BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73328)
(Xem: 62237)
(Xem: 39424)
(Xem: 31172)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Trận Chiến Hè-Thu Năm 1966 Ở Bến Hải

23 Tháng Bảy 201012:00 SA(Xem: 1929)
Trận Chiến Hè-Thu Năm 1966 Ở Bến Hải
51Vote
41Vote
30Vote
20Vote
10Vote
4.52
TÌNH HÌNH Ở VÙNG PHI QUÂN SỰ NĂM 1966

Chiến trường ở phía Nam sông Bến Hải bắt đầu sôi động từ tháng 6 năm 1966 khi Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tung quân vượt Vĩ Tuyến 17 xâm nhập vào Vùng Phi Quân Sự (Demilitarized Zone, viết tắt là DMZ) mà Hiệp định Geneve đã xác lập đó là vùng phi chiến. Để đối phó với tình thế, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam đã lập kế hoạch phòng thủ tại phía Nam Vĩ Tuyến 17. Vào thượng tuần tháng 7/1966, tin tức tình báo ghi nhận các cuộc chuyển quân của khoảng 2 trung đoàn Bắc Việt vào phía Tây Nam Bến Hải. Trước cuộc diện mới của tình hình chiến sự, ngày 12 tháng 7, Đại Tướng Williams Westmoreland cùng với đại diện của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH ra Đà Nẵng để họp bàn cùng với Trung Tướng Lewis Walt (Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến tại Việt Nam) và Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư Lệnh Quân Đoàn 1/Vùng 1 Chiến Thuật của Việt Nam Cộng Hòa). Tướng Lãm, trước đó từng là Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh (BB), nhận chức tư lệnh Quân Đoàn 1 vào cuối tháng 5/1966, sau đó thăng trung tướng vào tháng 7/1967).

Trong buổi họp, Đại Tướng Westmoreland ra lệnh cho Trung Tướng Walt là trong trường hợp cần thiết thì phải đưa một sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) tăng cường cho tỉnh Quảng Trị, ông hứa sẽ sử dụng Lực Lượng Đổ Bộ đặc biệt ứng trực ngoài khơi để sẵn sàng tiếp cứu. Tướng Westmoreland cũng hứa sẽ điều động Không Quân Chiến Lược oanh tạc theo ưu tiên một. Về phía Quân Đoàn 1, tướng Lãm được Bộ Tổng Tham Mưu VNCH hứa sẽ tăng cường thêm 5 tiểu đoàn thuộc lực lượng trừ bị.

CUỘC HÀNH QUÂN CỦA 11 TIỂU ĐOÀN VIỆT-MỸ TẠI VÙNG GIỚI TUYẾN

Giữa tháng 7/1966, một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ được điều động ra khu vực này để tổ chức hành quân thám sát. Trong lúc khai triển các đại đội hoạt động trong khu vực trách nhiệm, tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến đã đụng độ ác liệt với một đơn vị Cộng Sản Bắc Việt. Qua trận giao tranh này, tin tức tình báo ghi nhận Cộng quân đã tập trung một lực lượng đáng kể tại phía Tây Nam Bến Hải.

Sau khi phối kiểm và ước định lực lượng đối phương, ngày 16 tháng 7, liên quân Việt-Mỹ khởi động cuộc hành quân hỗn hợp. Chiến dịch này tên Lam Sơn 289 (phía bên VNCH) và Hastings (phía bên Hoa Kỳ) với nỗ lực chính gồm có 5 tiểu đoàn bộ chiến VNCH, 5 tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và 1 tiểu đoàn thuộc Lực Lượng Đổ Bộ đặc biệt. (Tài liệu của Trung Tâm Quân Sử Hoa Kỳ và các bản tin chiến sự của Tổng Cục Chính Trị Quân Lực VNCH không ghi rõ danh hiệu các đơn vị Việt-Mỹ tham chiến). Đây là cuộc hành quân lớn nhất từ trước đến giờ tại chiến trường Quảng Trị.















Theo kế hoạch, 11 tiểu đoàn khai triển đội hình dọc theo phía Nam sông Bến Hải, đồng loạt tấn công vào tuyến kháng cự của các tiểu đoàn Bắc Việt. Vào thời gian này, vì Hoa Thịnh Đốn (Washington) không cho phép Lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam sử dụng hải pháo bắn vào Vùng Phi Quân Sự, nên sự yểm trợ của Hải Quân Hoa Kỳ chỉ giới hạn trong các hoạt động hải vận và cung cấp các phi vụ xuất phát từ các tàu lớn ở ngoài khơi.

Trận chiến đã diễn ra rất ác liệt trong ngày đầu tiên khi 3 tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đụng độ với 1 trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt. Không Quân đã xạ kích liên tục để yểm trợ cho Thủy Quân Lục Chiến tấn công. Các đơn vị pháo binh Bắc Việt trả đũa bằng cách pháo kích dữ dội vào đội hình của Thủy Quân Lục Chiến, nhưng các cuộc pháo kích này đã bị Không Quân Hoa Kỳ nhanh chóng dập tắt. Kết quả trong ngày hành quân đầu tiên, liên quân Việt-Mỹ đã loại ngoài vòng chiến 140 cán binh Cộng Sản.

Từ ngày 18 đến 20 tháng 7/1966, Chiến Dịch Hastings-Lam Sơn 289 tiếp tục kéo dài ở mức độ khốc liệt. Trong ba ngày này, có thêm 202 cán binh Bắc Việt bị hạ sát tại trận địa, nâng số tổn thất của họ lên đến 342. Ngày 21 tháng 7/1967, Bắc Việt điều động Sư Đoàn 324B và Lữ Đoàn Giới Tuyến vượt sông Bến Hải xâm nhập vào phía Tây Quảng Trị. Lữ Đoàn Giới Tuyến của Bắc Việt đóng tại Vĩnh Linh, một phủ (tương đương với quận) ở cực Bắc của tỉnh Quảng Trị trước Hiệp Định Genève, được lệnh tăng viện toàn bộ cho lực lượng Cộng Sản Bắc Việt tại phía Nam Bến Hải.

Trở lại với chiến dịch nói trên, được sự yểm trợ rất mạnh của Không Quân, từ ngày 21 đến 30 tháng 7/1966, liên quân Việt-Mỹ lần lượt đánh bật các tiểu đoàn Cộng Sản ra khỏi các vị trí cố thủ. Để tiêu diệt cường lực của địch, trong ngày 30 tháng 6/1966, pháo đài B-52 đã dội bom dọc theo Bến Hải trên một chiều dài 13 km. Theo tin tức của các hãng thông tấn quốc tế, các phi vụ B-52 đã xuất phát từ đảo Guam.

Sau 19 ngày liên tục truy kích Cộng quân, Liên quân Việt-Mỹ kết thúc cuộc hành quân Lam Sơn 289-Hastings vào chiều ngày 3 tháng 8/1966 với kết quả 883 Cộng quân bị hạ sát, 15 bị bắt, 228 vũ khí cá nhân và 28 súng cộng đồng bị tịch thu. Phía tổn thất của liên quân Việt-Mỹ được ghi nhận là rất nhẹ.

THỦY QUÂN LỤC CHIẾN HOA KỲ VÀ SƯ ĐOÀN 1 BỘ BINH VNCH TẠI PHÒNG TUYẾN PHÍA NAM BẾN HẢI

Sau khi cuộc hành quân kết thúc, để ngăn chận Cộng quân hoạt động tại khu vực giới tuyến, sau khi thảo luận với tướng Lãm, Trung Tướng Walt đã để lại 3 tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến đóng quân tại khu vực phía Nam Bến Hải. Thượng tuần tháng 9/1966, ba tiểu đoàn này bung rộng các đại đội hoạt động tuần tra và đã phát giác có nhiều đơn vị Bắc Việt đang xâm nhập vào các xã thuộc quận Trung Lương (quận giới tuyến). Để ngăn chận các đợt xâm nhập của đối phương, tướng Walt cho tăng cường thêm lực lượng Thủy Quân Lục Chiến để rãi quân từ giữa Cửa Việt và Vùng Phi Quân Sự. Đến cuối tháng 9/1966, lực lượng liên quân Việt Mỹ gồm có 7 tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến và 3 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 1 BB VNCH.

Cũng trong tháng 9/1966, vào ngày 14, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phối hợp với Sư Đoàn 1 BB tổ chức cuộc hành quân mang tên Prairie nhằm tảo thanh Cộng Sản Bắc Việt quanh khu vực giới tuyến. Một ngày sau, Bộ Tư Lệnh Lực Lượng 3 Đặc Nhiệm lại tổ chức tiếp khởi động chiến dịch thứ hai mang tên Deck House Quage với 12,000 ngàn bihh sĩ TQLC đổ bộ vào phía Nam Bến Hải từ hướng Cửa Việt. Cuộc hành quân này nhằm tiếp ứng cho các đơn vị đang tham dự cuộc hành quân Prairie.

Với một lực lượng hùng hậu được điều động trong hai cuộc hành quân cách nhau một ngày, liên quân Việt-Mỹ đã buộc các quân Bắc Việt phải rút lui về phía Tây Bến Hải. Trong cuộc lui binh này, nhiều đơn vị Cộng Sản Bắc Việt đã bị các tiểu đoàn Việt-Mỹ truy kích "sát nách." Sau hơn 2 tuần, các đơn vị bộ chiến VNCH và Thủy Quân Lục chiến Hoa Kỳ đã hạ sát hơn 1 ngàn cán binh Cộng Sản.

ĐẠI TƯỚNG WESTMORELAND VÀ KẾ HOẠCH NGĂN CHẬN TỪ BẾN HẢI ĐẾN KHE SANH

Trong những lần ra thăm các Trung Tướng Walt tại Đà Nẵng và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ hoạt động tại Quảng Trị, Đại Tướng Westmoreland đã ghi nhận như sau: "Tôi nhận thấy Thủy Quân Lục Chiến có lòng tự tin rất mạnh, thật đáng kính phục, nhưng họ lại đánh giá thấp địch quân. Nhân một cuộc duyệt xét kế hoạch hành quân trong tháng 9 mà tôi đã chỉ thị cho tướng Walt thực hiện, tôi mới hiểu tại sao như vậy, nhất là họ đánh giá thấp cuộc tấn công của địch vào căn cứ của Lực Lượng Dặc biệt tại Khe Sanh (trong năm 1966)."

Cũng cần ghi nhận rằng trước khi Bắc Việt tung 4 sư đoàn chủ lực tổng tấn công vào Khe Sanh trong suốt 3 tháng đầu của năm 1968, thì ngay từ tháng 10 năm 1966, Đại Tướng Westmoreland đã từng lưu ý trung tướng Walt và Bộ Tham Mưu Thủy Quân Lục Chiến về tình hình biên giới Việt-Lào. Đại Tướng Westmoreland khẳng định với tướng Walt rằng Khe Sanh chắc chắn sẽ là mục tiêu mà Cộng quân nhắm đến trong vòng 6 tháng kế đến. Đúng như tướng Westmoreland dự đoán, ngày 24 tháng 4/1967, Bắc Việt tập trung 2 trung đoàn bộ đội tấn công vào các tiền đồn của phòng tuyến Khe Sanh. Trận chiến kéo dài đến tháng 13 tháng 5/1967 mới kết thúc. Và hơn 8 tháng sau, Bắc Việt đã tung thêm một lực lượng gấp 6 lần để mở cuộc tấn công quy mô vào Khe Sanh.

Sau khi lưu ý tướng Walt, Đại Tướng Westmoreland chỉ thị cho Bộ Tư Lệnh Lực Lượng 3 Thủy Bô tái nghiên cứu khả năng của địch và chỉ thị cho đơn vị Ong Biển của Hải Quân Hoa Kỳ đến Khe Sanh để giúp quân trú phòng mở rộng phi trường. Việc này sẽ tạo sự dễ dàng cho các vận-tải cơ C-130 Hercules có thể lên xuống trong mọi thời tiết. Đại Tướng Westmoreland ra lệnh kế hoạch thực hiện phải chạy đua theo thời gian vì thời tiết khắc nghiệt sắp đến tại khu vực này, và quân Bắc Việt đang trong thời kỳ chuẩn bị tấn công. Khi công tác xây dựng phi đạo Khe Sanh đang diễn ra, thoạt đầu, Đại Tướng Westmoreland lấy làm lạ là Cộng quân không tìm cách cản trở, nhưng sau đó ông suy luận ra rằng "địch nắm chắc thế nào phi trường cũng vào tay mình nên không cần ngăn chận."















Trước những diễn biến của tình hình chiến trường giới tuyến và khu vực phía Tây Bắc Quảng Trị, Đại Tướng Wesmoreland nhận thấy trách nhiệm ngăn chận quân Bắc Việt xâm nhập đang đè nặng trên vai các đơn vị Việt-Mỹ đang hoạt động tại phía Nam Bến Hải, ông liền tìm cách cho tăng cường lực lượng và bố trí một số đơn vị pháo binh tầm xa của Lục Quân Hoa Kỳ. Tướng Westmoreland phân tích rằng địa thế ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị nằm trong tầm tác xạ của pháo binh Bắc Việt từ bên kia sông Bến Hải bắn sang, do đó ông thấy cần phải có một số căn cứ hỏa lực với các khẩu pháo tầm xa để đối phó.

Trước tiên, Đại Tướng Westmoreland ra lệnh điều động pháo đội 175 ly gần Sài Gòn, và một tiểu đoàn pháo binh Hoa Kỳ trang bị loại đại bác tầm xa vừa mới đến Việt Nam, được đưa hết ra Quảng Trị. Các khẩu đại bác này có tầm bắn xa đến 32 km. Nếu đặt những khẩu pháo tại Đông Hà, họ có thể bắn qua Vùng Phi Quân Sự và có thể yểm trợ pháo kích lên đến gần Khe Sanh. Ngoài ra Đại Tướng Westmoreland còn tăng cường một tiểu đoàn pháo binh 105 mm không-giật để làm lực lượng pháo binh an ninh diện địa. Tất cả đều được chuẩn bị cho kế hoạch giữ vững các tuyến phòng thủ từ Nam Bến Hải bọc lên biên giới Việt-Lào.

Vương Hồng Anh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn