BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 72629)
(Xem: 62055)
(Xem: 39150)
(Xem: 31020)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Viết lên không trung

21 Tháng Bảy 201012:00 SA(Xem: 1832)
Viết lên không trung
51Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
51
Giữa mùa hè 1977.

Vào khoảng nửa đêm một tối không trăng. Trại 1, Liên trại 3, Yên Bái được đánh thức bởi những bước chân nặng nề của bọn cán bộ. Những ánh đèn pin lóe lên. Và một giọng nói với thứ thanh âm lùa qua tử thi xoáy vào lỗ nhĩ đám tù nhân đang ngon giấc sau một ngày lao tác.

- Dậy! Dậy! Điểm danh!
- Tất cả ra ngoài tập họp!
Khoảng năm phút sau, chúng tôi đã có mặt trên sân trại. Mỗi đội đứng đúng vị trí thường lệ. Có người ngồi bẹp, gục xuống đầu gối ngủ gà ngủ gật.
Mặc dầu đã điểm danh, đã đếm đủ đầu người, tên trưởng trại vẫn đích thân vào trong từng chiếc lán chiếu đèn kiểm soát. Trở ra ngoài, hắn dõng dạc ra lệnh, vẫn một thứ âm thanh lạnh lùng sắt máu :

- Các đồng chí vệ binh triển khai công tác!

Từ bốn góc sân, có những bóng đen nón cối súng dài, lặng lẽ di chuyển. Có tiếng trả lời ngắn gọn :

- Báo cáo, rõ!

Tiếng lách cách lên đạn của toán vệ binh càng khiến tình trạng trở nên căng thẳng. Chúng tôi lo lắng, thầm thì trao đổi với nhau về số phận mình.

- Thủ tiêu chăng?

- Có trời mới biết.

- Suỵt! Suỵt!

Tên trực trại quét một ánh đèn pin, hô lớn :

- Tất cả chú ý, nghiêm!

Hướng về phía tên trưởng trại.

- Báo cáo đồng chí Thủ trưởng. Trại tập họp xong. Chờ lệnh.

- Rõ. Cho tất cả ngồi xuống!

Chúng tôi chỉ chờ có vậy và lại bắt đầu “tọa thiền” gà gật. Khi trật tự vãn hồi, tên trưởng trại dõng dạc tuyên bố :

- Do nhu cầu cách mạng, một số các anh sẽ được điều động đến một vị trí mới. Anh nào được gọi tên sẽ vào nhà thu xếp hành trang, trở ra xếp hàng ngay phía tay trái tôi đây. Nhớ rằng các thứ phải thật gọn nhẹ. Những người khác ngồi yên tại chỗ. Cấm di chuyển, cấm liên hệ. Tuyệt đối yên lặng và trật tự.

Hướng về đám cán bộ và vệ binh :

- Các đồng chí thi hành khẩn trương.

Danh sách chuyển trại khoảng 300 người. Đa số gồm thành phần chiến tranh chính trị, an ninh tình báo. Trong đó dĩ nhiên có tôi, gốc tâm lý chiến, đạo din truyền hình điện ảnh.

Nhà bếp đã được lệnh bí mật sửa soạn cơm nắm từ hồi nào. Bây giờ được phân phát cho những kẻ lên đường. Chúng tôi tức tưởi chia tay nhau. Triệt để yên lặng. Cả đến ánh mắt từ giã cũng không có. Đêm rừng Tây Bắc đen kịt như tương lai của kẻ chiến bại tù đày.

Bị còng từng cặp. Tay xách nách mang. Cứ thế nương vào nhau, vượt mấy cây số đường rừng, tiến ra quốc lộ. Tại đây, đoàn tù dược chất lên mấy chiếc Molotova cà tàng. Trực chỉ phương trời vô định, giữa đêm không trăng sao, dày đặc sương mù.
*
Trại mới mang bí số K4, gần Phố Lu thuộc tỉnh Lào Cay cũ, chỉ cách biên giới Việt Trung khoảng 10 cây số đường chim bay. Tại đây chúng tôi được gặp một số anh em biệt kích. Có người “nhảy toán” từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Họ thuộc diện rộng. Nghĩa là được tự do di chuyển trong vùng, min là bảo đảm chỉ tiêu lao động do cán bộ khoán. Đối diện trực tiếp với chúng tôi, họ mới tin là Việt Nam Cộng Hòa thực sự đã sụp đổ. Lúc đầu tay bắt mặt mừng, có món gì cũng chiêu đãi mấy “ông thầy” ốm đói.

Tiếc rằng có những “ông thầy” quá sệ. Giành ăn, giành uống, bon chen, bợ đỡ cán bộ. Các đấng biệt kích lắc đầu thất vọng. Sau cùng ngó lơ luôn...

Tôi cũng gặp một số đồng hương Thái Bình gốc “phong kiến, cường hào địa chủ” được đảng chỉ định cư trú tại vùng nầỵ Họ thực tâm ái ngại. Biết tôi cùng quê, có người dám nói thẳng :

- Mòn mỏi chờ các anh Bắc Tiến. Ai ngờ các anh lại bị tụi nó tóm cổ ra đây! Nhưng thôi, cũng được hưởng mấy năm thoải mái. Ráng mà gìn giữ sức khỏe.
*
Ở đây tôi chỉ muốn nói về Kim Nam. Người nữ văn công cộng sản.

Tại K4, tôi được “biên chế” vào đội 11. Nhiệm vụ chính là xây dựng những con đường tới những trại mới dựng bởi các anh bên biệt kích. Dụng cụ là những bàn tay tù đói và một số xẻng cuốc cũ.

Tiết trời chuyển sang đông. Mùa đông thượng du Bắc Việt đến với đoàn người thiếu dinh dưỡng, teo cơ. Quả là một bản án tử hình, sẵn sàng được thi hành bất cứ lúc nào. Thường vào những tiết đại tiểu hàn, đại tiểu tiết âm lịch, nghĩa trang K4 lại tăng thêm mả mới.

Trong thời kỳ đó. Liên Trại tổ chức một chiến dịch lớn : Mở đường, dựng trại. K4 với K2 hợp đồng đắp một con đường mới dài khoảng 5 km vào cánh đồng mía. K2 là một phân trại giam nữ can phạm hình sự. Đội 11 được tăng cường một số nữ tù. Dịp nầy tôi gặp Kim Nam. Chẳng riêng tôi, mà tất cả đám cải tạo đều trầm trồ chiêm ngưỡng “đóa hoa đen” nổi bật trong đám tù nhân rách rưới, nhếch nhác.

Cô bé khoác một chiếc áo choàng nhung đen nhánh, tương đối còn mới. Chiếc quần Âu đồng màu đúng thời trang Hà Nội. Đặc biệt mái tóc dài buông xõa ngang lưng. Nhìn xa lẫn với sắc áo tưởng như cắt tóc ngắn. Kim Nam có khuôn mặt bầu bĩnh. Nổi bật cặp chân mày dài, cong, mịn, nhỏ như nét mực tàu trên tờ giấy hoa tiên. Đôi mắt hơi xếch, ướt át, long lanh nhìn thẳng vào mắt người đối thoại. Trong đó có chút gì còn lại của ngây thơ, thuần hậu và dễ tin.

Và đôi mắt ấy luôn luôn đồng hành với chiếc miệng nhỏ, với cặp môi mộng hơi bĩu, với hàm răng đều đặn, trắng nuốt mỗi khi cười nói. Chẳng biết nàng giữ gìn bằng cách nào, mà cái lạnh khô của núi rừng Việt Bắc không làm cho làn da bị nứt nẻ. Trái lại vẫn mịn màng, vẫn trắng trẻo.

Và trên đôi gò má, phơn phớt ánh hồng của đóa hoa anh đào chớm nở. Giữa khuôn mặt ấy là chiếc sống mũi cao, thẳng, với đôi cánh mỏng, chúm lại thật duyên dáng bên chóp mũi hình bầu dục tựa túi mật.

Nếu bàn tay Kim Nam có những ngón tay thon dài như những cánh hoa, thì bàn chân trắng hồng của nàng cũng là một tuyệt tác của Hóa Công. Mười ngón là mười nụ hàm tiếu, yểu điệu trên những bước đi.

Qua những phút giải lao ngắn ngủi bên bếp lửa anh nuôi. Được biết nghề nghiệp cũ của nhau - điện ảnh - Kim Nam đã cho tôi rõ đôi nét sơ lược về nàng. Một thiếu nữ Hà Nội xuất thân diễn viên kịch nghệ. Đã được tham dự một vài bộ phim, tuy chưa phải là diễn viên chính.

Mấy tháng trước đây, trong cuộc lưu diễn tại Tây Âu, Kim Nam đã quyết định “chém vè” tỵ nạn chính trị tại Pháp. Việc bất thành, người đẹp văn công bị dẫn độ về Việt Nam, tống giam Hỏa Lò. Và tuần trước được chuyển lên đây thi hành án phạt cải tạo. Nàng cũng cho biết thêm về gia đình :

- Đúng ra bố cháu cũng có mặt trong hàng ngũ các chú ở đây. Bố cháu trước kia là sĩ quan quân đội quốc gia. Năm 1954 bị kẹt lại. Rồi bị chết tại vùng nầy, mất xác. Sở dĩ cháu được tuyển vào đoàn văn công là nhờ sự đỡ đầu và bảo lãnh của ông thân sinh người bạn trai. Ông ấy là cán bộ cao cấp và cũng là bố chồng tương lai của cháu.

- Sao cháu không cầu cứu ông ấy?

- Cháu còn mặt mũi nào nhìn ông ta nữa! Sự nghiệp cách mạng của ông ấy có thể tiêu ma vì việc làm của cháu rồi.

- Thế còn người bạn trai?

- Chính anh ấy khuyên cháu nên tìm đường tiến thân ở một xã hội khác. Nếu thành công, cháu có thể giúp đỡ thiết thực cho mẹ và đám em nhỏ lúc nào cũng thiếu thốn. Riêng anh ấy sẽ cố gắng xin xuất ngoại du học. Chừng đó chúng cháu sẽ tìm lại nhau. Bằng có chuyện gì, anh ấy sẵn sàng hy sinh. Min sao cháu có được cuộc sống phù hợp với con người và khả năng. Bây giờ thì thật là... Ồ sao cháu lại bắt chú gnhe câu chuyện không vui của cháu. Nhất là chú cũng đang...

- Tù như cháu chứ gì! Nhưng thôi, cháu đừng có lo. Nhan sắc và tài nghệ của cháu sẽ cứu cháu. À, cháu bao nhiêu tuổi rồi? Xin lỗi nhé, nghệ sĩ không có tuổi, nhưng chú coi cháu như con nên muốn biết.

- Cám ơn chú, cháu 22 tuổi ta. Biết đâu những ưu điểm chú nói lại là điều hại cháu. Các chú chưa biết hết mặt trái của xã hội nầy đâu.

Buổi chiều hôm ấy, trước khi thu dẹp dụng cụ, tôi được Kim Nam gọi tới một góc vắng. Gió rừng thổi ào ào. Sương giăng bốn phía, lạnh thấu xương. Kim Nam trao vội cho tôi một ống tre bọc kín bằng lá chuối :

- Chắc chú khoái cái nầy. Cháu còn một ít, tặng chú.

Tôi mở ra, cà phê bốc hương ngào ngạt. Tôi nhìn sững cô bé, không nói lên lời. Ly cà phê được mấy anh em chúng tôi chuyền tay nhấm nháp, như uống cả một “ mùa hè đỏ lửa” Kim Nam...

Đêm ấy, 27/12/1977. Đã lâu không có chất nước đen mà đen như đêm trừ tịch. Dẫu chỉ uống mấy ngụm cũng làm tôi trằn trọc suốt đêm. Tôi bật dậy, kiếm mảnh giấy nhỏ, khoác mền xùm xụp bên ánh đèn chai. Phải viết một bài để tặng lại Kim Nam. Chút quà văn nghệ hôm sau. Tiếng gà núi đầu tiên vẳng tới là lúc tôi viết xong câu cuối cùng...

Nhưng bài thơ ấy chẳng bao giờ Kim Nam nhận được. Nàng vắng mặt trong số nữ can phạm tăng cường cho đội làm đường chúng tôi. Cũng như không bao giờ hiện diện nữa trong cõi đời nầy!

Được biết, đêm trước vào lúc tắt đèn đi ngủ. Kim Nam đã lãnh một búa chí tử, bể đầu. Nàng chết tức khắc trên chiếc sạp tre xộc xệch, lạnh lẽo, đầy rệp của trại tù. Tôi ngẩn ngơ như vừa lỡ tay làm bể một chiếc bình cổ. “Con người thế ấy, thác oan thế này”.

Tôi lặng lẽ rút bài thơ giấu trong mình. Châm lửa. Một làn khói nhẹ bay lên. Tàn tro nằm vật vờ giữa lòng bàn tay một lát rồi theo gió bay đi. Thế là hồn thơ theo gió lên trời, theo tàn xuống đất. Biết ở thế giới bên kia, con người bạc mệnh có nhận được chút quà tôi trao gửi?

Theo sự bàn tán của đám nữ tù, Kim Nam chết vì bị ghen tuông. Nữ đội trưởng của Kim Nam, vốn là gái gọi trên các công viên. Vào trại, trở thành tình nhân của một cán bộ Nhưng khi Kim Nam xuất hiện. Tên dê xồm liền “có đó bỏ đăng, có trăng quên đèn”.

Một dư luận khác thì cho rằng Kim Nam chết vì đám tù cũ ngỡ cô bé có nhiều của cải mang theo. Chúng làm áp lực bắt giao nộp. Không được toại nguyện, chúng đe dọa. Sợ Kim Nam tố cáo, chúng liền quyết định thủ tiêu.

Riêng đối với tôi, dù với nguyên nhân nào thì Kim Nam cũng đã chết. Nàng chết, kéo theo một số người khác ở Hà Nội bị thương. Trong đó chắc chắn có người bạn trai. Còn tôi thì cứ thẫn thờ với tâm trạng Nguyễn Bính trong bài thơ “Khóc người trinh nữ”, với kết luận bằng 2 câu Đường thi :

Mỹ nhân tự cổ như danh tướng,
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.

Hơn 10 năm trôi qua. Giờ nầy có mặt tại Paulo Bidong. Trong những ngày chờ đợi. Tôi giết thì giờ bằng những trang hồi ký mang tên “Trầm tư lục của kẻ chiến bại”. Một đoạn mang tựa đề và cũng là đề tựa của bài thơ.

 Viết lên không trung

 Em đẹp sao em cũng ở đây
 Chim lồng xuân rụng đã bao ngày
 Tóc lơi buông dáng kiều đô thị
 Cá chậu mơ nguồn sông tiếp mây
 Tháng chạp vùng cao buốt giá đông
 Cũng chưa phai lạt má em hồng
 Áo đơn có ấm bờ vai nhỏ
 Sao gót chân son bước ngại ngùng
 Suối sâu em đẩy từng xe cát
 Đèo dốc ta san phẳng một đường
 Đường cát tháng năm đời thiếu ngọt
 Lào “cay” sầu “đắng” vị hoài hương
 Em nhớ người yêu biệt dưới xuôi
 Ta thương bếp lửa lạnh phương trời
 Sài Gòn Hà Nội xa xôi lắm
 Sương xuống chiều lên người mỗi nơi
 Lòng đấy lòng đây bờ bến khác
 Cơ hồ chung một ý chờ mong
 Tàn năm Bảy Bảy (77) hoa còn nở
 Kết đóa thơ gai lên khoảng không.


Băng Đình
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn