BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73392)
(Xem: 62246)
(Xem: 39435)
(Xem: 31178)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Tiếng Vọng Lẻ Loi Và Tự Do Báo Chí

23 Tháng Hai 199712:00 SA(Xem: 901)
Tiếng Vọng Lẻ Loi Và Tự Do Báo Chí
51Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
51
Trong mấy năm gần đây tôi không phải là người đầu tiên và duy nhất công khai bày tỏ ý kiến của mình về những vấn đề chung của đất nước, những quan điểm khác hoặc trái với quan điểm của đảng và nhà nước. Những ý kiến đó không được báo chí trong nước đăng tải, nhưng các đài báo nước ngoài thông tin rộng rãi trên toàn thế giới. Nhiều người đã biết đến Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Lữ Phương, Nguyễn Hộ, Đỗ Trung Hiếu, Hồ Hiếu, Nguyễn Văn Trấn ở Sài Gòn; Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Nguyễn Trung Thành, Trần Độ, Phan Đình Diệu, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Thanh Giang, Hoàng Tiến ở Hà Nội. Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Trần Minh Thảo ở Đà lạt - Lâm Đồng và một số người nữa. Chưa kể đến ý kiến của các tu sĩ đối với vấn đề tôn giáo.

Cũng như nhiều người khác, quan điểm của tôi thật rõ ràng:

- ủng hộ dân chủ,

- không tán thành độc tài lãnh đạo, nhưng không chủ trương bạo động, lật đổ, gây hận thù, đổ máu, mà thúc đẩy quá trình dân chủ hóa đất nước bằng những biểu hiện hòa bình.



Chủ yếu là thông qua việc bày tỏ trung thực và thẳng thắn quan điểm của mình, thực hiện quyền tự do tư tưởng, tự do báo chí. Trong ý hướng đó tôi không coi vấn đề nào là cấm kỵ, không cần lựa lời nói cho để lọt tai, vừa lòng lãnh đạo. Cũng như nhiều người khác, tôi không phủ nhận những thành tựu mà tập trung phê phán những thiếu sót hay sai lầm. Điều đó dễ hiểu: đã có gần 500 đài báo của trung ương, các địa phương, do nhà nước lãnh đạo thông tin về đường lối chính sách và ca ngợi thành tích rồi. Chúng tôi không cần thiết làm việc đó. Tôi cho rằng đảng và nhà nước không thể đứng trên nhân dân và luật pháp. Đảng và nhà nước phải lắng nghe và chấp nhận sự phê phán của công luận. Dù điều này rất khó chịu đối với một đảng luôn cho mình là sáng suốt, lãnh đạo xã hội toàn diện, triệt để và tuyệt đối, với một ý thức hệ bách chiến bách thắng muôn năm, và không muốn chia sẻ quyền lãnh đạo với một ai khác. Mặc dù hiện nay vẫn có những biện pháp trấn áp đối với những người bất đồng chính kiến, nhưng tôi cho rằng trong vấn đề này có tiến bộ hơn trước.

Hai phiên tòa Hoàng Minh Chính, Đỗ Trung Hiếu và Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Kiến Giang mới đây với bản án nặng nhất có 2 năm tù ở, người hết hạn tù được trả tự do ngay. Một số người khác bị gây khó khăn bằng nhiều cách: quản thúc, giám sát, chuyên gọi lên thẩm vấn. Bản thân tôi cũng bị giám sát chặt chẽ, và từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 12 năm 1996 tôi đã bị công an mời lên thẩm vấn ba đợt, tổng cộng 12 ngày về những bài viết của tôi đăng tải trên đài báo nước ngoài. Tuy nhiên, những người trong cuộc không chấp nhận, và tôi tin đông đảo người thân cũng như dư luận ở trong và ngoài nước cũng đồng tình. Nhưng dù sao, so với những bản án nặng nề, những biện pháp thô bạo trước đây, đó là một bước tiến về phía dân chủ. Tuy sự tiến bộ đó còn quá ít ỏi so với yêu cầu của đất nước và nguyện vọng của nhân dân, nhưng đó là một dấu hiệu tích cực cần được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa. Vừa qua trên báo Sài Gòn Giải Phóng số chủ nhật ngày 2-2-97 có bài "Tiếng Vọng Lẻ Loi" của Nguyễn Minh, đả kích nặng nề và quy chụp chính trị đối với cá nhân tôi. Trong lá thư gửi ban biên tập ngày 9-2-1997, tôi đã chứng minh sự vu khống trong bài báo đó, đề nghị ban biên tập có thái độ rõ ràng theo luật báo chí, mở cuộc tranh luận công khai về các vấn đề bài báo đã nêu ra. Đây tôi không phân tích về quan điểm vấn đề Nguyễn Minh đã đưa ra để qui chụp tôi về chính trị như vấn đề độc tài và dân chủ, trách nhiệm của đảng và nhà nước trước hiện tình đất nước, đặc biệt đối với chuyện tham nhũng và bão lụt, vai trò của tầng lớp trí thức trong xã hội. Những vấn đề đó tôi đã viết khá nhiều trong cuốn tiểu thuyết "Nửa Đời Nhìn Lại" do nhà xuất bản Thế Kỷ ở Mỹ xuất bản năm 1994 và hơn 20 bài viết mà gần 20 đài báo ở ít nhất 7 nước trên thế giới đã giới thiệu, đăng tải trong hai năm qua. Đặc biệt bài "Thư ngỏ gửi những người cộng sản Việt Nam" tôi đã viết như một bài góp ý cho Đại hội VIII của đảng cộng sản và đã chính thức gửi cho Tạp Chí Cộng Sản hồi tháng 6-96, trong đó tôi nêu nhiều vấn đề chung một cách hệ thống, hay những bài viết về các vấn đề cụ thể như 4 bài viết về vấn đề Hà Sĩ Phu kể từ khi ông bị bắt hồi tháng 12-95. Tôi tin sẽ có nhiều bạn đọc lên tiếng tham gia các vấn đề trong bài báo của Nguyễn Minh. Tôi cũng không trực tiếp tranh luận với Nguyễn Minh, vì người ta không thể đối thoại với những bài viết mà ngoài luận điệu chụp mũ chính trị cũ rích lỗi thời còn có giọng điệu hằn học, lời lẽ thóa mạ như thế. Phê bình, tranh luận trên sách báo bao giờ cũng cần có văn hóa.

Tôi muốn nhân sự kiện này tập trung phân tích một vấn đề rất bức xúc hiện nay là vấn đề tự do báo chí. Có tự do báo chí, tự do tư tưởng và ngôn luận thì tất cả mọi vấn đề khác sẽ được đưa ra công luận làm sáng tỏ chân lý. Ai cũng hiểu vai trò lớn lao của báo chí trong đời sống xã hội.Ở các nước phương Tây người ta tôn vinh báo chí là đệ tứ quyền. Dĩ nhiên trong báo chí cũng có nhiều biểu hiện xấu mà lĩnh vực nào cũng có. Nhưng không ai phủ nhận vai trò to lớn của báo chí trong các cuộc cách mạng, các phong trào dân chủ, trong đời sống chính trị, xã hội của các quốc gia văn minh hiện nay. Từ khi có báo chí, đất nước ta đã có bao giờ có tự do báo chí hay chưa? Trong các hiến pháp xã hội chủ nghĩa từ trước đến nay đều có ghi rõ quyền tự do báo chí. Quyền đó được thực hiện như thế nào khi không có báo chí tư nhân; hay báo chí được lãnh đạo, được kiểm duyệt, thì trên lý thuyết và trong thực tế đã không có tự do báo chí dù được biện minh, lý giải cách nào.

Mấy chục năm qua nhiều sự kiện lớn đã là những mốc dấu khẳng định rõ rệt không có tự do báo chí, và điều đó đã gây ra biết bao tai họa. Vụ Nhân Văn Giai Phẩm năm 56-57 là một vụ án báo chí, văn nghệ thảm thương, một bi kịch lớn. Không những đã hủy hoại tài năng, trí tuệ, tâm huyết cả sinh mệnh của bao nhiêu văn nghệ sĩ độc đáo, tài năng, dũng cảm nhất ở trong thời đó và đày đọa họ cho đến cuối đời, mà còn làm thui chột óc sáng tạo, tinh thần phản kháng cương trực của cả mấy thế hệ cầm bút. Làm cho họ không chỉ mặc đồng phục, xếp hàng đi trong đội ngũ và hướng đi định sẵn mà còn tự mình nằm trong gông cùm của chính mình, do sự sợ hãi, sự quy phục trong chính đầu óc mình dù tự nguyện hay không tự nguyện. Đôi người muốn đi ra ngoài hàng lập tức bị nghiền nát.

Đừng vội giẫy nẩy lên cho rằng đây là luận điệu phản động của bọn thù địch. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến là ai khi ông viết về văn nghệ phải đạo? Có ai dám nghi ngờ về quan điểm lập trường và lòng trung thành của nhà văn đại tá quân đội Nguyễn Minh Châu viết "Lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ"? Không phải nhiều văn nghệ sĩ đã nói đến kiểm duyệt nằm ngay trong đầu óc khi sáng tác, và một vị tổng bí thư đã lớn tiếng hô hào cởi trói cho văn nghệ sĩ đó sao? Đáng tiếc chẳng bao lâu sau cũng chính ông đã trói lại. Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ tại TP HCM xin ra báo "Truyền Thống Kháng Chiến" không được, đã tố cáo chế độ tự do báo chí của ta hiện nay còn tệ hại hơn thời Pháp thuộc, chứng tỏ sự bức xúc như thế nào! Thời Pháp thuộc người dân chỉ cần đăng ký là có quyền ra báo chứ không cần xin phép. Đó không phải là địch nói mà là các nhà cách mạng lão thành, những đảng viên 40 - 50 tuổi đảng lên tiếng.

Kể từ khi có chủ trương đổi mới năm 1986 của báo Văn Nghệ Trung Ương ở Hà Nội, tạp chí Sông Hương ở Huế, tạp chí Langbian ở Đà lạt, Đối Thoại ở Cửu Long..., bị trấn áp, đình bản, kỷ luật ban biên tập càng cho thấy rõ hơn đã có tự do báo chí hay chưa? Đó là chưa nói đến những trường hợp những tổng biên tập mới chỉ cố gắng làm đúng chức năng báo chí đã bị xử lý, như Tô Hòa báo Sài Gòn Giải Phóng, Kim Hạnh báo Tuổi Trẻ, Thế Sang báo Phụ Nữ TP HCM, Cường Giang báo Giáo Dục và Thời Đại v.v... Chưa nói đến những nhà văn, nhà báo bị phê phán một cách bất công, xử lý kỷ luật hành chính hoặc đánh đòn hội chợ theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen như Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Phạm Ninh, Hà Sĩ Phu, Hồ Hiếu, Trần Vàng Sao, Hà Văn Thùy v.v... Và nếu như thư khiếu nại và bài viết này của tôi không được báo SGGP đăng hay trả lời, không có báo chí nào khác lên tiếng hay được lên tiếng đăng tải ý kiến bạn đọc tham gia, ta lại càng thấy rõ luật báo chí được thực hiện như thế nào, cái gọi là tự do báo chí ra sao ở đất nước này. Nói tự do báo chí nhưng chưa hề có một diễn đàn, một cuộc tranh luận công khai và thẳng thắn về những vấn đề lớn của đất nước, trong đó mọi ý kiến ngụy biện đều được tôn trọng và đăng tải. Các diễn đàn trên báo chí thường chỉ có ý kiến một chiều xuôi theo chỉ đạo đã lắm lần kiến nghị, đề xuất. Không mấy khi có ý kiến phản bác phê phán đường lối chính sách của đảng và nhà nước, dù trong nhân dân, đặc biệt trí thức không thiếu loại ý kiến này.

Công bằng mà nói gần đây báo chí cũng có cởi mở hơn, một số báo có mở ra diễn đàn tranh luận, thường đề cập những vấn đề không thuộc loại cấm kỵ, đã có phê phán đích danh cán bộ lãnh đạo, dù mới chỉ là lãnh đạo của Liên Đoàn Bóng Đá Việt Nam, đã đề cập đến những ô dù, các bóng đen đằng sau các vụ tham nhũng, tuy chưa dám chỉ rõ là ai. Một số nhà báo Việt Nam nhạy bén và thông minh, kể cả một số bạn đọc thông thường qua các bài chính luận, các phóng sự điều tra, các cuộc phỏng vấn trong mục ý kiến bạn đọc đã có cách nói lên sự thực, đưa ra những vấn đề đảng và nhà nước không muốn nêu lên trước công luận, qua được cửa ải biên tập. Đó lại là kiểu đi tắt trong các chế độ độc tài hay thống trị của ngoại bang không có tự do báo chí chứ, không phải trong chế độ XHCN dân chủ gấp triệu lần chế độ tư bản. Chuyện đó hoàn toàn không tương xứng với yêu cầu đổi mới, dân chủ hóa đất nước và hội nhập vào thế giới văn minh trong thời đại bùng nổ thông tin.

Quyền được thông tin của người dân như thế nào? Quyền này được ghi rõ trong hiến pháp của Việt Nam, trong bản tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam là một thành viên đã cam kết thực hiện một cách mạnh mẽ. Mỗi người có quyền tự do có ý kiến và phát biểu, quyền này không cho phép bất cứ ai phải lo ngại chỉ có những ý kiến của mình mà bao gồm cả tìm kiếm, thu nhập truyền bá các thông tin và ý tưởng bất chấp biên giới, bằng bất cứ phương tiện nào (điều 19). Trong khi đài báo nhà nước đưa chi tiết từng giờ về vụ mổ tim của tổng thống Yeltsin ở Nga, về các tai tiếng tài chính liên quan đến tổng thống Clinton bên Mỹ, về các vụ đình công, biểu tình, bạo động, khủng bố ở khắp các nước và bình luận một cách thích thú, nhưng lại không hề tường thuật các chi tiết xác thực quan trọng về các phiên tòa xử Hoàng Minh Chính, Đỗ Trung Hiếu, Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Kiến Giang, không nói gì đến bệnh tình của Chủ tịch Lê Đức Anh, dù ông đã vào nằm bệnh viện rất lâu. Không thông tin khách quan về vụ nông dân đấu tranh giữ đất, xung đột với bộ đội Việt Nam ở Kim Nỗ, huyện Đông Anh và các cuộc biểu tình đòi dân sinh khác ở Hà Nội... Vậy thì quyền được thông tin của người dân chỉ là quyền được biết những gì đảng và nhà nước cho biết thôi sao? Nhưng rõ ràng bưng bít thông tin là điều không thể được trong thế giới ngày nay. Từ bất cứ một xó xỉnh nào của núi rừng cũng có thể truyền đi khắp thế giới và nằm trên giường ngủ có thể nghe, xem được đủ mọi thứ trên đời. Bưng bít thông tin chỉ chứng tỏ sự thiếu tự tin, thiếu bản lĩnh và độc đoán của nhà cầm quyền.

Tự do báo chí, quyền được thông tin lúc nào cũng là nhu cầu cần thiết của nhân dân và ngày càng trở nên bức xúc. Nguyễn Văn Trấn đã viết cuốn sách "Viết cho Mẹ và Quốc Hội" dày hơn 500 trang để nói một điều là cần phải có tự do báo chí. Mới đây Hoàng Tiến trong nhiều bài viết đã công khai lên tiếng đòi phải có báo chí tư nhân. Và tờ báo Người Sài Gòn xuất bản không cần giấy phép đã ra được mấy chục số. Đảng và nhà nước suy nghĩ thế nào về các hiện tượng này? Quốc hội thông qua luật báo chí không cho phép báo chí tư nhân, vi phạm hiến pháp, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân, trong khi quốc hội được coi là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, thể hiện ý chí và nguyện vọng của dân! Trong thực tế nhiều cơ quan, hội đoàn do đảng và nhà nước tổ chức lãnh đạo có quyền ra báo lại giao cho tư nhân làm, tức là bán giấy phép. Những tờ báo lá cải chạy theo lợi nhuận, góp nhặt, xào nấu báo chí nước ngoài viết những bài vô thưởng, vô phạt hay linh tinh nhảm nhí đầy rẫy. Trong khi đó những người tâm huyết muốn có một cơ quan ngôn luận để bày tỏ quan điểm của mình lại không được quyền ra báo. Đảng và nhà nước chủ trương chấp nhận những ý kiến khác nhau, nhưng những ý kiến đó sẽ được nói ở đâu nếu không có tự do báo chí, không có báo chí tư nhân. Người ta chỉ có thể nói trong xó nhà, nói nơi quán nước hay photocopy tất cả quan điểm của mình như tình hình hiện nay và có người bức xúc đi đến chỗ làm báo lậu. Ở đây còn có vấn đề liên quan đến báo chí của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Hai triệu người Việt ở nhiều nước trên thế giới xuất bản rất nhiều báo chí thuộc đủ khuynh hướng, trong đó có nhiều tờ báo đúng đắn, trí tuệ của nhiều trí thức và cả những người CS cũ ở miền Nam, miền Bắc, hay ở nước ngoài trước đây, chủ trương. Ngoài một số báo chí có xu hướng chống cộng cực đoan, hô hào lật đổ, không ít báo chí đã đi đến xu hướng hòa giải hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù, góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, tìm những giải pháp tối ưu cho tình hình đất nước bằng những phương tiện hòa bình thông qua đối thoại. Chủ trương này xét về tổng quát không khác gì đường lối chính sách đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc của đảng và nhà nước hiện nay. Đảng và nhà nước đã thừa nhận cộng đồng người Việt ở hải ngoại là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, nhưng trong thực tế tất cả báo chí của người Việt hải ngoại đều bị cấm, bị coi là phản động. Rõ ràng thế là không thực tâm.

Người Việt ở hải ngoại có nguyện vọng truyền bá quan điểm của họ cho đồng bào mình. Đảng và nhà nước cũng phải lắng nghe và đối thoại với họ. Tại sao đảng và nhà nước bắt tay bình thường hóa ngoại giao, quan hệ hữu hảo với cả những quốc gia là kẻ thù cũ, thậm chí là kẻ thù truyền kiếp, kẻ thù lâu dài, kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm, lại không thể hòa giải, hòa hợp với đồng bào mình ở xa tổ quốc. Việc coi họ bên kia chiến tuyến hay cùng chiến tuyến hay bất đồng chính kiến thì họ cũng đang trực tiếp góp phần xây dựng quê hương. Nếu chế độ này tốt đẹp, có chính nghĩa và đang có bộ máy thông tin đại chúng hùng hậu và hiện đại thì không sợ gì ai, không sợ bất cứ luận điệu sai trái nào. Nhân dân ta đã rất yêu nước, rất thông minh, làm sao có thể chấp nhận những luận điệu xằng bậy. Nếu có những ý kiến tốt, những lý luận sắc sảo và thuyết phục, quan điểm đúng đắn thì nhân dân sẽ ủng hộ. Đảng và nhà nước phải tiếp thu, nghiên cứu nghiêm chỉnh. Tại sao cái gì cũng hô hoán qui kết là âm mưu diễn biến hòa bình? Diễn biến hòa bình không tốt hơn diễn biến chiến tranh sao? Diễn biến hòa bình phần thắng sẽ thuộc về người có chính nghĩa, chinh phục được trái tim và khối óc của người dân. Đó là cuộc đấu căng thẳng, công bằng và không đổ máu. Tại sao lại không chấp nhận cuộc chơi văn minh này?

Lịch sử thế giới và Việt Nam đã cho thấy, độc quyền trong chính trị, tư tưởng hay kinh tế cũng không bao giờ tốt, chỉ dẫn đến sai lầm, độc tài và độc ác, như nhiều người đã nhận xét. Chỉ có đối thoại, đối lập và cạnh tranh một cách công bình lành mạnh mới có thể xây dựng một xã hội, một chế độ tốt đẹp và văn minh, mang lại tự do và quyền lợi cho đa số nhân dân. Trong vấn đề này, tự do báo chí là một phương tiện hữu hiệu nhất.

Trở lại bài báo "Tiếng Vọng Lẻ Loi" của Nguyễn Minh, gạt qua bên sự vu khống, trích dẫn sai lầm hay suy diễn lệch lạc mà tôi đã phân tích trong lá thư gửi ban biên tập báo SGGP ngày 9-2-97, tôi cũng muốn nói đôi điều về tâm trạng lẻ loi. Trong những năm gần đây những người trí thức bất đồng chính kiến trong nước khi phát biểu quan điểm của mình và bị trù dập, đôi khi cũng có tâm trạng lẻ loi. Nhưng dần dần số người dám nói tiếng nói của lương tri đã tăng lên, vững vàng hơn, mạnh mẽ hơn và được nhiều người lắng nghe, ủng hộ, truyền bá. Nhiều người khác cùng nhận thức nhưng không nói được trực tiếp và thẳng thắn đã có cách làm khác hoặc thông qua đài báo nhà nước một cách thông minh và khôn ngoan để biểu lộ. Đám đông thầm lặng cũng thấy rõ ý kiến nào là đúng đắn, tâm huyết, luận điệu nào là tuyên truyền lừa mị, dù được nói bởi bất cứ ai, phổ biến bằng bất cứ phương tiện nào. Cơ quan truyền thông đại chúng nước ngoài góp phần quan trọng phổ biến tiếng nói của lương tri ngay trong chính đất nước này và ra năm châu bốn bể. Những tiếng nói lẻ loi đó phải có sức nặng ghê gớm của chân lý làm những kẻ nắm quyền lực phải hoảng sợ và ra sức trấn áp.

Trần Vàng Sao, Nguyễn Đính, nhà thơ tài hoa, một trong những sinh viên Huế đầu tiên giác ngộ Cách Mạng ra bưng kháng chiến năm 65, bị thương được đưa ra Bắc điều dưỡng năm 1969. Anh chỉ làm thơ và viết nhật ký ghi lại trung thực những suy nghĩ của mình. Nhưng do một đồng chí phát hiện, báo cáo với tổ chức để lập công, đầu năm 72 anh bị đưa ra đấu tố. Người ta buộc anh đủ thứ tội:

- Kêu gọi biểu tình,

- viết báo chữ to để lật đổ chế độ,

- cho triết học Mác - Lê Nin là một thứ triết học hành chính không có đối thoại,

- nói xấu Bác Hồ và Bác Tôn,

- khinh miệt trí thức và văn nghệ sĩ miền Bắc,

- không có óc phản tỉnh và suy nghĩ độc lập, - không có tư cách của người cầm bút,

- dám nói thủ đô Hà Nội nhớp nhất thế giới, theo hồi ký của Nguyễn Đính viết năm 1993 và mới được phổ biến gần đây.

Từ đó anh bị thẩm vấn liên tục, bao vây cô lập và sống đày đọa mãi đến tận ngày nay. Ba bài giảng sám hối của linh mục Chân Tín trong ngôi nhà thờ cũ kỹ dòng Chúa Cứu Thế phường Kỳ đồng, mấy tập nhật ký riêng tư của Nguyễn Ngọc Lan có gì ghê gớm mà nhà nước phải đày ải người này người nọ. Ba bài tiểu luận triết học chính trị hơn 100 trang của Hà Sĩ Phu chuyên chở điều gì mà đảng và nhà nước phải huy động vài chục nhà nghiên cứu lý luận, hàng trăm tờ báo đánh phá mấy năm liền, đưa ra phê phán cả trong văn kiện chuẩn bị cho đại hội đảng, và cuối cùng kiếm cớ bỏ tù ông vì một tội tưởng tượng cực kỳ vô lý là "chiếm đoạt, tiết lộ tài liệu bí mật của nhà nước". Các nhà văn Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Bùi Minh Quốc, Phạm Ninh, các đảng viên cộng sản cũ, các cán bộ về hưu Nguyễn Hộ, Hồ Hiếu, Đỗ Trung Hiếu, Nguyễn Văn Trấn, Lê Hồng Hà, Nguyễn Trung Thành, Trần Minh Thảo, các nhà trí thức, khoa học tự nhiên và xã hội Phan Đình Diệu, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Thanh Giang, Lữ Phương, Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đan Quế và những người khác nữa viết gì, nói gì mà đảng và nhà nước phải huy động mọi biện pháp để trấn áp, từ bỏ tù đến quản thúc, xử lý hành chính, phê phán, công kích trên nhiều báo chí nhưng không cho tác giả được trả lời. Cả Bùi Tín nữa! Với tư cách là một nhà báo kỳ cựu thông tỏ mọi chuyện cung đình, một người "nằm trong chăn mới biết chăn có rận", đã viết gì trong hai cuốn sách "Hoa Xuyên Tuyết" và "Mặt Thật" mà người ta chỉ có thể rủa ông là phản bội chứ không thể bác bỏ được gì những điều ông viết. Và buồn cười thay, báo cáo mật của chỉ điểm Văn Hóa Văn Nghệ lên án cuốn sách "Viết Cho Mẹ và Quốc Hội" của Nguyễn Văn Trấn lại là tài liệu tuyên truyền tốt nhất cho cuốn sách mà người ta đua nhau tìm đọc. Quyết định thu hồi và cấm lưu hành cuốn sách lại không dám cho phổ biến công khai, dù đó là một cuốn sách in lậu không có giấy phép. Đó là những tiếng vọng lẻ loi ư?

Không!

Tiếng vọng lẻ loi không còn là tiếng vọng lẻ loi nữa mà đã trở thành tiếng chim báo bão. Đây không phải là bão cuồng nộ của hận thù, máu lửa và áp bức mà đây là những ngọn gió phóng khoáng của dân chủ, tự do, của sự thật bao dung, nhân bản và hòa bình. Những giá trị đích thực của con người sẽ chiến thắng trên đất nước và cả hành tinh này.

Đà lạt ngày 23-02-1997
Tiêu Dao Bảo Cự
Đ/c : 35/1 Nguyễn Đình Chiểu
Đà Lạt - Lâm Đồng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn