BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73236)
(Xem: 62214)
(Xem: 39393)
(Xem: 31148)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Những đứa trẻ Thái Bình – Thấp Thoáng Chia Ly (83 – 86)

15 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 1007)
Những đứa trẻ Thái Bình – Thấp Thoáng Chia Ly (83 – 86)
51Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
51

PHẦN NĂM


THẤP THOÁNG CHIA LY


83


 


Thế là tháng 7 năm 1950, Tường An, Đồng Đức, Đại Đồng, ba nơi cuối cùng của huyện Vũ Tiên quy thuận người Pháp. Mỗi làng cử một hội đồng đến đồn Pháp đóng ở Ô Mễ, xin vào Hội Tề. Tự đó, Pháp không câu đại bác, ô buy về làng nữa. Và cảnh càn quét cướp của, bắt dân đi phục dịch cũng không còn. Dân Tường An yên ổn sống như thời Pháp thuộc. Họ không dám quên cách mạng và trường kỳ kháng chiến. Vì ban ngày, Tuờng An chịu sự bao bọc của Pháp; ban đêm, họ chịu sự bảo vệ của cách mạang. Hội đồng tề ngoài ánh sáng, Ủy ban kháng chiến và hành chính trong bóng tối. Người Pháp chẳng biết gì, các thuê má Pháp miễn đóng hết. Thóc gạo nuôi quân, dân làng phải nộp đầy đủ cho cách mạng. Và dân công làm việc phục vụ cách mạng, Hội tề răm rắp tuân lệnh. An ninh vùng tề cay đắng vô cùng. Dân làng chịu đựng lối sống một cảnh đôi ba tròng. Khổ sở quen rồi, có khổ thêm chả sao.


 


 


Cho nên, ruộng lại cầy sâu cuốc bẫm. Để lúa xanh con gái, trải heo may đầu thu và chín ửng vàng cuối thu, khi trời không bão táp, vỡ đê lụt lội. Vườn lại săn sóc trồng tỉa. Để cây ăn trái nở hoa mùa xuân, tình tự mùa hè và kết trái mùa thu. Ao lại nuôi cá trắm, cá chép, cá mè. Để hy vọng giấc mơ cá chóng lớn, cho tết vui vẻ cuộc tát ao. Vào tề, dân làng thở toát ra nỗi thống khổ chạy giặc hàng ngày, cứ sáng tinh mơ, nghe tiếng súng nở ở đầu làng Thọ Bi. Chấm dứt chạy giặc, sợ giặc, dân làng hết bị lên miễu Vang hay lên đê Trà Lý thả mắt về phía quốc lộ 10, nhìn xe căm nhông nhỏ xíu đang từ phà Tân Đệ chạy vào Thái Bình mà giật mình sợ hãi.


Khoa có nỗi buồn riêng. Thằng bé vừa lớn chợt tỉnh, sau những ngày Pháp chiếm Thái Bình và lính nhẩy dù răn đe dân làng đừng hòng chống trả. Lính nhẩy dù tới Tường An. Du kích Da, du kích Nhẫn vất lựu đạn, quăng dây mìn, trốn tránh. Còn Khoa hoảng quá, chạy sang vườn dâu ông Hạch. Nó đã rõ cô Nhài bị lính da den hãm hiếp. Khoa thực sự khôn lớn ra, từ hôm du kích Da, du kích Nhẫn đã hối hận vì mình hèn nhát, nên xung phong vào bộ đội; từ hôm, chia tay tưởng tượng con Liên bên hồ Mơ. Thằng Khao đã, mơ hồ, cảm giác nó là chiến sĩ cách mạng, sẽ về giải phóng cứu quê hương thoát khỏi bàn tay thô bạo của giặc Pháp. Và Hà Nội, nơi con Liên đang cư ngụ, đang héo hon vì vết thù in cùng khắp, nó mơ ước tiến tới. Chưa bao giờ Khoa mê bài ca Tiến về Hà Nội như bây giờ.


Trùng trùng say trong câu hát


Lớp lớp đoàn quân tiến về


Chúng ta đi nghe vui lúc quân thù đầu hàng


Cờ ngày nào tung bay dưới phố


Trùng trùng quân đi như sóng


Lấp lánh lưỡi lê sáng ngời


Chúng ta đem vinh quang sức dân tộc trở về


Cả cuộc đời tươi vui về đây


Năm cửa Ô đón mừng


đoàn quân tiến về


Như đài hoa đón ngày


nở năm cánh đào


chảy dòng sương sớm long lanh


Chúng ta ươm lại hoa


sắc hương phai ngày qua


Ơi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu


Những bông hoa ngày mai


đón tương lai về tay


đang xuân đời mỉm cười vui hát lên


Khi đoàn quân tiến về


là đêm sáng dần


Qua màn sương lá cành


vẳng nghe gió về


Hà Nội bừng tiếng quân ca


Bài ca có sức mạnh nhiệm mầu, lãng mạn cực tả khiến tâm hồn thằng nhóc16 tuổi rộng mênh mông, sâu thăm thẳm. Khoa nghĩ như thể nó đang trùng trùng say trong câu hát, đang lớp lớp tiến về, khi giặc Pháp đã thua trận xâm lược và đầu hàng tái tê, đau đớn. Qua màn sương thần thoại, không những Hà Nội chỉ bừng tiếng quân ca theo gió lùa vào lòng người mà còn rạng rỡ những nụ cười mừng rỡ đẫm nước mắt của tình nhân. Như con Liên của thằng Khoa, ôm chầm lấy nó. Khoa thấy ướt áo bên phải. Liên thấy ướt áo bên trái. Vì những giọt lệ giải phóng quê hương. Ôi, Khoa mơ mộng quá. Anh Kim Đồng và em bé miền Nam không mơ mộng nổi. Phải hai tuổi nữa Khoa mới dệt xong ước mơ, bằng cách vào bô đội chiến đấu tới giọt máu cuối cùng.


Hôm nay, Khoa 16, đang sống ê chệ trong làng vùng tề, hít không khí nô lệ Pháp, thở muôn vàn nỗi chua chát của thanh bình giả tạo. Mỗi người dân đội lên đầu một chính phủ. Là thừa thãi rồi. Làng Tường An đội hai chính phủ lên đầu. Pháp buổi sáng và cách mạng buổi tối. Khoa muốn chỉ có cách mạng thôi. Pháp cứ bắn phá, cứ càn quét, vẫn còn Liên để cùng ngồi bên nhau, trên cầu Chờ, đợi giặc đến, chạy tới bến Đợi tránh giặc, dừng chân ở quán Nghỉ, suy nghĩ vẩn vơ, ra hồ Mơ thả hồn bay cao vút.


Vào tề, những nơi sinh hoạt của nhi đồng lạnh ngắt, vắng vẻ như làng Tường An trước 19-8-1945. Cái chốn vinh hạnh nhất của đời nhi đồng là những lớp Bình dân học vụ diệt giặc dốt. Nhi đồng đã chiến thắng oanh liệt. Khoa và Liên đã thắng trận đầu trong trường kỳ kháng chiến. Chốn ấy còn đó, song thầy giáo nhóc con và học trò phụ nữ, lão ông, lão bà không lai vãng tới nữa. Bộ trống đồng của thiếu nhi Tường An cất ở đâu? Chắc người ta đã giấu giếm thật kỹ ở nơi nào hay vất xuống sông. Đêm tập kịch, tập hát chẳng tìm thấy nữa. Cũng như ngày mít tinh, biểu tình tuần hành đả đảo thực dân Pháp. Sân khấu biểu diễn kịch ở trong đình đã phá đi. Những khẩu hiệu của cách mạng viết đầy tường, đầy ngõ đã xoá bằng vôi cả rồi. Tất cả cho chiến thắng, ngày xưa; ngày nay, tất cả cho Hội Tề!


Khoa lớn lên trong cách mạng. Nó đau đớn nhìn cuộc dâu biển phũ phàng tàn nhẫn. Khác với những đứa trẻ con Tường An, Khoa hiểu biết thật nhiều và cảm giác thật mạnh chu kỳ rực rỡ 1945-1950. Chu kỳ rực rỡ đó đã hoá thành bọt xà phòng, hỏi sao Khoa chẳng tiếc nhớ. Lịch sử sẽ nói gì về người dân vùng tề? Dân tộc sẽ kết tội làng Tường An và người Tường An. Khoa nghĩ vậy. Xa hơn, nó nghĩ tới những khẩu hiệu, những vở kịch mà nó thường diễn mỉa mai quân bán nước cầu vinh. Làng Tường An đã quy thuận giặc Pháp vì làng Tường An đã sợ giặc Pháp bắn phá, đã sợ khổ… Thế thì làng Tường An đã bán nước, bán dân như làng Ô Mễ. May cho anh Vũ của nó đã thoát khỏi thật sớm, đi liên lạc cho đại đội 4, trung đoàn 44. Lúc này, anh nó thành bộ đội rồi. May cho anh Côn, rời Ô Mễ, đi học lớp sĩ quan Trần Quốc Tuấn. Vũ và Côn không hề bị tề ám ảnh, ray rứt giống Khoa.


Còn Khoa phải làm gì? Không thể làm gì được. Một thằng bé ở làng tề trốn nhà phiêu bạt, vẫn bị cái quá khứ nó giầy vò chẳng chịu nổi. Huống chi, nó lại xin làm liên lạc viên như Kim Đồng, trở thành bộ đội như Vũ. Quá khứ vùng tề đã chụp lên đầu đứa bé sớm hiểu biết một cách bất nhẫn. Nó sống trong làng tề mấy tháng liền, tự nhận nó là dân tề, dù không một ai khinh bỉ nó. Dân tề là dân nô lệ cũ, nô lệ 80 năm. Vùng tề lại mở ra một chân trời buồn thảm để người dân bước vào làm nô lệ mới. Khoa chán nản tuyệt vọng. Nó không mơ chóng lớn để vào bộ đội, đi giết quân thù. Nó lại mơ mãi mãi còn bé để chẳng dấn thân vào mù khơi thời đại.


Khoa không cần vận dụng trí nhớ, mà kỷ niệm xếp hàng dọc trước mắt nó. Những ngày thiếu nhi tập trận giả giữa hai phe quân Pháp và quân Việt Nam. Sôi nổi và hồi hộp. Bao giờ quân Pháp cũng thua to, dẫu Henri Rivière Huệ nhiều tài trí, thông minh chỉ huy quân Pháp và Việt gian. Khoa chỉ huy quận Việt Nam thắng quân Pháp bằng mưu mẹo. Tưởng nhớ đến những ngày nhi đồng tập trận giả; nhi đồng tát ao, tát ngòi bắt cá đem bán lấy tiền mua trống đồng; nhi đồng dạy các lớp Bình dân học vụ chống giặc dốt; nhi đồng diễn kịch yêu nước; nhi đồng ca hát thương nòi; nhi đồng đánh trống đi quanh làng cổ súy bầu cử và mời dân tham dự biểu tình… Tưởng nhớ đến thế thôi, cũng đủ nói lên rằng, nhi đồng đã làm rộn ràng cách mạng, làm sinh động trường kỳ kháng chiến. Nhi đồng là linh hồn cách mạng. Mà hầu như cách mạng quên điều đó. Chẳng có nữa, nhi đồng trong vùng tề. Và, chẳng còn nữa, nhi đồng trên vùng trời sầu muộn Việt Nam.


Bởi thương tiếc nhi đồng súng gỗ, Khoa mơ ước đời sống bình thường không khi nào thay đổi. Làng Tưòng An cứ mãi mãi là làng Tường An. Giặc đến thì chạy. Giặc lui thì về. Khi nào đánh được giặc thì đánh. Như vậy, Tường An sẽ ròng rã khổ sở. Khổ thì chịu khổ, khổ mà danh dự của làng được bảo toàn, còn hơn làng đã mang tiếng nhục Hội Tề ấm ớ, muôn kiếp không rửa sạch. Mấy ngày liền, Khoa chỉ một mình suy nghĩ vẩn vơ không mạch lạc, ý tưởng chống đối lẫn nhau như thế. Hôm nay, Khoa đang buồn bã nhớ Liên, Đưòng tới phá đám.


- Khoa ơi, mày biết chuyện gì chưa?


Khoa cáu kỉnh:


- Chuyện gì là chuyện gì?


Đưòng làm ra vẻ quan trọng:


- Bộ đội…


- Sao?


- Bộ đội về làng mình!


- Thật hay phiệu?


- Thật trăm phần trăm, chính hiệu thuốc ho bà lang Trọc…


- Nói đi!


- Bộ đội về làng đêm qua.


- Mày đã gặp bộ đội chưa?


- Rồi. Mày mừng không?


Khoa đã sai lầm. Nó tưởng Ủy ban kháng chiến và hành chính trốn lui trốn lủi, đêm mới dám bò về làng thu lúa và bắt dân đi dân công. Bây giờ, bộ đội về làng, Khoa tin rằng, Ủy ban kháng chiến và hành chính vẫn công khai hoạt động.


- Mừng chứ.


- Mày biết Hội Tề ra sao không?


- Bị bắt hết.


Đường cười:


- Ai cũng tưởng vậy. Hội Tề đã không bị giải tán mà đồng chí chính ủy còn tuyên dương các cụ Hội Tề đã chơi chính trị cao. Chính phủ gửi lời nồng nhiệt khen các cụ.


Khoa ngẩn người:


- Tao không hiểu chữ mày nói!


Đường lại cười:


- Hề hề… Các cụ Hội Tề chơi chính trị cao, nếu chơi chính trị thấp, mấy cụ đã chết ngỏm, bác Hồ đâu thèm khen.


Khoa hỏi:


- Chính trị là gì?


Đường dõng dạc đáp:


- Chính trị là… chính trị! Bộ đội mới nói toàn… chính trị và bảo bộ đội cũ lạc hậu rồi. Những bài hát chúng mình đã hát cũng lạc hậu tuốt.


Khoa thành thật nói:


- Đầu óc tao rối tinh về danh từ của bộ đội mới.


- Ai nấy đều rối tinh như mày vậy. Rồi mình học ở anh chính ủy.


- Chính ủy là gì?


- Là… chính ủy! Chính ủy về Tường An để chỉnh cán rèn quân


- Là gì?


- Là tao không hiểu!


- Này, nói thật bác Hồ cho phép các cụ Tường An lập Hội Tề, hả?


- Thật đấy. Chẳng tin hỏi anh chính ủy mà xem.


Khoa chới với. Tại sao bác Hồ lại cho phép dân làng Tường An lập Hội Tề? Hội Tề là bước những bước chân đầu tiên vào cảnh nô lệ mới. Khoa nghĩ thế. Tường An chưa đóng góp công lao vĩ đại cho cách mạng, chưa tạo ra những con người xuất chúng dẫn đến cách mạng. Tường An làng sạch, dân sạch. Không thể đem sạch nhúng bẩn và rửa lại để nó sạch hơn, thơm hơn và đẹp hơn. Ôi, người lớn đã thoát ra khỏi chu kỳ con nít nên làm việc gì, nghĩ việc gì đều khác con nít. Bởi chính trị của bác Hồ cao lêu nghêu lên tận sao Mai chăng? Mà biến Tường An, làng độc lập, thành làng nô lệ!


- Để rồi tao sẽ hỏi… đồng chí chính ủy.


- Vào ban đêm đấy.


- Ừ, đêm mai.


 


 


 


84


 


Tháng 9, trung đội 23, thuộc đại đội 6, trung đoàn 84, vượt sông Trà Lý sang Tưòng An, Đồng Đức và Đại Đồng. Bộ tham mưu trung đoàn 84, đóng ở Hưng Nhân, đã nghiên cứu tình hình ba làng trên. Thấy xác thực từ ngày thành lập Hội Tề, quân Pháp đóng đồn ở Ô Mễ đã bỏ ngỏ Tường An, Đồng Đức và Đại Đồng. Ba làng này ăn liền nhau gắn bó, có Đồng Đức nằm trên huyện lộ số 24, ráp ranh huyện Thư Trì bằng cây cầu xi măng cốt sắt. Đại Đồng quy thuận Pháp, Tường An, Đồng Đức phải quy thuận theo. Pháp chỉ cần giữ yên Thọ Bi, Đại Hội, Thụy Bình, Đồng Thanh, Tri Lai, Thắng Cựu, Đoan Túc, là các làng bên đây quốc lộ số 10, an ninh sẽ tuyệt đối. Tường An, Đồng Đức, Đại Đồng theo Pháp thì Pháp đỡ tốn đạn đại bác, moọc chê bắn răn đe. Pháp đóng đồn ở chợ Ô Mễ ngay trên huyện lộ số 24, đầy ưu thế. Bỏ ngỏ Tường An, Đồng Đức, Đại Đồng tức là bỏ rơi, với điều kiện, mỗi tháng một lần, Hội Tề phải tới Ô Mễ báo cáo tình hình sinh hoạt của ba làng đó.


Từ đầu năm 1950, Đảng lao động và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thay đổi một loạt chính sách. Đầu tiên, quân đội biến thành Quân Đội Nhân Dân, giải tán Vệ Quốc Quân đã chiếm hết tình yêu mến của đồng bào từ Bắc vào Nam.


Vệ quốc quân xuất thân tiểu tư sản. Quân đội nhân dân tuyển chọn ở giai cấp vô sản: công nhân và nông dân. Người vô sản không yêu nông dân hơn công nhân, vì nông dân nặng quyền tư hữu. Khổ cho họ, nông dân đông gấp bội công nhân. Nên nông dân chia thành phần tứ tung. Thành phần bần cố nông trên hết. Người lính trong Quân đội nhân dân đa số là nông dân.


Ta là người nông dân


mặc áo lính


chiến đấu vì giai cấp bị áp bức


từ bốn nghìn năm


Đau khổ giai cấp là đau khổ của ta


Cũng như là máu của máu


xương của xương


máu của máu


xương của xương


Nhiệm vụ này


toàn thể bộ đội


phải lao mình vào cuộc đấu tranh


Chúng ta là bức tường đồng


Là lực lượng tiên phong


Cùng nông dân tranh đấu


nhất định thành công


Thay đổi chính sách quân đội, đồng thời xóa bỏ kháng chiến là của toàn dân. Người vô sản độc quyền chiến đấu với xâm lăng Pháp. Và một chu kỳ rực rỡ của thi ca và âm nhạc 1946-1950 cũng bị xóa bỏ. Thứ đến, chính sách đấu tố địa chủ.


Hờn căm địa chủ gian ngoan


địa chủ tham tàn


già tay bóc lột bần cố nông


Hay:


Ta là người có mắt có tai


Tay ta làm mà hàm ta chẳng nhai


Vì đâu


Vì đâu


Ta nghèo


Đó là cách bóc tô bóc tức


trăm điều oan ức


căm tức


Của ta làm ra phải trở về ta


Những bản nhạc này làm từ đầu năm 1950. Các nhà văn, nhà thơ phải chịu chính sách chỉnh huấn. Nghĩa là văn nghệ sĩ phải thú tội trên giấy trắng mực đen những tác phẩm mình sáng tác trước năm 1945 nhảm nhí! Các chính sách nối tiếp các chính sách. Đấu tố phát động bây giờ, nhưng khi hòa bình mới áp dụng. Phải thực hiện những điểm cần thiết nhất. Chỉnh cán rèn quân, một khẩu hiệu nằm lòng sẽ tung vào nông thôn. Cùng với chỉnh cán rèn quân, tuyển lính trong hàng ngũ nông dân cũng cần thiết. Vì thế, bộ đội mới về Tường An, Đồng Đức và Đại Đồng.


Chính ủy trung đoàn 84 mời chính ủy trung đội 23 tới thảo luận.


- Đồng chí Kỳ Bá, chắc đồng chí đã hiểu chính ủy trung đội cao cấp hơn trung đội trưởng. Đồng chí bao quát mọi vấn đề, trung đội trưởng chỉ làm theo lệnh của đồng chí.


- Bá cáo, rõ.


- Đồng chí có biết tại sao đồng chí có quyền uy vậy không?


- Bá cáo, biết.


- Biết đồng chí là đảng viên trung kiên của Đảng ta. Thế tốt. Đồng chí phải nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của Bác và Đảng. Bác và Đảng luôn luôn sáng suốt, không bao giờ nhầm lẫn. Đồng chí phải để nhiệm vụ lên trên hết, không vì tình cảm ủy mị của bọn tiểu tư sản mà vấp ngã một điều gì có thể làm cho Bác và Đảng buồn.


- Vâng.


- Nhiệm vụ đã trao cho đồng chí rất hệ trọng, không được sai lầm.


- Vâng.


- Đẩy các lão ông ra hàng Pháp làm Hội Tề là mục đích của Bác, Đảng và Nhà nước ta. Pháp ngây thơ không hiểu điều này. Trường hợp của đồng chí nằm ở Tường An, Đồng Đức và Đại Đồng. Ba làng này bên ngoài theo Pháp, bên trong, nơi hoạt động hữu ích của ta. Tới đó, đồng chí bắt tay ngay vào việc tuyển quân và huấn luyện họ, càng sớm càng tốt. Khi đưa họ vào quân đội, họ chiến đấu ngay, khỏi lãng phí thời gian. Đồng chí đã hiểu quân đội ta là Quân đội nhân dân. Nhân dân phải từ nông dân ra. Và nông dân hiền lành, chất phác. Hiền lành, chất phác nên triệt để kỷ luật cao. Quân đội có kỷ luật cao sẽ chế ngự địch và đem về chiến thắng lẫy lừng.


- Vâng.


- Song song với rèn luyện quân, công tác hệ trọng của đồng chí là chỉnh đốn cán bộ địa phương và nhân dân. Ta mất năm năm tiêu diệt nội thù. Năm 1950, Đảng ta mới độc quyền lãnh đạo nhân dân. Đảng ta chuyên chính chứ không chuyên chế. Những gì làm trước 1950, của bất cứ ai, đều lạc hậu rồi.


- Vâng.


- Đồng chí nên để mắt đến chính ủy tiểu đội, những người đang tranh đấu với bản thân để xin kết nạp vào Đảng.


- Vâng.


- Vấn đề phát động đấu địa chủ gian ác và cường hào ác bá.


- Vâng.


- Như thế là đủ. Đồng chí có hãnh diện về trung đoàn 84 không?


- Bá cáo, tôi rất hãnh diện.


- Điều chót tôi muốn phổ biến cùng đồng chí: Bác và Đảng biết đồng chí còn trẻ tuổi, ra lệnh cho tôi khuyên đồng chí nên thận trong về luyến ái quan.


- Vâng.


 


 


 


85


 


Một đêm mịt mùng của tháng 9, trung đội 23 sang bên kia sông Trà Lý. An toàn. Những chiếc đò của nông dân thay phiên nhau chở bộ đội cặp bến Đợi của làng Tường An. Sóng sông Trà, ma cửa Hộ. Sông Trà Lý sóng to hãi hùng. Ngày trở gió, nước lớn, những con sóng to bằng cái nhà nối tiếp nhau đè kín dòng sông. Chỉ ở khúc sông sắp ra cửa biển Tiền Hải, những bãi hoang mênh mông hai bên bờ, sóng sông Trà mới đáng sợ. Những khúc sông từ Giai, Lạng chẩy qua Tường An, Đồng Đức, Ô Mễ, Đoan Túc đến thị xã Thái Bình thường hiền lành. Mùa nước lũ mới đang lo ngại. Lính Pháp đóng ở Ô Mể thỉnh thoảng mới đi tuần hành lúc chập tối. Và, chỉ đi tới cống Hào Điển, ráp ranh Ô Mễ-Thụy Bình là về. Tầu chiến của Pháp cũng hay qua lại trên sông Trà Lý. Ban ngày thôi. Ban đêm, trả lại Trà Lý sự u hoài trong vắng lặng.


Đến điểm đích của cuộc chuyển quân là miễu Vang, cạnh hồ Mơ của Tường An, trung đội 23 chia làm ba tiểu đội, rải rác khắp ba làng. Qua một đêm mệt mỏi, đêm thứ hai, chính ủy trung đội 23, bí danh Kỳ Bá, thăm Ủy ban kháng chiến và hành chính và Hội Tề Đồng Đức. Đêm thứ ba, chính ủy Kỳ Bá thăm Đại Đồng. Đêm thứ tư, thăm Tường An và nhân dân.


Ở Tường An, chính ủy Kỳ Bá phát biểu những ý kiến y hệt Đại Đồng, Đồng Đức, không sai một chữ. Người ủy viên chính trị của trung đội 23 còn trẻ, ăn nói lưu loát, hấp dẫn nhân dân. Thằng Đường may mắn có dịp chứng kiến buổi gặp gỡ này. Nó đã nghe chính ủy Kỳ Bá lên tiếng.


- Nhân dân Tường An kính mến…


Đường gãi tai và kéo banh ra.


- Vì nhân dân trách móc Bác, Đảng và Nhà nuớc đã bỏ rơi nhân dân để nhân dân sống kham khổ với giặc Pháp, thằng địch ghê gớm của nhân dân, và nhân dân mất hết niềm tin vào Bác Hồ vĩ đại, người lãnh tụ duy nhất dìu dắt nhân dân tới chỗ vinh quang, nên Bác đã chuyển Quân đội nhân dân về Tường An, sát cánh với nhân dân trong làng, tiêu diệt thằng địch.


Nhân dân vỗ tay. Vỗ tay thật lớn. Đồn Ô Mễ không thấy được. Chó chẳng thể sủa nổi, vì bị giết hết từ năm 1947. Chó sủa phát hiện niềm bí mật của du kích, chết cả giống nòi là đáng kiếp. Thằng Đường há hốc miệng kinh ngạc những tiếng Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân, nó không hiểu là cái thứ gì.


- Bác thay đổi một số chính sách lỗi thời, lạc hậu không làm vừa lòng nhân dân. Chẳng hạn, chính sách quân đội. Từ nay, ta chấm dứt Vệ quốc quân mà gọi là Quân đội nhân dân. Quân đội nhân dân ở nhân dân mà ra nên được dân mến, dân yêu, dân ủng hộ, dân gửi con cháu vào Quân đội nhân dân. Bộ đội ta vẫn dùng, vì chữ của ta. Từ nay, Bác quyết định không gọi là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa nữa. Mà gọi là Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đảng ta mới ra đời, gọi là Đảng lao động. Hồ Chí Minh, Bác của chúng ta, vừa là chủ tịch Đảng, vừa là chủ tịch Nhà nước.


Nhân dân vỗ tay phấn khởi. Đường nghệt mặt ra. Nó chả hiểu cái gì lạc hậu, cái gì không lạc hậu. Nghe những tiếng Đảng, Nhà nước nó choáng tai. Thiếu nhi phải học lại rồi, học lại từ đầu.


- Bác muốn nhân dân phải đứng về phía bần cố nông, căm thù địa chủ gian ác. Chính sách này, ta chỉ học tập để biết rõ giai cấp và thành phần của mình. Đợi tiêu diệt xong giặc Pháp, ta mới phát động đấu tố.


Đến đoạn này, chính ủy Kỳ Bá vỗ tay một mình, nhân dân vỗ tay theo. Người ta nóng lòng chờ đợi chính ủy làm thịt đám Hội Tề ấm ớ. Đường mù tịt những chữ bần cố nông, địa chủ, giai cấp và thành phần.


- Quân đội nhân dân về làng Tường An lần này, mang theo một thông điệp hoan hỉ của Bác, Đảng và Nhà nước gửi cho nhân dân Tường An.


Vỗ tay rào rào.


- Trước hết, Bác tuyên dương Ủy ban kháng chiến và hành chính Tường An, nay sửa lại là Ủy ban nhân dân Tường An, đã trung kiên với Đảng như cá với nước. Sau hết, Bác tuyên dương các cụ trong Ủy ban Hội Tề. Bác, Đảng và Nhà nước khích lệ các cụ lập ban Hội Tề, vờ trá hàng Pháp để cho Ủy ban nhân dân hoạt động. Các cụ thông hiểu cách mạng, chính trị cao nên Pháp sẽ tan rã.


Vỗ tay sôi nổi. Nhân dân quá khích làng Tường An vỡ lẽ. Họ từ bóng tối ra ánh sáng. Nhà nước ta bảo các cụ vào Hội Tề, các cụ không hề hé răng, cứ im lặng chịu đựng lời ve tiếng ong. Nay chính ủy Kỳ Bá tiết lộ, nhân dân mới hối hận đã nghĩ sai về Hội Tề. Đường chỉ thắc mắc chính trị cao với chính trị thấp.


- Các cụ trong Hội Tề cần làm việc tích cực hơn. Để sự tuyển quân và huấn luyện quân của chúng tôi đạt chỉ tiêu. Cán bộ các ngành cần rèn luyện cho thật xác đáng. Để Bác và Đảng tin tưởng. Sau đây, tôi chuyển mấy lời vàng ý ngọc của Bác gửi cho nhân dân Tường An và cán bộ.


Vỗ tay say mê.


- Người người thi đua


Ngành ngành thi đua


Ta nhất định thắng


Giặc nhất định thua


Tôi chấm dứt bài nói chuyện.


Tiếng vỗ tay không muốn dứt. Vỗ tay thật lòng. Mọi người bu quanh chính ủy Kỳ Bá hỏi han. Đường tiếc ghê, trong cuộc gặp gỡ thiếu thằng Khoa. Như thế, ngày mai hay ngày kia, chính ủy sẽ làm việc.


Tiểu đội 1 của trung đội 23 đang rải rắc khắp thôn trên, dạy nhân dân những bài hát mới. Bộ đội hôm nay khác hẳn bộ đội bốn năm trước. Khi Hà Nội thất thủ, nằm trong tay Pháp, bộ đội Thủ Đô, Ký Con đã về Tường An. Sau Thủ Đô, Ký Con, bộ đội ở Hải Phòng, Nam Định, với những tên nghe sáng mắt ấm lòng: Trung đoàn Thành Tô, Trung đoàn Sông Vỵ cũng đã về Tường An. Bộ đội đẹp giai, mặc quần áo nâu, đi chân đất, phong cách tiểu tư sản ngập đầy mắt họ. Bộ đội trí thức không tả nổi. Họ đúng là những người đi lang thang trên đường miên man. In hình qua mây núi xanh lơ bát ngát. Lúc kháng chiến xa nhà nhịp theo đời sống mới. Người mơ về chân trời nơi đồng quê. Lúc phá hết phố phường biệt ly đời gấm hoa. Người vui đời áo nâu, quên hết u sầu. Và đoàn người đi lang thang trên đường gian nan. Bộ đội năm 1946 lãng mạn kháng chiến và mộng tưởng cuộc đời. Họ về làng dạy thiếu nhi học, kể hàng trăm cổ tích, hàng ngàn truyện vui. Họ dạy Tường An những bài hát ngậm chất Ba Vì.


Ba Vì mờ cao


Làn sương chiều sa buông


Gió về hương núi thơm


Ru hồn về đêm


Tư xa xa mờ hương


Đồi lau úa chen hơi mùa ướt


Suối róc rách đâu đây


Gió đưa bâng khuâng lướt về ngàn mây


Ba Vì ơi


Thu mùa xưa


Tà áo em mùa thu


Từ xa mong nhớ Ba Vì ơi


Thời gian như muốn phai lòng người


Giang hồ ngừng bước


Nhớ nhung Ba Vì ơi


Chiều buông


Chiều buông


Tiếng chuông vang sớm chiều


Tiếng chuông vang tháng ngày


âm u


âm u


Những khi chiều ngã chìm lòng ta


Vầng trăng úa soi mầu hoa


Từ xa mong nhớ Ba Vì ơi


Thời gian như muốn phai lòng người


Giang hồ ngừng bước


Nhớ nhung Ba Vì ơi


Thương quê hương ai đó,


Đường về làng tôi xa xôi lắm


Cách mấy con sông dìu mấy lá đò,


dìu mấy lá đò


Một chiều xuân chìm ru say đắm


Bóng tre xanh in tà áo thơ


Nghe như đàn quyến luyến


ngàn hoa lối đi


Tơ đồng ôi thiết tha


mắt say chiều gió quê


Ôi mùa xuân đàn réo rắt Phượng Hoàng


đào ngát lối đi


Lòng bâng khuâng nhớ


đây mùa chinh chiến ngập ngừng lá nhớ hoa


Tàn giấc lửa khói


sa trường phai tiễn đưa


Và gửi hồn về bên kia sông Đuống:


Để con đi đánh giặc


Lấy máu nó rửa thù này


Lấy súng nó cầm trong tay


Mỗi đêm một lần mở hội


Trong lòng anh chim múa hoa cười


Vì nắng sắp lên rồi


Chân trời đã tỏ


Sông Đuống cuồn cuộn trôi


Để cuốn phăng ra bể


Bao nhiêu xương thịt tơi bời


Bao nhiêu nước mắt


Bao nhiêu mồ hôi


Bao nhiêu bóng tối


Bao nhiêu cuộc đời


Bao giờ về bên kia sông Đuống


Anh lại tìm em


Em mang yếm thắm


Em thắt lụa hồng


Em đi chẩy hội non sông


Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh


Họ đấy. Bộ đội năm xưa, lãng mạn cách mạng ngời ngời. Họ đi đâu rồi nhỉ? Họ mất hút trong gió lộng mù khơi. Anh Vệ quốc quân, dân chúng vẫn nhớ anh.


Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực


Vì say sưa tình thân thiết Vệ quốc đoàn


Anh từ phương nào lại


Tôi từ đất dấy lên


Chúng ta chung một Mẹ hiền


Lúa thơm bầu sữa bông mềm áo tơ


Vẫn nhớ anh hào sảng và sống đời đáng sống, chết đời đáng chết. Anh không sợ chết nếu chết cho quê hương. Anh không sợ sống nếu sống gian khổ cho kháng chiến. Từ quán bên đường, người dân nồng nhiệt mời anh.


Mời anh Vệ quốc dừng chân bên quán


Từ miền chiến chinh bụi đường thấm áo nâu


Sóng mắt căm thù còn vương khói súng


Lời đồng vang thắm ý sao Thu…


Ai vui tà áo rách vui ngày tháng


Bầy em tôi đang quay xa


Ngày mai yên vui chim ca


Mùa thu ơi đừng lưu luyến nhớ


Em có nghe từng tiếng hát hành quân ca


Bao gái trai chinh chiến xa quê nhà


Anh đúng là lính tiểu tư sản hào hùng và lãng mạn. Anh đã làm ra chiến thắng sông Lô, chiến thắng sông Đà, chiến thắng sông Thao… Người người mơ thành người sông Lô, mơ bước chân anh đi diệt giặc Pháp. Bộ đội năm xưa, những người kháng chiến năm xưa, đã in dấu ấn trong lòng dân tộc.


Bô đội năm nay, thế quyền lính tiểu tư sản, trung thành theo lính vô sản. Lính vô sản cũng hiền hòa và đôn hậu như lính tiểu tư sản. Nhìn đến mỏi mắt, không thấy một tia trí thúc nào toát ra và áng lên trong con người họ. Họ lại không sống, không bao giờ sống bằng mộng ước, kiếm chất lãng mạn ở họ chỉ uổng công.


Đêm nay, Khoa đi tìm chính ủy Kỳ Bá. Không gặp. Vì chính ủy Kỳ Bá công tác bên Đồng Đức. Khoa buồn tình ghé đến sân đình xem bộ đội dạy nhân dân hát.


Chỗ này, bộ đội phổ biến bài ca cho thanh niên:


Hoan hô bàn tay anh Kồng sô môn


Đã khơi dòng Von ga, Đông


đã mang về hạnh phúc cho toàn dân


Hoan hô bàn tay anh bạn Trung hoa


chắn sông Hoài


ngăn đau thương


Nước không tràn toàn dân no ấm


Tay anh khơi nắng thiêu trong mạch thủy nông


Tôi cố tranh lấy từng cánh đồng


Ta sống trong trường kỳ kháng chiến


Bàn tay anh đem về thêm bông


Bàn tay anh đem về thêm lúa


Bàn tay tôi băng niềm thương xót


Dắt dìu nhau tiến lên


Chỗ nọ bộ đội phổ biến bài ca cho phụ nữ:


Dân Liên xô vui hát trên đồng hoa


Kia Trung Hoa thơm ngát cho mọi nhà


Hoa bay sang Triều Tiên khói lửa


Hoa bay trong lòng người Việt Nam ta


Đấu tranh từng bừng địa chủ bóc lột


Sẽ mai thanh bình còn nhiều đồng hoa


Chỗ kia, bộ đội phổ biến bài ca cho nhi đồng:


Ta yêu hòa bình


Lòng ta mến yêu hòa bình


Chống quân thù chung


Dẹp tan âm mưu chiến tranh


Diệt thực dân Pháp


Là đấu tranh cho hòa bình


 


Hòa bình có chúng ta tiền phong


Hòa bình có Liên Xô vĩ đại


Hòa bình có Việt Nam anh dũng


Cùng đoàn kết đắp xây hòa bình


 


Quê hương chúng ta xanh ngát cánh đồng bao la


Noi gương Trung quốc, Liên xô ta xây cuộc đời


Quê hương chúng ta toàn dân trường kỳ kháng chiến


Tiến bước dưới cờ Ma lén cốp quang vinh


Khoa chán nản xem tập hát. Nó đang muốn về nhà đi ngủ, thì ở chỗ không xa mấy, dưới ánh trăng mờ, Đường nhìn thấy nó, gọi om sòm:


- Khoa ơi Khoa, mày đến đây mà coi. Hấp dẫn lắm. Đáng đồng cơm bát gạo lắm.


Khoa rời chỗ nhi đồng, sang chỗ Đường, chỗ chính ủy tiểu đội phổ biến bài ca cho nông dân:


- Hay tuyệt cú mèo, mày ạ!


Nhân dân Trung quốc đang ca hát rằng (à)


Đời ta ấm no sướng vui từ đâu (a)


Vì chúng ta có Đảng cộng sản (à)


Vì chúng ta có Bác Mao Trạch Đông (a)


Đã đứng dậy nắm tay phát động (à)


Ta lấy ruộng đất về cầy cấy tăng gia (a)


Noi gương Trung quốc dân ta hát rằng (à)


Bền gan đấu tranh chúng ta chung niềm tin (a)


Vì chúng ta có Đảng lao động (à)


Vì chúng ta có Bác Hồ Chí Minh (a)


Ta đứng dậy đồng thanh phát động (à)


Diệt địa chủ cường hào ác ôn lưu manh (a)


- Hay ba chê không?


- Hay, nhưng tao phải về.


- Về làm cái gì?


- Về ngủ.


- Thế thì không ba chê rồi. Tao cũng về với mày.


- Mày nên ở lại.


- Làm đếch gì! Nhiều câu hát tao không hiểu nghĩa.


- Thật hả?


- Ừa.


- Về thôi.


Hai thằng bé đi bên nhau, bước khỏi sân đình. Đêm nay, mới là đêm rã rời nhất của Khoa. Nó đã thấy bộ đội. Bộ đội mới toanh, không dính dáng tí nào với bộ đội cũ. Cũng quần áo nâu, bộ đội cũ mặc gọn gàng, quý phái; bộ đội mới mặc luộm thuộm, tiều tụy làm sao. Mới là không lạc hậu, cũ là lạc hậu. Bộ đội cũ, bài hát cũ: Lạc hậu. Bộ đội mới, bài hát mới: Không lạc hậu. Bài hát cũ hay, dễ hiểu: Lạc hậu. Bài hát mới dở, khó hiểu: Không lạc hậu. Lạc hậu là gì? Không lạc hậu là gì?


- Khoa ơi, bộ đội ở nông thôn mà ra cả đấy.


Khoa đang muốn so sánh bộ đội cũ với hạng người nào trong xã hội. Đường tương câu nói may mắn.


- À, thế chứ!


- Quân đội nhân dân mà lỵ, mày ạ!


- Tao cần gặp anh chính ủy trung đội.


- Mày có thắc mắc, hả?


- Không, tao muôn biết anh ta cũ hay mới.


- Tao cũng muốn gặp. Để tỏ thắc mắc lung tung beng.


- Thí dụ?


- Chẳng hạn anh Kồng sô môn là thằng nào, dòng Von ga, dòng sông Đông ra sao, Liên xô cao hay thấp, Triều tiên béo hay gầy, Ma lén cốp có hút thuốc phiện không?


- Sao không hỏi chính ủy tiểu đội?


- Chính ủy chính iếc cũng là con nông dân như tao, biết cái chó gì mà giảng nghĩa! À này, Khoa, Trung hoa và Trung quốc khác nhau, hở?


- Là một.


- Còn Tầu?


- Là Trung hoa, Trung quốc.


- Mày giảng lịch sử cho tao rằng, Mã Viện, Thoát Hoan, Ô Mã Nhi, Hốt Tất Liệt, Trương Phụ, Tôn Sĩ Nghị là tụi Tầu sang chiếm nước ta, đánh bỏ mẹ chúng nó đi ấy chứ! Nay, bài hát mới, chỗ thì hoan hô Tầu phù, chỗ thì noi gương Mao Trạch Đông là làm sao?


- Tao không biết.


- Mày đừng giả vờ.


- Không biết thật tình.


Đường chẳng hỏi gì nữa. Khoa hoàn toàn im lặng. Hai đứa vẫn sóng đôi, thong thả bước đều. Hai ông nhãi chìm trong bóng tối, thứ bóng tối điên đảo của cách mạng sang năm thứ 5, thứ bóng tối làm con người giẫy giụa. Vì lạc hậu rồi…


 


86


 


Đi tìm gặp chính ủy Kỳ Bá thật khó. Phải đợi đêm rằm, trăng thật sáng, nếu trời không mưa, mới biết rõ dung nhan chính ủy. Còn mươi hôm nữa sẽ đến rằm, chắc chính ủy ở Tường An lâu, sẽ có dịp cho Khoa đối diện.


Từ ngày Pháp về làng, phong trào thiếu niên nhi đồng đã tự nhiên dẹp bỏ. Ở thôn dưới, Khoa chỉ còn chơi với Đường thôi. Tường An vào tề, rồi bộ đội về Tường An, cũng Đường thông báo Khoa những tin tức xẩy ra. Lần này, bộ đội dùng danh từ khó khăn như lời bài hát nên Đường nhớ không kịp. Trưa hôm qua, Đường lần sang nhà Khoa, nói lại chuyện chính ủy Kỳ Bá tuyên bố trước dân làng. Khoa hiểu Quân đội nhân dân ra đời, Vệ quốc quân bị giải tán. Nhân dân không được gọi Chính phủ. Mà phải kêu là Nhà nước. Bây giờ, câu nói thiêng liêng Bác, Đảng và Nhà nước phải nằm lòng. Và phải nói nghiêm túc. Chữ nghĩa có dâu biển của chữ nghĩa. Cái mới thay thế cái cũ. Nhóc con thở toàn danh từ của người lớn. Nói nghiêm túc. Nghe nghiêm túc! Phổ biến và báo cáo. Phát động và đấu tố. Mới đấy.


Nói đến mới, Khoa tiếc cũ vô vàn. Vệ quốc quân bỏ đi. Bài hát bốn năm trước bỏ đi. Quân đội nhân dân đâu có hay hơn Vệ quốc quân, bài hát mới quá dở. Bác, Đảng và Nhà nước tiêu diệt Vệ quốc quân và bài hát mới nhằm mục đích gì, Khoa chẳng cần biết. Chỉ biết cái để thay thế nó tệ mạt hơn cái bị thay thế. Bữa nay, Khoa buồn chán và tức tối, hát thầm nhạc cũ cho đỡ nhớ:


Vì nhân dân hy sinh


Anh em ơi vì nhân dân quên mình


Đoàn Vệ quốc chúng ta


ở nhân dân mà ra


được dân mến


được dân thương


dân ủng hộ


Thề vì dân suốt đời


Thề tranh đấu không ngừng


Vì đất nước thân yêu mà hy sinh…


Vì nhân dân quên mình


Ừ, đâu có cần làm Quân đội nhân dân đâu. Mà cũng được dân mến, dân thương. Vệ quốc quân từ nhân dân mà ra. Nó không được chết cho nhân dân. Nó bị đâm sau lưng, bởi những con người phản bội.


Đoàn quân chiến thắng đi suốt đêm ngày


Mẹ ơi con đã về đây


Cha già chót vót giơ tay đón mừng


Anh ơi anh tỉnh lại


Nước mắt tôi rưng rưng


Hình như tôi đã mơ màng


Phải rồi anh Vệ quốc đoàn


Đêm nay say tiệc liên hoan


Ngày mai xé xác moi gan quân thù


Bao giờ thu lại tới thu


Liên hoan bừng nở bốn mùa non sông


Rõ ràng thay, oai hùng như Vệ quốc quân! Lấy máu giặc Pháp bằng sự ngang tàng của mình. Chỉ có Vệ quốc quân.


Quân dân nhất trí tiếng kèn kết đoàn


Người Việt Nam mau vai sát kề vai


Quyết đem tâm trí giết loài tham tàn


Cùng Vệ quốc quân kết liên muôn đời


Ngoài tiền phương da ngựa bọc thây chiến sĩ


Sĩ nông công thương hợp lực xây nước nhà


Nào cùng đi ta đừng nề chi


Vai sánh vai trên đường vinh quang


Phá tan xích xiềng


Bấy lâu gông cùm


Đòi hạnh phúc xây nền tự do


Quân dân nhất trí tiếng kèn kết đoàn


Quân dân nhất trí xây tình đoàn kết


Cố sao nước Nam danh lừng bốn phương


Ở đâu cũng có Vệ quốc quân. Như thể Vệ quốc quân là tay vịn của nhân dân. Tại sao Bác, Đảng và Nhà nước lại giải tán Vệ quốc quân?


- Khoa ơi!


Đường lại mon men sang chơi.


- Ơi.


- Mày ở đâu?


- Trên cây sung.


Đường ra bờ ao, trèo lên cây sung.


- Năm ngoái, giờ này đang vui nhỉ.


Khoa đáp:


- Ừa.


- Tao ngỡ năm ngoái phải mất nhiều năm mới tới năm nay. Năm nay, buồn ghê thật. Thiếu nhi… thất nghiệp! Thì giờ rảnh rỗi chả biết làm gì.


- Học tập!


- Học tập cái gì?


- Bác, Đảng và Nhà nước!


- À, tao với mày đùa tí chơi.


- Gì?


- Báo cáo Bác, Đảng và Nhà nước cho đỡ buồn.


- Dạo này anh Đường khá không?


- Báo cáo, nhờ ơn Bác, Đảng và Nhà nước cháu vẫn no nê.


- Đồng chí học hát ra sao?


- Báo cáo Bác, Đảng và Nhà nước, bài ca khó nuốt như cá rô sống ấy, lời ca thì rắc rối cuộc đời. Báo cáo cháu vẫn chẳng hiểu thằng Kồng sô môn là thằng nào, dòng Von ga là ký gì, cờ Ma lén cốp có đỏ sao vàng không?


- Sao không hỏi?


- Báo cáo Bác, Đảng và Nhà nước, bố cháu nhân dân i tờ biết cái gì mà hỏi!


- Hỏi chính ủy tiểu đội.


- Báo cáo Bác, Đảng và Nhà nước, chính ủy còn nói ngọng, biết cái đíu gì!


Khoa cười sằng sặc. Cười thích thú. Hai tay nó bám vào cành sung, sợ ngã xuống ao, ướt như lột, phải mất công thay quần ao. Đường cũng phá ra cười.


- Mày khôi hài tuỵêt.


- Như cú chó hay cú mèo?


- Tuyệt cú mèo! Mày khôi hài tự bao giờ đấy?


- Từ hôm Quân đội nhân dân chê Vệ quốc quân và bài hát cũ lạc hậu!


- Mày nghĩ sao?


- Tao không chê Vệ quốc quân. Vẫn nhớ Vệ quốc quân và bài hát cũ như thường. Mình học thuộc từ hồi bé nhỏ, khó lòng quên lắm. Nếu người ta không cho hát lớn, tao hát bé; cấm hát, tao lén lút hát thầm.


Khoa bảo Đường:


- Mình ra tha ma Ông Cả đi.


Khoa xuống khỏi cây sung trước. Đường xuống sau. Hai đứa bá vai nhau bước.


- Tao hỏi bố tao rồi. Kồng sô môn là Komsomol, thanh niên bên Liên xô, tương tự Thanh niên Hồ Chí Minh ấy; Von ga là con sông Volga, Đông là con sông Don ở bên Liên xô; Liên xô là nước Liên bang xã hội cộng hòa xô viết; Triều tiên là nước Cao ly đang đánh nhau; Ma lén cốp là Malenkov, tổng bí thư Đảng cộng sản Liên xô.


- Mẹ, rắc rối quá nhỉ!


- Ừa.


- Mình là Việt Nam, liên quan gì tới cộng sản bên Liên xô, bên Tầu phù, mà phải hát. Đúng là rắc rối tơ vò.


- Bố tao bảo cộng sản là vô sản.


- Cộng sản là củ đàn ông hay cái đàn bà?


- Mày thích cho nó làm củ hay làm cái?


- Một thứ à?


- Cả hai.


- Tao cho cộng sản và vô sản là cái đàn bà!


- Malenkov?


- Củ đàn ông.


- Mao Trạch Đông?


- Củ lõ thái tuế!


Hai thằng lại cười rộ. Sung sướng. Chúng nó đã rẽ vào con hẻm dẫn đến bãi tha ma Ông Cả. Hai đứa ngồi trên một ngôi mộ. Tường An vắng lặng. Ít ai ra đây. Ngày xưa, những cặp trai gái thường dẫn nhau tới bãi tha ma tình tự. Bây giờ, loạn ly, chẳng ai thiết chuyện tình mây mưa.


- Mày rủ tao ra đây làm cái gì?


- Hát thi.


- Thi đua theo lời Bác dạy, hả?


- Xem thằng nào nhớ kỹ.


- Hát cho ma nó nghe?


- Mày giỏi ghê. Ừ, người không nghe nữa thì ma nghe!


- Hát to hay bé?


- To.


- Tao hát trước nhé!


Đường hắng giọng, rồi lên tiếng:


- Vượt sông Đà tiến sâu vào Tây Bắc đây.


Sông Đà cùng với sông Thao


chẩy về xuôi


Nước sông Thao thắm hồng


hừng hực chẩy về xuôi


Nước sông Đà băng băng trôi


giữa đôi bờ xứ Lạng


Bên kia sông Đà


giặc còn chiếm đóng


Bên kia sông Đà


dân còn tủi nhục lầm than


Có ruộng không được cầy


có nhà không được ở


Con trai phải đi phu đi lính


con gái đêm đêm phải đi ngủ rừng


Khoa bắt chước Đường nói:


- Du kích sông Thao đây.


Hồng Hà


mênh mông


trôi cát tới chân làng quê


Cuối sông


Ngoài bến ai về


có những đồng lúa xanh rì


bát ngát đồng mía


ven bờ đê


Hồng Hà


trôi xuôi


dòng nước trên ngàn về xuôi


Sông Thao


Ngoài bến Việt Trì


có những chàng áo nâu về


say sưa dòng nước


vui tràn trề


Bên sông


đoàn quân du kích ẩn từng lều


Nơi đây


người không tới họp chợ chiều


Sông Hồng Hà réo


Ú u u ù


Chiến binh


về đây đứng rợp một trời


Vui lên


lời ca sống ngập lòng người


Sông Hồng Hà réo


Sông Hồng Hà reo…


- Phiên tao này: Quê hương người bộ đội


- Phiên tao đây: Người lính bên kia…


Mỗi đứa hát hàng chục bài. Cho ma ở nghĩa địa nghe. Cho người đã nằm yên ở dưới mồ nghe. Có lẽ, ở nước Việt Nam, thời kháng chiến chống Pháp, chỉ hai thằng nhóc làng Tường An đã làm buổi tiễn đưa sự vĩnh biệt của chu kỳ rực rỡ âm nhạc. Hai thằng nhóc chưa dám nghĩ đến thế, không dám nghĩ đến thế. Vô tình, nó đã xảy ra như thế. Hai thằng nhóc đưa nhau ra bãi tha ma vắng lặng, hát những bài ca lạc hậu cho đỡ tức, cho bớt nhớ; ai dè đâu, chúng đã tạo nên cảnh tượng cảm động vô cùng.


Mọi người sẽ nhớ, cuối tháng 9 năm 1950, hai thằng nhóc Tường An, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình, Đường và Khoa, đã rung một hồi chuông cáo phó nền âm nhạc lãng mạn kháng chiến tại bãi tha ma Ông Cả. Chúng rung chuông cho ma quỷ nghe, cho người đã chết hay vừa chết nghe, cho lũ phản bội nghe. Cho cả những kẻ đang lập công ta dâng lên Bác nghe…


Khoa và Đường còn muốn hát nữa. Bóng tối sắp trùm tha ma. Hai đứa phải về nhà.


(Còn Tiếp)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn