BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 72630)
(Xem: 62055)
(Xem: 39150)
(Xem: 31020)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Tháng Giêng nhớ bác Năm Tường!

01 Tháng Hai 201212:00 SA(Xem: 1161)
Tháng Giêng nhớ bác Năm Tường!
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00
Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ? 

Vũ Đình Liên

Tháng Giêng năm 1979, trại giam T 20 Phan Đăng Lưu ồn lên những lời đồn đãi là cộng sản Tầu đang động binh ở vùng biên giới mạn Bắc để đánh cộng sản đàn em Việt Nam. Tù nhân trong trại xì xầm bàn tán. Người thì hy vọng là tình hình sẽ sớm thay đổi để thoát cảnh “cá chậu – chim lồng”; người thì quan ngại là Tầu mà thắng thì đất nước sẽ còn bi đát hơn; người thì dửng dưng phản ảnh tâm trạng chẳng còn trơng mong gì nữa. Dù sao, thì những tin tức chẳng có gì là chính xác lọt từ bên ngồi do những người mới bị bắt cũng giúp đời tù bớt nhàm chán, phần nào quên đi những đói khát, ghẻ lở, nóng bức của phòng giam nêm người như cá mòi sắp lớp trong hộp.


Trong bối cảnh đó, một số tù ở các phịng nhận lệnh chuyển trại.


Một buổi sáng, kẻng vừa điểm, báo hiệu giờ làm việc của trại, các quản giáo trại giam tay cầm danh sách đến từng phòng đọc tên những tù nhân phải chuyển trại. Không khí ồn lên như một cái chợ. Tiếng “cục tác” vang từ phòng này sang phòng khác. Hầu như mọi người ai cũng ngoác miệng kêu lên thành tiếng như gà sắp bị đem đi làm thịt . Tiếng kêu truyền khắp nơi nghe như âm thanh của một lò sát sinh. Chả là tù nhân gọi những lần chuyển trại là “bắt gà”. Hình ảnh người ta thò tay vào chuồng lùa bắt từng con gà đem đi giết lấy thịt gây ra sự hoảng loạn cho loài gia cầm này ra sao, thì cảnh của các phòng giam mỗi khi có lệnh chuyển phòng, hay chuyển trại y như thế. Người đi ưu tư lo lắng, không biết rồi về đâu; còn người ở lại thì buồn bã, vì không biết ở là nặng tội, hay đi là nhẹ tội.


Từ phòng 5 khu C 2, tôi và một số người nữa bị chuyển sang phòng 2 khu A, nhập cùng với tù nhân từ các phòng giam khác. Chuyến chuyển phòng lần này giúp tơi rút ngắn được hình phạt bị còng tay 90 ngày vì tội đánh ăng ten.


Vừa bước chân vào phòng giam mới, tơi vui mừng vì gặp lại hai người bạn tù đã cùng ở với nhau những tháng trước đó ở phòng 5 khu C 1, là anh Hồ Chánh và anh Nguyễn Văn Lịch. Chưa kịp bỏ những vật dụng nhếch nhác của đời tù xuống đất, anh Lịch đã nắm tay tôi kéo về phía góc phòng và giới thiệu với một ông già mà mới nhìn, tôi biết ngay đó là nhân vật tiếng tăm lừng lẫy: Hồ Hữu Tường. Anh Lịch nói, bác Năm, thằng Thái nè, nó tức là thằng Giao mà anh Linh tính đưa đến gặp bác Năm lúc chưa bị bắt đó.


Lời giới thiệu của anh Lịch lôi tôi về cái đêm mưa gió tầm tã ở chân cầu Thị Nghè vào những ngày gần cuối năm 75. Đêm đó, tôi đạp xe đến một điểm hẹn để cùng anh Linh đi gặp bác Hồ Hữu Tường. Anh Linh, tôi đã có dịp quen khi đi sinh hoạt với Đoàn Văn Công Chí Linh do Nhạc sĩ Viết Chung cầm đầu tại Trung tâm Huấn luyện Cán bộ Quốc gia Vũng Tầu. Cái hẹn đêm đó là để tôi tham gia hoạt động trong tổ chức của bác Hồ Hữu Tường. Gặp anh Linh, anh bảo, đêm tối gió mưa thế này mà lò mò đến nhà bác Năm thì không an tâm lắm, vì căn nhà trong ngõ hẻm gần rạp si nê Đa Kao của bác Năm thường xuyên bị công an theo dõi. Thế là chúng tôi chia tay, anh Linh hẹn tôi một dịp khác.


Trước đêm đó, tôi nhờ Hồng Anh, một người bạn là học trò tiếng Tây Ban Nha của bác Năm để ý dùm tôi mọi động tịnh chung quanh nhà bác, mỗi khi anh đến nhà bác để học. Anh bảo tôi chắc anh cũng phải thôi không dám đến học nữa, vì mỗi khi ra vào, công an nơi phường bác Năm ở để ý anh kỹ lắm. Hồng Anh bây giờ làm chủ báo một tờ tuần báo rất thành công ở Melbourn bên Úc. Năm 1994, khi tôi sang Úc chơi, gặp lại nhau, Hồng Anh bảo, hú hồn, may mà vượt biên sớm, chứ không thì đã oan mạng vì vụ bác Năm bị bắt.


Bác Năm vóc người hơi thấp, da xanh tái, hàm răng to, chắc và cáu vàng. Hai tai của Bác Năm dài, dầy, trông như tai Phật. Bác Năm nhìn tôi xoi mói. Bác bảo, thằng Thái mày ăn cơm chung với tao và hai anh Chánh và Lịch nghe, để bác Năm mày nói chuyện cho mày nghe.


Bác Năm mày”, cách nói thân mật, xuề xòa đặc thù của người miền Nam.


Bữa ăn chung đầu tiên, nhìn bác Năm đưa tô canh chung của cả bốn người lên húp, tôi thương bác quá đi thôi. Cái tô nứt nẻ, được vá chằng vá chịt bằng mủ ny lông, chứa một thứ nước lõng bõng với vài lát bí đỏ nhạt thếch. Tôi nói đùa với bác mà muốn ứa nước mắt “đời bác Năm te tua y như cái tô phải không bác”. Ông già cười bảo tôi, người ta gọi bác Năm mày là Hồ Hữu Tù mà, thời nào bác Năm mày cũng đi tù, tù Tây, tù Quốc gia, tù Cộng sản.

Ba ngày ở phòng 2 khu A trước khi chuyển sang trại giam T 30 Chí Hòa, bác Năm đem bàn cờ thế ra luận cho tôi nghe về thời cuộc và kể diễn tiến việc bác và các đồng chí của bác bị bắt. Bàn cờ thế là hai bên tướng đỏ đen đã lộ mặt. Bên đen, một con tốt đã qua sông chắn mặt tướng, hai xe đen kè ngang hông tướng đỏ, trong khi chân chiếu của mã đen ngay cung tướng đỏ, nên tướng đỏ hết đường lui. Bên đỏ, chỉ cần một nước chiếu xe nữa là tướng đen đi đời. Tới phiên bên đen tấn công, hai xe đen vỗ vào mặt tướng đỏ, tướng đỏ lần lượt ăn lên, nhưng lại bị chốt đen dí xuống. Tướng đỏ thua, không ăn lên chốt đen được vì lộ mặt tướng đen. Bác Năm giải thích, hai xe đen, một là Việt Nam Cộng Hòa, một là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tướng đỏ là cộng sản miền Bắc, còn con tốt đen chính là bác Năm và tổ chức của bác Năm. Bác bảo tôi, Việt Nam Cộng Hòa đã thua ngày 30 tháng Tư, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã bị xóa sổ sau khi cộng sản miền Bắc vào Nam; trong những ngày sắp tới, cộng sản miền Bắc phải nhượng quyền lại cho tổ chức tên là Việt Nam Độc Lập -Thống Nhất -Trung Lập Đồng Minh Hội do bác lãnh đạo.

Câu chuyện của bác ly kỳ, hồi hộp như chuyện võ hiệp Kim Dung vậy, nhưng tôi vẫn nghe.


Về việc bác và tổ chức của bác Năm bị bắt, bác cho biết, ngay khi cộng sản chiếm miền Nam, bác đã in một tập tài liệu của Việt Nam Độc Lập -Thống Nhất-Trung Lập Đồng Minh Hội, rồi gởi trực tiếp bằng đường bưu điện cho tất cả giới lãnh đạo Đảng cộng sản, từ Bộ chính trị cho đến các Trung ương ủy viên và Tỉnh ủy các tỉnh. Trong tài liệu, bác nói rõ về nhu cầu bắt buộc Việt Nam phải Trung Lập trong bối cảnh tình hình của khu vực Á Châu. Ông già khẳng quyết rằng, Trung Lập là giải pháp duy nhất cho Việt Nam, và bác là người đầu tiên của Việt Nam kiên trì đeo đuổi lập trường này. Nên, một mai khi tình thế bị o ép, cộng sản Hà Nội phải nhượng bộ để chấp nhận Trung Lập thì họ sẽ bắt buộc phải cậy nhờ đến bác. Bác còn lôi trong chiếc túi tù bộ quần áo veste cùng đôi giầy đen và nói rằng, vì sợ tình thế biến chuyển mau quá, không kịp về nhà lấy quần áo mặc trong lễ tiếp nhận chính quyền từ tay cộng sản, nên bác đã nhờ công an chấp pháp về tận nhà bác mang quần áo giầy dớ cho bác. Chính vì câu chuyện này mà nhiều bạn tù của chúng tôi đã sống với mơ ước có ngày theo chân bác thoát đời tù và giành lấy chính quyền trong vinh quang.


Ba ngày cuối cùng ở trại giam T20, chúng tôi không được phát chiếu muỗng chén ăn cơm. Bác Năm bảo, nó hành mình trước khi thả đó. Rạng sáng ngày thứ tư, từng hai người một, chúng tơi bị còng tay đưa ra xe để chuyển trại. Căn cứ vào số lượng thực phẩm là một ổ bánh mì mà công an phát cho mỗi người, tôi đoán là chúng tôi sẽ bị chuyển qua một trại giam nào đó rất gần, chứ nếu chuyển xa thì khẩu phần sẽ từ 3 đến 5 ổ bánh, và được phát cả nước uống nữa. Kinh nghiệm tù giúp tơi đoán như thế.


Quả thật, chúng tôi đến trại giam T30 Chí Hòa vào khoảng 9 giờ. Tôi lại may mắn được ở chung với bác Năm cùng hai anh Chánh và Lịch. Tổ cơm chung của bác cháu chúng tôi vẫn thế, vẫn những lần húp canh chung trong một thau nhựa, thức ăn gia đình nuôi thì phải dè sẻn từng tí một, vì không biết lần nuôi kế tiếp sẽ là bao giờ.


Một tuần liền, trại giam không phát chiếu tô muỗng, không cho đi tắm. Cái nóng hầm hập làm mồ hôi tù nhễ nhại, phát điên lên vì thèm một gáo nước xối lên người. Bác Năm bảo, tụi nó thử mình trước khi thả đó, ráng chịu đựng, đừng chống đối. Bước sang tuần thứ nhì, đúng chu kỳ một năm vài lần trại giam cho tù ăn thịt heo, mỗi người chỉ được một miếng mỡ thịt bầy nhầy bằng đầu ngón tay cái với vài muỗng nước mỡ mặn chát muối, nhưng cũng đủ làm vui đời tù. Hạnh phúc hơn nữa là còn được phát chiếu tơ muỗng nhựa, và sướng cực kỳ là được đi tắm. Đời sống trại giam bắt đầu vào nhịp bình thường, nghĩa là ngày cơm hai bữa, tuần tắm hai lần, và hầu như không ai còn bị gọi lên văn phòng thẩm vấn nữa, vì chuyển qua Chí Hịa là xem như hồ sơ đã xếp lại, án tù bao nhiêu thì chỉ có … Lê Đức Thọ biết.


Vậy mà bác Năm vẫn lạc quan như thường. Ông già Cái Răng – Cần Thơ này bảo tôi, tụi nó để mình dưỡng sức trước khi thả đó. Đúng là khẩu khí nghịch ngợm, vui tếu, coi trời bằng vung của nhân vật mõ làng Cổ Nhuế (tựa của một trong những tác phẩm của Hồ Hữu Tường).


Những người tù ở phòng 9 khu BC Chí Hòa vào những tháng đầu của năm 1979 chắc hẳn không quên được hình ảnh của bác Năm. Ông già có thói quen, mỗi lần đi tắm, lúc nào bác cũng lượm lặt đem lên phòng những sợi chỉ tìm thấy chung quanh bể tắm. Bác tỉ mỉ nối các sợi này với nhau và đan thành một cái găng tay với năm ngón lòi ra ngoài. Cái găng sù xì đó bác đeo vào tay phải và dùng để kì cọ thân thể mỗi khi đi tắm. Tối đến, bác giăng mùng rồi vắt hai bên lên như một cái lều. Đó là giờ bắt đầu bác đem cờ thế ra chơi, rồi bảo hai đệ tử là anh Chánh và anh Lịch đi gọi từng người mà bác đã nhắm trước đến “lều vải” để bác luận thời cuộc cho nghe. Khi bác say sưa nói, hai anh Chánh và Lịch kính cẩn lắng nghe, cho dù câu chuyện đêm nào gần như cũng cùng một nội dung: “bác Năm mày sắp được thả để ra tiếp quản chính quyền.”


Những người trẻ trong phòng thì có người vì tin bác tuyệt đối nên chìm đắm trong hy vọng vào ngày sẽ “có danh gì với núi sông”; có người thì phân vân lắm, không biết thực hư ra sao. Những người tù thuộc thế hệ ít nhiều đã biết bác Năm thì dửng dưng, thậm chí có người còn xa gần mỉa mai cho rằng bác Năm hoang tưởng, tếu, ngây thơ.

Một kỷ niệm tôi cứ nhớ hoài về bác.


Một buổi trưa, như mọi ngày, sau khi cho những tù nhân đã có án làm lao động trong trại lên các phòng lấy thùng đựng cơm để chuẩn bị cho bữa ăn chiều, công an coi trại giam khóa các cửa sắt nơi ngăn chia các khu. Hôm đó, không biết vì lý do gì, hơn một giờ trưa rồi mà kẻng báo dứt giờ nghỉ vẫn không điểm. Trại giam thì không khí vắng lặng như tờ. Bác Năm là người phá tan cái im ắng đó. Bác phán tỉnh bơ rằng, tụi nó rút chạy rồi, anh em chuẩn bị phá cửa để về. Thế rồi bác Năm bèn “triệu tập một buổi họp khẩn” với đám trẻ, và bắt đầu phân công thằng này làm việc này, thằng kia làm việc kia để chuẩn bị tiếp quản chính quyền. Bác Năm giao cho tôi nhiệm vụ khi ra tới ngoài phải huy động xe đò chở anh em tù nhân của trại giam đến tập trung ở sân vận động Cộng Hòa để chờ nghe lệnh bác. Tôi còn nhớ, tôi đùa với bác rằng, trong khi chưa phá được cửa phòng giam, anh em cần phải bảo vệ bác vì sợ còn thằng công an nào nó căm thù nó xả súng vào phòng thì chết. Tôi cùng vài anh em khác đến ngay chỗ chứa các thùng nước của toàn phòng, nơi có bức tường si măng cao tới đầu gối, rồi cả đám chuyển các thùng nước để có chỗ làm “nơi ẩn trú” cho bác Năm. Tôi vừa làm vừa cười vì biết là mình đùa, còn những anh em khác, tâm trạng họ ra sao quả tình tôi không rõ. Ba giờ, sinh hoạt toàn trại trở lại bình thường, công an lên mở cửa từng phòng để cho lãnh cơm. Không biết lúc đó ông già Năm của tôi nghĩ gì.


Ra khỏi tù vào cuối năm 83, hơn hai tháng sau tôi vượt biên vì bị công an đến nhà bắt lần nữa nhưng may quá, chúng bắt hụt! Đến Mỹ, tôi có dịp gặp nhiều người cùng thế hệ bác Năm và có người là bạn bác Năm. Nghe tôi kể những kỷ niệm trong tù với bác Năm, những chú bác này cười và bảo, Hồ Hữu Tường “giả mù sa mưa” để cho cộng sản nghĩ rằng ông không còn minh mẫn nữa và đánh giá thấp ông; chứ phải nói cho đúng, Hồ Hữu Tường là một trong những trí tuệ lẫy lừng của Việt Nam và từng ngang dọc trong suốt chiều dài lịch sử tranh đấu cận đại của đất nước mình.

Tìm đọc những tác phẩm của Hồ Hữu Tường và những cuốn sách của các tác giả khác nói về bác Năm, tôi thấy rằng, quả thật, bác Tường đã để lại rất nhiều di sản cho Việt Nam trong lãnh vực văn hóa cũng như trong công cuộc đấu tranh cho tự do-hạnh phúc của dân tộc mình. Chứ không như hình ảnh bác Năm mà tôi từng hiểu không đúng trong thời gian ở với bác nơi các trại tù cộng sản.

Đêm cuối cùng trước khi bác Năm và hai anh Chánh và Lịch bị chuyển trại, bác cầu cơ xem mọi việc sẽ ra sao. Từ bé, đây là lần đầu tiên tôi dự một buổi cầu cơ. Bác Năm dùng một mảnh gỗ nhỏ lượm được lúc đi tắm vào buổi sáng để làm vật cầu cơ. Tôi thề là không thấy gì lạ hết, nhưng bác bảo cơ linh lắm, cơ đang chạy và cơ nói là sắp có biến chuyển đến nơi rồi. Không khí ban đêm ở trại giam như rờn rợn khi bác nói cơ là vong người chết ngay chỗ bồn chứa nước ở trung tâm trại giam.

Cơ linh thật!

Sáng hôm sau, một buổi sáng tháng Sáu năm 79, bác Năm và hai đệ tử cật ruột bị bắt cùng vụ là Hồ Chánh và Nguyễn Văn Lịch bị gọi tên chuyển trại cùng với một số tù nhân của các phòng giam khác. Giờ phút chia tay, bác Năm nói với tôi, chắc chắn là tao được thả để tiếp quản chính quyền, kỳ nuôi sắp tới, mày sẽ nhận được quà của bác Năm gái mày, mày nhớ coi kỹ hũ mắm ruốc, sẽ có tin tao gởi vào.

Đó là lần cuối tôi nhìn thấy bác Năm Tường. Bác bị chuyển đi lao động ở trại giam Hàm Tân. Sau này, khi được thả ra khỏi trại giam Chí Hòa vào năm 83, tôi được tin bác đã mất hai năm trước. Anh em bạn ở trại giam Hàm Tân được thả về nói với tôi là bác Năm bị đau nặng, công an đưa bác về nhà, xe bị lật trên đường, bác được đưa vào nhà thương chữa trị, rồi đưa về nhà. Bác Năm vĩnh viễn ra đi với sự chứng kiến của bác Năm gái. Còn anh Chánh và anh Lịch thì đã hơn 20 năm rồi, tôi không biết tin gì về hai anh.

Bác Năm không còn nữa. Nhiều người cùng tù với bác cũng không còn nữa. Bác Nguyễn Tiến Hỷ, chú Vũ Hữu Bính chết sau khi được thả. Bác Thái Lăng Nghiêm qua Thụy Sĩ mới chết. Anh Nguyễn Đan Quế thì bị tù nhiều lần nữa vì cương quyết chống lại cường quyền, hiện đang sống ở Sài Gòn nhưng bị quản chế tại gia rất gay gắt. Anh Đoàn Viết Hoạt thì đang tỵ nạn trên đất Mỹ và vẫn nhiệt huyết như ngày nào. Những người nói trên và nhiều người nữa cũng như bác Năm Tường, cả một đời tận tụy mà vẫn chưa nhìn thấy một Việt Nam tươi sáng.

Lại thêm một cái Tết xa quê nhà. Mấy hôm nay, thời tiết ở Quận Cam gió hiu hắt lạnh khiến tôi nhớ quá đỗi, những cái Tết trong tù.

 Viết những giòng này, con nhớ thương bác vô cùng bác Năm ơi! Thương bác những ngày nghiệt ngã trong trại giam, bưng chén canh chung lên môi nuốt cùng bao nỗi cay đắng khổ cực của một phận người suốt đời mưu cầu cái chung cho dân tộc.

Đinh Quang Anh Thái

01-02-2012

Theo Blog Đinh Quang Anh Thái
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn