ là sự bưng bít thông tin, cũng như ngày nay CS rất sợ internet tự do vậy, luôn tìm cách đặt tường lửa. Thời VTH còn làm nhà báo ở Bắc Việt, xã hội VN là xã hội khép kín. Một lỗ thủng để dân chúng có thể nhòm được ra ngoài là sơ suất của nghành an ninh, là trọng tội đối với kẻ đã dám khoét cái lỗ thủng đó hoặc phát hiện ra nó để sử dụng. Mọi thứ sách báo nước ngoài đều là sách báo địch, mọi thứ đài nước ngoài đều là đài địch, trừ các sản phẩm văn hóa các nước XHCN. Sau đại hội XX ít lâu, sách báo Liên Xô và các nước Đông Âu cũng bị cấm nốt, cũng bị coi là văn hóa phẩm độc hại. Giới thạo tin kể rằng Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Liên Xô A. N. Kosyghin (1904 – 1981) trong cuộc hội đàm với thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1965 (?) đã hỏi thẳn vể chuyện sách báo Liên Xô bị cấm bán. Phạm Văn Đồng chối. Kosyghin đề nghị ngừng hội đàm để cả hai cùng ra phố xem thực hư ra sao thì Phạm Văn Đồng thoái thác. Để giữ hòa khí với nước đàn anh, người ta vẫn mua sách báo Liên Xô với số lượng lớn như trước, nhưng chở thẳng tới các nhà máy giấy tái chế. Trong việc biên tập tin, tin ở Việt Nam được thông tấn xã chia nhiều loại: loại thường, loại mật và tối mật. Loại thường là tin trong nước, ngoài nước biên soạn lại cho sử dụng rộng rãi. Cán bộ cấp cao đọc tin mật hay tối mật. Tin mật hay tối mật không phải lấy từ tin tình báo mà lấy từ đài phát thanh nước ngoài, vẫn là thứ bị cấm ngặt không ai được nghe. Cán bộ cơ sở và dân thường nghe loa truyền thanh cũng đủ. Người dân, kể cả trí thức kỹ thuật hay trí thức nhân văn, chỉ còn tự túc món ăn tinh thần bằng những câu chuyện ngồi lê đôi mách. Kiến thức ở Việt nam được chia làm hai loại: chính thống và phi chính thống. Người giám định duy nhất có thẩm quyền là Đảng, hiện thân trong cái gọi là Ban Tuyên Giáo, Ban Tuyên Huấn, Ban Khoa Giáo, Ban Văn hóa tư tưởng … Những gì các ban trên cho là không chính thống thì nhân dân không được dùng. Vì thế các vụ đốt sách Victor Hugo, Shakespeare, Guy De Maupassant, Moliere, đập đĩa nhạc của Beethoven, Verdi, Mozart, … được lặp đi lặp lại nhiều lần không phải chuyện lạ.

Trong cái thời hỗn loạn như hồng hoang mà vỗ ngực tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ nhân loại” đó, cách đối xử của Đảng rất buồn cười, lố bịch, phi lý mà VTH kể ta nghe bằng những điều tai nghe mắt thấy. Đảng đối xử với trí thức rất không công bằng. Đảng tập hợp họ lại, bảo họ chỉnh huấn để củng cố và nâng cao lập trường thì họ thành tín như những cậu học trò nhỏ ngồi nghe Đảng dạy bảo. Ngỡ ngàng trước những tín điều lạ tai, lòng nhủ rằng mình mang nhiều tư tưởng của giai cấp bóc lột nên không hiểu nổi những điều Đảng dạy, họ tin cậy đưa tay cho Đảng dìu dắt, hùng hổ xỉ vả nhau về những khuyết điểm có thật và không có thật đối với cách mạng, cặm cụi viết những bản tự kiểm thảo trước Đảng, hy vọng được Đảng tha thứ mọi lỗi lầm, để được đi theo Đảng đến chân trời CS.

Đảng bảo phải “hạ phóng” (xuống cơ sở), ba cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng lao động), thế là họ bỏ bàn giấy, phòng thí nghiệm, giảng đường, ba lô lên vai xuống nông thôn, chịu cực, chịu khổ, ba cùng với nông dân, ngày ngày tu dưỡng hòng có được những đức tính mà người dân cày không học cũng có …

Đảng hô hào phóng tay phát động quần chúng làm cải cách ruộng đất thì họ lăn lộn ngày đêm nơi bùn lầy nước đọng “thăm nghèo hỏi khổ, bắt rễ sâu chuỗi” (vận động bần cố nông đấu tranh với địa chủ bằng cách từ một nông dân bị bóc lột nặng nề nhất lôi kéo nông dân khác). Cùng với đội, với đoàn, họ mẫn cán thực hiện định mức thành phần (không xuất phát từ tình hình cụ thể phù hợp hay không, chẳng hạn người ta đề ra 5% địa chủ thì đội cải cách phải tìm đủ số), tìm ra cho bằng được, cho đủ số kẻ thù theo chỉ tiêu Đảng đặt ra, hăng hái lôi bọn “cường hào, ác bá” ra đấu tố, ra pháp trường. Đến khi Đảng ngượng ngùng tuyên bố sửa sai thì họ mới ngã ngửa ra rằng họ, những trí thức, lẽ ra phải lấy nhân ái làm đầu, thì đã theo Đảng nhúng tay vào máu. Do quá tin Đảng, họ nhắm mắt tuân theo, không suy nghĩ, ai ngờ cùng với chủ thuyết lấy đấu tranh giai cấp làm động lực tiến hóa, Đảng đã gây ra vô vàn bi kịch trong đời sống một dân tộc hiền hòa.

Nhưng rồi được Đảng dẻo mỏ thuyết phục rằng sai lầm là nhất thời, thắng lợi là căn bản, họ lại lẽo đẽo theo Đảng, dùng uy tín của trí thức, lôi kéo nhân dân vào những phong trào lẩm cẩm, thậm chí phản khoa học, như cấy dày để tăng sản lượng lúa, cắt đuôi, cắt tai, cắt tuyến giáp trạng lợn cho lợn mau lớn, tăng năng suất vận chuyển bằng một xe kéo nhiều rơ-moóc … kịp tới khi những cánh đồng cấy dày chỉ cho rơm chứ không cho thóc, những con lợn bị cắt đuôi, cắt tai, cắt tuyến giáp trạng lăn đùng ra chết tốt (người tò mò có thể tìm thấy trong thư viện những bài báo cổ động những phong trào lẩm cẩm này trong chính báo Nhân Dân những thập niên 50-60), những xe tải kéo nhiều rơ-moóc hỏng hàng loạt thì họ mới ngã ngữa ra lần nữa, chợt thấy Đảng chẳng phải là trí tuệ và lương tâm thời đại như báo Đảng quảng cáo, mà chỉ là một mớ tạp pí lù những kiến thức chắp vá học mót ở những thầy mo bên Tàu.

Và tôi (TT), cũng đồng ý với ý kiến cho rằng chả có ai đáng được gọi là cha già dân tộc. Mọi người đều bình đẳng với nhau, không phân cao thấp. Đến như Phật thì nói “ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật chưa thành”. Phật và chúng sinh bình đẳng. Lão Giáo cũng nói vậy, ai cũng là Đạo hết cả. Chỉ có Nho là có Tam Cương Quân, Sư, Phụ; Ngũ Luân vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Nhưng Nho không phải là chân lý. KHổng Tử khi còn sống bị thất sủng ở Lỗ, bị xa lánh ở Sở, cuối đời chỉ làm văn hóa, không làm chính trị được. Người theo Nhân Nghĩa mà thành công ở Việt Nam, Nguyễn Trãi, “lấy chí nhân thay cường bạo, đem đại nghĩa thắng hung tàn” thì bị tru di tam tộc. Theo Nho thì chính thánh tổ Khổng Tử của nó còn thất bại, và học trò tiêu biểu là Nguyễn Trãi bị giết thê thảm, không phải chân lý. Vì Nho không phải là chân lý nên cái lối phân cao thấp của nó, ta theo thì nó không hoàn toàn hợp với chân lý, có khi thất bại. Ý tôi muốn nói, lối cho mọi người bình đẳng như nhau trong Phật học và Lão học thì mới đúng, vì thế, ta kết luận: không có ai là cha già dân tộc cả. Đó là bệnh kiêu ngạo CS. Người nào càng cố gân cổ lên làm cao, càng bị người lương tâm trong sáng xa lánh.

Trong lòng miền Bắc XHCN có một trí thức ngang tàng như vậy, đó là Tôn Thất Tùng. VTH gặp Tôn Thất Tùng nhiều lần. Trong một lần phỏng vấn, Tôn Thất Tùng tiếp VTH tại phòng làm việc trong bệnh viện Việt - Đức. Thấy VTH đứng nghiêng ngó ngắm bức tượng bán thân của chính ông đặt ngay sau bàn sát tường, Tôn Thất Tùng mỉm cười pha chút khiêu khích:”Anh lấy làm lạ hả, nhà báo ?” VTH đỏ mặt, không biết trả lời thế nào, cứ như thể VTH bị bắt quả tang đang nghĩ xấu về ông vậy. Thái độ bối rối của VTH làm ông thú vị. “Người ta có tượng của họ, sao mình lại không thể có tượng của mình ? Anh đồng ý thế không ?” Chữ “người ta” ông dùng để chỉ ông Hồ Chí Minh. Không giấu diếm, cũng không cay cú. Ông ghét cái sự sùng bái, sự tôn vinh quá mức một con người, đưa con người đó lên hàng thánh nhân. Chừng ông thấy khắp ngang cùng ngõ hẽm đều có tượng HCM, ông muốn chơi chướng, bèn thuê nặn tuợng mình.

VTH cũng có bằng chứng cho thấy HCM dùng người sai lầm, cũng bị bịt mắt, cũng kém thông minh, như một người bình thường chứ không phải thánh trí đến cái mức mà CS VN hiện nay đem tư tưởng ông ta ra nhồi sọ tất cả sinh viên đại học. Đó là đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Sau khi Nguyễn Chí Thanh chết, tên ông ta được đặt cho đường phố, chân dung ông ta được in trên những con tem. Thế rồi bỗng dưng người ta im lặng hẳn về viên đại tướng lừng danh và tên tuổi Nguyễn CHí Thanh chìm vào quên lãng. Chuyện này có nguyên nhân. Số là hai năm trước cái chết của Nguyễn Chí Thanh (1967), ông Đặng Xuân Thiều trong lúc hấp hối đã cho mời một số đồng chí ở Trung Ương đến để trối trăng về vụ Nguyễn CHí Thanh phản bội, xưng khai, làm vỡ một số cơ sở Đảng. Ông chỉ ra những nhân chứng:”Trước đây chúng tôi không nói vì thấy Nguyễn Chí Thanh vẫn tích cực tham gia công tác cách mạng, thôi thì việc quá khứ rồi, bỏ qua đi cho hắn, cho hắn có cơ hội lập công chuộc tội. Sau đó thì không được nữa – Bác và Bộ chính trị quá tín nhiệm hắn, cho hắn phụ trách toàn việc lớn, nói ra lại mang vạ vào thân. Nay tôi sắp chết, phải nói lại việc này kẻo tủi cho vong linh các đồng chí đã hy sinh không được ai nhắc nhở, tên phản bội thì được ca ngợi như anh hùng”. Trung ương kiểm tra lại thấy đúng mới lẳng lặng dẹp sự xưng tụng kia đi, chỉ còn một con đường ở Thành phố HCM là còn giữ tên Nguyễn CHí Thanh. Người ta chưa thay vì ngượng, chẳng lẽ lại cho “bọn ngụy” biết tại sao phải thay tên đường ?

Vậy ta thấy trong nội bộ CS cũng lắm lúc lủng củng, lúng túng như gà mắc tóc. Đó là chuyện thường tình. Không vậy mới là lạ. Thời đó, sau khi Stalin chết, ông ta bị hạ bệ, bị tố cáo là sùng bái cái nhân và Liên Xô có phong trào cải cách, dân chủ hơn. Mao không muốn sau khi chết mình bị đàn em đối xử như Stalin nên chống lại sự thay đổi của Liên Xô, gọi Liên Xô là “bọn xét lại hiện đại” trong khi Liên Xô thấy Trung Quốc chỉ theo đường lối cũ, không ứng biến thích hợp tình hình mới nên gọi Trung Quốc là “giáo điều”. Hai nước đàn anh XHCN hục hặc với nhau nên ở VN có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối. Việt nam, với tư tưởng không thông thoáng, sợ làn gió dân chủ sẽ mất sự độc quyền lãnh đạo của Đảng nên đã trở nên Mao ít, độc tài, chuyên chế. Mao ít tới mức CS VN nói rằng về lý luận, họ để cho Đảng CS Trung Quốc làm, VN chỉ tổ chức thực hiện đường lối Đảng CS Trung Quốc tìm ra. Thời đó nhiều nhân vật cao cấp bị công an theo dõi. Thậm chí các công an viên được phân công theo dõi đại tướng Võ Nguyên Giáp còn khoe với bạn bè công việc vinh quang của họ. Đến nhà cách mạng cao niên rất mực hiền lành là Tôn Đức Thắng cũng không thoát khỏi con mắt cú vọ của Lê Đức Thọ. Cụ Tôn đâu phải là hạng ham muốn chức quyền. Với đám con cháu, cụ Tôn bảo:”Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước, nghe ngứa con ráy lắm! Người ta đặt đâu, tao ngồi đó, chớ tao không màng cái chức chi hết!” Một người bạn của VTH quen thân với cụ Tôn, cha anh trước kia là đàn em cụ, đến thăm cụ, cụ dắt tay vào phòng riêng thì thào:”Mày có thấy lính kín theo mày tới đây không mày ?” Anh ngạc nhiên quá. Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu:”Là tao lo cho tụi bay, chớ tao hổng lo cho tao. Trong nhà tao nè, lính kín hổng có thiếu. “

Không chỉ ở trong sự đối xử giữa đồng chí với nhau, sự nực cười của CS VN còn phơi bày trong các tác phẩm của họ. Hai trước tác được xem như là sách gối đầu giường là cuốn Chủ Nghĩa Mác và Vấn đề Văn Hóa VN và cuốn Trường kỳ Kháng chiến Nhất định Thắng lợi của Trường Chinh, về sau, khoảng đầu thập niên 50, VTH tình cờ vớ được cuốn Chủ Nghĩa Mác và công cuộc phục hưng nền văn hóa Pháp của Roger Garaudy (nguyên ủy viên Bộ chính trị Đảng CS Pháp, trong thập niên 60 tuyên bố tự do sáng tác, không cần đến Chủ nghĩa Hiện Thực XHCN, bị các giới chức văn hóa VN lên án dữ dội, coi như một thứ hoa độc trong văn học). Đọc xong, VTH mới ngã ngửa ra rằng ông Trường Chinh đáng kính đã làm một bản sao tuyệt vời của cuốn này trong trước tác Chủ Nghĩa Mác và vấn đề Văn hóa VN, được ca tụng như một văn kiện có tính cương lĩnh. Bố cụ cuốn sách gần như giữ nguyên, thậm chí Trường Chinh trích dẫn đúng những đoạn mà Roger Garaudy trích dẫn Mác, Engels, và cả Jean Fréville. Tiếp theo đó là sự phát hiện đáng buồn về cuốn Trường kỳ Kháng chiến Nhất định Thắng lợi. Nó quá giống cuốn Trì Cửu Chiến Luận (Bàn về đánh lâu dài) của Mao.

Nếu hai tác phẩm của Trường Chinh là đạo văn thì cuốn Sửa Đổi Lề Lối Làm Việc của Hồ Chí Minh là đạo văn nốt. Nó là bản diễn Nôm cuốn Chỉnh Đốn Văn Phong của Mao cộng với một chút Sự Tu Dưỡng của Người Đảng Viên CS của Lưu Thiếu Kỳ.

Để kết thúc bài viết này, tôi kết luận rằng những lãnh đạo Đảng CS Việt Nam, và chính bản thân Đảng CS không có gì là “vĩ đại”, là “đỉnh cao trí tuệ nhân loại” như họ rêu rao cả. Ngay cả ông HCM cũng mắc những lỗi lầm tầm thường như dùng tên phản bội chỉ điểm Nguyễn Chí Thanh làm đại tướng. Ai cũng như ai cả thôi, có tốt có xấu. Trong năm 2006 này, kinh tế VN có thể phát triển đến 8%, và nó đã giữ tỉ lệ này trong một thời gian dài. Tốt không ? Tốt chứ, dân chúng bớt nghèo đi, và trở nên dễ thở hơn về mặt kinh tế. Nhưng cái lối làm việc của CS tôi không chịu được, toàn là bưng bít những thông tin có hại cho chế độ, và phô trương những mặt tốt của mình. Những thông tin mà VTH cung cấp trong hồi ký Đêm Giữa Ban Ngày của ông cho thấy CS VN cũng đầy những tính xấu, tồi tệ, như bất kỳ con người nào ta gặp trong cuộc sống sinh động hàng ngày. Và giữa cái xh mà người ta toan tính nhồi sọ tư tưởng HCM này, được đọc VTH, ta bật cười sảng khoái chính trị.

Việt Nam, 4 Oct 2006.
Thanh Tâm

Nngười viết bài thơ Đại Hội Đảng 10 đã được phát trên CTM. Một người già 80 tuổi, là chứng nhân lịch sử, từng trải qua Cách Mạng Tháng 8, đấu tố cải cách ruộng đất, sống qua chế độ ông Diệm, ông Thiệu và nay, CS VN nhưng luôn cố gắng “giấy rách giữ lấy lề”, giữ gìn đạo đức truyền thống.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn